You are on page 1of 16

A.

Thuốc nhuộm indigoic

I. Giới thiệu:

Thuốc nhuộm màu chàm hay thuốc nhuộm chàm hay bột chàm hoặc indigo là 1 loại
thuốc nhuộm với màu xanh chàm dễ nhận ra. Thành phần hóa học tạo ra thuốc nhuộm màu chàm
là indigotin. Người cổ đại chiết lấy thuốc nhuộm chàm tự nhiên
từ một vài loài thực vật cũng như một trong hai loài ốc biển
(Hexaplex trunculus hay Háutellum brandaris) nổi tiếng của
người Phoenicia, nhưng gần như tất cả thuốc nhuộm ngày nay
đều được sản xuất bằng phương pháp tổng hợp.
Một dạng dẫn xuất của thuốc nhuộm chàm được
gọi là indigo carmine. Khoảng 20000 tấn được sản xuất mỗi
năm, chủ yếu là để nhuộm màu cho đồ jeans màu lam. Khi
dùng cho thực phẩm nó được liệt kê tại Hoa Kỳ như FD&C Thuốc nhuộm màu chàm
Blue No.2 và tại liên minh châu Âu như là E132.

II. Lịch sử của thuốc nhuộm indigoic:


1. Lịch sử của thuốc nhuộm tự nhiên:

Chàm là loại thuốc nhuộm có nguồn gốc thực vật cổ xưa nhất trên thế giới. Xác định
được gần đây nhất, nhuộm chàm đã xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước Công
Nguyên. Nhiều tộc người thuộc các quốc gia Châu Á như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung, Việt…đã sử
dụng chàm như một chất nhuộm tiêu biểu cho trang phục truyền thống trong hàng thiên niên kỷ.
Chất nhuộm chàm đã sớm du nhập vào Châu Âu và được biết
đến nhiều nhất trong giai đoạn hưng thịnh của các nền văn Indigo, Bộ sưu tập thuốc nhuộm
lịch sử của Đại học Kỹ thuật Dressden,
minh cổ đại ở Lưỡng Hà (Mesopotamia), Ai Cập, Peru, Iran và
Đức
Châu Phi.
Mẫu vải nhuộm chàm lâu đời nhất đã được phát hiện vào
năm 2009 tại một ngôi đền cổ xưa ở Huaca Prieta, Peru có niên
đại từ 6200 năm trước. Điều này đem đến một phát hiện mới,
rằng người cổ xưa sinh sống ở vùng đất Peru mà chúng ta biết
đến ngày nay, đã bắt đầu nhuộm vải màu chàm trước cả người Mảnh vải nhuộm chàm 6200
Ai Cập. năm phát hiện tại đền Huaca Prieta
Các bằng chứng cho thấy, Woad (tên khoa học là
Isatis Tinctoria) được sử dụng sớm hơn các loài cây chàm họ Indigofera. Woad có nguồn gốc ở
vùng thảo nguyên và sa mạc của Causasus, Trung Á đến đông Siberia và Tây Á, nhưng về sau
cũng được tìm thấy ở Đông Nam, Trung Âu và Tây Bắc Mỹ,
là một loài thực vật tạo ra thuốc nhuộm màu xanh chàm,
được sử dụng ở Châu Âu từ thời cổ đại. Các nhà nghiên
cứu cho rằng loại vải sọc xanh dùng bọc xác ướp Ai Cập
được tìm thấy trong Kim Tự Tháp, có niên đại khoảng 2400
trước Công Nguyên, đã được nhuộm bởi Woad. Một bằng
chứng khác là một viên nén hình nêm có niên đại 600 năm
trước Công Nguyên, được tìm thấy tại vùng Lưỡng Hà
(Mesopotamia) cùng với công thức nhuộm len màu
xanh, bằng cách liên tục nhúng và phơi sợi len. Trong
khi đó, Ai Cập và Lưỡng Hà khá gần Thỗ Nhĩ Kỳ – nơi
có nhiều loài cây Woad, do đó nhiều khả năng thuốc nhuộm màu xanh chàm được sử dụng từ
hơn 4000 năm trước chính là Woad.

