You are on page 1of 66

NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT THỦ CÔNG

TRUYỀN THỐNG

1. KỸ THUẬT NHUỘM (DYE)

MARBLE DYEING – KỸ THUẬT NHUỘM VẢI LOANG MÀU TRÊN


MẶT NƯỚC

Marble Dying là một phương pháp xử lý chất liệu bề mặt dung dịch nước, có
thể tạo ra các mẫu có họa tiết mềm mại như hoa văn của đá cẩm thạch. Các
thành phẩm là kết quả của dung dịch màu nổi trên một dung dịch sệt dính đã
qua xử lý, sau đó cẩn thận vẽ các họa tiết bất kì và chuyển giao lên bề mặt chất
liệu.
Ngày xưa, marble dyeing được sử dụng để in ấn giấy, nhưng lịch sử và sự ứng
dụng của nó đã phát triển hơn thế. Mẫu marbling sớm nhất được phát hiện ở thế
kỷ 12 tại Nhật Bản, tại đây nó có tên là “suminagashi” (nghĩa là “floating ink”),
được sử dụng thiết kế giấy. Nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu cho là kỹ
thuật này được sử dụng đầu tiên tại Trung Quốc, nhưng cũng không ai biết
chính xác sự tồn tại của nó từ khi nào. Và “suminagashi” vẫn được sử dụng tại
Nhật Bản cho tới ngày nay.
Kỹ thuật này cũng xuất hiện ở Trung Á vào thế kỷ 15. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, những
loại giấy qua xử lý marble được sử dụng để ngăn chặn thư từ giả mạo, điều đó
đã giúp loại giấy này phát triển mạnh mẽ cùng với sự lớn mạnh của đế chế
người Thổ, đến nay truyền thống sử dụng kỹ thuật vẫn còn lưu giữ trong một số
quốc gia như Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Và cuối cùng, kỹ thuật này được truyền bá từ
Trung Đông đến Châu Âu vào thế kỷ 17, nơi các quốc gia tại đây đã điều chỉnh
kỹ thuật và biến nó thành những họa tiết đặc trưng của quốc gia họ. Đây là giai
đoạn mà marble trở nên phổ biến trong việc đóng sách và mọi người có thể thấy
nó được sử dụng cho tới tận ngày nay.
Raeburn Spring 2015 Ready-to-Wear fashion show
Dries Van Noten Fall 2018 Menswear fashion show
TIE-DYE
Tie-dye theo định nghĩa là sự nhuộm màu vải bằng cách buộc từng phần của vải
lại để chỗ đó không bị ăn màu. Nhuộm tie-dye sẽ mang đến hiệu ứng ngẫu hứng
cho màu sắc hiển thị trên mặt vải.
Những năm 1980 là nguồn cảm hứng bất tận của thời trang. Một thập kỷ của
những sôi nổi ồn ào, của rock’n’roll nhưng cũng đầy sự tinh tế. Một xu hướng của
thập kỷ̉ đó đang quay lại trên sàn diễn mùa xuân 2010. Những trang phục nhuộm
theo phong cách tie-dye xuất hiện trong hầu hết bộ sưu tập xuân hè 2010 của các
nhà thiết kế danh tiếng.

Thời trang luôn lặp lại, hay theo như trang web thefashionpolice.net thì những xu
hướng luôn biết cách tìm đường quay lại với đời sống thời trang.

Tie-dye - hoài cổ nhưng hiện đại. Nó mang dáng dấp những năm 1980 qua cách
nhuộm vải thủ công cũ kỹ, nhưng cũng mang đến sự hiện đại đầy ngẫu hứng của
màu sắc.
Những sắc màu rực rỡ, chất liệu mềm mại tạo hiệu ứng bay bổng, vệt loang khác
biệt trên mỗi sản phẩm.
Christian Dior Ready-to-Wear - Spring 2021
IN BATIK
Batik là một tấm vải truyền thống được tạo ra bằng kỹ thuật nhuộm sáp và in
các hoa văn bằng phương pháp thủ công truyền thống.
Nghệ thuật Batik đã xuất hiện từ hơn 2500 năm trước ở Viễn Đông, Trung
Đông, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia… Dù không phải là nơi sản sinh ra Batik
nhưng Indonesia được coi là quốc gia của Batik, nơi mà nghệ thuật Batik đạt
đến đỉnh cao. Vải Batik được coi là một sản phẩm thương hiệu quốc gia
Indonesia trên thế giới.

Trước đây, màu truyền thống của Batik được lấy từ cây cỏ và bao gồm ba màu
cơ bản: xanh chàm (cây chàm), nâu (cây Soga) và đỏ sẫm từ cây nhàu. Batik
ngày nay có đủ các sắc màu, các chất liệu khác nhau. Họa tiết sử dụng trang trí
trên vải Batik cũng rất đa dạng và phong phú, từ đơn giản như các họa tiết hình
học cho đến những họa tiết phức tạp như cỏ cây, hoa lá, muông thú và cả con
người, phong cảnh ...

Kỹ thuật
Để có một sản phẩm Batik, người nghệ nhân bắt đầu bằng việc vẽ các họa tiết
bằng sáp ong pha trộn với nhiều sắc độ khác nhau. Các họa tiết, hoa văn trên
nền vải lúc đầu được vẽ hoàn toàn bằng tay và sử dụng những cây bút gọi là
canting. Sau này, người ta sử dụng bản khắc (bằng đồng), khuôn in và các công
cụ khác để phủ sáp ong thành những hình đã định trước. Tuy nhiên, phương
pháp vẽ bằng tay vẫn được sử dụng phổ biến vì nó mang phong cách riêng của
mỗi nghệ nhân.

Để vẽ được một tấm vải Batik, người thợ phải qua nhiều khâu, trong đó quan
trọng nhất là vẽ mẫu. Điểm đặc biệt nhất của Batik là vẽ bằng sáp đun nóng,
cho nên khâu này phải làm hết sức cẩn thận. Hoa văn được can lên tấm vải
trắng, sau đó người thợ thủ công sử dụng một dụng cụ chuyên dụng đựng sáp
nóng, có thể bằng ngà voi hoặc kim loại, đổ sáp ong được đun nóng chảy vào,
rồi sử dụng đầu nhọn của dụng cụ này giống như một chiếc bút để vẽ hoa văn
lên vải. Ngày nay, nhiều thợ trẻ học làm Batik đã vẽ trước hoa văn bằng bút chì
lên vải, sau đó mới tô lại bằng sáp ong.

Không giống như các loại vải khác, hoa văn được vẽ và tạo màu trực tiếp, ở đây
Batik sử dụng sáp ong như một lớp bao phủ để giữ cho phần vải được che đó
không bị nhuộm màu, chính phần vải trắng này sẽ trở thành những hoa văn
trang trí tuyệt đẹp trên nền vải màu sau khi được nhuộm.
Khâu tiếp theo, tấm vải được nhuộm bằng nước được chiết ra từ thân, lá hoặc
quả của các loại cây, với ba màu chủ đạo là xanh chàm, nâu và đỏ sẫm. Tấm vải
được để khô trong vài tiếng để giữ màu, rồi người thợ sẽ ngâm vải trong nước
nóng hoặc sử dụng bàn là là gián tiếp làm tan lớp sáp ong, để lại phần hoa văn
đặc trưng.

