You are on page 1of 72

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


KHOA HÓA HỌC

NĂM 2021

Tên công trình: NGHIÊN CỨU NHUỘM VẢI TƠ TẰM QUẢNG NAM
BẰNG CHẤT MÀU CHIẾT TÁCH TỪ HOA ĐẬU BIẾC

Sinh viên thực hiện: MAI PHAN LÂM PHƯƠNG

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS.LÊ TỰ HẢI


Hóa Lý, Khoa Hóa học,
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng

Đà Nẵng - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nghiên
cứu nêu trong luận văn này là trung thực và nội dung này chưa từng được tác giả khác
công bố.

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2021


Giáo viên hướng dẫn Sinh viên

PGS.TS Lê Tự Hải Mai Phan Lâm Phương


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu chiết tách
chất màu từ hoa đậu biếc và ứng dụng nhuộm vải tơ tằm ở Quảng Nam” tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều quý thầy, cô. Tôi đặc biệt cảm ơn PGS.TS Lê Tự Hải đang
công tác tại Trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng là giáo viên trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ
tôi với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và
hoàn thành đề tài. Đồng thời, tôi trân trọng cảm ơn quý thầy, cô giảng dạy ở khoa Hóa,
trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng đã truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô công tác tại phòng thí nghiệm khoa Hóa -
Đại Học Sư Phạm đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đà Nẵng, ngày 6 tháng 5 năm 2021.


Học viên

Mai Phan Lâm Phương


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
- Abs : Độ hấp thụ quang (Absorbance)
- CN : Công nguyên
- CTCT : Công thức cấu tạo
- TCN : Trước công nguyên
- UV-Vis : Phổ tử ngoại khả kiến
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, trong đó có sự đóng góp
to lớn của ngành công nghiệp. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường đang mở cửa, dệt
nhuộm trở thành ngành công nghiệp chiếm được vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, được đầu tư kỹ lưỡng về máy móc thiết bị, công nghệ trong sản xuất, ứng dụng công
nghệ xử lý nước thải tiên tiến kết hợp vi sinh xử lý nước thải dệt nhuộm,... Tuy nhiên về
cơ bản vẫn chưa giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường khi số lượng các xí nghiệp
dệt nhuộm đang ngày càng gia tăng như hiện nay. Dòng thải của quá trình chế biến dệt
này thải ra môi trường, làm hỏng điều kiện sống của con người, động vật khác và đời
sống thực vật. Các vấn đề môi trường nghiêm trọng liên quan đến sức khỏe cộng đồng
nước thải có màu có chứa thuốc nhuộm tổng hợp đã khiến các nhà nghiên cứu chuyển
hướng ngay lập tức để tìm kiếm thân thiện với môi trường sản phẩm [15].
Một trong những con đường hữu hiệu nhất mà các nhà khoa học nước ta đang hướng
tới là công nghiệp hóa các chất màu có nguồn gốc thiên nhiên là lá cây, vỏ cây, hoa,
quả… để hạn chế những tác hại của chất nhuộm màu tổng hợp và chủ động được chất
màu trong nước. Vải, sợi nhuộm bằng chất màu thiên nhiên có mùi thơm dễ chịu, đảm
bảo các chỉ tiêu sinh thái như không azo, không formaldehyt, thân thiện với môi trường,
bền màu với mồ hôi... Sử dụng chất nhuộm màu thiên nhiên giúp người dân tận dụng các
nguồn chất thải từ sản xuất nông nghiệp như lá chè, lá tre... và những cây dễ trồng để
cung cấp nguyên liệu cho việc chiết xuất màu. Điều này đáp ứng được chiến lược quan
trọng của ngành công nghiệp hiện đại là “sản xuất sạch hơn” đảm bảo phát triển bền vững
trong tương lai.
Ngày nay với sự phát triển của vải sợi tổng hợp và chất màu hóa học cũng như giá
thành của các sản phẩm thủ công khá đắt, các sản phẩm truyền thống ngày càng mai một.
Thực tế rất ít chất nhuộm thiên nhiên được sử dụng để nhuộm các loại vải, kể cả tơ tằm.
Tuy nhiên nhu cầu sử dụng vải thiên nhiên và thời trang sinh thái đang tăng cao trên toàn
thế giới, nếu như sản xuất được vải hoàn toàn từ thiên nhiên (cả chất vải và thuốc nhuộm)
và xây dựng được thương hiệu cho vải sinh thái sẽ giúp khôi phục những làng nghề dệt
vải truyền thống và thúc đẩy sự phát triển của vải lụa nhằm đáp ứng nhu cầu đầu vào khi
nhuộm thiên nhiên với quy mô lớn, hơn nữa sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu.
Chính vì những lí do trên tôi quyết định thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chiết tách
chất màu từ hoa đậu biếc và ứng dụng nhuộm vải tơ tằm ở Quảng Nam”. Đề tài
hướng đến sử dụng thuốc nhuộm màu xanh của chât màu anthocyanin nói chung và từ cây
hoa đậu biếc đối với sức khỏe con người [11], từ nguyên liệu thiên nhiên là hoa đậu biếc,
một loại cây được trồng rất phổ biến ở các vùng của nước ta, có khả năng phân hủy sinh
học cũng như không độc hại và không gây dị ứng cho cơ thể con người và các ứng dụng
của chúng như sự lựa chọn tiềm năng để thay thế chất nhuộm màu tổng hợp. Quá trình
nhuộm được thực hiện trên vải sản xuất tại tỉnh Quảng Nam, địa phương được nhiều
người biết đến với nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Đề tài sẽ góp phần
tiếp sức, khôi phục nghề truyền thống dâu tằm xứ Quảng.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

1.1. TỔNG QUAN VỀ NGHỀ SẢN XUẤT LỤA TƠ TẰM


1.1.1. Lịch sử hình hình nghề sản xuất lụa tơ tằm [47]
Lụa là một loại vải mịn, mỏng được dệt bằng tơ. Loại lụa tốt nhất được dệt từ tơ
tằm. Người ta nuôi tằm (Bombyx mori), lấy tơ xe sợi dệt thành lụa. Đây là một nghề có từ
rất lâu đời và có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Nghề dệt lụa xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc, có thể từ rất sớm
khoảng năm 6000 TCN nhưng chắc chắn là khoảng năm 3000 TCN là đã có. Ban đầu, chỉ
có vua mới được dùng hoặc ban tặng cho người khác tuy nhiên sau đó thì lụa dần dần
được các tầng lớp xã hội ở Trung Quốc dùng, ở nhiều nơi rồi lan ra đến các vùng khác
của châu Á. Lụa nhanh chóng trở thành một thứ hàng cao cấp ở những nơi mà thương
nhân người Hoa đặt chân tới, bởi nó bền và có vẻ đẹp óng ánh. Nhu cầu về lụa thì nhiều
và nó trở thành một ngành thương nghiệp xuyên quốc gia. Tháng 7 năm 2007, các nhà
khảo cổ đã phát hiện ra những mẫu vải lụa được dệt và nhuộm một cách tinh xảo trong
một ngôi mộ ở tỉnh Giang Tây có từ đời nhà Đông Chu, cách đây khoảng 2500 năm.
Bằng chứng đầu tiên về việc mua bán tơ lụa là việc phát hiện sợi tơ trong tóc của
một xác ướp Ai Cập. Lụa đã được đưa tới tiểu lục địa Ấn Độ, Trung Đông, châu Âu và
Bắc Phi thông qua con đường tơ lụa nổi tiếng.
Các vị vua Trung Hoa đã cố gắng giữ bí mật nghề nuôi tằm nhằm giữ thế độc quyền
của người Trung Hoa. Tuy nhiên người Triều Tiên đã học được nghề này vào khoảng năm
200 TCN, sau đó là người Khotan cổ vào khoảng nửa đầu thế kỷ I CN và người Ấn
Độ khoảng năm 300 CN.
Tại Việt Nam, theo thần tích làng Cổ Đô, huyện Ba Vì thì nghề chăn tằm, ươm tơ đã
có từ thời vua Hùng Vương thứ 6 do công chúa Thiều Hoa khởi nghiệp. Nêu theo đó dân
làng vốn giỏi nghề dệt lụa thờ Thiều Hoa làm thành hoàng. Trong thư tịch thì sách Hán
Thư cũng ghi là người Lạc Việt biết trồng dâu nuôi tằm và lại ghi rõ là "một năm có hai
vụ lúa, tám lứa tằm”.
1.1.2. Các làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng ở Việt Nam [45]
1.1.2.1. Làng nghề Vạn Phúc – Hà Đông (Hà Nội)
Làng lụa Vạn Phúc là cơ sở sản xuất tơ lụa nổi tiếng nhất ở Việt Nam, xuất hiện
cách đây hơn 1000 năm, tầm thế kỉ thứ XIII. Ngày xưa, sản phẩm của làng tơ lụa này
thường được chọn để may trang phục cho vua chúa, quan lại. Sản lượng đạt trên 2 triệu
m/năm, có trên 150 cửa hàng trong thôn, còn được bán ở nhiều nơi khác. Năm 1931 –
1932 sản phẩm lụa của làng nghề được quảng bá ra các nước châu Âu, được người Pháp
đánh giá là sản phẩm cao quý nhất, tinh xảo nhất của vùng đất Đông Dương lúc bấy giờ.
Nhưng hiện nay, làng nghề ngày càng bị mai một bởi thị hiếu trị trường, ngày càng ít
người sử dụng hàng lụa thật, lụa nguyên chất, vì thế đầu ra cho sản phẩm lụa ngày càng bị
khó khăn, đồng thời, tính chất đa dạng của sản phẩm lụa không cao, dẫn đến không đáp
ứng được xu thế của thị trường.

Hình 1.1. Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc

1.1.2.2. Làng lụa Duy Xuyên


Làng lụa Duy Xuyên tại thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam Việt Nam có lịch sử trên
300 năm, từ khâu trồng dâu nuôi tằm đến ươm tơ, dệt lụa đều được hoàn thành qua bàn
tay khéo léo của những người thợ Chăm Pa tại địa phương. Tại làng lụa Duy Xuyên, lá
dâu dùng cho nuôi tằm được hái từ những cây dâu đặc thù chỉ có trong rừng sâu thuộc
tỉnh Quảng Nam, vì vậy là chất liệu tơ tằm ở đây cũng hết sức mềm mại khác với những
nơi khác.
Hình 1.2. Làng nghề dệt lụa Duy Xuyên
1.1.2.3. Làng nghề lụa Tân Châu (An Giang)
Lụa Tân Châu được biết đến với cái tên thương hiệu là Lãnh Mỹ A và là một trong
những trung tâm tơ lụa lớn nhất ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực phía Nam. Nét đặc trưng
của sản phẩm lụa làng nghề là kĩ thuật in ấn, nhuộm màu cho lụa, phải trải qua nhiều công
đoạn khác nhau, cũng như những thủ thuật, kinh nghiệm của người làm nghề, tạo ra
những sản phẩm lụa có màu sắc tự nhiên và không bị phai màu trong quá trình sử dụng.
Lụa Tân Châu cũng được xuất sang khá nhiều các quốc gia trên thế giới và hiện nay vẫn
đang được các nghệ nhân giữ gìn và phát triển.

Hình 1.3. Làng nghề dệt lụa Tân Châu


1.1.2.4. Làng lụa Nha Xá (Hà Nam)
Làng lụa Nha Xá nằm trong địa bàn xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam bên
tả ngạn sông Hồng nơi giáp ranh với tỉnh Hưng Yên. Lụa Nha Xá mềm, mịn, đẹp và bền
được xếp thứ hai sau lụa Vạn Phúc. Từ đầu thế kỷ XVIII, các lái buôn ở Sài Gòn – Chợ
Lớn đã đến làng Nha Xá để đặt hàng bởi chất lụa non tơ, óng mượt. Những năm 1920 là
thời thịnh vượng nhất của làng dệt Nha Xá, lụa dệt ra bao nhiêu đều được đưa đi nước
ngoài. Trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, làng lụa Nha Xá vẫn giữ gìn và phát triển vốn
truyền thống quý báu của cha ông để lại.