Giống cây chàm – “True Indigo” đã được phát hiện từ rất sớm ở lưu vực sông Ấn (The
Indus Valley Civilisation), còn gọi là Harappan – nền văn minh cổ đã từng đạt đến sự hưng thịnh
đỉnh cao vào khoảng 3300 – 1300 năm trước Công Nguyên. Cùng với Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà
(Mesopotamia), Harappan là một trong ba nền văn minh sớm nhất của thế giới. Các nhà khảo cổ
đã khai quật ở khu vực thị trấn Rojdi (nay là Gujarat, Ấn Độ), phát hiện số hạt giống của ít nhất 4
loài cây chàm họ Indigofera khác nhau. Ấn Độ là trung tâm lớn nhất của lĩnh vực chiết xuất và sản
xuất thuốc nhuộm chàm, đồng thời là nơi cung
cấp chàm đầu tiên và sớm nhất đến Châu Âu,
thịnh vượng nhất vào thời Hy Lạp – La Mã (vào
khoảng 300 BC – 400 AD). Hiện nay, có ít nhất
50 loài cây chàm sinh trưởng tại Ấn Độ. Ở vùng
Tây Bắc nước Ấn, những người thợ đã biết chế
biến thuốc nhuộm chàm thành bánh chàm từ
nhiều thế kỷ nay. Từ đó thuốc nhuộm chàm
được xuất khẩu qua các tuyến thương mại đến
Châu Âu. Người Hy Lạp và La Mã khi mới tiếp Xưởng sản xuất chàm ở Benggal, Ấn Độ
xúc với những bánh nhuộm màu chàm, đã
nhầm tưởng chúng có nguồn gốc từ khoáng
sản. Thuốc nhuộm chàm lúc này được coi là vật phẩm xa xỉ, dùng tạo màu nước sơn, dược phẩm
và mỹ phẩm. Ngoài ra, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy những mảnh còn sót lại từ quần áo nhuộm
chàm tại Mohenjo-Daro (nay thuộc tỉnh Sindt, Pakistan), xác định được niên đại từ 1750 trước
Công Nguyên. Chất nhuộm chàm và vải vóc nhuộm chàm dùng để may trang phục đã có một lịch
sử lâu dài tại Trung Quốc, ít nhất hơn 2000 năm từ thời Tần và Hán (221 – 220 trước Công
Nguyên).
Ở Nhật Bản, những người thợ nhuộm chàm còn được gọi là “Chàm nhân.” Kỹ thuật nhuộm
chàm Nhật Bản ngày nay được nhận biết một cách đặc trưng như nhuộm Aizome với các phương
pháp Shibori hay Stencil, nhuộm sợi ở Matsusaka, nhuộm chàm ở Tokushima…Chàm đã được
sử dụng dưới thời Asuka (thế kỷ VI – VIII) nhưng chủ yếu dùng trong triều đình và các võ sĩ đạo.
Đến thời Heian (thế kỷ VIII – XII), Nhật đã phá triển mạnh mẽ các kỹ thuật nhuộm chàm. Bột chàm
đã có một tầm quan trọng nhất định trong thời Edo (hay còn gọi là Mạc phủ Tokugawakhi), nước
này bắt đầu nhập khẩu và trồng bông, và bột chàm dễ dàng nhuộm màu cho chất liệu này. Trang
phục nhuộm chàm được ưa chuộng trong đời sống hàng ngày của người dân, cho dù là tầng lớp
bình dân hay giới quý tộc đều sử dụng phổ biến các chất liệu vải bông nhuộm và tạo hoa văn họa
tiết từ chàm.
Vào cuối những năm 1200s, Marco Polo (một
thương gia người Ý đi du lịch khắp thế giới) trở lại Châu
Âu sau hành trình vòng quanh Châu Á, ghi chép lại sự
giàu có và quy mô của Trung Quốc cũng như các quốc
gia Châu Á khác qua quyển sách “The Travels of Marco
Polo”, đồng thời tiết lộ sự thật về chàm, vốn không phải
là một loại khoáng sản mà đã được chiết xuất từ thực
vật. Thời kỳ này, chàm vẫn khá đắt đỏ ở Châu Âu do quá Marco Polo ( 1254 – 1324)