Nhuộm Batik là một phương pháp nhuộm phổ biến ở Indonesia, bằng cách sử
dụng sáp nóng chảy vẽ trên mặt vải. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, nghề
nhuộm vải Batik đã có cách đây 1.500 năm, với các mẫu vật khảo cổ từng được
tìm thấy ở Ai Cập, Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản và Tây Phi. Tuy
nhiên, chỉ ở Indonesia, nghề nhuộm vải này mới được phát triển thành nghệ
thuật trang trí thủ công.
Ở Indonesia, nghệ thuật nhuộm vải Batik được phát hiện từ rất sớm và xuất phát
từ Java. Các chuyên gia cho biết ban đầu Batick chỉ được sử dụng riêng trong
Hoàng gia, vì nhiều mẫu thiết kế nguyên bản được lấy cảm hứng từ trang phục
của các thành viên trong hoàng gia, tại cung điện của nhà vua ở Yogyakarta. Là
nghề truyền thống bản địa, cho nên mặc dù có chung cách thực hiện là sử dụng
sáp nóng chảy trên vải, nhưng Batik ở Indonesia không chịu ảnh hưởng của
Batick ở Ấn Độ, Ai Cập hay bất kỳ nước nào có sử dụng Batik.
Nghề dệt vải Batik ở Java phát triển mạnh vào thế kỷ 19, nhưng sau đó suy tàn
dần. Sang thế kỷ 20, sự phát triển mạnh mẽ của dòng quần áo phương Tây cũng
khiến cho Batik tiếp tục xuống dốc. Vào thế kỷ 21, các nhà thiết kế Indonesia đã
nỗ lực vực dây nghề dệt truyền thống này với những mẫu thiết kế sử dụng
Batik, kết hợp với màu sắc và hoa văn mới, phù hợp với thời đại hơn. Batik đã
trở thành một món đồ thời trang cho cả nam và nữ giới ở Indonesia, với áo sơ
mi, sarong truyền thống, váy hay khăn quàng…
2. THÊU ĐÍNH
GOLD WORK
Goldwork là thứ vương giả và sang trọng nhất trong các kỹ thuật thêu. Từng chỉ
dành cho những người giàu có, tranh thêu bằng vàng trong lịch sử đã được sử
dụng để tô điểm cho hàng dệt may của giáo hội, quân phục và quần áo và hàng
dệt cho giới quý tộc. Ngày nay, việc gia công bằng vàng dễ tiếp cận hơn so với
trước đây và hiện đang được phục hồi trở lại như một kỹ thuật gia công phổ
biến. Goldwork khác với các kỹ thuật thêu bề mặt khác, đặc biệt là khi xem xét
các sợi chỉ được sử dụng. Không giống như chỉ từ sợi tự nhiên hoặc sợi nhân
tạo (bông, len, lụa, tơ tằm ...), chỉ được sử dụng trong chế tác vàng được làm từ
kim loại thật. Với một số loại chỉ gia công bằng vàng, kim loại được bao quanh
một lõi sợi, trong khi với các loại chỉ kim loại khác, toàn bộ “chỉ” đều là kim
loại. Thông thường, đồ vàng được kết hợp với lụa bóng, để màu sắc phong phú
đi kèm với vàng.

Goldwork là nghệ thuật thêu bằng cách sử dụng các sợi kim loại, hoặc các sợi
chỉ với các lá kim loại quấn quanh một sợi chỉ dệt bình thường. Nó đặc biệt
được đánh giá cao về cách ánh sáng phát trên nó. Thuật ngữ "đồ vàng" được sử
dụng ngay cả khi các sợi chỉ là vàng, bạc hoặc đồng giả. Các dây kim loại được
sử dụng để làm các sợi chỉ không bao giờ hoàn toàn bằng vàng; chúng thường là
bạc phủ vàng (bạc mạ vàng) hoặc các kim loại rẻ tiền hơn, và thậm chí khi đó
"vàng" thường chứa một tỷ lệ rất thấp so với vàng thật. Hầu hết các sợi kim loại
có sẵn bằng bạc và đôi khi là đồng cũng như vàng; một số cũng có sẵn màu sắc.
Tuy nhiên, một công nghệ phủ mới cho phép phủ trực tiếp vàng 24K lên sợi
filament mà không có bất kỳ lớp kim loại hoặc chất kết dính nào khác bên dưới.
Sợi bạc và vàng tương tự cũng được sử dụng nhiều trong những tấm thảm trang
trí đắt tiền nhất, đặc biệt là trong thời kỳ Phục hưng. Goldwork luôn thêu bề mặt
và thêu miễn phí; đại đa số là một hình thức làm việc bài bản hoặc nằm dài;
nghĩa là, các sợi vàng được giữ trên bề mặt của vải bằng một sợi thứ hai, thường
là lụa tốt. Các đầu của chỉ, tùy thuộc vào loại, chỉ được cắt ra, hoặc được kéo
qua mặt sau của hình thêu và được cố định cẩn thận bằng chỉ couching. Một
công cụ được gọi là mellore hoặc stiletto được sử dụng để giúp định vị các sợi
chỉ và tạo các lỗ cần thiết để kéo chúng qua.
Trung Quốc
Người ta cho rằng Trung Quốc là nơi sản sinh ra Goldwork, và từ đó nó đã di cư
sang Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó cũng di cư từ Trung Quốc sang phương Tây
cùng với các thương nhân tơ lụa. Ở Trung Quốc, thêu bằng vàng được tìm thấy
trên trang phục của hoàng gia và nghi lễ. Goldwork của Trung Quốc thường sử
dụng các sợi tơ đỏ để làm trường kỷ, tăng thêm tông màu ấm hơn cho bức thêu.

THÊU NỐI ĐẦU


Thêu nối đầu truyền thống có 3 dạng: nối đầu uốn lượn, nối đầu cong vòng, nối
đầu thẳng hàng.
Cách thêu này theo nguyên tắc nối tiếp mũi chỉ, mũi sau nối vào cuối mũi trước.
Các mũi cứ thế tạo thành từng hàng đan đầy nét mẫu trên nền vải. Mỗi mũi chỉ
thường dài 3-5 ly, nếu các chi tiết uốn lượn thì phải thêu ngắn mũi hơn nữa.
Như vậy, đường thêu sẽ uyển chuyển, không gãy khúc và vải nền không có khe
hở.
Các chi tiết khi áp dụng: cỏ, lá tre, lá trúc…
THÊU CHĂNG CHẶN (GIĂNG CHẶN)
Thêu chăng chặn có 3 dạng: chăng chặn chăng, chăng chặn chéo chữ thập,
chăng chặn cong.
Thêu chăng chặn là cách thêu giăng những đường chỉ dài rồi chặn từng đoạn
ngắn để giữ đường chỉ. Chỉ dùng để chặn ở đây sẽ là chỉ cùng màu, nhưng sợi
nhỏ. Cách thêu chăng chặn dùng để thêu những đường mặt nước, mái ngói,
nhụy hoa…trong những mẫu tranh thêu phong cảnh, hoặc thêu lấp đầy bề mặt
mẫu trong những mẫu thêu cách điệu trang trí. Mũi chỉ cách đếu nhau từ 3-5 ly,
mũi chặn phải không được chặt tay quá mà cũng không được lỏng tay quá tránh
tình trạng sợi chăng bị gãy khúc và sợi chăng bị xê dịch.