Hình 1.4. Làng nghề dệt lụa Nha Xá


1.2. NGHỀ DỆT LỤA TƠ TẰM Ở QUẢNG NAM [44], [46]
Quảng Nam được xem là cái nôi của nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Theo
Lê Quý Đôn “... xứ Quảng Nam là đất phì nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện
Bàn biết dệt vải lụa, vóc, đoạn, lĩnh, là, hoa màu khéo đẹp chẳng kém Quảng Đông...”.
Giáo sĩ Alexandre de Rhode trong cuốn Hành trình và truyền giáo viết rằng: “Xứ này
nhiều lơ lụa đến nỗi còn dùng để đan lưới và bện dây thuyền”. Còn nhà truyền giáo
Christophoro Borri trong cuốn “Xứ Đàng Trong năm 1621” ghi nhận, lụa dư thừa đến nỗi
người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình và còn bán cho Nhật Bản và gửi sang Lào để
rồi đưa sang Tây Tạng. Thứ lụa này tuy không thanh và mịn nhưng bền và chắc hơn lụa
Tàu…
Cách đây khoảng 300 năm, tại huyện Đại Lộc, một số làng nằm ở ven sông Vu Gia
như Giao Thủy, Quảng Huế, Phước Bình, Hà Nha...,nhờ các bãi bồi ven sông đầy ắp phù
sa, bên cạnh nghề trồng rau, đậu, lúa, bắp, thuốc lá, người dân nơi đây đã chú trọng đến
nghề trồng dâu nuôi tằm: Làng dâu tằm Đại Bình (xã Quế Trung huyện Nông Sơn) có từ
lâu đời, ra đời cách đây khoảng 300-400 năm. Vùng đất này mặc dù thường xuyên bị lụt
lội, nhưng lại được phù sa bồi đắp hàng năm rất thích hợp với việc trồng cây dâu, cư dân
vùng đất này đã nuôi tằm ươm tơ để bán cho các làng dệt ở đồng bằng, trong đó chủ yếu
là ở Duy Xuyên.
Nghề ươm tơ dệt lụa ở các làng Đông Yên, Thi Lai (Duy Trinh, Duy Xuyên) ra đời
từ thế kỷ XVI, gắn liền với sự tích Bà chúa Tàm tang Đoàn Quý Phi và thế tử Nguyễn
Phúc Loan. Làng dệt lụa Mã Châu hình thành từ thế kỷ XV, bên cạnh kinh đô Trà Kiệu,
sản phẩm lụa Mã Châu đã nổi tiếng từ bao đời nay. Làng tơ lụa Mã Châu từng được xem
như “thủ phủ dâu tằm” xứ Quảng, chuyên cung cấp lụa cho vua chúa, giới quý tộc. Thời
hưng thịnh, Mã Châu có đến 2.000 ha đất trồng dâu nuôi tằm lụa và với hơn 4.000 khung
cửi đưa thoi đêm ngày. Các công việc trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa đều được thực
hiện trong làng, với sự tham gia của hàng trăm hộ gia đình theo phương thức thủ công.
Khi xứ Đàng Trong – Việt Nam mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài qua cảng thị
Hội An thì tơ lụa Mã Châu là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất. Trải qua bao biến
động, thăng trầm, nghề dệt vẫn được truyền lưu giữ trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác.

Hình 1.5. Công ty lụa Mã Châu, Quảng Nam


Có thời điểm Quảng Nam có đến hơn 2.000 ha trồng dâu trải dài ven sông Thu Bồn,
nhưng hiện nay chỉ còn 11 ha, tập trung tại một số xã của huyện Duy Xuyên như: Duy
Hòa, Duy Châu, thị trấn Nam Phước, Duy Trinh với khoảng 30 hộ trồng.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính khiến nghề trồng dâu, ươm tơ, dệt lụa ở
Quảng Nam mai một là do nghề không mang lại thu nhập tương xứng nên người nông dân
chuyển dần sang nghề khác. Bên cạnh đó, sự xuất hiện tràn lan sản phẩm lụa pha trộn sợi
cotton có giá thành rẻ cũng là tác nhân “giết chết” sản phẩm truyền thống. Vì vậy, tỉnh
Quảng Nam đang tìm giải pháp để hồi sinh, tìm lại vị thế “thủ đô” lụa tơ tằm, đưa những
vườn dâu dọc bãi bồi ven sông Vu Gia - Thu Bồn trở lại màu xanh mướt.

1.3. SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG [43],
[48]
Ngành dệt nhuộm đã phát triển từ rất lâu trên thế giới nhưng nó chỉ mới hình thành
và phát triển hơn 100 năm nay ở nước ta. Trong những năm gần đây, nhờ chính sách đổi
mới mở cửa ở Việt Nam đã có 72 doanh nghiệp nhà nước, 40 doanh nghiệp tư nhân, 40
dự án liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài cùng các tổ hợp đang hoạt động trong
lĩnh vực dệt nhuộm. Với số lượng các xí nghiệp dệt nhuộm đang ngày càng gia tăng như
hiện nay thì ngành công nghiệp dệt nhuộm đang thực sự tiềm ẩn khả năng gây ô nhiễm
môi trường sống rất cao. Theo Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc tại Châu Âu (UNECE),
ngành công nghiệp dệt nhuộm được xem là lĩnh vực gây ô nhiễm thứ hai sau hóa dầu, do
sử dụng rất nhiều loại hoá chất như axit, dung môi hữu cơ kiềm tính, thuốc nhuộm và chất
màu, các hoạt chất bề mặt...Ví dụ, một chiếc áo thun cotton ngắn tay tốn khoảng 2,7 mét
khối nước sạch và 150 gam hóa chất. Một phần đáng kể các hóa chất này xuất hiện trong
dòng thải. Ngân hàng Thế giới ước tính, dệt nhuộm sử dụng 1/4 hóa chất toàn thế giới
mỗi năm và 1/5 lượng nước ô nhiễm toàn cầu do ngành công nghiệp dệt nhuộm thải ra.
Theo nghiên cứu, trong nước thải dệt nhuộm có cả những chất dễ phân giải vi sinh
như bột sắn dùng hồ sợi dọc và những chất khó phân giải vi sinh như: Poli (vinyl axetat),
thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoạt tính và các chất dùng tẩy trắng vải. Với các loại
vải càng sử dụng nhiều xơ sợi tổng hợp như polyester thì càng dùng nhiều thuốc nhộm và
các chất hỗ trợ khó hoặc không phân giải vi sinh, dẫn tới lượng chất gây ô nhiễm môi
trường trong nước thải càng cao.
Hiện mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn chất nhuộm màu chủ yếu là
chất màu hóa học tổng hợp từ Trung Quốc, Hàn Quốc…trong đó, khoảng 50% bằng con
đường không chính thức. Có khoảng 150 loại màu nhuộm vải đang được bán trên thị
trường hiện nay là màu azo, được sản xuất từ các chất có thể gây ung thư như aromatic
amine. Theo PGS-TS Hoàng Thị Lĩnh - giảng viên khoa Dệt May - Thời trang (ĐH Bách
khoa Hà Nội) - sự liên kết giữa màu nhuộm với sợi là sự liên kết không bền chắc, nên vải
có độ bền màu giới hạn. Đặc biệt, khi có lỗi xảy ra trong quy trình nhuộm, như nhuộm
quá màu hoặc sai loại sợi... sẽ dẫn đến tình trạng giải phóng chất màu ra ngoài. Với khả
năng hoà tan trong dầu, các chất dẫn có sẵn màu có thể thẩm thấu qua da người. Khi các
hợp chất này thâm nhập vào cơ thể, chúng bị phân huỷ trong hệ trao đổi chất của cơ thể
và chất aromatic amine nguyên thuỷ sẽ hình thành. Quy trình phân huỷ chất này có thể
xảy ra trong đường ruột, gan hay ngay trên bề mặt da, làm tổn hại đến sức khoẻ, thậm chí
nguy hại đến cả tính mạng người sử dụng.
Bên cạnh đó, công nghiệp dệt, nhuộm của nước ta đang sử dụng một lượng nước rất
lớn phục vụ cho các công đoạn sản xuất, đồng thời xả ra môi trường một lượng nước thải
bình quân từ 12-300m3/tấn vải. Trong đó nguồn ô nhiễm chính là là từ công đoạn dệt,
nhuộm, nấu tẩy. Theo kết quả phân tích nước thải ở làng nghề dệt, nhuộm Vạn Phúc (Hà
Nội) của Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường (Bộ Tư lệnh Hoá học), nhiều chỉ số của
các chất độc hại cao hơn nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.

Hình 1.6. Nước thải ngành dệt nhuộm


Trước tình trạng báo động về nguy cơ ô nhiễm môi trường do ngành công nghiệp
dệt, nhuộm thì việc tìm ra công nghệ dùng lá cây, vỏ cây, các chất liệu thiên nhiên... để
nhuộm vải sợi bông và lụa tơ tằm, thay thế công nghệ nhuộm hiện tại với nhiều hoá chất
độc hại là hướng đi phù hợp với chiến lược sản xuất sạch hơn và cần được đầu tư nghiên
cứu.
1.4. TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT MÀU SẮC VÀ CHẤT MÀU TỰ NHIÊN
1.4.1. Sự hấp thụ ánh sáng và cơ chế xuất hiện màu của các hợp chất hữu cơ
1.4.1.1. Sự hấp thụ ánh sáng
Khi ánh sáng trắng chiếu vào một vật thể tán xạ hoàn toàn thì mắt thấy vật thể ấy
màu trắng. Ngược lại, nếu toàn bộ các tia đập lên vật bị hấp thu hết thì vật ấy có màu đen.
Còn đối với những vật thể hấp thu một số những tia đơn sắc đập vào và tán xạ những tia
còn lại thì mắt thấy có màu. Như vậy, màu sắc là kết quả của sự hấp thu chọn lọc những
miền xác định trong phổ liên tục của ánh sáng trắng đập vào. Ví dụ: nếu một vật thể hấp
thu các tia đỏ thì màu của vật thể này được tạo thành do sự phối hợp các tia còn lại trong
ánh sáng trắng (thiếu màu đỏ) tức là màu lục. Ngược lại, nếu vật thể hấp thu các vật thể
tán xạ tất cả các tia trông thấy nên nó vẫn có màu trắng. Có nhiều trường hợp vật thể
không hấp thu tia nào của phổ trông thấy, nhưng hấp thu các tia hồng ngoại hoặc tử ngoại
của phổ, như vậy vật thể tán xạ tất cả các tia trông thấy nên nó vẫn có màu trắng [9].
Theo thuyết điện tử cổ điển, ánh sáng là sự chuyển động sóng có năng lượng thay
đổi tỷ lệ với cường độ bức xạ và không phụ thuộc vào tần số. Nghiên cứu hiệu ứng
quang điện, A.Einstein cho rằng về một số tính chất thì ánh sáng giống với một dòng hạt
hơn và ông gọi đó là hạt photon. Như thế các lượng tử của Planck cũng là các photon của
Einstein và là phần tử bé nhất của năng lượng bức xạ. Năng lượng này phụ thuộc vào tần
số và được xác định bởi công thức:
c
E = h.ν =h (1.1)
λ
Trong đó: E là năng lượng lượng tử (erg/mol)
v là tần số dao động (cm-1)
λ là bước sóng ánh sáng
h = 6,625.10-27 erg/s – hằng số Planck
c = 3.108 m/s – vận tốc ánh sáng
Ánh sáng lan truyền như một chuyển động sóng nhưng các nguyên tử vật chất lại
hấp thu nó như dạng hạt. Năng lượng được nguyên tử hấp thu nhưng cũng tăng không
phải từ từ mà từng phần, nghĩa là một cách nhảy vọt và trạng thái năng lượng bao gồm
các giá trị gián đoạn, hay nói một cách khác là bị lượng tử hóa. Sự hấp thu một lượng
tử ánh sáng có năng lượng hv bằng hiệu số giữa Es 1-Es0 dẫn đến việc chuyển một điện tử
của vật thể hấp thu lên mức s1. Nếu năng lượng hấp thu bằng Es2-Es0 thì điện tử sẽ chuyển
lên mức S2.Trạng thái S0 có spin tổng cộng là (+1/2) + (-1/2) = 0 được gọi là trạng thái
singlet S0. Khi kích thích điện tử chuyển sang trạng thái khác, nhưng spin vẫn không đổi,
spin tổng cộng cũng bằng 0, điện tử ở trạng thái S* 0. Nhưng nếu khi kích thích điện tử
chuyển sang trạng thái khác mà giá trị spin của nó thay đổi, khi đó spin tổng cộng bằng
đơn vị (+1/2) + (+1/2)=1 hay (-1/2) - (-1/2) =1, trạng thái này được là triplet T*.

Hình 1.7.Các bước thay đổi năng lượng [7]


Trạng thái T* có năng lượng thấp hơn so với trạng thái kích thích S*. Sau một thời
gian điện tử cho năng lượng tự chuyển từ mức kích thích singlet sang mức triplet và
thường kèm theo những hiệu ứng màu sắc sặc sỡ. Đó là hiện tượng lân quang, phát
quang, huỳnh quang. Chính quá trình này quyết định sự phát sáng của các chất khác nhau
trong tối.