trình vận chuyển còn khó khăn và tốn kém chi phí trung
gian thông qua các thương buôn. Chàm đã từng là một loại cây trồng phục vụ xuất khẩu là chủ
yếu trong các chế độ nô lệ và thuộc địa. Là một mặt hàng thương mại có giá trị cao, nên thường
được gọi là Blue Gold.
Đến cuối thế kỷ XV, Vasco da Gama – nhà thám hiểm
người Bồ Đào Nha và là người Châu Âu đầu tiên phát hiện
một con đường biển đến Ấn Độ. Điều này cho phép người
Châu Âu thiết lập một hải trình thương mại đi qua các nước
Ấn Độ, quần đảo Spice (Indonesia), Trung Quốc và Nhật
Bản, từ đó chàm được nhập khẩu trực tiếp thuận lợi và dễ
dàng hơn. Việc trồng cây chàm trên quy mô lớn bắt đầu ở Ấn
Độ. Vào những năm 1600, một số lượng lớn cây chàm đã
được xuất khẩu sang châu Âu, cập cảng ở các nước Bồ Đào
Nha, Hà Lan và Anh. Nhiều đồn điền trồng cây chàm ra đời ở
những nơi có khí hậu nhiệt đới ở Châu Âu. Giá thành của
chàm từ đó giảm đáng kể và vào cuối thế kỷ 17, thuốc
nhuộm chàm chiết xuất từ các giống cây chàm thực sự đã trở Vasco da Gama ( 1459 – 1524)
nên phổ biến, hầu như thay thế Woad ở Châu Âu.
Tây Ban Nha đã nhập khẩu thuốc nhuộm chàm từ các thuộc địa của mình ở Nam Mỹ như
Haiti, Jamaica và khu vực quần đảo Virgin thuộc nước này. Ở Bắc Mỹ, cây chàm từng được xem
là giống cây trồng quan trọng đứng sau gạo, góp phần thay đổi ngành nông nghiệp thuộc địa ở
Nam Carolina. Chàm cũng là một thuốc nhuộm truyền thống trên khắp Tây Phi lẫn Bắc Phi.
Những người du mục Tuareg sinh sống ở Sahara hay Cameroon, quần áo nhuộm chàm khẳng
định sự giàu có của họ. Phụ nữ Yoruba ở Nigeria hay Mandinka ở Mali cũng quen thuộc với việc
nhuộm chàm dệt vải.

Nhiều loài thực vật đã cung cấp được màu xanh tương tự
chàm (họ Indigofera mà chúng ta biết đến ngày nay) đã được
người xưa sử dụng, nhưng hầu hết chàm tự nhiên đều được
chiết xuất từ các giống cây chàm có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới.
Từ xa xưa, các loại chàm dùng để nhuộm ở Châu Á đều là giống
“true indigo” – Indigofera Tinctoria, hay còn gọi là Indigofera
Người Tuareg đội mũ che mặt
Sumatrana. Một phương pháp thay thế phổ biến được sử dụng ở
nhuộm chàm
các vùng cân nhiệt đới như quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và
Đài Loàn là Strobilanthes Cusia. Dyer’s Knotweed (Polygonum
Tinctorium) cũng là một giống thực vật cho chất nhuộm màu xanh phổ biến ở Châu Á, cho đến khi
các loài Indigofera được phát hiện ra ở phía nam, mang lại nhiều thuốc nhuộm hơn. Ở Trung và
Nam Mỹ, màu xanh được lấy từ giống cây Indigofera Suffruticosa (còn gọi là añil) và Indigofera
arrecta.

Trên thực tế, một số giống cây chàm hoặc cho màu xanh tương tự chàm, không thực sự
hiệu quả do có nồng độ thấp và màu sắc dễ biến đổi sau khi nhuộm. Cùng một giống cây chàm
nhưng ở mỗi vùng có thể có chút khác biệt. Thực vật ở mỗi nơi đều chịu ảnh hưởng bởi những
đặc tính bản địa riêng, nhiệt độ và độ ẩm, khí hậu và các yếu tố môi trường khác ảnh hưởng đến
giống cây chàm. Ngoài ra, phương pháp truyền thống và kỹ thuật của các địa phương cơ hồ cũng
có sự khác nhau, do đó cũng ảnh hưởng đến chất nhuộm chàm được chiết xuất và sản phẩm
chàm sau khi được nhuộm.

2. Lịch sử của thuốc nhuộm tổng hợp:

Vào thế kỷ 19, sản xuất chàm tự nhiên không còn đáp ứng được nhu cầu của ngành công
nghiệp may mặc, thúc đẩy sự ra đời của thuốc nhuộm chàm tổng hợp. Năm 1865, nhà hóa học
người Đức – Adolf von Baeyer, bắt đầu nghiên cứu chàm tổng hợp. Đến năm 1897, chất nhuộm
chàm hóa học chính thức ra đời. Năm 1905, ông Adolf von Baeyer đoạt giải Nobel về Hoá Học
cho công trình nghiên cứu của ông về thuốc nhuộm hữu cơ.
Tại thời điểm thuốc nhuộm chàm tổng hợp bắt đầu được đưa vào sử dụng, sản lượng
chàm tự nhiên được thống kê là 19.000 tấn, và việc trồng chàm chiếm diện tích khoảng 7.000
km2 (chủ yếu ở Ấn Độ). Chàm tổng hợp có giá thành rẻ hơn nhiều lần, nhanh chóng thay thế
chàm tự nhiên trong lĩnh vực in nhuộm thương mại. Cho đến năm 1914, sản lượng chàm tự nhiên
đã giảm xuống chỉ còn 1.000 tấn. Ngày nay, hầu hết thuốc nhuộm chàm được sử dụng đếu là loại
chàm tổng hợp. Từ năm 2002, sản lượng chàm tự nhiên còn lại trên tổng diện tích khiêm tốn rải
rác khắp thế giới, đã không thể đáp ứng nổi nhu cầu thị trường.