Từ kiểu thêu cơ bản ta có các kiểu biến tấu dưới đây:


Kiểu 1: Thêu phủ bề mặt mẫu bằng những đường chăng và chặn dài. Có thể áp
dụng để thêu các mẫu hình cánh hoa lá, tạo đường gân giữa lá
Kiểu 2: Thêu phủ bề mặt mẫu bằng những đương chăng và chặn ngắn. Áp dụng
để thêu các mẫu hình cánh hoa lá, tạo đường gân giữa lá

Kiểu 3: Thêu chăng chặn từng đường thưa phủ bề mặt mẫu. Các mũi chỉ chặn so
le nhau
Kiểu 4: Thêu chăng chặn từng đường khít sát nhau phủ lấp bề mặt mẫu
Kiểu 5: Thêu các đoạn chỉ giăng đan chéo nhau và chặn các mũi chỉ ngắn tại
các điểm giao nhau của chúng

Yêu cầu: các mũi chỉ nằm sát mặt vải, không bồng lên, đường thêu thẳng hoặc
phủ lấp đầy bề mặt theo đường nét của mẫu, mặt vải không nhăn.

THÊU LƯỚT VẶN (còn gọi là thêu thụt lùi)


Thêu lướt vặn có 3 dạng chính: (lướt vặn đường thẳng, lướt vặn vòng lượn, lướt
vặn cong tròn), kiểu thêu này tương đối đơn giản nhưng cũng đòi hỏi sự khéo
tay của người thợ. Nó tạo cho người xem cảm thụ nghệ thuật mạnh mẽ như
đứng trước cảnh thật vậy.
Cách thêu: thêu mũi thứ nhất dài 5mm, mũi thứ 2 cắm sát vào nửa múi thứ
nhất, mũi thứ ba cắm sát vào đuôi mũi thứ nhất.
Lối thêu này có ưu thế trong việc diễn tả các chi tiết như: làm rõ từng đườn vân
của đá, cuống và sống lá, cánh chim hay ngọn tháp, cành cây…

THÊU BÓ HẠT   
Cách thêu này tạo ra mặt chỉ láng bóng, tự nhiên.
Cách thêu gần giống với thêu lướt ván, có các kiểu: bó hạt cành mềm, bó hạt
thẳng ngang, bó hạt cành cứng, bó hạt hoa cúc.
Kỹ thuật thêu bó hạt tạo nên các đường viền lớn, các dạng đường tròn, cánh hoa
dài…
Yêu cầu: Mũi chỉ phải đều nhau, không lệch răng cưa…

THÊU TRÙM (còn gọi là thêu đâm xô, thêu tràn)


Thêu đâm xô ngang, đâm xô vát, đâm xô dọc, đâm xô tỏa, đâm xô lượn, đâm xô
xoay, đâm xô cong gãy, đâm xô gấp khúc, đâm xô tỏa lượn, đâm xô xoay, đâm
xô lượn tỏa…là những lối thêu trùm cơ bản. Kỹ thuật thêu này được sử dụng
nhiều trong một bức tranh thêu.
Cách thêu này để tạo nền cho các mảng màu lớn, cũng dùng để phối màu, tạo
nên sắc độ đậm nhạt, sáng tối thích hợp. Sử dụng kỹ thật thêu trùm thông qua
thủ pháp chồng, tách và pha màu cũng như các phương pháp kỹ thuật: canh chỉ,
chân chỉ…để sáng tạo tác phẩm và có thể thực hiện đúng theo yêu cầu của
khách hàng cho dù có gặp khách hàng khó tính nhất.
Kỹ thuật này giống như trong hội họa: tô và vờn màu làm cho tác phẩm cân đối
hoàn chỉnh. Với cách thêu này sẽ thể hiện được phong cách và khả năng riêng
biệt từng nghệ nhân.
Cách thêu: Người thợ dùng đường chỉ thêu phủ kín lớp nền. Mũi chỉ ngắn, dài
so le chen vào giữa những đường chỉ nền trước. Các mũi chỉ này cùng màu sắc
với chỉ nền nhưng khác sắc độ từ đó làm cho bức thêu thêm sinh động.

THÊU RUY BĂNG


Thêu ruy băng là hình thức thêu 3 chiều đẹp mắt, thay vì dùng chỉ, người ta sử
dụng dây ruy băng gắn vào kim để thêu hình lên vải, tạo hiệu ứng tuyệt đẹp nhờ
vào màu sắc sống động của ruy băng.
3. ĐAN MÓC

DRAPE

10
Th5
Fashion draping hay gọi là draping hoặc còn được gọi là 3D được nói về 1 kỹ
thuật tạo mẫu mới trên ma-nơ-canh (Mannequin/Dressform).
Trong thời đại đổi mới và phát triển, ngành thiết kế thời trang vươn mình lên trở
thành một ngành thời thượng; cùng mới nhu cầu ăn mặc, thị hiếu thẩm mỹ ngày
càng cao của xã hội đã tạo điều kiện để các nhà thiết kế thỏa sức sáng tạo những
mẫu thời trang hiện đại và chuyên nghiệp. Quá trình hiện thực hóa một sản
phẩm thời trang đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo và cả sự kiên nhẫn của người làm
nghề.

Kỹ thuật dựng rập 3D trên dressform – tiếng Anh gọi là “Three Dimensional


Modeling of Garment Drape” hay gọi tắt là Fashion Draping – là sự lựa chọn tối
ưu của các nhà thiết kế thời trang nổi tiếng trên thế giới.
Theo dòng lịch sử thời trang hiện đại, những nhà thiết kế đã và đang tiếp tục
khám phá các khối hình mới trong thời trang bằng kỹ thuật dựng rập 3D; nổi bật
nhất phải kể đến những nhà thiết kế tên tuổi đầu thế kỷ XX như Madame Grès –
nhà thiết kế được mệnh danh là “Nữ hoàng Draping”, Pauline Trigère, Madeline
Vionnet, Cristobal Balenciaga và Halston.
Fashion Draping là một phần đóng vai trò quan trọng trong thiết kế thời trang;
là quá trình phủ vải, định vị và ghim vải lên ma-nơ-canh, cốt để phát triển cấu
trúc của mẫu trang phục được thiết kế. Dựa vào những mẫu rập căn bản, nhà
thiết kế có thể linh hoạt điều chỉnh cấu trúc trang phục trực tiếp trên ma-nơ-
canh, thao tác này giúp sáng tạo mẫu thiết kế mới đa dạng và độc đáo.

Fashion Draping giúp các nhà thiết kế thời trang phát triển và sáng tạo những
mẫu thiết kế mới mang phong cách cá nhân, phương pháp và kỹ thuật dựng rập
3D dễ dàng định hình ngay lập tức form dáng của mẫu thiết kế; nó còn giúp nhà
thiết kế thực hiện mẫu trang phục đúng với ý tưởng ban đầu.

Loại vải nào phù hợp để Draping


Draping được thực hiện trên vải mộc (toile/muslin), nói cách khác đây là loại
vải nháp giúp nhà thiết kế dễ dàng giải quyết các vấn đề tạo khối, lên form dáng
trang phục trước khi chuyển sang rập phẳng 2D. Vải mộc dùng để Draping cần
phải có độ nặng và độ dày tương đương so với loại vải chính dùng để may lên
mẫu thật. Ngoài ra, nhà thiết kế vẫn có thể sử dụng các loại vải như: satin,
chiffon, lycra, linen,…  để Draping nhưng khuyến khích ưu tiên sử dụng vải
mộc trắng; bởi trong quá trình thực hiện, nhà thiết kế có thể dễ dàng vẽ, viết
trực tiếp lên vải mộc. Bên cạnh đó, với giá thành thấp, chất liệu vải mộc giúp
giảm thiểu chi phí trong quá trình thiết kế.
Tại các nước phát triển và đứng đầu về ngành thời trang như Pháp, Anh, Ý,…
kỹ thuật dựng rập 3D trên ma-nơ-canh được các nhà thiết kế sử dụng như bước
đầu tiên trong quá trình thực hiện một sản phẩm thiết kế; kỹ thuật này còn được
xem là kỹ thuật truyền thống từ những ngày đầu xuất hiện ngành công nghiệp
thời trang hiện đại trên thế giới.