Hình 1.8. Trạng thái chuyển điện tử [7]


Như vậy, lượng tử ánh sáng tác động lên các điện tử của phân tử, chuyển các
điện tử này sang trạng thái khác. Màu sắc của các chất là do hiện tượng hấp thụ chọn lọc
bức xạ điện từ. Tuy nhiên màu chỉ xuất hiện khi sự hấp thụ chọn lọc xảy ra trong lĩnh vực
phổ thấy được, tức là trong khoảng 400÷750 nm. Nếu một chất hấp thụ hoàn toàn dải
bước sóng này, sẽ có màu đen; ngược lại, nếu một chất phản xạ hoàn toàn ánh sáng thuộc
dải song này sẽ có màu trắng. Trong trường hợp một chất hấp thụ chọn lọc một dải có
độ dài sóng xác định trong vùng này, nó sẽ có màu. Màu hấp thụ và màu thấy được khác
nhau, chúng được gọi là 2 màu phụ nhau [7].
Bảng 1.1. Sự liên hệ giữa bước sóng hấp thu và màu sắc của vật hấp thu [7]
Bước sóng của dãy Màu của ánh sáng
Màu của chất
hấp thu (nm) hấp thu
400 – 435 Tím Lục – vàng
435 – 480 Lam Vàng
480 – 490 Lam– lục nhạt Da cam
490 – 500 Lục – lam nhạt Đỏ
500 – 560 Lục Đỏ tía
560 – 580 Lục –vàng Tím
580 – 595 Vàng Lam
595 – 605 Da cam Lam – lục nhạt
605 – 750 Đỏ Lục – lam nhạt

1.4.1.2. Cơ chế xuất hiện màu của các hợp chất hữu cơ [7],[16],[17], [26]
Nhờ những thành tựu của các ngành vật lý và hoá học người ta đã xác định rằng chỉ
có những điện tử vòng ngoài (điện tử hoá trị) của chất màu mới tham gia vào quá trình
hấp thụ ánh sáng kèm theo sự chuyển động của chúng. Khi hấp thụ ánh sáng thì hợp chất
màu sẽ tiếp nhận năng lượng của các hạt photon, làm cho các điện tử vòng ngoài bị
chuyển sang trạng thái kích động, sau đó phần năng lượng này có thể chuyển sang các
dạng: quang năng, hoá năng, nhiệt năng v.v. và hợp chất màu lại trở về trạng thái ban đầu
như vậy sự hấp thụ ánh sáng là kết quả của sự tương tác của các điện tử vòng ngoài của
các nguyên tử và phân tử các hợp chất hữu cơ với photon ánh sáng. Những hợp chất hữu
cơ nào có liên kết các điện tử vòng ngoài với nhân yếu thì chỉ cần năng lượng của các tia
có bước sóng lớn trong miền thấy được của quang phổ cũng đủ làm chuyển dịch và hấp
thụ một phần các tia này làm cho nó có màu. Hợp chất nào có điện tử vòng ngoài liên kết
với nhân càng yếu thì càng cần ít năng lượng để kích động chúng, càng dễ hấp thụ các tia
có bước sóng dài hơn và cho màu sâu hơn. Bởi vậy cấu tạo phân tử của hợp chất màu hay
thuốc nhuộm phải như thế nào để năng lượng của các tia sáng trong miền thấy được của
quang phổ cũng đủ làm thay đổi chuyển động các điện tử vòng ngoài của chúng, làm cho
chúng có màu. Nguyên nhân làm cho các điện tử vòng ngoài liên kết với nhân yếu là:
trong phân tử chứa hệ thống mối liên kết nối đôi cách dài; trong hệ thống này ngoài
nguyên tử cacbon còn có các nguyên tử khác như oxy, nitơ, lưu huỳnh v.v.; do ảnh hưởng
của các nhóm thế; do hiện tượng ion hoá phân tử và cấu tạo phẳng của phân tử.
- Ảnh hưởng của hệ thống liên kết nối đôi cách
Trong các hợp chất hữu cơ thường gặp hai loại liên kết cơ bản: liên kết đơn và liên
kết đôi. Để kích động các điện tử trong mối liên kết đơn cần có một năng lượng lớn,
tương ứng với năng lượng của các tia sóng ngắn nên những hợp chất chỉ chứa một loại
liên kết nối đơn thường không có màu. Ngược lại, các điện tử vòng ngoài của mối liên kết
nối đôi do liên kết với nhân yếu, chúng linh động, nên chỉ cần một năng lượng nhỏ cũng
đủ kích động, nên chúng có khả năng hấp thụ các tia sáng có bước sóng lớn hơn trong
miền thấy được của quang phổ và chúng có màu.
Nếu như các mối liên kết nối đơn và nối đôi trong một hợp chất hữu cơ được xếp
liên tục thành một hệ thống “một cách một” hay còn gọi là “nối đôi cách”, “nối đôi liên
hợp” thì các điện tử vòng ngoài sẽ linh động hơn. Độ linh động của các điện tử vòng
ngoài trong hệ thống này phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
+ Độ dài của hệ thống;
+ Bản chất các nguyên tử chứa trong hệ thống;
+ Cấu tạo của hợp chất (mạch thẳng hay mạch vòng).
Hợp chất hữu cơ chứa trong hệ thống mối liên kết nối đôi cách càng dài thì hệ thống
điện tử vòng ngoài càng linh động, nó càng dễ hấp thụ các tia sáng có bước sóng lớn nên
màu càng sâu. Mặt khác dù có cấu tạo mạch vòng hay mạch thẳng, hợp chất hữu cơ phải
chứa đựng các mối liên kết nối đôi cách lập thành một hệ thống liên tục thì nó mới có khả
năng sâu màu. Sự hấp thụ chọn lọc xảy ra khi trong phân tử chứa hệ liên hợp đủ mở rộng.
Để chất có màu sắc đậm, phân tử của chất đó phải chứa một số lớn các nhóm không no,
được gọi là “nhóm mang màu” (C=C; C=N; N=N; N=O; vòng benzen… , tất cả liên hợp
được với nhau. Đồng thời, để màu sắc được đậm đà, phân tử các chất đó thường phải
chứa các “nhóm trợ màu”, chẳng hạn như OH, NH 2…chứa đôi điện tử tự do cũng tham
gia vào hệ liên hợp. Các nhóm này còn đóng vai trò tác nhân liên kết với bề mặt vải sợi .
Bảng 1.2. Bảng sự chuyển màu do ảnh hưởng nối đối liên hợp [7]

Trong bảng 1.2 là một vài thí dụ minh hoạ ảnh hưởng của độ dài của hệ thống liên
kết nối đôi cách đến năng lượng kích động và khả năng hấp thụ ánh sáng của một số chất.
Nếu như tổng số mối liên kết nối đôi khá lớn, nhưng chúng không nằm thành một hệ
thống nối đôi cách liên tục trong phân tử của hợp chất hữu cơ thì độ linh động của các
điện tử vòng ngoài cũng không tăng lên và hợp chất không có màu hoặc màu không sâu.
Cao su là một thí dụ điển hình, phân tử của nó chứa trên một trăm mối liên kết nối
đôi nhưng chỉ hấp thụ được các tia sáng có bước sóng trong khoảng 200 nm nên có không
có màu.
- Ảnh hưởng của các nguyên tử khác ngoài cacbon
Khi trong hệ thống nối đôi liên hợp của một hợp chất hữu cơ nào đó ngoài cacbon
còn chứa các nguyên tố khác như: O, N, S…v.v...; do các nguyên tử này có điện tích hạt
nhân và khoảng cách từ nhân đến các điện tử vòng ngoài khác nhau, khi nằm chung trong
hệ thống nối đôi liên hợp thì các điện tử vòng ngoài này dễ dàng chuyển dịch từ
nguyên tử này sang nguyên tử khác, nghĩa là chúng linh động hơn, nên các hợp chất này
sẽ hấp thụ được các tia sáng có bước sóng lớn hơn và có màu sâu hơn. Các nhóm
nguyên tử có chứa các liên kết không bão hòa cũng quyết định màu của chất như các
nhóm:
Bảng 1.3. Ví dụ sự chuyển màu do ảnh hưởng của các nguyên tử khác ngoài cacbon
[16]

Các nhóm tạo màu cho hợp chất hữu cơ gọi là nhóm hàm sắc. Những nhóm làm
tăng màu cho nhóm hàm sắc gọi là nhóm trợ sắc. Có hai loại nhóm trợ sắc:
Nhóm đẩy điện tử: -OH, -NH2, -SH, -OCH3, -NHCH3, -N(CH3)2
Nhóm hút điện tử: -NO2, -NO, -COCH3
Chỉ sau khi đưa các nhóm trợ sắc vào thì màu của hợp chất mới trở nên thuần nhất
và có đủ cường độ. Nếu trong phân tử hiện diện đồng thời các nhóm đẩy điện tử và hút
điện tử, hiệu ứng trợ sắc sẽ cao.
- Ảnh hưởng của các nhóm thế
Các phân tử của hợp chất hữu cơ khi ởtrạng thái kích động luôn luôn khác với trạng
thái bình thường của chúng. Khi hấp thụ năng lượng của các tia sáng thì sự phân bố
mật độ điện tử vòng ngoài của chúng sẽ thay đổi, mật độ điện tử sẽ tăng lên hoặc giảm đi
ở những vị trí nhất định của phân tử. Trong phân tử sẽ có những vị trí tích điện dương và
những vị trí tích điện âm, nói khác đi ánh sáng đã làm phân cực hóa chúng, đây là tính
chất chung của tất cả các hợp chất hữu cơ có màu.
Những hợp chất hữu cơ chứa trong phân tử hệ thống nối đôi liên hợp sẽ có khả
năng phân cực dễ hơn các hợp chất khác, khả năng này sẽ tăng lên mạnh mẽ khi ở đầu
mạch và cuối mạch có chứa các nhóm thế có khả năng nhận và nhường điện tử. Điều này
sẽ làm cho các điện tử vòng ngoài linh động hơn và hợp chất sẽ có thể hấp thụ được các
tia sáng có bước sóng lớn hơn và màu sẽ sâu hơn. Các nhóm C=O liên kết với nhau làm
cho hợp chất có màu sậm hơn. Liên kết bền hơn giữa các nguyên tử C thuộc những bộ
phận riêng biệt của phân tử dẫn đến màu sậm hơn và cường độ màu lớn hơn.
Bảng 1.4.Ví dụ sự chuyển màu do ảnh hưởng nhóm thế [17]

- Ảnh hưởng của sự ion hóa phân tử


Khi trong phân tử của hợp chất hữu cơ có mặt đồng thời các nhóm thế thu và
nhường điện tử, ngoài khả năng bị phân cực nó còn có khả năng bị ion hoá. Khi này có
thể chuyển miền hấp thụ về phía các tia sáng có bước sóng ngắn hơn hoặc dài hơn, nghĩa
là có thể làm cho hợp chất có màu nhạt đi hoặc sâu màu thêm. Khả năng này có tuỳ thuộc
vào bản chất của các nhóm thế và vị trí của nó trong hệ thống mối liên kết nối đôi cách.
Trong lĩnh vực hoá học thuốc nhuộm, sự ion hoá xảy ra do tác dụng của môi trường đối
với các nhóm nhường điện tử như: −OH, −NH 2 và các nhóm thu điện tử như: C=O,
C=NH có ý nghĩa hơn cả, mỗi trường hợp có một hiệu ứng màu riêng.
Đối với hợp chất hữu cơ chỉ chứa nhóm thế có khả năng thu điện tử, khi tăng độ axit
thì ion H+ sẽ liên kết với nguyên tử oxy hay nguyên tử nitơ và sẽ chuyển hợp chất về dạng
tích điện dương như sau:
Sự xuất hiện các tâm tích điện dương làm cho tính ái điện tử tăng lên dẫn đến tăng
cường độ màu của hợp chất và màu sâu hơn. Thí dụ, benzaurin sunfoaxit có màu vàng,
trong môi trường axit có màu đỏ do bị ion hoá như sau:

Màu vàng Màu đỏ


Hình 1.9. Benzaurin sunfoaxit chuyển màu từ vàng đến đỏ
Trường hợp hợp chất hữu cơ chỉ chứa nhóm thế có khả năng thu điện tử, trong môi
trường kiềm nhóm −OH (có trong nhân thơm) sẽ tách ion H + ra làm cho oxy có ba cặp
điện tử chưa chia và mang điện tích âm, chúng có khả năng nhường điện tử; kết quả là trị
số hấp thụ cực đại của hợp chất sẽ chuyển về phía có bước sóng dài hơn, hợp chất sẽ có
màu sâu hơn. Điển hình là alizarin có màu vàng, trong môi trường kiềm sẽ tích điện âm
và có màu tím:

Alizarin có màu vàng Dạng anion của alizarin có màu tím


Hình 1.1010. Alizarin chuyển màu từ vàng đến tím
Nhưng khi nhóm amin bị ion hoá thì kết quả sẽ ngược lại, trong môi trường axit cặp
điện tử thừa của nitơ sẽ liên kết với H + và làm giảm khả năng nhường điện tử của nitơ do
đó trị số hấp thụ cực đại sẽ chuyển về phía các tia sáng có bước sóng ngắn hơn, hợp chất
sẽ có màu nhạt đi.
Các phương thức ion hóa phân tử có thể rất khác nhau. Phương thức phổ biến nhất là
thay đổi độ acid của môi trường, phương thức này áp dụng để nhuộm vải dùng chất chỉ thị
màu. Phương thức thay đổi màu thuốc nhuộm hữu cơ một cách hữu hiệu nhất là sự tạo
muối, nếu cation kim loại thay thế hydro trong nhóm OH thì màu trở nên sậm hơn.
Đỏ Tím
Hình 1.11. Quinazarin chuyển màu từ đỏ đến tím [7]
Sự tương tác với các ion kim loại có thể dẫn đến sự tạo thành phức bền, các ion này
thường là ion của các nguyên tố chuyển tiếp. Ví dụ: Alizarin màu vàng tạo ra những phức
có màu khác nhau với các ion:
Bảng 1.5. Ví dụ sự chuyển màu do ảnh hưởng ion kim loại [17]
Ion Al3+ Cr3+ Fe3+
Màu Đỏ Nâu Tím
- Ảnh hưởng của cấu tạo phân tử
Theo thuyết điện tử, để phân tử hợp chất hữu cơ có màu sâu thì phân tử của nó phải
có cấu tạo phẳng, nhờ vậy sự tương tác của các điện tử không bị cản trở. Bất kỳ yếu tố
nào phá vỡ yêu cầu này cũng làm ảnh hưởng đến màu của hợp chất. Nếu như cấu tạo
phẳng của phân tử chưa bị phá vỡ hoàn toàn thì tác dụn tương hỗ giữa các điện tử chưa bị
mất hẳn mà chỉ gây ra sự gián cách từng phần của mạch liên hợp ở hai phía kể từ vị trí
phá hủy trục song song của đám mây điện tử. Điều này làm cho hợp chất hấp thụ các tia
sáng có bước sóng ngắn hơn và màu sẽ nhạt đi. Năng lượng E của ánh sáng đập vào một
vật phụ thuộc vào độ dài sóng λ của lượng tử theo công thức (1.1). Như vậy năng lượng
cần thiết để kích thích một phân tử là:
c 28000
E =h = (kcal/mol) (1.2)
λ λ
Trong nguyên tử, các điện tử bên trong được liên kết chặt chẽ. Để kích thích các
điện tử này cần phải có các tia rơnghen cùng có năng lượng 10 3-106Kcal/mol. Do đó, năng
lượng của ánh sáng nhìn thấy được 110-69 Kcal/mol quá nhỏ không thể gây ra tác động
rõ rệt đến những điện tử này. Các điện tử hóa trị tham gia vào liên kết hóa học dễ thay đổi
trạng thái hơn. Liên kết cộng hóa trị σ là kiểu liên kết bền. Để phá vỡ liên kết này phải
dùng trên 595 Kcal/mol, còn để kích thích thì cần một năng lượng 181 kcal/mol tương
ứng với sự hấp thu một bức xạ có bước sóng nhỏ hơn 200 nm, nghĩa là trong miền tử
ngoại.