Tuy nhiên, xu hướng mới, quan niệm sống mới đang “thức tỉnh”, dần đưa con người trở về
với tự nhiên và phát triển bền vững, khuyến khích sự hồi sinh của nhuộm chàm thực vật và thuốc
nhuộm tự nhiên nói chung, trên mọi lĩnh vực dệt may, thời trang, mỹ phẩm...

III. Tính chất hóa học của bột chàm:

- Bột chàm là chất bột kết tinh màu lam sẫm, nóng chảy ở
3900C - 3920C. Nó không hòa tan trong nước, rượu, ete
nhưng hòa tan trong clorofom, nitrobenzen, DMSO, axit
sulfuric đậm đặc. Khối lượng riêng của bột chàm là
1,199 g/cm3.
- Cấu trúc hóa học của bột chàm: C16H10N2O2 Cấu trúc không gian của bột chàm indigo
- Tên của bột chàm indigotin: 2,2’-Bis(2,3-
dihydro-3- oxoindolyliden).
- Chất có nguồn gốc tự nhiên là indican, nó không
O
màu(hay màu trắng) và hòa tan trong nước. Indican có
NH
thể dễ dàng bị thủy phân tạo ra glucoza và indoxyl. Các
chất oxy hóa nhẹ, như bay ra không khí, chuyển hóa NH
indoxyl thành bột chàm. O

Phân tử bột chàm indigo


+ + H2O

- Quy trình sản xuất đã phát triển vào cuối thế kỷ 19 hiện vẫn còn được sử dụng trên khắp
thế giới. Trong quy trình này, indoxyl được tổng hợp bằng cách nấu chảy phenylglyxinat
natri trong hỗn hợp của NaOH và sodamid.
- Một vài hợp chất đơn giản hơn cũng có thể sản xuất bằng cách phân hủy indigo; các hợp
chất này bao gồm anilin và axit picric. Phản ứng hóa học có tầm quan trọng thực tế duy
nhất là khử nó bằng ure thành bột chàm trắng. Bột chàm trắng bị tái oxy hóa thành bột
chàm sau khi nó được dùng để nhuộm vải.
- Bột chàm xử lý với axit sulfuric sinh ra chất có màu lam lục. Nó đã có sẵn từ giữa thế kỷ
18. Bột chàm được sulfonat hóa còn gọi là lam Saxon hay indigo carmine.

Indigo carmine

- Tía Týros là thuốc nhuộm màu tím có giá trị trong thời cổ đại. Nó được sản xuất từ các chất
bài tiết ra của các loại ốc biển vùng Địa Trung Hải. Năm 1909 cấu trúc hóa học của nó
được thể hiện là 6,6’-dibromoindigo. Nó chưa bao giờ được
sản xuất tổng hợp trên nền tảng thương mại.
6,6’ – Dibromoindigo ( BrC6H3C(O)CNH)2

- Cấu trúc SMILES của indigo là S=O=c3c(=c2[nH]c1ccccc1c2=O)[nH]c4ccccc34 và số CAS là

12626-73-2.

IV. Tổng hợp thuốc nhuộm:

- Với tầm quan trọng kinh tế của mình, bột chàm đã được điều chế bằng nhiều phương
pháp. Năm 1865 nhà hóa học người Đức là bắt đầu nghiên cứu tổng hợp bột chàm. Ông
mô tả tổng hợp bột chàm đầu tiên của mình năm 1878 (từ isatin) và tổng hợp lần thứ hai
năm 1880 (từ 2-nitrobenzaldehyt), mặc dù mãi tới năm 1883 thì Baeyer mới xác định được
cấu trúc của bột chàm.
- Tổng hợp bột chàm Baeyer-Drewson có từ năm 1882. Nó bao gồm ngưng tụ aldol của o-
nitrobenzaldehyt với acetone, tiếp theo là vòng hóa và nhị trùng hóa oxy hóa thành bột
chàm. Quy trình này là hữu dụng cao trong việc có được bột chàm và nhiều dẫn xuất của
nó ở quy mô phòng thí nghiệm, nhưng không thực tế để tổng hợp ở quy mô công nghiệp.
Hiện nay, điều chế bột nhuộm chàm được thực hiện trong các phòng thí nghiệm vẫn theo
phương pháp gốc của Baeyer-Drewson.
- Tổng hợp bột chàm khi đó vẫn là phi thực tế, vì vậy nghiên cứu để tìm ta vật liệu khởi đầu
thay thế tại Badische Anilin- und Soda-Fabrik (BASF) và Hoechst vẫn tiếp tục. Johannes
Pfleger và Karl Heumann cuối cùng đã tìm ra phương thức tổng hợp sản xuất quy mô công
nghiệp.