Tại Việt Nam, kỹ thuật này được biết đến trong khoảng 10 năm nay nhờ sự hợp
tác với các trường thời trang Châu Âu của một số trường Đại học Việt Nam
trong chương trình đào tạo ngành thời trang. Từ năm 2008, ngành thời trang tại
TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung đã bắt đầu nổi lên từ việc trau dồi
kiến thức thời trang cũng như kỹ thuật dựng rập 3D từ các sinh viên, giảng viên,
nhà thiết kế làm việc trong các công ty, thương hiệu thời trang. Đến nay, kỹ
thuật dựng rập 3D không còn xa lạ với người học thiết kế thời trang, học viên
được đào tạo bài bản để đáp ứng thị trường kịp thời. Từ năm 2010 trở đi, các
công ty thời trang tại Việt Nam đã bắt đầu áp dụng kỹ thuật này trong quá trình
thiết kế sản phẩm; sản phẩm thiết kế được mô phỏng mẫu ban đầu – từ chuyên
ngành gọi là Prototype – để đưa ra các thiết kế chuẩn xác trước khi chuyển qua
bộ phận làm rập phẳng 2D, sau đó đi vào sản xuất theo số lượng.
DRAFT

Phác thảo mẫu là quá trình tạo ra một mẫu bằng cách lấy các phép đo từ một
người, mẫu hoặc người mẫu, để sau đó tạo nền, là mẫu được sử dụng làm cơ sở
cho thiết kế.
Các bước trong quy trình này là: Đo đạc Vẽ hoa văn Tạo bộ mẫu
Đo lường
Các phép đo được thực hiện dựa trên một người mẫu, là người hoặc gần đúng
của một người, và tùy thuộc vào loại quần áo được may, các phép đo khác nhau
tùy thuộc vào bộ phận nào của cơ thể mà quần áo đó muốn che, loại của quần áo
đó là giới tính của người đó, và nếu họ là nữ, thì họ có kiểu dáng cơ thể nào.
Khi thực hiện các phép đo, có một số điểm chung giữa nam và nữ là tỷ lệ và
kích thước cơ thể không đổi. Tuy nhiên, có những số đo khác hoàn toàn không
được sử dụng cho nam giới vì những lý do rõ ràng, chẳng hạn như vòng ngực,
khung xương sườn, v.v.; những thứ này được sử dụng đặc biệt để phục vụ cho
vóc dáng của phụ nữ. Các phép đo cần thiết tùy thuộc vào trang phục được sản
xuất, bởi vì trang phục càng phức tạp hoặc lớn thì càng cần nhiều mẫu để tạo ra
nó. Tập hợp các mảnh mẫu lại với nhau, được sử dụng để tạo ra một bộ quần áo
được gọi là bộ mẫu.
Khi thực hiện các phép đo .. Bạn nên sử dụng một thứ gì đó như bảng tính để
liệt kê các phép đo theo thứ tự chúng được lấy làm phép đo "cơ sở" và sau đó
lặp lại khi các phép đo bắt đầu được chia thành phần tám hoặc phần tư khi mẫu
được vẽ.
Vẽ hoa văn
Khi các phép đo đã được thực hiện, nền tảng hoặc mẫu cơ bản sẽ được tạo. Điều
này bắt đầu với một khung dây thường phác thảo chiều dài và chiều rộng của
mảnh mẫu, sau đó dần dần được phát triển thành một trong các mảnh của bộ
mẫu. Quá trình này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các công cụ tạo
mẫu thủ công hoặc điện tử. Khi thực hiện theo cách thủ công, mẫu sẽ được sao
chép lên giấy mẫu, sau đó được ghim vào vải cuối cùng. Khi được thực hiện
bằng các phương tiện điện tử, chẳng hạn như Thiết kế thời trang có sự hỗ trợ
của Máy tính (Fashion CAD), bộ mẫu được thiết kế và sau đó in ra giấy, cắt và
ghim lên vải.
Tạo bộ mẫu
Với tạo mẫu thủ công, bộ mẫu thường không được phát triển theo phương pháp
"khối"; từng bộ phận riêng lẻ được vẽ lên giấy hoa văn một, sau đó được lắp ráp
vào vật liệu mà từ đó các hoa văn đang được cắt. Sử dụng phương tiện điện tử
thường bắt đầu từ kích thước của vật liệu đang được cắt như kích thước của tài
liệu CAD đang được phát triển. Trong môi trường phi công nghiệp, mẫu vẫn sẽ
được phát triển trong CAD và in ra giấy, nhưng nó sẽ được đặt thủ công trên vật
liệu, ghim và sau đó cắt. Trong môi trường công nghiệp, các lớp vải riêng lẻ
không được cắt bằng kéo, mà thay vào đó, hàng trăm lớp được đặt chồng lên
nhau và tạo độ cứng, sau đó một máy cắt có sự hỗ trợ của máy tính sẽ làm theo
mẫu đặt trước thông qua CAD và trước khi cắt ra. hình dạng từ vật liệu mà
không yêu cầu các mẫu in.
Kenzon 2016
Jacquemus Spring 2017
4. THÊU REN, THÊU BÔ ĐÊ
Broderie anglaise (tiếng Pháp) là một kỹ thuật may vá bằng vải trắng kết hợp
các tính năng của thêu, cắt và ren kim đã trở nên gắn liền với nước Anh, do sự
phổ biến của nó vào thế kỷ
Lịch sử và kỹ thuật Broderie anglaise được đặc trưng bởi các hoa văn bao gồm
các lỗ hình tròn hoặc hình bầu dục, được gọi là khoen, được cắt ra khỏi vải, sau
đó được kết lại bằng các mũi khâu u ám hoặc lỗ thùa. Các hoa văn, thường mô
tả hoa, lá, dây leo hoặc thân cây, được mô tả thêm bằng các mũi thêu đơn giản
được thực hiện trên chất liệu xung quanh. Anglaise broderie sau này cũng có
các hoa văn nhỏ được làm bằng vải sa tanh. Kỹ thuật này bắt nguồn từ Đông Âu
vào thế kỷ 16 - có thể là ở nơi mà ngày nay là Cộng hòa Séc - nhưng vẫn gắn
liền với Anh vì sự phổ biến của nó ở đó trong thế kỷ 19. Trong thời đại
Victoria, anglaise broderie thường có các khu vực mở với nhiều kích thước.
Chuyển đổi được sử dụng đầu tiên để bố trí thiết kế trên vật liệu. Trong một số
trường hợp, các lỗ được đục ra bằng một mũi thêu trước khi hoàn thiện mép;
trong những trường hợp khác, vải được thêu trước, và sau đó cắt lỗ bằng kéo.