Hình 1.12. Mô hình sự hấp thu ánh sáng và màu sắc ở vùng khả kiến [26]
Theo thuyết MO các điện tử trong phân tử được phân bố trên các mức năng lượng
tương ứng với các MO theo thứ tự năng lượng tăng dần. Trong những trường hợp đơn
giản thứ tự mức năng lượng được sắp xếp như sau:

Hình 1.13.Thứ tự phân bố các mức năng lượng [26]


Dưới tác dụng của ánh sáng do nhận thêm năng lượng dưới dạng quang năng, điện
tử linh động có mức năng lượng cao nhất sẽ chuyển lên mức năng lượng cao hơn và khi
đó phân tử từ trạng thái cơ bản chuyển sang trạng thái kích thích, sai biệt giữa hai mức
năng lượng này sẽ cho phép xác định được λ của ánh sáng hấp thu. Theo sơ đồ năng
lượng trên thấy thông thường sự tạo màu là do sự chuyển dịch điện tử n → π* hoặc π →
π*. Điện tử π càng linh động, sự chuyển dịch điện π từ trạng thái cơ bản sang trạng thái
kích thích càng dễ dàng, hiệu số ∆E giữa hai trạng thái cơ bản và kích thích giảm xuống.
Như vậy, tất cả những biến đổi cấu trúc nào mà không phá vỡ cấu tạo phẳng của phân tử
và thúc đẩy sự chuyển dịch hệ điện tử π của phân tử thì gây ra sự phân cực của phân tử
làm cho phân tử dễ chuyển sang trạng thái kích thích dưới tác dụng của các lượng tử ánh
sáng vùng khả kiến, nghĩa là tạo điều kiện cho sự xuất hiện màu.
1.4.2. Lịch sử chất màu tự nhiên
Thuốc nhuộm tự nhiên, bắt nguồn từ sự đa dạng của thực vật, côn trùng ký sinh và
các chất tiết ra của loài ốc biển, được phát hiện thông qua những kỹ năng và sự kiên trì
của những người cổ đại. Bằng các mẫu khai quật được ở Kim Tự Tháp Ai Cập, Trung
Quốc, Ấn Độ, … các nhà khoa học đã xác định được 1500 năm trước Công nguyên người
cổ đại đã biết dùng indigo cho màu xanh chàm để nhuộm vải và sử dụng alizarin lấy từ rễ
cây marena để nhuộm màu đỏ, sử dụng campec chiết xuất từ gỗ sồi để nhuộm màu đen
cho len và lụa tơ tằm [14]. Ngoài ra người ta còn chiết xuất được các màu vàng, tím, đỏ
tím từ nhiều loại cây khác nhau.
Bảng 1.6. Danh mục một số màu tự nhiên tiêu biểu [26]
Màu Phân lớp hóa học Các tên gọi thông thường
Màu vàng, vỏ để lấy thuốc
nhuộm vàng, gỗ Fustic,
Vàng và nâu Flavone
Osage, hoa Chamomile, Tesu,
Dolu, Cúc vạn thọ, Cutch.
Iso-quinoline dyes,
Barberry, be-carotene,
Vàng Polyene colorants,
lycopene … gentisin
Pyran colorants
Cam- vàng Chromene Cây gỗ vang
Nâu và Cây lá móng, gỗ hồ đào,
Naphthochinone
nâu tía- Xám Alkanet, Pitti
Đỏ Chinone, Anthrachinone, Nhựa cây màu đỏ, màu cánh
kiến, rể có chất đỏ
Chromene
dùng làm thuốc nhuộm
Màu tía và đen Benzophyrone Cây gỗ vang
Xanh Indigoid, Indole colorants Chàm

Thuốc nhuộm tự nhiên màu vàng: Tất cả thuốc nhuộm tự nhiên màu vàng đều có
nguồn gốc thực vật. Màu vàng quan trọng hơn cả được dùng trong nhiều thế kỷ qua là
rezeda. Khi phối nó với màu xanh chàm sẽ nhận được màu xanh lục gọi là màu Lincon
tuyệt đẹp [7]. Màu vàng hay vàng nâu phải kể đến flavone, polyene, pyran, iso-quinoline.
Mỗi phân lớp hóa học chức nhiều nhóm màu đa dạng, chẳng hạn pyran colorants chứa 2
nhóm lớn là xanhthons và flavonoids (flavones, isoflavones, flavonols… Chính điều này
đã góp phần tạo ra cho chất màu tự nhiên sự đa dạng và phong phú.

Hình 1.14. Giới thiệu một số màu vàng polyene [26]


Thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ: Khác với các màu vàng, ba trong số bốn thuốc
nhuộm màu đỏ tự nhiên (cecmec, cosenil, lac) có nguồn gốc động vật, song màu đỏ quan
trọng nhất vẫn là marena hay còn gọi là alizarin thu được từ thực vật. Tất cả các thuốc
nhuộm màu đỏ kể trên đều là dẫn xuất hydroxy của antraquinon. Các dẫn xuất khác nhau
của chúng còn có ứng dụng đến ngày nay có ánh màu tươi và độ bền màu rất cao với ánh
sáng. Vì vậy có thể nói rằng thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ có độ bền màu với các chỉ
tiêu cao hơn nhiều so với các nhóm màu vàng. Cấu tạo của thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ
tía đã được Fridlender tìm ra vào năm 1909, đó chính là 6,6 - đibrominđigo (4). Gần đây
từ thân lá của cây ta đã xác định được quá trình tạo thành màu đỏ tía này. Hợp chất ban
đầu là tirinđocxysunfat (1) có màu ghi, khi thủy phân bằng men nó sẽ chuyển thành
tirinđocxyl (2), một phần bị oxy hóa bằng oxy của không khí đến 6-brom-2-metyl-
tioinđoleninon (3). Sau đó hợp chất (1) lại kết hợp với (2) để thành phức 1:1 kiểu
quihydron (tiriverđin , dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời biến thành 6, 6 -đibrominđigo
(4) là gốc của màu đỏ tía [7].

Hình 1.15. Cấu tạo của thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ tía [7]
Thuốc nhuộm tự nhiên màu xanh chàm: Trong các màu xanh tự nhiên có màu xanh
lam và màu xanh chàm được dùng đến ngày nay. Lúc đầu người ta cho rằng đó là hai màu
khác nhau, về sau mới biết chúng có cấu tạo hóa học giống nhau và chính là inđigo được
tách chiết từ cây họ chàm có tên khoa học là Indigofera tinctoria L. Hiện nay inđigo là
một trong hai thuốc nhuộm tự nhiên vẫn còn có ý nghĩa thực tế mặc dù nó đã được tổng
hợp và sản xuất ở qui mô công nghiệp.

Hình 1.16. Công thức cấu tạo của thuốc nhuộm Indigofera tinctoria L [20]
Thuốc nhuộm tự nhiên màu đen: Thuốc nhuộm tự nhiên màu đen có ý nghĩa thực tế
duy nhất là màu đen campec, nó đã được biết từ năm 1500, nhưng đến năm 1812 mới
thực sự có ý nghĩa thực tế khi một nhà hóa học Pháp đã tìm thấy nó có khả năng tạo thành
phức không tan với muối kim loại có màu đen. Khi mới tách từ gỗ campec ra, hợp chất
ban đầu có màu đỏ gọi là hematein, khi kết hợp với muối crôm nó chuyển thành màu đen
vì thế mà gỗ campec trở nên có giá trị. Mặc dù chưa biết cụ thể cấu tạo của phức kim loại
này nhưng người ta cho rằng nó có cấu trúc đại phân tử, trong đó ion crôm liên kết với
các phân tử hematein để tạo thành phức [30]. Màu đen campec được dùng như là một
thuốc nhuộm đơn, riêng biệt, để nhuộm tơ tằm, da và một vài vật liệu khác, vẫn có ý
nghĩa đến ngày nay.
Ở Việt Nam: Hệ quần thể thực vật nước ta đa dạng và phong phú, đồng bào ở khắp
mọi miền đất nước đã biết sử dụng những thực vật tự nhiên tạo màu dùng trong thực
phẩm, dệt lụa, làm thuốc rất có giá trị về kinh tế và dược lý [7]. Khí hậu nhiệt đới tại Việt
Nam và một số nước trong khu vực rất phù hợp cho nhiều loại thực vật phát triển, một số
loài hoa quả trái cây được dùng trong công nghiệp thực phẩm như quả giành giành, bột
nghệ để nhuộm màu vàng v.v…và một số khác dùng trong công nghệ dệt nhuộm. Chưa
có tài liệu nào cho biết niên đại cụ thể người Việt Nam biết dùng chất màu tự nhiên, chỉ
biết rằng từ thời thượng cổ, các dân tộc Việt Nam đã biết sử dụng thuốc nhuộm lấy từ
thảo mộc để nhuộm quần áo, nhuộm tóc, …
Những thập kỷ đầu của thế kỷ này đồng bào thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Bộ đã dùng lá chàm để nhuộm màu xanh lam; dùng nước chiết từ củ nâu để nhuộm màu
nâu tươi, khi nhúng vào bùn ao màu nâu sẽ chuyển thành màu đen rất bền và đẹp do phản
ứng tạo phức giữa thuốc nhuộm và ion kim loại có trong bùn. Ngoài ra để nhuộm nâu và
đen người ta còn dùng lá bàng, vỏ sú, vỏ vẹt…ở một số vùng Nam Bộ còn dùng nước
chiết từ quả mặc nưa để nhuộm lót, sau đó nhúng vào bùn sông Hậu sẽ tạo màu đen bền
và đẹp. Dưới đây là một số loài thực vật được dùng trong công nghệ dệt nhuộm phù hợp
với khí hậu Việt Nam.
Bảng 1.7. Nguồn thuốc nhuộm tự nhiên phù hợp với khí hậu Việt Nam [30]
Tên Phần Màu
Khí Vùng Vật
Truyền thực nhuộm
Tên Loài hậu miền liệu
thống vật
Điều
Bixaorellana Màu vàng Nhiệt Châu Á, Cam,
màu Hạt
L đỏ đới Nam Mỹ vàng
Hạt
Camellia Nhiệt Châu Á Lá Lụa, Vàng,
Trà sinenisi (L) đới Cotton nâu,
xanh,
Kuntza
đen
Nhiệt Lá
Mộc Terminalia Châu Á Vàng,
đới (tươi,
lan cappa L nâu
khô)
Đông
Mặc Diospyros L Nhiệt Trái
Mackloeur Nam Lụa Đen
nưa mollis Griff đới cây
Á
ChâuÁ,
Nhiệt Cotton,
Chàm Indigofera L Chàm Châu Lá Xanh
đới lụa
Mỹ
Châu
Cây lá Lawsonia Nhiệt Cam,
Phi Lá
móng Spinosa L đới nâu đỏ
Châu Á
Châu Á,
Khaya Vàng
Xà cừ Châu Lụa Lá, vỏ
senegalensis nâu
Phi
Lụa,
Gỗ Caesalpinia
Châu Á Gỗ da, Đỏ
vang sappan L
đồ gỗ

Sophora Nhiệt Nụ
Đa Châu Á
Japonica L đới Hoa

Lụa, Đỏ
Curcuma Nhiệt
Nghệ Châu Á Củ da, tươi,
Longa L đới
gỗ đỏ, tím
Nam
Hồng Manilkara Nhiệt Mỹ,
Lá Nâu
xiêm zapo L đới Việt
Nam
Trầu Nhiệt Đông
Piper betle L Lá Nâu
không đới Nam
Á

Australia
châu Á,
châu Xanh
Bạch
Eucalyptus Phi, Lá lá cây
đàn
châu tươi
Mỹ,
châu Âu
Caesalpinia
Mexico, Lụa,
Điệp Pulchernma Vỏ Vàng
châu Á cotton
L
Dioscorea
Củ Việt Nâu,
Girrhose Củ cotton
nâu Nam đen
Lour