1. Phản ứng do Baeyer- Drewson đề xuất:


Phản ứng được phân loại là ngưng tụ aldol . Là một con đường thực tế để tạo ra màu chàm, phương pháp này đã
được thay thế bằng các con đường từ anilin.
Cơ chế

Phương pháp:
Một hỗn hợp 10,1 g 2-amino-acetic-4- (α-hydroxyisopropyl) -benzoic axit (0,04 mol)
và 50,5 g kali hydroxit (0,90 mol) đã được hợp nhất trong một khẩu vị niken để loại trừ không khí.
Sự hợp nhất ban đầu được tiến hành tại 180 - 2000C và được hoàn thành phản ứng ở 220 - 230
trong vòng 15 phút. Sau đó, khối màu vàng đỏ được làm mát và hòa tan trong nước. Một dòng
không khí được dẫn qua dung dịch cho đến khi một phần thử nghiệm không còn tạo ra kết tủa hơi
xanh Khi không khí được hút qua. Sản phẩm oxy hóa sau đó được hình thành đã được lọc, rửa
sạch liên tiếp với nước và với axit hydrochloric rất loãng, và cuối cùng được sấy khô để cho 2,32
g sản phẩm được hiển thị, với sản lượng 31,0%.N,N’ -dimethylindigo đã được điều chế bằng quá
trình oxy hóa 1.05 mmol N -methylindoxyl Acetate trong 9 ml metanol bằng 2,2 mmol duroquinone
dưới nitơ và với sự hiện diện của natri methoxide 8,8 mmol. Sau 15 phút, hỗn hợp được axit hóa
bằng axit clohydric và sắc ký trên silica gel với chloroform để tạo ra 0,44 mmol tinh khiết N, N’ -
dimethylindigo, với năng suất 84%. Thay vào đó, N, N’ -dimethylindigo này cũng có thể được điều
chế theo quy trình của Ettinger và Friedlaender bằng cách oxy hóa N - methylindoxyl trong dung
dịch amoniac.11 Tái kết tinh từ heptanem dưới các tài liệu tham khảo nitơ 139 mang lại 28% số
của các kép, M.P. 180◦C. Không có tạp chất nào được tìm thấy bởi TLC hoặc phổ khối (đỉnh của
cha mẹ M/Z 290).
2. Phương pháp tổng hợp Heumann
- Phương pháp này là phương pháp đầu tiên ra đời năm 1897
- Quy trình bao gồm nung nóng N-(2-carboxyphenyl) glycin tới 200 0C ( 3920F) trong khí trơ
với natri hidroxide tạo thành Axit indoxyl-2-cacboxylic. Vật liệu này khử cacboxylat thành
indoxyl để oxy hóa trong không khí thành bột chàm.

 Cơ chế tổng hợp theo phương pháp Heumann:


- Tổng hợp N-(2-carboxyphenyl) glycin từ hợp
chất dễ dàng có được là aniline cung cấp một
phương thức mới và hấp dẫn về mặt kinh tế.
BASF đã phát triển quy trình sản xuất khả thi ở
quy mô thương mại vào năm 1897, khi có tới
19.000 tấn bột chàm được sản xuất từ các
nguồn thực vật. Sản lượng từ nguồn thực vật
Sản xuất bột chàm tại nhà máy của
giảm xuống mức 1.000 tấn vào năm 1914 và
BASF( 1890)
vẫn tiếp tục sụt giảm. Vào năm 2011 khoảng
50.000 tấn bột chàm tổng hợp được sản xuất trên toàn thế giới.
3. Phương pháp tổng hợp Pfleger:

- Phương pháp xuất hiện vào năm 1901


- Trong quy trình tổng hợp của phương pháp, N-phenylglycin được xử lý bằng hỗn hợp nóng
chảy gồm natri hydroxide, kali hydroxide và natri amide. Hỗn hợp nóng chảy nhạy cảm cao
này tạo ra indoxyl để sau đó bị oxy hóa trong không khí thành bột chàm
 Cơ chế của phương pháp tổng hợp Pfleger:

V. Các dẫn xuất của indigoit:


- 6,6’- difluoroindigo; 6,6’-dichloroindigo; 5,5’ – dibromoindigo; 6,6’- dibromoindigo( màu tím Tyrian),
6,6′-diodoindigo và 5,5′ -diodoindigo

1. Thioindigo
- Thio indigo ([2(2′) E ]-3 H ,3′ H -[2,2′-Bi-1-benzothiophenylidene]-3,3′-dione ), có màu đỏ.
- Công thức hóa học: C16H8O2S2
- Được tạo ra bằng cách alkyl hóa lưu huỳnh trong axit thiosalicylic với axit chloroacetic. Thioether
thu được chuyển hóa thành 2- hydroxy thianaphthene. Hợp chất 4,7,4’,7’-tetrachlorothioindigo,
cũng được điều chế bằng cách clo hóa thioindigo. Sử dụng trong nhuộm tổng hợp.