Bắt đầu từ những năm 1870, các thiết kế và kỹ thuật của trang sức có thể được
sao chép bằng máy thêu tay và thêu schiffli của Thụy Sĩ. Ngày nay, hầu hết các
anglaise broderie đều được tạo ra bằng máy
Thời trang và văn hóa đại chúng Broderie anglaise cực kỳ phổ biến ở Anh từ
năm 1840 đến 1880 cho quần áo lót của phụ nữ và quần áo trẻ em. Những năm
1950 chứng kiến sự nổi tiếng trở lại, khi nó thường xuyên được sử dụng để cắt
váy và đồ lót. Năm 1959, Brigitte Bardot mặc một chiếc váy họa tiết gingham
và hoa anh đào cho đám cưới của cô với Jacques Charrier.
5. REN SUỐT, REN CHỈ
Ren suốt là một loại vải dệt ren được làm bằng cách bện và xoắn các chiều dài
của chỉ, được quấn trên suốt để quản lý chúng. Khi công việc tiến triển, việc dệt
được tổ chức tại chỗ bằng các chốt đặt trong gối ren, vị trí của các chốt thường
được xác định bằng một mẫu hoặc đinh ghim được ghim trên gối. Ren suốt còn
được gọi là ren gối, bởi vì nó được làm trên gối, và ren xương, bởi vì suốt thời
kỳ đầu được làm bằng xương hoặc ngà voi. Ren suốt là một trong hai loại ren
chính của thủ công, loại còn lại là ren kim, có nguồn gốc từ phương pháp cắt
may trước đó và reticella.
Kết cấu
Ren suốt có thể được làm bằng sợi thô hoặc sợi mịn. Theo truyền thống, nó
được làm bằng vải lanh, lụa, len, hoặc sau này là sợi bông hoặc bằng kim loại
quý. Ngày nay, nó được làm bằng nhiều loại sợi tự nhiên và tổng hợp, bằng dây
và các loại sợi khác. Các yếu tố của ren suốt có thể bao gồm toile hoặc toilé
(vải), réseau, các phần ren, băng, gimp, picots, tallies, sườn và cuộn. Không
phải tất cả các kiểu ren suốt đều bao gồm tất cả các yếu tố này.
Các công cụ chính để tạo ren suốt là một cái gối, suốt chỉ, ghim và kim châm.
Phần dây buộc cũng yêu cầu móc móc, các loại ren rất tốt yêu cầu móc rất tốt.
Có nhiều loại gối và chỉ khác nhau được liên kết với các khu vực, thời gian và
loại ren.
Bobbins. Theo truyền thống được làm bằng gỗ hoặc xương, được sử dụng để
giữ chỉ. Chúng có nhiều hình dạng khác nhau, thường được kết hợp với một số
loại ren nhất định. Các bộ phận của suốt chỉ là cổ, là nơi quấn chỉ, đầu, nơi chỉ
được kẹp để giữ cho nó không bị đứt và chuôi, được sử dụng như một tay cầm.
Bobbins từ Anh cũng có thể có một hạt cườm ở cuối chuôi, điều này làm cho
suốt chỉ nặng hơn và giúp kéo căng chỉ.
Bobbins thường dài 3 1/2 - 4 inch, mặc dù chúng có thể ngắn hơn hoặc dài hơn.
[23] Bobbins được quấn và sử dụng theo cặp.
Có nhiều loại suốt chỉ, bao gồm:
- Suốt chỉ Bỉ: Chúng có một đầu duy nhất và một củ tròn ở gần phần cuối của
thân để giúp căng các sợi chỉ.
- Suốt chỉ binche: Phần uốn tròn của củ cần phải nhỏ ở phần cuối của chuôi, làm
cho những chiếc suốt chỉ này có thể tạo ra những sợi dây thẳng và mịn.
- Suốt chỉ ở East Midlands: Linh miêu hai đầu mảnh mai và có răng cưa. Chúng
còn được gọi là linh miêu Bucks hoặc Midlands.
- Suốt chỉ honiton: suốt chỉ honiton nằm thẳng dưới đầu duy nhất và phần cuối
của chuôi có một điểm cùn, giúp cho việc may. Chúng có thể được gọi là thanh
ren.
- Suốt chỉ vuông: Linh miêu vuông có một chuôi với hai bên dẹt, giúp dễ dàng
giữ cho chúng không lăn trên gối.
6. CHẦN BÔNG
Quilting là thuật ngữ chỉ quy trình ghép tối thiểu ba lớp vải lại với nhau thông
qua khâu thủ công bằng tay sử dụng kim và chỉ, hoặc bằng máy bằng máy may
hoặc hệ thống chần vải dài chuyên dụng. Một loạt các mũi khâu được xuyên qua
tất cả các lớp của vải để tạo ra một bề mặt đệm ba chiều. Ba lớp thường được
gọi là vải trên cùng hoặc chăn bông, vật liệu đánh bóng hoặc cách nhiệt và lớp
nền. Quilting thay đổi từ một kỹ thuật ghép vải hoàn toàn có chức năng đến các
phương pháp xử lý bề mặt trang trí ba chiều rất phức tạp. Nhiều loại sản phẩm
dệt có truyền thống gắn liền với chần bông bao gồm khăn trải giường, đồ nội
thất mềm trong nhà, hàng may mặc và trang phục, đồ treo tường, đồ vật nghệ
thuật và đồ tạo tác văn hóa. Mền có thể sử dụng một loạt các hiệu ứng góp phần
vào chất lượng bề mặt cuối cùng và tiện ích của vật liệu chần. Mền kiểm soát
các hiệu ứng này thông qua thao tác với các yếu tố như loại và độ dày vật liệu,
chiều dài và kiểu đường may, thiết kế mẫu, nối và cắt. Hiệu ứng hai chiều như
ảo ảnh quang học có thể đạt được thông qua các lựa chọn thẩm mỹ về màu sắc,
kết cấu và hình in. Các thành phần điêu khắc và ba chiều của vật liệu chần bông
có thể được chế tác và nâng cao bằng cách trang trí thêm có thể bao gồm các kỹ
thuật đính kết, thêu như gương shisha và việc bao gồm các đồ vật hoặc yếu tố
khác như ngọc trai, hạt, nút, sequins. Một số chăn bông nhuộm hoặc tạo vải của
riêng họ. Trong nghệ thuật chần bông đương đại, các vật liệu mới và thử
nghiệm như nhựa, giấy, sợi tự nhiên và thực vật trong số một loạt các vật liệu
khác đã được sử dụng. Quilting có thể được coi là một trong những ví dụ đầu
tiên của việc nâng cấp, vì nó đã sử dụng rộng rãi những tàn dư và lối tắt để tạo
ra các sản phẩm mới.