1.5. SỬ DỤNG CHẤT MÀU TỰ NHIÊN TRONG DỆT NHUỘM


1.5.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trong nhiều thập kỷ qua, những công trình nghiên cứu về quá trình trích ly hay tách
chiết hợp chất màu tự nhiên và cô lập xác định từng hợp chất riêng lẻ được nghiên cứu rất
nhiều [22], [31]. Trong đó, cũng có một số công bố về việc sử dụng mô hình thực nghiệm
và tối ưu hóa mô hình vào trong quá trình tách chiết chất màu tự nhiên đơn lẻ [22], [25].
Tuy nhiên vấn đề trích ly chất màu tự nhiên ứng dụng trong công nghệ nhuộm lại mang
một ý nghĩa ứng dụng khác; không cô lập hợp chất đơn lẻ mà sử dụng hỗn hợp dịch chiết
nhuộm cho các loại vật liệu vải sợi khác nhau.
Những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu quy trình nhuộm vải bằng chất màu tự nhiên
được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm mà chủ yếu tập trung vào chất màu trích
ly từ thực vật. Sự đa dạng của hệ thực vật trên thế giới đã tạo nhiều gam màu đa dạng cho
các công trình nghiên cứu về công nghệ này. Vào năm 1994 nhóm nghiên cứu của C.
Mahidol đã bắt đầu nghiên cứu hoạt tính sinh học của các loại cây trồng tự nhiên ở Thái
Lan [19]; năm 2012 Supaluk Teppanrin và các cộng sự nghiên cứu khả năng nhuộm màu
trên vải cotton, tơ tằm và vải tơ tằm bằng dịch chiết từ hạt đậu Marind [28] …v.v…
Từ năm 2000 đến 2014, có khá nhiều công trình nghiên cứu về khả năng nhuộm vật
liệu dệt của dịch chiết từ vỏ măng cụt đã được công bố ở một số bài báo của các trường
đại học hoặc các viện nghiên cứu chủ yếu ở Thái Lan, Ấn Độ, Mỹ và Úc. Một số bài báo
tập trung nghiên cứu quy trình nhuộm trên các loại vật liệu cotton, tơ tằm, len đã được
công bố [27].
Trong những năm qua, có một số công trình nghiên cứu về khả năng nhuộm vật liệu
dệt của dịch chiết từ nụ hoa hòe công bố ở một số bài báo của các trường đại học hoặc các
viện nghiên cứu chủ yếu ở Trung Quốc, Hàn Quốc. Các bài báo tập trung nghiên cứu quy
trình nhuộm trên tơ tằm đã được công bố. Nghiên cứu này đã phân tích việc sử dụng dịch
chiết từ nụ hoa hòe để nhuộm vải, kết quả màu sắc và độ bền của vải lụa nhuộm. Thành
phần sắc tố trên vải lụa và tái sử dụng dịch chiết này cũng đã được nghiên cứu. Kết quả
chỉ ra rằng vải lụa nhuộm có khả năng bền giặt, bền ma sát và thấm mồ hôi tốt, thành
phần sắc tố trên vải lụa chủ yếu là rutin và quercetin. Những kết quả này chứng minh rằng
dịch chiết từ nụ hoa hòe là một thuốc nhuộm tự nhiên hiệu quả [29].
1.5.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, tính đến thời điểm này, các trường đại học và các viện nghiên cứu
cũng đã có khá nhiều nghiên cứu về công nghệ nhuộm vải bằng chất màu tự nhiên từ
nhiều loại hực vật khác nhau. Tuy nhiên, các ý tưởng và xu hướng nghiên cứu này chủ
yếu là vẫn dựa trên các công trình nghiên cứu của PGS.TS Hoàng Thị Lĩnh, khoa Công
nghệ Dệt may và Thời trang, Đại học Bách Khoa Hà Nội. PGS.TS Hoàng Thị Lĩnh đã tìm
ra công nghệ nhuộm vải cotton và lụa tơ tằm bằng lá bàng, lá xà cừ, củ nâu, lá trầu không,
chàm, lá thiên lý, lá tre, á găng, ngải cứu, lá bạch đàn, lá chè, lá hồng xiêm, vỏ cây xà cừ,
chè, cây lá móng, cây xà cừ, nghệ, bạch đàn, sapoche…
Là chuyên gia hóa nhuộm, bằng đam mê khoa học PGS.TS Hoàng Thị Lĩnh đã bắt
đầu nghiên cứu lĩnh vực này từ năm 1996, đến nay Bà đã chủ nhiệm rất nhiều đề tài, dự
án về công nghệ nhuộm vật liệu dệt bằng chất màu tự nhiên. Trong đó, phải kể đến đề tài
Nghị định thư hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Áo: “Nghiên cứu khả năng
sử dụng chất màu tự nhiên để nhuộm vải bông và tơ tằm, thiết lập qui trình công nghệ và
triển khai ứng dụng cho một số cơ sở làng nghề dệt nhuộm. Trong dự án này PGS.TS
Hoàng Thị Lĩnh đã nghiên cứu thành phần và bản chất của các loại chất màu có nguồn
gốc thiên nhiên, từ đó xây dựng, lựa chọn và tối ưu hóa các quá trình tách chiết chất màu
với các thông số công nghệ phù hợp; đã xây dựng quy trình nhuộm bằng chất màu chiết
tách từ lá chè, lá bàng, lá xà cừ và hạt điều màu cho vải bông và vải tơ tằm; nghiên cứu
các biện pháp xử lý sau nhuộm nâng cao độ bền màu của sản phẩm. Khẳng định độ bền
màu cũng như một số tính chất ưu việt của sản phẩm nhuộm màu từ 4 loại thảo mộc như
khả năng chống nhàu, khả năng hút ẩm, độ thoáng khí. Nghiên cứu đa dạng hóa màu sắc
của sản phẩm nhuộm bằng chất màu chiết tách từ 4 loại thảo mộc bằng cách phối ghép
nguyên liệu hoặc cầm màu để nâng cao độ bền màu [8]. Sự thành công của dự án còn phải
kể đến là có thể chuyển giao công nghệ cho nông dân để sản xuất hàng thủ công, góp
phần xoá đói, giảm nghèo, mang ý nghĩa an sinh xã hội rất cao. Ngoài ra, PGS.TS Hoàng
Thị Lĩnh còn thực hiện thành công dự án kết hợp với doanh nghiệp “Thay thế chất nhuộm
hóa học bằng chất màu tự nhiên - Phương pháp sản xuất sạch và hiệu quả hơn” triển khai
và đã nghiệm thu 2012-2013, với sự tài trợ của dự án Đổi mới Sáng tạo Việt Nam - Phần
Lan (IPP), Công ty TNHH Dệt nhuộm Trung Thư - Hưng Yên đã phối hợp nghiên cứu áp
dụng thành công công nghệ nhuộm vải bằng các chất màu tự nhiên thay thế chất nhuộm
hóa học. Kết quả dự án phần nào khẳng định sự thành công của công nghệ nhuộm vật liệu
dệt bằng chất màu tự nhiên thân thiện môi trường, giảm thiểu hiện tượng ô nhiễm môi
trường.
Hình 1.17. Sản phẩm được làm từ chất liệu vải dệt nhuộm màu tự nhiên [8]
Năm 2011, nhóm nghiên cứu đề tài thuộc khoa Sinh học trường Đại học Đà Lạt
cũng đã tiến hành đề tài “Điều tra, khảo sát các loài cây cho chất nhuộm tự nhiên ở Lâm
Đồng và khả năng ứng dụng của nó trong ngành nhuộm dệt vải thổ cẩm của đồng bào
Dân tộc thiểu số bản địa” đã được Sở Khoa học và Công nghệ đánh giá cao về ý nghĩa và
hiệu quả kinh tế; tuy nhiên kết quả cũng chỉ mới dừng lại ở những khảo sát ban đầu. Bên
cạnh những nghiên cứu đã đề cập, hiện nay đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
vẫn duy trì truyền thống nhuộm vải bằng một số loại chất màu tự nhiên như củ nâu,
chàm…; người dân An Giang vẫn còn dùng quả mặc nưa để nhuộm vải tơ tằm và vải
polymide; công ty lụa Mã Châu - Quảng Nam dùng nụ hoa hòe là nguyên liệu để nhuộm
màu vàng cho vải tơ tằm.
Tuy nhiên công nghệ nhuộm truyền thống mất rất nhiều thời gian, chỉ mang tính
chất thủ công, khó sản xuất đại trà, sản phẩm nhuộm không đảm bảo các chỉ tiêu về độ
bền màu.
1.5.3. Nhuộm tơ tằm bằng chất màu tự nhiên
1.5.3.1. Sơ lược về cấu trúc tơ tằm
Tơ tằm hay còn được gọi là lụa, là một trong những loại xơ sợi được con người biết
đến sớm nhất [22]. Tơ tằm có cấu trúc mặt cắt ngang không đồng đều, là một loại sợi tơ
mảnh và dài gồm 2 sợi fibroin nằm sóng đôi nhau, được bao bọc bởi một lớp keo gọi là
sericin. Trên kính hiển vi cho thấy cấu tạo của tơ tằm. Sợi fibroin bao gồm các bó xơ
(fibrillar bundle nằm dọc theo trục sợi, có chiều ngang 100nm, chiều dài khoảng 250 nm.
Giữa các bó xơ có nhiều chỗ trống. Các vi xơ (microfibril nằm trong bó gồm 20÷30 đại
phân tử fibroin có bề ngang 10 nm, chúng xếp thành từng lớp tinh thể.

Hình 1.18. Cấu trúc mặt cắt ngang của tơ tằm [23]
Thành phần chính của tơ tằm gồm 72-81% Fibroin; 19-28% sericin; 0,8-1,0% axit
béo và sáp; 1,0-1,4% muối và khoáng chất [23]. Fibroin gồm các loại acid amin như
glycine, serisine, analine, tyrosine…nhưng không có systine nên cấu trúc phân tử có phần
khác so với keratin trong len. Fibroin ở dạng mạch thẳng, các phân tử acid amin xếp song
song và chỉ liên kết ngang với nhau bởi những nối hydrogen, đây là cấu trúc dạng β,
không xoắn nên ít đàn hồi cũng như không xốp.

Hình 1.19. Cấu trúc hóa học của fibroin [10]


Với cấu tạo trên tơ tằm có bề mặt ánh sáng bóng, mịn, óng ả, có độ bền cao, khả
năng hút ẩm tốt, có độ đàn hồi tốt, tương đối bền đối với axit vô cơ loãng và axit hữu cơ.
Tuy nhiên, khả năng chống chịu với bazơ kém và nhạy cảm với ánh sáng. Fibroin rất nhạy
cảm với chất oxy hóa vì thế có thể làm thay đổi nhóm định chức của fibroin bằng cách
oxy hóa các nhóm rượu bậc nhất hoặc làm mất các nhóm amin. Người thường dùng H 2O2
để tẩy trắng tơ tằm vì nó ít ảnh hưởng đến fibroin. Các dung dịch NaClO và NaClO 2 ít
được dung ngay cả ở nhiệt độ thấp chúng cũng phá hủy fibroin.
1.5.3.2. Nhuộm tơ tằm bằng chất màu tự nhiên
Việc đạt được các tính chất đồng đều màu trong quá trình nhuộm vải sợi rất quan
trọng. Bất kỳ quy trình nhuộm nào, đặc biệt là nhuộm thuốc nhuộm tự nhiên, không chỉ
có hóa chất hay thiết bị là yếu tố quyết định mà khả năng nhuộm trên vật liệu nền cần
phải được kiểm soát một cách nghiêm ngặt để tránh bất lợi cho những giai đoạn nhuộm
tiếp theo. Khả năng phân tán hay hấp phụ của thuốc nhuộm còn phụ thuộc rất lớn vào cấu
trúc hóa học, tính chất vật lý của cấu trúc xơ sợi và khả năng dịch chuyển của nó trước và
trong suốt quá trình nhuộm (Burdett, 1975) [16].
Mặt khác, vấn đề kiểm soát quy trình nhuộm bằng thuốc nhuộm tự nhiên cũng cần
phải quan tâm đến các thông số công nghệ: hầu hết các thuốc nhuộm tự nhiên cần chuẩn
bị dịch chiết từ thực vật và chất cầm màu vô cơ để đạt độ bền màu ổn định. Chiết xuất
thuốc nhuộm, tức là, sử dụng nhiều loại nguyên liệu tự nhiên hơn, màu sắc cần sâu hơn và
đa dạng hơn.
Chất cầm màu vô cơ (muối kim loại luôn được sử dụng với tỷ lệ tương ứng, sử
dụng ít hơn cho một màu nhạt, nhưng không bao giờ sử dụng thêm vì quá nhiều kim loại
có thể gây tổn hại cho sợi, đặc biệt là tơ tằm. Tất cả các công thức đều phải được tính
toán theo tỷ lệ nhất định. Thời gian - nhiệt độ - nồng độ là các biến liên quan đến bất kỳ
phản ứng hóa học. Nhiệt độ cao có nghĩa là cần giảm thời gian nhuộm, cũng như nồng độ
cao của thuốc nhuộm cần phải duy trì thời gian nhuộm dài hơn. Chuẩn bị vật liệu dệt phù
hợp với thiết bị và điều kiện nhuộm [24].
Chất màu tự nhiên nhuộm trên tơ tằm cho ánh màu không tươi, nhưng có thể cho độ
sâu màu trên các sản phẩm như tơ tằm tuytxo, các sản phẩm thứ phẩm của tơ tằm và các
sản phẩm dệt khác. Các loại thuốc nhuộm này thường yêu cầu phải sử dụng chất cầm màu
để tăng độ bền màu sau nhuộm. Một số loại thuốc nhuộm tự nhiên cho màu tươi và đạt độ
bền ướt cao, mặc dù một số loại chất cầm màu có thể gây tổn hại tơ tằm. Dãy những màu
tự nhiên được chiết từ những thành phần phức tạp từ cây, cỏ, hoa, lá của các loại cây
trồng khác nhau cũng cho màu sắc tốt tương tự màu từ các loại côn trùng và vỏ sò. Tính
đặc trưng của những loại thuốc nhuộm tự nhiên này có thể một phần là do sự có mặt của
tannin được xem như là đóng vai trò chất cầm màu. Các chất hỗ trợ thêm cho những quy
trình nhuộm chất màu tự nhiên là axit acetic để trung hòa hàm lương canxi có trong nước,
bột của axit citric để tăng độ sáng cho màu nhuộm khi sử dụng kết hợp chất cầm màu và
Na2SO4 để kiểm soát quy trình nhuộm [16].
1.6. TỔNG QUAN VỀ HOA ĐẬU BIẾC
1.6.1. Tên khoa học và mô tả [49]