Axit thiosalicylic Axit chloroacetic Thio


indigo

2. Isatin
- Isatin hay còn gọi là tribulin, là hợp chất hữu cơ có nguồn gốc từ
indole. Tên IUPAC 1 H- indole -2,3- dione.
- Công thức hóa học C8H5NO2 .
- Otto Linné Erdman và Auguste Laurent thu được vào năm 1840 từ quá
trình oxy hóa thuốc nhuộm indigo bằng axit nitric và axit cromic.
- Nó trong giống như một loại bột màu đỏ cam và được sử dụng làm khối xây dựng để tổng hợp nhiều loại hợp
chất có hoạt tính sinh học bao gồm thuốc chống ung thư, thuốc chống vi rút, thuốc chống HIV, và thuốc
chống lao.
- Lõi isatin cũng tạo ra màu của thuốc nhuộm “ Maya- Blue” và “ Maya yellow”.

4. Indigo carmine
- Indigo carmine hay muối natri của axit 5,5’- indigosulfonic, là một loại muối hữu cơ có nguồn gốc từ cây
chàm bằng cách sulfon hóa thơm, làm cho hợp chất tan trong nước. Nó được chấp thuận sử dùng làm chất
tạo màu thực phẩm ở Mỹ và EU để tạo ra màu xanh lam. Nó có số E132, và cũng là một chỉ số pH.

- Indigo carmine trong dung dịch nước 0,2% có màu xanh lam ở pH = 11,4, và màu
vàng ở pH= 13. Nó phát hiện superoxide, một điểm khác biệt quan trọng trong sinh
lý tế bào. Nó cũng được sử dụng làm thuốc nhuộm trong sản xuất viên nang.
- Indigo carmine( indigotin disulfonate natri) được sử dụng làm thuốc nhuộm chẩn
đoán trong quá trình phẫu thuật. Nó được chỉ định để sử dụng như một công cụ hỗ
trợ trực quan trong việc đánh giá nội soi bàng quang về tính toàn vẹn của niệu quản
ở người lớn sau các thủ thuật phẫu thuật mở, phẫu thuật bằng robot hoặc nội soi
tiết niệu và phụ khoa. Nó được phê duyệt để sử dụng trong y tế tại Hoa Kỳ vào
tháng 7 năm 2022.

5. Indigo sulfonate
- Công thức phân tử: C16H9N2NaO5S
6. 6,6’-diethoxy-trans-thioindigo:
- Công thức Phân tử: C20H1604S2

7. Tyrian ( 6,6’- dibromoindigotin):


- Mặc dù ngày xưa màu tím Tyrian này được chiết xuất từ vỏ ốc ở vùng biển Địa Trung Hải. Và ai cũng nghĩ
nguồn gốc là từ động vật thân mềm, nhưng bản thân thuốc nhuộm này không có trong động vật thân mềm.
- Để tìm kiếm tiền thân của loại màu này, Baker được phân lập từ quỹ đạo Dicathais một chất cảm quang màu
vàng lục nhạt tên là tyriverdin và chứng minh nó là tiền thân trực tiếp của tím Tyrian. Hơn nữa ông kết luận
nó là loại quinhydrone phức chất ( công thức 2a) giữa tyrindoxyl 3 và dehydrotyrindoxyl 4 trên cơ sở phân
tích nguyên tố và 1H-NMR và phổ khối. Tuy nhiên, một cấu trúc khác, 2,2- bis(methylthio)-6,6’-dibromo-2,2’-
diindoxyl 2b, sau đó được Chrristophersen đề xuất từ sự tương đồng trong hành vi cua tyriverdin và chất
tổng hợp 2,2’-bis( metylthio)-6,6’-dibromo-2,2’- diindoxyl( 2 đồng phân lập thể) (3b). Vì vậy, bằng chứng
cuối cùng là cần thiết về tính đồng nhất và cấu trúc của tyriverdin và nguồn gốc của nó.