Quilting sớm Nguồn gốc của thuật ngữ 'quilt' được liên kết với từ tiếng Latinh
culcita, có nghĩa là tấm đệm hoặc tấm đệm. Việc sử dụng thuật ngữ này dường
như lần đầu tiên được sử dụng ở Anh vào thế kỷ 13. Tuy nhiên, các kỹ thuật
may chắp, đính và chần bông đã được sử dụng cho quần áo và đồ đạc ở nhiều
nơi trên thế giới trong vài thiên niên kỷ và một loạt các phong cách và kỹ thuật
chần bông đã phát triển độc đáo trên toàn cầu. Bộ quần áo chần bông sớm nhất
được biết đến được mô tả trên ngà voi chạm khắc hình Pharaoh có niên đại từ
Vương triều đầu tiên của Ai Cập cổ đại (khoảng năm 3400 trước Công nguyên).
Vào năm 1924, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một tấm trải sàn chần bông
ở Mông Cổ, ước tính có niên đại từ năm 100 trước Công nguyên đến năm 200
sau Công nguyên. Ở châu Âu, chần bông đã là một phần của truyền thống may
vá từ khoảng thế kỷ thứ năm, với những đồ vật ban đầu có chứa bông Ai Cập,
điều này có thể cho thấy rằng thương mại Ai Cập và Địa Trung Hải đã cung cấp
một ống dẫn cho kỹ thuật này. Tuy nhiên, các đồ vật bằng chăn bông tương đối
hiếm ở châu Âu cho đến khoảng thế kỷ thứ mười hai, khi bộ đồ giường bằng vải
bông và các vật dụng khác xuất hiện sau khi quân Thập tự chinh từ Trung Đông
trở về. Gambeson chần bông thời trung cổ, aketon và áo giáp là những bộ quần
áo được mặc bên dưới hoặc thay cho áo giáp của áo giáp thư hoặc áo giáp tấm.
Những chiếc áo này được phát triển thành áo đôi chần bông sau này được mặc
như một phần của quần áo thời trang nam châu Âu từ thế kỷ XIV đến XVII.
Chăn bông châu Âu còn sót lại sớm nhất được biết đến là từ Sicily vào cuối thế
kỷ XIV: chăn bông Tristan làm bằng vải lanh và đệm bằng len. Các khối ở trung
tâm là cảnh trong truyền thuyết của Tristan. Chăn bông có kích thước 320 × 287
cm (126 × 113 in) và được đặt tại Bảo tàng Victoria và Albert ở London. Từ
quilt bắt nguồn từ tiếng Latin culcita có nghĩa là một cái bao nhồi bông, nhưng
nó đã được chuyển sang tiếng Anh từ từ cuilte trong tiếng Pháp
Công cụ chần bông
Mền đương đại sử dụng nhiều kiểu dáng và phong cách chần bông, từ các mẫu
tương lai cổ đại, dân tộc đến hậu hiện đại. Không có một trường phái hay phong
cách nào thống trị thế giới làm chăn bông.
Máy khâu có thể được sử dụng trong quá trình ghép một đầu chăn bông lại với
nhau. Một số chăn bông cũng sử dụng máy may gia đình để chần các lớp chăn
bông lại với nhau, cũng như kết dính sản phẩm cuối cùng. Mặc dù hầu hết các
máy may gia đình đều có thể được sử dụng để chần các lớp với nhau, nhưng
việc có một họng rộng (khoảng trống ở bên phải của cơ cấu kim) rất hữu ích để
thao tác với một chiếc chăn cồng kềnh qua máy khi họng vừa cao vừa dài.
Bút đánh dấu vải có thể được sử dụng để đánh dấu vị trí cần thực hiện các vết
cắt trên vải. Các vết từ máy đánh dấu vải chuyên dụng sẽ trôi ra khỏi vải.
Máy chần bông Thước cuộn thường là dụng cụ đo hình vuông hoặc hình chữ
nhật có đo độ dài và vạch góc độ dọc theo nhiều cạnh. Máy chần bông dài có
thể được sử dụng để làm mền lớn hơn. Các máy lớn hơn có thể được tận dụng
để chăn không phải giữ vải. Một số cửa hàng chăn bông chuyên nghiệp cung
cấp dịch vụ chăn dài.
Kim chần bằng máy rất sắc bén để có thể dễ dàng xuyên qua các lớp chăn bông
và may đúng cách mặt trên của chăn bông, lớp áo và lớp nền. Kim chần tay theo
truyền thống được gọi là kim đan và thường nhỏ hơn và khỏe hơn kim khâu
bình thường. Chúng có một mắt rất nhỏ giúp ngăn chặn bất kỳ vết sưng nào ở
đầu kim khi bạn kéo qua sợi chỉ. Ghim có thể được sử dụng trong nhiều cách
kết hợp khác nhau để đạt được kết quả tương tự. Thimbles bảo vệ đầu ngón tay.
Chỉ chần chuyên dụng có nhiều loại, bao gồm các trọng lượng chỉ khác nhau và
các chất liệu khác nhau.
Sợi cotton, polyester và nylon được sử dụng trong các dạng chần bông khác
nhau. Máy cắt quay đã cách mạng hóa việc làm chăn bông khi chúng xuất hiện
vào cuối những năm 1970. Máy cắt quay đơn giản hóa quá trình cắt các lát vải
đều. [41] Các mẫu / mẫu chăn bông có nhiều loại và thường được coi là nền
tảng của cấu trúc chăn bông, giống như bản thiết kế cho một ngôi nhà.
Kỹ thuật chần bông
Nhiều loại chần tồn tại ngày nay. Hai loại được sử dụng rộng rãi nhất là chần
tay và chần máy.
Quilting tay là quá trình sử dụng kim và chỉ để may một đường khâu chạy bằng
tay trên toàn bộ khu vực được chần bông. Điều này liên kết các lớp với nhau.
Khung hoặc vòng chần bông thường được sử dụng để hỗ trợ giữ mảnh vải được
chần ra khỏi lòng của mền. Một người thợ may có thể thực hiện từng mũi một
bằng cách luồn kim qua vải từ mặt phải trước tiên, sau đó đẩy ngược kim lên
trên vật liệu từ mặt trái để hoàn thành đường may; đây được gọi là một mũi
khâu đâm. Một lựa chọn khác được gọi là khâu lắc, trong đó người đắp chăn
bông có một tay, thường với một ngón tay đeo ống tiêm, ở trên chăn bông, trong
khi tay kia nằm bên dưới miếng vải để đẩy kim lên trở lại. Tùy chọn thứ ba
được gọi là "nạp kim" và liên quan đến việc thực hiện bốn mũi hoặc nhiều hơn
trước khi kéo kim qua vải. Quilting tay vẫn được thực hiện bởi Amish và
Mennonites ở Hoa Kỳ và Canada, và đang có sự hồi sinh trên toàn thế giới.
7. XI MỐC (smocking)
Smocking là một kỹ thuật thêu được sử dụng để tập hợp vải để nó có thể kéo
dài. Trước khi co giãn, áo khoác thường được sử dụng trong cổ tay áo, vạt áo và
đường viền cổ áo trong những sản phẩm may mặc có nút không được mong
muốn. Phun khói đã phát triển ở Anh và đã được thực hiện từ thời Trung cổ và
khác thường trong số các phương pháp thêu ở chỗ nó thường được mặc bởi
những người lao động. Các phong cách thêu chính khác hoàn toàn là trang trí và
biểu tượng trạng thái. Smocking là thực tế để hàng may mặc vừa vặn và linh
hoạt, do đó tên của nó bắt nguồn từ áo khoác - áo sơ mi lao động của nông dân.
Smocking được sử dụng rộng rãi nhất trong thế kỷ mười tám và mười chín.
Vật liệu Smocking yêu cầu loại vải nhẹ với kiểu dệt ổn định và kết dính tốt.
Bông và lụa là những lựa chọn sợi điển hình, thường được dùng ở bãi cỏ hoặc
vải sợi. Smocking được gia công trên kim thêu bằng kim loại bằng sợi bông
hoặc tơ tằm và thường yêu cầu chiều rộng của vật liệu ban đầu gấp ba lần so với
thành phẩm. Vải có thể được tập hợp thành các nếp gấp theo nhiều cách khác
nhau. Việc đánh dấu, hoặc đo lường ban đầu, được thực hiện bằng tay. Một số
thợ thêu cũng tự làm các hướng dẫn bằng bìa cứng và bút chì đánh dấu thêu.
Đến năm 1880, các dấu chấm chuyển bằng sắt đã có sẵn và được quảng cáo trên
các tạp chí như Weldon's. Bàn là khi chuyển sẽ đặt các chấm cách đều nhau lên
mặt trái của vải, sau đó được xếp nếp bằng đường khâu chạy đều. Kể từ đầu
những năm 1950, máy xếp nếp đã có sẵn cho các nhà may áo khoác. Sử dụng
bánh răng và kim xếp nếp đặc biệt, vải được buộc qua các bánh răng và lên các
kim luồn. Máy xếp nếp thường được cung cấp với chiều rộng 16 hàng, 24 hàng
và 32 hàng.
Smocking là một trong những nghệ thuật thiết kế chất liệu được ứng dụng rất
nhiều trong cuộc sống. Smocking rất đa dạng và có nhiều tạo hình độc đáo trên
bề mặt vải.
Sau đó, nó trở nên phổ biến, được ứng dụng đa dạng hơn trong phần cổ áo, tay
áo, ngực áo, đặc biệt là trang phục dành cho trẻ em ở các nước Châu Âu. Chiếc
máy Smocking đầu tiên được ra đời vào khoảng đầu những năm 1950, nó giúp
tăng nâng xuất và tiết kiệm thời gian, công sức nhưng lại hạn chế về kiểu dáng.