Hình 1.20. Hoa đậu biếc


Cây hoa đậu biếc còn gọi đậu hoa tím hay bông biếc, tên khoa học Clitoria
ternatean, thuộc họ đậu. Đậu biếc là một cây họ đậu lâu năm, loại thảo, leo, thân và cành
mảnh có lông.
- Lá: hình bầu dục, nhọn ở đầu màu xanh đậm, có gân nổi rõ, giống lá cỏ lạc cảnh,
đặc biệt lá xanh quanh năm.
Hoa: có màu tím, màu trắng, với hình dáng lạ mắt dạng trứng ngược. Hoa này mọc
thành chùm hay riêng lẻ rất sai hoa.
- Quả: dài từ 4 đến 13 cm, giống như đậu ván, khi non có màu xanh khi già thì quả
có màu nâu đốm từ 6 đến hạt.
Chi Đậu biếc (danh pháp: Clitoria) thuộc họ Fabaceae và tiểu họ Papgroupaceae.
Có nguồn gốc từ châu Á nhiệt đới và sau đó được phân phối rộng rãi ở Nam và Trung
Mỹ, Đông và Tây Ấn, Trung Quốc và Ấn Độ.
Cây hoa đậu biếc thuộc loại cây thân leo khỏe mạnh, dễ trồng và chăm sóc, chịu
được nắng nóng và hạn rất tốt, sợ rét, ít sâu bệnh. Nhiệt độ ưa thích của đậu biếc là từ 20-
32oC.
1.6.2. Phân bố [50]
Clitoria ternatea là một trong những cây trồng địa phương có dược tính, có nguồn gốc
từ châu Á nhiệt đới và sau đó được phân phối rộng rãi ở Nam và Trung Mỹ, Đông và Tây
Ấn, Trung Quốc và Ấn Độ.
Đất trồng đậu biếc là các loại đất tơi xốp, nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, thoátnước tốt.
Ở nước ta, cây Đậu biếc có nhiều ở Quảng Ninh, Ninh Bình, Huế, Đà Nẵng, Khánh
Hòa, Bình Thuận và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
1.6.3. Công dụng
Hoa thường được sử dụng để nhuộm bánh gạo ở Malaysia và được ăn như rau ở Ấn
Độ và Philippines…
Trong y học cổ truyền, cây được sử dụng trong điều trị vàng da, đau nửa đầu, viêm
họng, nhiễm trùng mắt, bệnh ngoài da, hen suyễn, sưng khớp, đau tai, sốt, nhiễm trùng
đường tiết niệu, táo bón, rắn cắn, nhức đầu, khó tiêu, bệnh phong và rối loạn hệ thần kinh
trung ương. Các chất chiết xuất khác nhau của nó có tác dụng dược lý được báo cáo như
nootropic, anxiolytic, thuốc chống co giật, thuốc an thần, chống viêm, chống tiểu đường,
chống oxy hóa, chống căng thẳng, điều hòa miễn dịch, chống nhiễm trùng, chống oxy hóa
và tăng cường trí nhớ. Công dụng các thành phần của cây hoa đậu biếc được thể hiện rõ
qua bảng 1.8 dưới đây.
Bảng 1.8. Chức năng các thành phần của cây hoa đậu biếc
Thành phần Chức năng Tài liệu tham khảo
Hoa Làm màu thực phẩm. [18]
Rễ Giải lo âu, thuốc chống [18]
trầm cảm, thuốc chống co
giật.
Thân Điều trị bệnh tình dục [32]
chẳng hạn như: vô sinh và
bệnh lậu.
Trích xuất của hoa đậu biếc Ôn định nhiệt [33]
1.6.4. Thành phần hóa học của hoa đậu biếc
Hoa đậu biếc chứa một este và một chất nhựa glycosid. Nó chứa anthoacyanin, blue
proanthocyanidin là một chất chống oxy hóa mạnh. Terahara và cộng sự [12] đã phân lập
sáu anthocyanins chính từ hoa đậu biếc C. ternatea với cấu trúc đặc trưng là
malonylationdelphinidin, thu được chuỗi cạnh 3’5 với Dglucose xen kẽ và bốn axit p-
coumaric với một phân tử axit malonic. Delphinidin glucoside là anthocyanin chính tạo ra
màu xanh lam đặc biệt của loại hoa này.
Các thành phần hóa học chính được tìm thấy ở Clitoria ternatea là các triterpenoids
pentacyclic như taraxerol và taraxerone. Trong rễ có sự hiện diện của ternatins, ancaloit,
flavonoid, saponin, tannin, carbohydrate, protein, nhựa, tinh bột, taraxerol và taraxerone
[34].
Bảng 1.9. Thành phần hóa học của cây hoa đậu biếc
STT Tên hợp chất Cấu trúc
1 Kaempferol

2 Quereetin

3 Myricetin
4 Taxaxerol

5 Tannic acid

6 3-monogluciside

7 β-sitosterol
8 Delphinidin-3,5-
diglucoside

9 Malvidin -3-β-glucoside

p-hydroxycinnamic acid

11 Ethyl-α-D-
galactopyranoside
12 Anthocyanin glucoside

1.7. Giới thiệu về chất màu anthocyanin [2], [35], [36], [51], [52], [53]
1.7.1. Khái niệm vế chất màu anthocyanin
Anthocyanin là chất khá phân cực nên có khả năng tan tốt trong dung môi phân cực
[6], hiện thuộc nhóm các chất màu tự nhiên tan trong nước lớn nhất trong thế giới thực
vật. Thuật ngữ anthocyanin bắt nguồn từ Hi Lạp, trong đó anthocyanin là sự kết hợp giữa
anthos- nghĩa là Hoa và kysanesos- nghĩa là màu xanh. Là sắc tố tự nhiên thuộc nhóm
flavonoid. Anthocyanin, thuộc nhóm flavonoid, là sắc tố trong không bào thực vật, tan
trong nước chịu trách nhiệm về màu đỏ sáng, tím hoặc màu xanh của hoa, vỏ, hạt, quả và
lá. Nguồn cung cấp anthocyanin chính trong quả ăn được như là nho, anh đào, mận, mâm
xôi, dâu tây, táo, đào, việt quất,... Nhóm rau có chứa sắc tố anthocyanin như cà tím, bắp
cải tím, tía tô, hoa đậu biếc,... Cường độ và độ bền màu anthocyanin phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như thành phần cấu trúc, nồng độ chất màu, pH, nhiệt độ, ánh sáng, sự hiện diện
của các chất màu khác, ion kim loại, enzyme, oxy, vitamin c, đường và SO 2,... [37], [38].
Tuy nhiên không chỉ có màu xanh anthocyanin còn mang đến cho thực vật nhiều màu sắc
rực rỡ khác nhau như hồng, đỏ, cam và các gam màu trung gian. Các anthocyanin khi mất
hết nhóm đường được gọi là anthocyanidin hay aglucon. Mỗi anthocyanin có thể bị
glycosyl hóa acylate bởi các loại đường và các axit khác tại các vị trí khác nhau. Vì thế
lượng anthocyanin lớn hơn lượng anthocyanidin từ 15÷20 lần.
Hiện nay các nghiên cứu về quy trình chiêt tách chất màu anthocyanin từ một vài
nguyên liệu như hành lá, tỏi tía, cần tây, càn ta đã được thực hiện bởi các tác giả Kiều Thị
Nhi, Nguyền Tuấn Kiệt, Hoàng Thị Ngọc Nhơn [4],
1.7.2. Cấu trúc hóa học của Anthocyanin
Hiện nay từ thực vật đã phân lập được khoảng 539 anthocyanin khác nhau [39].
Chúng khác nhau do sự khác nhau về các nhóm chức R1 đến R7 có trong phân tử.
Anthocyanin là những glycozit do gốc đường glucose, glactose, … kết hợp với gốc
aglucon có màu được gọi là anthocyanidin. Aglucon của chúng có cấu trúc cơ bản được
mô tả trong hình 1.21. Các gốc đường có thể gắn vào vị trí 3, 5, 7; thường được gắn vào
vị trí 3 và 5 còn vị trí 7 rất ít. Phân tử anthocyanin gắn đường vào vị trí 3 gọi là
monoglycozit, ở vị trí 3 và 5 gọi là diglycozit. Khi thủy phân anthocyanin thu được đường
và anthocyanidol. Các aglucon của anthocyanin khác nhau chính là do các nhóm gắn vào
vị trí R1 và R2 thường là H, OH hoặc OCH3.
Tuy nhiên, chỉ có 6 loại anthocyanidin thường tìm thấy trong thực vật là cyanidin,
delphinidin, malvidin, pelargonidin, peonidin và petunidin. Các glycosid của 3 loại
anthocyanidin không bị metyl hóa (gồm cyanidin, delphinidin và pelargonidin) là phổ
biến nhất trong tự nhiên, chúng chiếm 80% sắc tố có trong lá, 69% sắc tố trong quả và
50% sắc tố trong hoa.

Hình 1.21. Cấu trúc cơ bản của aglucon của anthocyanin


Bảng 1.10. Các nhóm chính của anthocyanidin
Hình 1.22. Cấu trúc phân tử của các anthocyanidin thường gặp trong tự nhiên
Các anthocyanidin thường liên kết với các đường glucose, galactose, rhamnose hay
arabinose bởi liên kết 3-glycosid hay 3,5-diglycosid.

Hình 1.23. Ví dụ về cấu trúc của một anthocyanin phức tạp (delphinidin 3,7,3’,5’-
tetra-(6-O-p-coumaroyl-β-glucosid))
Ngoài ra, liên kết glycosit còn có thể bị thay đổi do sự acyl hóa bởi các acid hữu cơ
hay sự tạo phức với các ion kim loại. Một sự thay đổi nhỏ về pH trong tế bào cùng với
khả năng tổ hợp màu (co-pigmentation) và sự tạo phức ion cũng có thể dẫn đến sự thay
đổi màu sắc rất đa dạng của các anthocyanin.
1.7.3. Tính chất vật lý và hóa học của các anthocyanin
1.7.3.1. Sự hấp thụ ánh sáng và màu sắc
Anthocyanin là một hợp chất có khả năng hấp thụ các tia sáng trong vùng nhìn thấy.
Màu của anthocyanin tạo ra từ màu tím đến xanh của nhiều loại rau quả. Độ hấp thụ
anthocyanin phụ thuộc vào dung môi, pH và nồng độ. Thông thường, pH ở vùng acid
mạnh sẽ có độ hấp thụ lớn hơn. Nồng độ anthocyanin càng lớn, độ hấp thụ càng mạnh. Độ
hấp thụ thể hiện bản chất của mỗi loại anthocyanin do khả năng hấp thụ khác nhau của
chúng. Trong vùng ánh sáng nhìn thấy, các anthocyanin có độ hấp thụ cực đại tại bước
sóng 5 ÷ 540 nm. Độ hấp thụ liên quan mật thiết đến màu sắc của anthocyanin.
Ngoài ra, màu sắc của các anthocyanin còn được quyết định bởi cấu trúc phần
glucosyl hóa (bản chất phân tử đường liên kết với khung anthocyanidin, mức độ và bản
chất của sự este hóa các phân tử đường bởi các acid mạch thẳng hay thơm), nhiệt độ, ánh
sáng, pH dung dịch và sự tổ hợp màu…
1.7.3.2. Tính tan
Anthocyanin là hợp chất khá phân cực do phân tử chứa nhóm chức phân cực (H, -
OH, -OCH3) nên tan tốt trong dung môi phân cực như nước, metanol, axeton, etanol,...
1.7.3.3. Tính không bền [40]
Độ bền của các anthocyanin được quyết định bởi nhiều yếu tố bao gồm cấu trúc
phân tử, nồng độ anthocyanin, pH, nhiệt độ, cường độ và bản chất bức xạ ánh sáng chiếu
vào, sự tổ hợp màu, sự có mặt của các ion kim loại, enzym, oxy, acid ascorbic, đường, các
sản phẩm phân hủy của chúng và sulfur dioxit.
 Ảnh hưởng của cấu trúc
Bản chất và vị trí liên kết của các glycosyl và các nhóm acyl gắn vào aglucon
thường ảnh hưởng đáng kể đến độ bền màu và khả năng hoạt động của anthocyanin.
Một số anthocyanin bền hơn các anthocyanin khác. Nói chung, việc tăng số nhóm –
OH trong phân tử làm giảm độ bền của nó, trong khi đó việc tăng số nhóm – CH3 làm
tăng độ bền của phân tử. Màu sắc của các thực phẩm chứa chất màu anthocyanin có bộ
khung pelargonidin, cyanidin hay delphinidin thường kém bền hơn màu của các thực
phẩm chứa khung petunidi, malvidin. Ngoài ra, các anthocyanin chứa đường galactose
thường bền hơn khi chứa đường arabinose. Gần đây, một số nghiên cứu còn cho thấy các
anthocyanin chứa các nhóm thế acyl hóa thường bền trong quá trình chế biến và bảo quản
hơn so với các chất màu tự nhiên khác. Sự bền hóa này là do sự giảm khả năng tham gia
phản ứng của phân tử anthocyanin với các phân tử nước (tác nhân nucleophile). Màu sắc
của anthocyanin sẽ được ổn định hoàn toàn nếu các anthocyanin mang các acid thơm ở
vòng –B của cation flavylium thay vì là các acid mạch hở.
 Ảnh hưởng của pH
Khi pH thay đổi làm cho cấu trúc của anthocyanin thay đổi, từ đó dẫn đến sự thay
đổi màu sắc. Do trên gốc aglucon có mang điện tích dương nên các anthocyanin có khả
năng nhận H+ hoặc OH- nên làm thay đổi màu sắc của anthocyanin, khi tăng nhóm OH -
màu của anthocyanin chuyển theo hướng sắc màu xanh.