(3)

(4)

(2)
Trong quá trình nghiên cứu thành phần hóa học của loài Thais clavigera 4) (Muricidae), một loài động vật
chân bụng phổ biến ở Nhật Bản, chúng tôi đã phân lập được một chất màu xanh lá cây từ tuyến
dưới cánh tay (màu vàng hoặc xanh nhạt) bằng cách chiết với ether khi không có ánh sáng mặt trời
5)
Chất này ổn định trong bóng tối ở chất rắn (khí quyển argon) nhưng không ổn định trong dung
dịch và thu được 1 khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, Chất này xác định là tyriverdin của Baker, từ
hành vi này và quang phổ của nó [λmax MeoH 237(, 23350 sh), 252 (32410), 275 (12000 sh), 350
(2570), 402 (2870), 598nm (710); vKBr3387, 2924, 1680, 1602, 1571, 1448, 1421, 1363, 1315, 1273,
1240, 1190, 1110, 1090, 1045, 1030, 959, 900, 851, 814, 771, 719, 641, 605, 565, 537 cm -1; δDMSO-d6
1. 88 (s, Me); 6,97 (dd, J=8, 1,8); 7,31 (d, J=1,8); 7,48 (d, J=8); 8,22 (br. s)] 2,6,7). Tuy nhiên, khi đo ở
mức rấtthời gian ngắn sau khi cách ly, phổ 1H-NMR thể hiện rõ một loạt tín hiệu do một hợp chất
khác có cấu trúc rất giống nhau ngoài những cấu trúc được hiển thị ở trên [δ DMSO -d 6 1,92 (s, Me),
6,89 (dd, J=8, 1,7), 7,08 (d, J=1,7), 7, 33 (d, J=8), 8,03 (br. s)]. Vì vậy chúng tôi gọi chúng là tyriverdins
A và B (2A và 2B) tương ứng. Khi để yên trong DMSO 2B kém ổn định hơn đáng kể so với 2A và
được chuyển đổi thành 1 khi để yên trong DMSO, để lại 2A ở dạng nguyên chất8). Hơn nữa, dữ liệu
1
H-NMR của 2B giống hệt với dữ liệu của đồng phân lập thể được báo cáo bởi Christophersen 3b). Do
đó, tyriverdin có nguồn gốc là hỗn hợp của các đồng phân lập thể, tyriverdin A và B. Sự hiện diện
của hai đồng phân trong tyriverdin ngụ ý rằng công thức 2b của Christophersen là đúng. Cho bằng
chứng cuối cùng về cấu trúc, phổ 13C-NMR của 2A đã được đo (dung dịch DMSO-d6, nhiễu proton
tách rời, 115.333 quá độ, khoảng thời gian xung 0,64 giây). Quang phổ hiển thị rõ ràng 9 tín hiệu,
cho thấy cấu trúc dimeric đối xứng. Các tín hiệu đã được phân bổ hợp lý như thể hiện khi so sánh
với các tín hiệu của isatin 59) và 6-bromisatin 610) . Tín hiệu quan trọng của cấu trúc phân công là
nhóm đơn yếu (nguồn gốc bậc bốn) ở mức 72,7 ppmchắc chắn chỉ ra sự hiện diện của carbon tứ
giác trong vòng hệ thống và xác minh cấu trúc 2b . Phổ 13C-NMR của hỗn hợp 2A và 2B chỉ thể hiện
các tín hiệu được hiển thị (10.000 lần chuyển tiếp, khoảng thời gian xung 0,727 giây) 11) .
Để giải quyết vấn đề liệu 2A và 2B đã có chưahiện diện trong hệ thống tế bào sống hoặc các thành
phần được hình thành trong quá trình phân lập quá trình, các tuyến dưới cánh còn tươi từ 15 cơ
thể được đặt vào ống NMR và phổ 1H-NMR được đo ngay sau khi thêm DMSO-d 6 và trộn (343 lần
chuyển tiếp, khoảng thời gian xung 4 giây). Phổ thể hiện các tín hiệu chủ yếu do tyrindoxyl sunfat [δ
2'12)
2,44 (s), 7,08 (dd, J=8, 2), 7,44 (d, J=2), 7,57 (d, J=8)] và β.β-dimethylacrylyIcholine [δ 1. 91 (s), 2.
14 (s), 3,13 (s), 4,48 (br.m), 5,75 (br. s)]; 1không có tín hiệu do 2A hoặc 2B được quan sát. Tuy nhiên,
giải pháp tương tự lại thể hiện tín hiệu do 2A sau khi được giữ lạnh trong bóng tối trong 24 ngày.
Những thí nghiệm này chứng minh một cách chắc chắn rằng thành phần thực sự của động vật thân
mềm là tyrindoxyl sulfate2) thủy phân và trải qua quá trình liên kết oxy hóa để tạo thành đồng phân
lập thể tyriverdins, tiền thân của màu tím Tyrian, trong quá trình phân lập 13) .
 Tham khảo và chú ý:
1) P. Friedeltmder, Ber., 42, 765 (1909). Idem, Angew. Chem., 22, 992, 2494 (1909).
2) J.T. Baker and M.D. Sutherland, Tetrahedron Lett., 1968, 43. J.T. Baker, Endeavour, 33, (118), 11 (1974) and references
cited therein. See also, Idem, Pure and Appl. Chem., 48, 35 (1976).
3) a. C. Christophersen, F. Wtltjen, 0. Buchardt, and U. Anthoni, Tetrahedron Lett., 1977, 1747, b. Idem, Tetrahedron, 34,
2779 (1978).
4) Collected at Miyato Island, Miyagi Prefecture, during the period of April-June, in 1978 and 1979.
5) 4, 6 and 2,2-bis(methylthio)-6-bromindolinone2) were also isolated by preparative TLC (SiO2 and Al2O3).
6) 1H-NMR and 13C-NMR chemical shifts were expressed in ppm from TMS.
7) J.T. Baker, personal communication (March 12, 1979).
8) In the absence of sunlight, pure 2A seemed stable in methanol.
9) V. Galasso, G. Pellizer, and G.C. Pappalardo, Org. Magn. Reson., 9, 401 (1977). The different assignment proposed [P.
G.Gassman, B.W. Cue, Jr., and T.-Y. Luh, J Org. Chem., 42, 1344 (1977)] was found erroneous on the basis of the assignment of
6.
10) 6: δ DMSO-d6 114.9 (C-7), 116.9 (C-3a), 125.5 (C-5), 126.0 (C-4), 131.5 (C-6), 151.6 (C-7a), 159.1 (C-2), 183.1 (C-3).
11) It is not clear as to whether 2B gives identical signals with 2A or too unstable to be detected. After the measurement, no
2B was detected by 1H-NMR.
12) J.T. Baker and C.C. Duke, Tetrahedron Lett., 1976, 1233.
13) We are indebted to Dr. J.T. Baker, Roche ResearcF- Institute of Marine Pharmacology, for spectra of
tyriverdin, and to Mr. K. Aoki, ANELVA, Corp., for some of 13C-NMR measurements.