Hiện nay, loại máy tạo Smocking đã phổ biến ở khắp nơi trên thế giới
Smocking – ban đầu chỉ góp phần là một chi tiết trang trí nhỏ trên trang phục,
nhưng bây giờ đã trở thành cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thiết kế trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, từ thời trang, phụ kiện cho tới trang trí nội thất.
Để tạo được các loại Smocking, các loại vải sử dụng phải khá nhẹ và có kết cấu
bền, không co dãn 4 chiều. Những loại vải thường được sử dụng gồm có: Vải
lanh, cotton, lụa, ren, nhung, len, dạ... Trong đó vải cotton và lụa được ứng
dụng nhiều nhất vì 2 loại vải này cho hiệu ứng đẹp khi tạo khối.
Smocking là một phương pháp thêu thùa mang tính nghệ thuật với khả năng
biến hóa đa dạng. Những kiểu smocking truyền thống từ Anh như: Cable Stitch,
Outline Stitch, Stem Stitch, Wave Stitch; sau đó người Mỹ phát triển thêm các
kiểu smocking mới phổ biến hiện nay như: Bows, Lattice và Four-point
ISSEY MIYAKE
8. THÊU ĐẮP VẢI
Appliqué là nghề may trang trí trong đó các mảnh hoặc các mảng vải với các
hình dạng và hoa văn khác nhau được khâu hoặc dán vào một mảnh lớn hơn để
tạo thành một bức tranh hoặc hoa văn. Nó thường được sử dụng làm đồ trang
trí, đặc biệt là trên hàng may mặc. Kỹ thuật này được thực hiện bằng cách khâu
tay hoặc bằng máy. Appliqué thường được thực hành với hàng dệt may, nhưng
thuật ngữ này có thể được áp dụng cho các kỹ thuật tương tự được sử dụng trên
các vật liệu khác nhau. Ví dụ, trong ngữ cảnh của đồ gốm, đồ gia dụng là một
mảnh đất sét riêng biệt được thêm vào tác phẩm chính, nói chung là nhằm mục
đích trang trí.
Lịch sử
Đính chữ thập. Các cạnh được bao phủ và các đường may được giấu đi. Nó
được phủ bằng chỉ vàng trang trí. Thuật ngữ appqué có nguồn gốc từ các động
từ tiếng Pháp và tiếng Latinh là appquer và applyare, tương ứng, cả hai đều có
nghĩa là nối hoặc đính kèm. Giống như tranh thêu, nó có một khởi đầu khiêm
tốn. Kỹ thuật này được sử dụng như một cách để tăng cường các khu vực bị
mòn của các mặt hàng hoặc để vá các lỗ đã hình thành. Các thiết bị ban đầu
được sử dụng để kéo dài tuổi thọ của quần áo và chuyển sang các kỹ thuật nghệ
thuật có thể được nhìn thấy trong chăn và mền từ nhiều nền văn hóa từ khắp nơi
trên thế giới. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những ví dụ cổ đại về da thuộc ở
Ai Cập (980 trước Công nguyên), và những vật dụng bằng da và nỉ đã được tìm
thấy trên thảm, giá treo tường và vỏ bọc yên ngựa trong các ngôi mộ vào thế kỷ
thứ 4 trước Công nguyên ở Siberia và Mông Cổ. Vải đính kết là một loại hình
nghệ thuật quan trọng ở Benin, Tây Phi, đặc biệt là ở khu vực xung quanh
Abomey, nơi đã có truyền thống từ thế kỷ 18 và vương quốc Danhomè. Có
truyền thống dân gian để trang trí hàng may mặc bằng da ở Scandinavia, Nga và
Đông Âu, và đồ da cũng được tìm thấy ở Pakistan và Ma-rốc, nơi quần áo nam
và dép da được trang trí bằng thêu và đính da. Nỉ được sử dụng để tô điểm thêm
cho tạp dề của phụ nữ ở Đông Âu và ứng dụng trang trí của vải nỉ cũng được sử
dụng trong các bộ lạc du mục ở Trung Á để trang trí cho yurts, trải sàn và túi
xách.
Các loại
Khối chăn trong ứng dụng đảo ngược Trong ngữ cảnh may, đồ đính kết đề cập
đến kỹ thuật may vá trong đó các mẫu hoặc cảnh tượng trưng được tạo ra bằng
cách gắn các mảnh vải nhỏ hơn vào một mảnh lớn hơn có màu sắc hoặc họa tiết
tương phản. Các loại vải tốt để làm đồ đính đá có độ bền cao và không dễ bị
sờn, như nỉ và da. Các miếng được áp dụng thường có các cạnh của chúng được
gấp lại, và sau đó được gắn bằng bất kỳ thứ nào sau đây: Đường khâu thẳng,
thường cách mép từ 20–30mm. Khâu satin, xung quanh, chồng mép. Trước tiên,
miếng dán có thể được dán hoặc khâu thẳng để đảm bảo vị trí ổn định và cạnh
gọn gàng. Đính ngược: các vật liệu đính kèm được may lại với nhau, sau đó cắt
đi nơi vật liệu khác phủ lên trên, trước khi được may xuống các mép của vật
liệu ban đầu.

VIVETTA
9. TẾT DÂY
Macrame là nghệ thuật thắt dây cotton sử dụng các nút thắt đơn giản để tạo
thành họa tiết trang trí cho các sản phẩm macrame như mành, rèm, xích đu
macrame, dây treo cây macrame,… để phục vụ nhu cầu trang trí hoặc công năng
hữu ích cho ngôi nhà của bạn theo xu hướng thân thiện với môi trường và tạo
điểm nhấn khác biệt cho không gian.
Macrame là kỹ thuật thắt nút của người Arab để tạo ra các họa tiết trang trí độc
đáo. Macrame xuất hiện vào thế kỉ XIII, các nghệ nhân thợ dệt sử dụng những
sợi dây len kết hợp với kỹ thuật THẮT NÚT tạo thành hoa văn và hình dáng các
sản phẩm Macrame thời bấy giờ như: khăn tắm, khăn choàng, khăn che mặt…

Đặc tính của sản phẩm là rất bền, êm ái, linh động tạo ra nhiều loại sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu trang trí, trang sức,… nên được ưa chuộng mạnh mẽ ở các
nước thuộc Châu Âu. Toàn bộ sản phẩm về Macrame đều làm 100% bằng tay,
hiện tại chưa có loại máy móc nào được phát minh để công nghiệp hóa loại sản
phẩm này. Đây cũng chính là điểm đặc biệt trong mỗi sản phẩm Macrame mà
bạn sở hữu, luôn chứa đựng công sức, tâm trí và sự độc nhất mà không có bất
kỳ sản phẩm nào giống 100% với nhau vì đặc tính làm hoàn toàn bằng tay
( handmade ) của Macrame.