Hình 1.24. Sự thay đổi cấu trúc phân tử và màu sắc của anthocyanin theo pH
Ví dụ:
pH < 2: các anthocyanin thường ở dạng muối oxonium (cation flavylium) màu cam
đến đỏ.
pH = 4 ÷ 5: chúng có thể chuyển về dạng bazơ cacbinol hay bazơ chalcon không
màu.
pH = 6 ÷ 7: ở dạng anion quinoinoid có màu tím.
pH = 7 ÷ 8: ở dạng bazơ quinoidal có màu xanh dương.
 Ảnh hưởng của nhiệt độ
Khi tăng nhiệt độ thì tốc độ phân hủy anthocyanin tăng. Đối với anthocyanin 3-
glucoside khi nhiệt độ tăng sẽ cắt đứt liên kết anthocyanin -3-glucoside tạo thành các gốc
aglucon, gốc aglucol là một gốc kém bền với nhiệt nên màu của anthocyanin giảm dần.
Nhiệt độ cao thúc đẩy sự phân hủy chất màu anthocyanin. Nói chung, ở trên 70°C sẽ
gây ra sự phân hủy và mất màu anthocyanin rất nhiều. Đôi khi nhiệt độ tăng còn dẫn đến
phản ứng Maillard của các đường trong anthocyanin cũng diễn ra (đặc biệt khi có mặt
oxy), làm anthocyanin biến thành màu nâu. Tuy nhiên, các anthocyanin được acyl hóa thì
bền nhiệt hơn các anthocyanin không bị acyl hóa.
Ngoài ra, mức độ ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phân hủy và biến đổi màu sắc
anthocyanin phụ thuộc vào pH. Ví dụ: Ở pH = 2 ÷ 4: nhiệt độ tăng dẫn đến sự mất màu
anthocyanin. Nguyên nhân là do đã xảy ra sự thủy phân liên kết glycosyl của anthocyanin
tạo ra cation flavylium kém bền và sau đó phân hủy thành chalcone không màu.
Nói chung, những yếu tố làm tăng độ bền của anthocyanin theo pH cũng làm tăng
độ bền nhiệt của nó. Ví dụ: Ở 0oC pelargonidin 3-glucosid bền hơn petunidin 3-glucosid,
còn petunidin 3-glucosid lại bền hơn malvidin 3-glucosid. Các arabinose của cyanidin và
peonidin bền hơn galactose tương ứng khi xử lý nhiệt.
Ngược lại, nhiệt độ thấp làm bền hóa và có thể làm tăng hàm lượng anthocyanin. Do
đó, anthocyanin thường chỉ dùng để tạo màu cho các thực phẩm bảo quản lạnh như kem,
sữa chua, thức uống từ sữa, …
 Ảnh hưởng của ánh sáng
Tương tự như nhiệt độ, ánh sáng thúc đẩy sự phân hủy anthocyanin tạo thành cation
flavylium, sau đó chuyển hóa thành các dạng carbinol rồi chalcone không màu. Do vậy,
các dịch chiết anthocyanin bền màu hơn khi bảo quản trong bóng tối. Tuy nhiên, sự acyl
hóa làm tăng độ bền của anthocyanin đối với ánh sáng.
 Ảnh hưởng của oxy không khí và tác nhân oxy hóa
Sự có mặt của oxy không khí làm tăng khả năng phá hủy các anthocyanin, đặc biệt
khi có mặt acid ascorbic. Khác với sự phân hủy nhiệt, các galactosid của anthocyanin bền
đối với sự phá hủy bởi oxy hơn so với arabinosid [21]. Ngoài ra, pH càng cao thì sự phân
hủy anthocyanin bởi oxy không khí càng mạnh. Các anthocyanin cũng phản ứng với các
gốc tự do chứa oxy (ví dụ gốc peroxid). Trong phản ứng này, anthocyanin đóng vai trò là
chất chống oxy hóa. Vì vậy, anthocyanin được xem là có tác dụng ngăn ngừa các bệnh
tim mạch.
 Ảnh hưởng của acid ascorbic
Acid ascorbic thường được bổ sung vào nước ép trái cây để bảo vệ chống oxy hóa
và tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy rằng acid
ascorbic thúc đẩy sự phân hủy các anthocyanin. Nguyên nhân là do khi đó xảy ra các
phản ứng polymer hóa, ngưng tụ anthocyanin dẫn đến sự nhạt màu sắc tố hay sự phân hủy
anthocyanin gây ra bởi H2O2 tạo thành trong quá trình oxy hóa acid. Tuy nhiên, độ bền
của các anthocyanin acyl hóa tăng lên khi có mặt acid ascorbic.
 Ảnh hưởng của đường
Đường có thể có trong hoa quả, dịch chiết anthocyanin tự nhiên hay được bổ sung
vào trong quá trình sản xuất, chế biến. Nghiên cứu cho thấy đường (ví dụ: saccharose,
fructose, glucose, xylose) và các sản phẩm phân hủy của chúng (ví dụ: furfural) làm giảm
độ bền của các anthocyanin. Phản ứng của anthocyanin với các sản phẩm phân hủy của
đường và acid ascorbic dẫn đến sự tạo thành các sắc tố anthocyanin polymer hóa có màu
nâu. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy đường cũng có thể bảo vệ màu của các sản
phẩm chứa anthocyanin khỏi sự phân hủy trong điều kiện bảo quản lạnh.
 Ảnh hưởng của enzyme
Sự bất hoạt enzym làm tăng độ bền của anthocyanin. Các enzym phân hủy
anthocyanin thường gặp nhất là glycosidase (làm phá vỡ liên kết cộng hóa trị giữa đường
và khung aglucon của anthocyanin), peroxidase và các phenolase (như phenol oxydase,
polyphenol oxydase). Trong phản ứng phân hủy anthocyanin bởi enzym, các enzym trước
tiên sẽ oxy hóa các hợp chất phenolic có trong môi trường tạo thành các quinon, sau đó
các quinon sẽ phản ứng với anthocyanin làm phân hủy chất màu và dẫn đến sự tạo thành
các sản phẩm ngưng tụ có màu nâu.
 Ảnh hưởng của sự tổ hợp màu
Màu sắc của các anthocyanin có thể được ổn định hay tăng cường khi có mặt một số
chất không màu hay màu nhạt có trong môi trường. Hiện tượng này được gọi là sự tổ hợp
màu (copigmentation). Chất làm ổn định hay tăng cường màu của anthocyanin được gọi
là chất tổ hợp màu (copigment). Ví dụ: Màu đỏ của nước ép quả nho chứa sắc tố malvidin
3-glucosid chuyển sang đỏ hơi xanh khi thêm tannin hay acid gallic.
Sự tổ hợp màu gây ra sự chuyển dịch cực đại hấp thụ của anthocyanin về phía vùng
sóng dài (tương ứng chuyển từ màu đỏ sang xanh) và làm màu đậm hơn. Nguyên nhân
của sự tổ hợp màu có thể là do sự tạo thành các phức nội phân tử, phức liên phân tử xảy
ra trong dung dịch anthocyanin.

Hình 1.25. Sự tổ hợp màu liên phân tử giữa delphinidin 3-glucosid và rutin tạo
thành ra 2 dạng phức: phức kẹp (A) và phức song song (B)

Hình 1.26. Sự tổ hợp màu nội phân tử của các antyhocyanin acyl hóa
Hiện tượng tổ hợp màu có thể được ứng dụng để cải thiện màu sắc của các sản phẩm
giàu anthocyanin bằng cách thêm vào các dịch chiết thực vật giàu một chất copigment
thích hợp.
 Ảnh hưởng của nồng độ anthocyanin
Độ bền màu và cường độ màu của anthocyanin tăng lên khi tăng nồng độ của nó.
Điều này cũng có nghĩa là khi tăng hàm lượng tổng của anthocyanin thì sẽ quan trọng hơn
là khi tăng hàm lượng các anthocyanin riêng lẻ.
1.8. Tình hình nghiên cứu, khai thác và sử dụng anthocyanin tự nhiên
Một số đề tài, công trình nghiên cứu về anthocyanin trong thời gian gần đây:
 Huỳnh Thị Kim Cúc, Phạm Châu Huỳnh (2013). Xác định hàm lượng anthocyanin
trong một số nguyên liệu rau quả bằng phương pháp pH vi sai, Tạp chí Khoa học & Công
nghệ, Trường Đại học Đà Nẵng. Kết quả cho thấy một số nguyên liệu có hàm lượng
anthocyanin tương đối cao như: quả dâu ta 1,188 %; bắp cải tím 0,909%; lá tía tô 0,397%;
trà đỏ 0,335%, vỏ nho 0,564%, vỏ cà tím 0,441% [1].
 Kiều Thị Nhi, Nguyễn Tuấn Kiệt, Hoàng Thị Ngọc Nhơn (2017). Nghiên cứu quy
trình chiết tách anthocyanin hiệu quả từ hành tím, hành lá, tỏi tía, cần tây, cần ta, Tạp chí
Khoa học Công nghệ và Thực phẩm 12 (1) (2017) 0-7, Đại học Công nghiệp Thực phẩm
TP.HCM. Kết quả thu nhận anthocyanin từ hành tím đạt giá trị cao nhất trong nhóm
nguyên liệu đã khảo sát [4].
Nguyễn Thị Trang (2011). Nghiên cứu chiết xuất chất màu anthocyanin từ cây
Cẩm, Đồ án tốt nghiệp, Trường Đại học Nha Trang. Kết quả xác định được một số thành
phần hóa học cơ bản của lá Cẩm như sau: Hàm lượng nước 78.32%, anthocyanin tổng số
39272 ( mg/kg khô), hiệu suất chiết anthocyanin từ lá Cẩm bằng phương pháp ngâm chiết
ở 0oC và phương pháp siêu âm ở 80oC gần như nhau và khá cao (93-96%) [3].
 Nguyễn Thị Hiền và các cộng sự (2013). Nghiên cứu chiết tách anthocyanin từ
Hibiscus Sabdariffa - ứng dụng để sản xuất giấy chỉ thị phát hiện nhanh hàn the trong
thực phẩm, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Kết quả
nghiên cứu sản xuất được giấy chỉ thị phát hiện nhanh hàn the trong thực phẩm có
ngưỡng tối thiểu tốt hơn và độ nhạy tương tự như giấy nghệ [5].
1.8.1. Tình hình trên thế giới
Trên thế giới chất màu anthocyanin thường được thu nhận từ dịch chiết của quả nho,
vỏ nho, bắp cải đỏ, củ cải đỏ, … Hỗn hợp anthocyanin sử dụng rộng rãi nhất trong thực
phẩm là anthocyanin từ vỏ nho (E163 (i)) và anthocyanin chiết xuất từ quả nho đen (E163
(iii)). Hiện nay, bắp cải đỏ (Brassica oleracea L.) cũng được xem là nguồn anthocyanin tự
nhiên có giá trị do có khả năng trồng với diện tích lớn, có thể thu hoạch quanh năm, tạo ra
màu hồng sáng ở pH thấp và màu hồng/tím hoa cà ở pH trung tính, không có mùi lạ, bền
với nhiệt và ánh sáng hơn so với các anthocyanin chiết từ các nguồn tự nhiên khác như vỏ
nho, quả nho đen, …
Trong thực tế anthocyanin chủ yếu được chiết xuất dưới dạng thô để sử dụng trong
thực phẩm do việc tinh chế anthocyanin khá khó khăn. Sản phẩm anthocyanin thương mại
có thể ở dưới dạng dịch chiết cô đặc hay ở dạng bột khô (bằng cách trộn dịch chiết
anthocyanin cô đặc với chất mang thích hợp rồi sấy phun).