 Tài liệu tham khảo của phần tổng hợp thuốc nhuộm indigoit:

1. https://www.journal.csj.jp/doi/10.1246/cl.1980.631

2. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/0040402078884191

3. https://www.wikiwand.com/vi/Thu%E1%BB%91c_nhu%E1%BB%99m_m%C3%A0u_ch%C3%A0m#introduction

4. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0040403901932654

5. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1876107016302474

6. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0021967316304691

7. http://uphcm.edu.vn/caythuoc/index.php?q=node/244

8. Separationand purification of indigotin and indirubin from Folium isatidis extracts usung fast and efficient macroporous
resin column followed reversed phase flash chromatography( Huang, Yu-Yan, Liu, Xue- Feng, Ju- Zhao, Liu; Li, Lu; Cui;
Qi, Wang; Li- Tao; Fu; Yu- Jie; Luo; Meng( 2016).

9. John H. Sagers (ngày 20 tháng 7 năm 2018). Confucian Capitalism: Shibusawa Eiichi, Business Ethics,

and Economic Development in Meiji Japan. Springer. tr. 27. ISBN 9783319763729.

10. McKee, James R.; Zanger, Murray (1991). “A microscale synthesis of indigo: Vat dyeing”. Journal of

Chemical Education. 68 (10): A242. Bibcode:1991JChEd...68..242M. doi:10.1021/ed068pA242

11. https://pubchem.ncbi.nlm.nih.gov/substance/7851682

12. Jenny Balfour-Paul, Indigo (London, British Museum 1998).


13. Ferreira E. S. B., Hulme A. N., McNab H., Quye A. (2004). “The natural constituents of
historical textile dyes”. Chemical Society reviews. 33 (6). doi:10.1039/b305697j.
14. Splitstoser J. C., Dillehay T. D., Wouters J., Claro A. (ngày 14 tháng 9 năm 2016). “Early pre-
Hispanic use of indigo blue in Peru”. Science Advances. 2 (9):
e1501623. Bibcode:2016SciA....2E1623S. doi:10.1126/sciadv.1501623. PMC 5023320. PMID 276
52337.
15. Thông số cho FD&C Blue No. 2 Lưu trữ 2005-11-26 tại Wayback Machine bao gồm ba hóa chất,
trong đó thành phần chính là muối indigotindisulfonat natri.
16. https://en.wikipedia.org/wiki/Baeyer%E2%80%93Drewsen_indigo_synthesis
17. https://onlinelibrary.wiley.com/browse/book/10.1002/9780470638859/title

You might also like