Các nguyên vật liệu phổ biến thường dùng để sản xuất sản phẩm Macrame là
dây cotton, thanh gỗ, hạt gỗ và các phụ kiện khác. Nguyên liệu làm macrame
không cầu kì, khó tìm, bạn chỉ cần có dây cotton và một thanh gỗ là đã có tạo ra
các sản phẩm Macrame trang trí như mành hoặc rèm macrame rồi đấy!

Lưu ý: nguyên liệu dây Macrame chia làm nhiều loại kích thước dây như 1mm,
2mm, 3mm, 4mm, 5mm và chất lượng dây loại dây cũng được phân ra thành
loại 1 – 2 – 3 với chất lượng loại 1 là tốt nhất sẽ tạo thành sản phẩm đẹp, chạm
vào sản phẩm cảm giác êm ái, màu sắc tươi sáng và sử dụng trong thời gian lâu
dài mà không bị giảm chất lượng.

Các nguyên liệu chính làm macrame


Cách làm sản phẩm Macrame
Sản phẩm Macrame là tập hợp các NÚT THẮT nghệ thuật được tạo ra từ chính
đôi bàn tay của người nghệ nhân, người càng có nhiều kinh nghiệm thì sản
phẩm càng thanh mãnh, hoa văn uyển chuyển kết hợp với nhau một cách tài
tình, hài hòa.

Các nút thắt hay sử dụng khi làm Macrame


Có 12 nút thắt thường được các nghệ nhân sử dụng để tạo hình sản phẩm
Macrame đó là:

1. Squere Knot
2. Lark’s Head
3. Square Knot Button
4. Gathering Knot
5. Overhand Knot
6. Single Half Hitch
7. Double Half Hitch
8. Half Knot
9. Part Braid
10. Alternating Square Knot
11. Berry Knot
12. Chinese Crown Knot
10.DỆT
Dệt là một phương pháp sản xuất hàng dệt trong đó hai tập hợp sợi hoặc chỉ
riêng biệt được đan xen nhau theo các góc vuông để tạo thành một tấm vải hoặc
một tấm vải. Các phương pháp khác là đan, móc, bọc nỉ, và bện hoặc tết. Các
sợi dọc được gọi là sợi dọc và các sợi bên là sợi ngang, sợi gâu hoặc quả trám.
Sợi ngang là một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là "được dệt"; so sánh giữa rời và
trái. Phương pháp mà các sợi này được đan vào nhau ảnh hưởng đến các đặc
tính của vải. Vải thường được dệt trên khung dệt, một thiết bị giữ các sợi dọc tại
chỗ trong khi điền các sợi được dệt qua chúng. Một dải vải đáp ứng định nghĩa
này về vải (sợi dọc với sợi ngang cuộn ở giữa) cũng có thể được tạo ra bằng
cách sử dụng các phương pháp khác, bao gồm dệt máy tính bảng, máy dệt dây
đeo lưng hoặc các kỹ thuật khác có thể thực hiện mà không cần máy dệt. Cách
sợi dọc và sợi lấp đầy xen kẽ với nhau được gọi là kiểu dệt. Phần lớn các sản
phẩm dệt được tạo ra bằng một trong ba kiểu dệt cơ bản: dệt trơn, dệt sa tanh
hoặc dệt chéo. Vải dệt thoi có thể là vải trơn hoặc kiểu cổ điển (một màu hoặc
hoa văn đơn giản), hoặc có thể được dệt theo kiểu trang trí hoặc thiết kế nghệ
thuật.
Lịch sử
Nghề dệt đã được biết đến ở tất cả các nền văn minh lớn, nhưng không có quan
hệ nhân quả rõ ràng nào được thiết lập. Những khung dệt ban đầu cần có hai
người để tạo ra nhà kho và một người đi qua việc lấp đầy. Những chiếc khung
dệt ban đầu đan một đoạn vải có chiều dài cố định, nhưng những chiếc máy dệt
sau này cho phép sợi dọc bị cuốn ra khi quá trình rơi xảy ra. Việc dệt trở nên
đơn giản hơn khi sợi dọc có kích thước. Vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước Công
nguyên, việc trồng bông và kiến thức về kéo sợi và dệt vải ở Meroë đã đạt đến
trình độ cao. Xuất khẩu hàng dệt may là một trong những nguồn giàu có chính
của Kush. Vua Aksumite Ezana khoe khoang trong bia ký rằng ông đã phá hủy
các đồn điền trồng bông lớn ở Meroë trong cuộc chinh phục vùng này.
Các loại
Thợ dệt khung cửi tay Dệt thủ công được thực hiện bởi cả hai giới nhưng nam
giới nhiều hơn nữ một phần do sức mạnh cần thiết để chiến đấu. Đôi khi họ làm
việc tại nhà trong một căn phòng áp mái đầy đủ ánh sáng. Những người phụ nữ
trong nhà sẽ quay sợi mà họ cần và tham gia vào việc hoàn thiện. Sau đó, phụ
nữ bắt đầu dệt vải, họ lấy chỉ từ xưởng kéo sợi, và làm công việc gia công theo
hợp đồng gia công. Theo thời gian, sự cạnh tranh từ các khung dệt điện đã làm
giảm tỷ lệ mảnh và chúng tồn tại trong tình trạng đói nghèo ngày càng gia tăng.
Thợ dệt khung dệt điện. Công nhân khung dệt điện thường là các cô gái và phụ
nữ trẻ. Họ có sự đảm bảo về giờ giấc cố định, và ngoại trừ những lúc khó khăn,
chẳng hạn như nạn đói bông, thu nhập đều đặn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://facefashiondesignacademy.com/marble-dyeing-ky-thuat-nhuom-vai-
loang-mau-tren-mat-nuoc/
https://en.wikipedia.org/wiki/Tie-dye
https://tuoitre.vn/tie-dye-phut-hoai-co-cua-thoi-trang-351521.htm
https://vi.wikipedia.org/wiki/Batik
https://nhandan.vn/hanh-trinh-kham-pha/tham-lang-nghe-nhuom-vai-batik-o-
bali-354861/
https://www.needlenthread.com/types-of-hand-embroidery/goldwork
https://en.wikipedia.org/wiki/Goldwork_(embroidery)
https://tranhvietcaocap.com/hoat-dong/ky-thuat-theu.html
https://kent.vn/fashion-draping-la-gi/
https://tailor.fandom.com/wiki/Drafting
https://en.wikipedia.org/wiki/Broderie_anglaise
https://en.wikipedia.org/wiki/Bobbin_lace
https://en.wikipedia.org/wiki/Quilting
https://en.wikipedia.org/wiki/Smocking
http://www.designstudies.vn/en/vn-blog/2016/11/22/nghe-thuat-smocking-
trong-sang-tao-chat-lieu/
https://en.wikipedia.org/wiki/Appliqu%C3%A9
https://macramela.com/macrame-la-gi/
https://en.wikipedia.org/wiki/Weaving

You might also like