Hình 1.27. Một số dạng sản phẩm anthocyanin thương mại


Hiện nay trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về đặc điểm hình thái và
tác dụng trong nông nghiệp, cũng như y học của cây hoa đậu biếc. Theo tác giả Niral
Kumar Singh cùng các cộng sự, thì cây hoa đậu biếc có rất nhiều dược tính tốt: khả năng
chống oxy hoá, chống ung thư, phòng bệnh tiểu đường … [41]. Nghiên cứu của tác giả
Kamkean N., Wilkinson J. M. cũng chỉ ra rằng trong dịch chiết của hoa đậu biếc có chứa
chất chống oxy hoá và có thể ứng dụng trong sản xuất dược mỹ phẩm [42]. Tại Thái Lan
dịch chiết từ hoa đậu biếc đã được ứng dụng sản xuất gel bôi mắt chống nếp nhăn.
1.8.2. Tình hình trong nước
Ở nước ta, điều kiện khí hậu không thuận lợi lắm cho việc phát triển các vùng
nguyên liệu truyền thống để sản xuất chất màu anthocyanin như các nước vùng ôn đới.
Gần đây, chúng ta cũng đã di thực và thương mại hóa một số loài thực vật giàu
anthocyanin như nho đỏ, nho đen, bắp cải tím, … Tuy nhiên, với sản lượng còn hạn chế,
các nguyên liệu này chủ yếu chỉ dùng làm thực phẩm tươi hay đồ uống (rượu vang, nước
ép quả nho, …).
Các anthocyanin chiết từ hoa đậu biếc tạo nên màu xanh rất đẹp (trong môi trường
trung tính), dễ tan trong nước nên thuận tiện cho việc sử dụng làm chất màu thực phẩm.
Do vậy, hoa đậu biếc đã được sử dụng lâu đời trong dân gian để tạo màu tím rất đẹp cho
thực phẩm (trà hoa đậu biếc, xôi hoa đậu biếc, …). Ngoài ra, hoa đậu biếc khá dễ trồng,
sinh trưởng và phát triển tốt ở nhiều địa phương trong nước lại không đòi hỏi kỹ thuật
canh tác phức tạp và chi phí đầu tư. Có thể nói, hoa đậu biếc là một trong các nguồn
anthocyanin tự nhiên đầy triển vọng, cần được khai thác sử dụng ở nước ta. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu sản xuất chất màu anthocyanin từ hoa đậu biếc chưa được quan tâm
nhiều.
Vì vậy, việc khảo sát khả năng sử dụng dung môi chiết có nhiệt độ sôi thấp hơn để
chiết anthocyanin từ hoa đậu biếc là điều rất cần thiết để có thể đi đến sản xuất công
nghiệp và ứng dụng chất màu này trong thực tế.
CHƯƠNG 2
THỰC NGHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


2.1.1. Nguyên vật liệu
2.1.1.1. Hoa đậu biếc [54]
Hoa đậu biếc được mua tại các chợ trên địa bàn. Đây là một loài hoa rất dễ trồng và
cũng rất dễ sinh trưởng. Hoa có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á, tuy nhiên hiện nay
nó đã được di thực đi phân bố ở nhiều nơi trên thế giới. Đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ,
Việt Nam, … Ở nước ta, mới chỉ có một số tỉnh thành trồng loại hoa này. Nhiều nơi vẫn
chưa biết đến hoa đậu biếc và những công dụng mà nó mang lại đối với sức khỏe và đời
sống.

Hình 2.1.Hoa đậu biếc


2.1.1.2. Vải tơ tằm
Vải tơ tằm 100% được sản xuất tại công ty lụa Mã Châu, thị trấn Nam Phước, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đã được tẩy hồ trước khi nhuộm.

Hình 2.2. Phân xưởng dệt lụa Mã Châu


2.1.2. Hóa chất
Hóa chất sử dụng cho nghiên cứu được trình bày trong Bảng 2.1
Bảng 2.1.Hóa chất sử dụng
STT Tên hóa chất Xuất xứ Độ tinh khiết
1 NaOH Trung Quốc ≥ 96 %
2 Tanin Tách từ vỏ keo lá tràm ≥ 95 %

2.1.3. Hệ thống thiết bị và dụng cụ


Hệ thống thiết bị và dụng cụ cho nghiên cứu được trình bày trong Bảng 2.2
Bảng 2.2. Hệ thống thiết bị và dụng cụ sử dụng
Thiết bị Dụng cụ
 Bộ dụng cụ chưng ninh  Bình cầu
 Máy đo quang UV-Vis  Cốc thủy tinh
 Máy đo pH  Bình tam giác
 Tủ sấy  Bình định mức(25ml, 50ml, 00ml)
 Bếp cách thủy  Các loại pipet
 Cân phân tích  Giấy lọc
 Nhiệt kế dầu
 Ống đong (0ml, 250ml)
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tối ưu hóa các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chiết tách dịch màu từ
hoa đậu biếc, củ dành dành với nhiệt độ chiết tách, thời gian chiết tách, tỉ lệ rắn/lỏng
(nguyên liệu/dung môi), pH của môi trường.
- Phân tích và nhận diện các hợp chất mang màu trong dịch chiết từ hoa đậu biếc và
củ dành dành bằng phương pháp phân tích hiện đại: UV-VIS.
- Nghiên cứu tối ưu hóa các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhuộm vải bằng các
chất màu chiết tách từ hoa đậu biếc như nhiệt độ nhuộm, thời gian nhuộm, số lần nhuộm,
chất cầm màu cho vải sau nhuộm bằng phương pháp CIE LAB.
- Đánh giá độ bền màu với giặt của vải nhuộm bằng dịch chiết từ hoa đậu biếc.
Hoa đậu biếc

Xử lí sơ bộ

Chiết tách bằng phương pháp chưng ninh

Nghiên cứu tối ưu hóa quá trình chiết tách

Tỉ lệ nguyên Nhiệt độ chiết Thời gian chiết pH của môi


liệu/dung môi tách tách trường

Đánh giá dịch chiết Đo UV- VIS Xác định mật độ quang

Hình 2.3. Quy trình trích ly chất màu từ hoa đậu biếc
Quá trình trích ly chất màu từ hoa đậu biếc trong dung môi nước được thực hiện như
Hình 2.3, với những điều kiện tối ưu về tỉ lệ nguyên liệu/dung môi, nhiệt độ, thời gian.
Dịch chiết tối ưu trích ly từ hoa đậu biếc được nhuộm trên vải tơ tằm 100% theo sơ
đồ Hình 2.4.

Dịch chiết tối ưu từ quá


trình chiết tách
Nhuộm vải

Nhiệt độ Thời gian nhuộm Số lần nhuộm Chất cầm


nhuộm màu

Xử lí sau nhuộm

Sản phẩm nhuộm

Đánh giá độ bền màu với giặt

Hình 2.4. Quy trình nhuộm vải


2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp trích ly chất màu thiên nhiên
Luận văn sử dụng phương pháp trích ly ngâm (chiết ngâm) để trích ly chất màu từ
hoa đậu biếc.
Phương pháp trích ly chiết ngâm hay còn gọi là đun cách thủy được tiến hành ở
nhiệt độ dưới 100oC, ở áp suất 1 atm (hay 1.325 Pa), là phương pháp tương đối đơn giản
và dễ lắp đặt, gia nhiệt gián tiếp qua nước, tránh hiện tượng quá nhiệt khi đun nóng, hạn
chế được hiện tượng cháy chất cần đun. Bên cạnh đó, sử dụng nhiệt gián tiếp từ nước sẽ
góp phần kiểm soát được nhiệt độ và giảm nhiệt nhanh nếu tăng cao hơn so với nhiệt độ
khảo sát [9]. Phương pháp này được ứng dụng nhiều trong công nghệ tách chất màu thiên
nhiên từ thực vật.
Quá trình chiết tách chất màu từ hoa đậu biếc được thực hiện trên bộ chưng ninh tại
phòng thí nghiệm, trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng.
2.3.2. Phương pháp quang phổ hấp thụ phân tử UV-Vis
Để xác định sơ bộ thành phần các nhóm chức có thể tồn tại trong dịch chiết, xác
định số nối đôi liên hợp, bước sóng cực đại, độ hấp thu quang A, tính độ tận trích của dịch
chiết lên vật liệu, thông thường xác định bằng cách kiểm tra quang phổ khả kiến - tử
ngoại (UV-Vis). Một số ít nhóm chức có thể xác định nhờ phổ UV-VIS, nhưng đặc biệt
hữu ích là xác định sự có mặt và giải thích bản chất của các hệ liên hợp có vòng thơm.
Các chất có màu là do trong phân tử của các chất chứa nhiều nhóm nối đôi hay nối ba
như C=C, C=O, C=N, N=N, C≡C, N≡N, -NO2… Do vậy, chúng được gọi là nhóm mang
màu. Nếu trong phân tử có nhiều nhóm mang màu liên hợp tạo thành mạch dài thì màu
của chất sẽ càng đậm. Các chất màu đậm khi đo phổ tử ngoại khả kiến cho λmax nằm ở
vùng có bước sóng dài. Dựa vào λmax, có thể biết được loại liên kết:
λmax < 150nm: chỉ có loại liên kết σ của hợp chất no
λmax > 150 nm: có liên kết đôi
λmax quanh vùng 200÷260 nm có thể có benzen và dẫn xuất của benzen
λmax >280 nm: hệ liên hợp
λmax càng lớn thì hệ liên hợp càng dài. Hầu hết các phân tử hữu cơ trong suốt trong
một phần của phổ điện tử được gọi là vùng tử ngoại (Ultraviolet-UV) và vùng khả kiến
(visible-VIS) với các bước sóng từ 190÷800 nm. Phổ tử ngoại và khả kiến của hợp chất
hữu cơ gắn liền với các mức năng lượng electron. Nói chung các bước chuyển xảy ra giữa
một orbitan liên kết hay cặp electron không chia sẻ và một orbitan không liên kết hay
phản liên kết. Khi đó bước sóng hấp thụ là số đo khoảng cách của các mức năng lượng
giữa các orbitan. Khoảng cách năng lượng lớn nhất được tìm thấy khi các electron ở liên
kết bị kích thích, cho hấp thụ trong vùng 120÷200 nm. Có hai định luật thực nghiệm được
sử dụng tính cường độ hấp thụ. Định luật Lambert phát biểu rằng phần tia tới bị hấp thụ
phụ thuộc vào cường độ của nguồn. Định luật Beer phát biểu rằng sự hấp thụ tỷ lệ với
phân tử hấp thụ. Từ các định luật này có phương trình của định luật Beer-Lambert [9] như
sau:
I
A= log 0 =εLC (2.1)
I
Trong đó:
Io và I: cường độ của tia tới và tia phản xạ tương ứng
L: chiều dày của dung dịch hấp thụ tính bằng cm
C: nồng độ dung dịch tính bằng mol/l
ε: độ hấp thụ phân tử gam và có thứ nguyên là 1000 cm 2/mol, đây là tính chất của
phân tử tham gia bước chuyển electron và không phải là hàm số của các thông số thay đổi
khi chuẩn bị dung dịch.
A: độ hấp thụ hay mật độ quang
Kích thước của hệ hấp thụ và xác suất mà bước chuyển electron sẽ xảy ra, sẽ kiểm
soát độ hấp thụ, nằm trong khoảng từ 0÷104. Các giá trị trên 104 được gọi là sự hấp thụ
có cường độ cao, trong khi giá trị dưới 103. Các bước chuyển bị cấm có độ hấp thụ nằm
trong khoảng từ 0÷1000. Định luật Beer - Lambert được tuân theo hoàn toàn chỉ khi các
dạng đơn lẻ gây ra sự hấp thụ. Tuy nhiên, định luật không thể tuân theo khi một số các
phân tử khác đang hấp thụ nằm ở trạng thái cân bằng, khi chất tan và dung môi kết hợp
tạo một số dạng phức, khi cân bằng nhiệt tồn tại giữa trạng thái electron cơ bản và trạng
thái kích thích ở mức thấp, hay khi các hợp chất huỳnh quang hoặc các hợp chất bị biến
đổi nhờ bức xạ có mặt trong dung dịch.
I
Độ truyền qua T được định nghĩa: T= I (2.2)
0

I
Phần trăm truyền qua T%: T%= I .100 (2.3)
0

Các mối quan hệ giữa mật độ quang A, độ truyền qua T như sau: A= - logT
Kết quả xác định UV-Vis được thực hiện trên thiết bị UV-Vis Spectrophotometer tại
phòng thí nghiệm trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
2.3.3. Phương pháp quang màu CIE LAB
Hệ màu CIE L*a*b* được xây dựng dựa trên khả năng cảm nhận màu của mắt người. Các
giá trị Lab mô tả tất cả những màu mà mắt một người bình thường có thể nhìn thấy được.
Lab được xem là một mô hình màu độc lập đối với thiết bị và thường được sử dụng như
một cơ sở tham chiếu khi chuyển đổi một màu từ một không gian màu này sang một
không gian màu khác.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH
CHIẾT TÁCH DỊCH MÀU TỪ HOA ĐẬU BIẾC
3.1.1. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hoa đậu biếc/thể tích dung môi nước
Quá trình chiết tách dịch màu từ hoa đậu biếc thực hiện trong điều kiện thí nghiệm:

- Thể tích dung môi: 100 mL nước; nhiệt độ: 60oC; thời gian chiết: 60 phút; pH môi
trường 8; khối lượng hoa đậu biếcnhuộm thay đổi: 10g, 15g, 20g, 25g, 30g, 35g.
Kết quả ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hạt điều/thể tích dung môi nước đến phổ
UV-Vis của dịch màu được trình bày ở Hình 3.1 và Bảng 3.1.

Hình 3.1. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các khối lượng hoa đậu biếc khác nhau.
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hoa đậu / thể tích dung môi nước đến giá trị
mật độ quang A tại λmax (450 nm) của dịch chiết.
Khối 10 15 20 25 30 35
lượng (g)
A 0.15 0.19 0.27 0.38 0.92 0.91
Kết quả Hình 3.1 và Bảng 3.1 cho thấy, khi tỷ lệ khối lượng hoa đậu biếc/thể tích
dung môi nước tăng thì mật độ quang của dịch chiết tăng và đạt tối ưu ở tỷ lệ 30g hoa đậu
biếc/100mL nước. Nếu tiếp tục tăng tỷ lệ khối lượng hoa đậu biếc từ 30 đến 35 gam thì
giá trị mật độ quang giảm, nghĩa là hiệu suất chiết cũng giảm dần. Ứng với một thể tích
nước, khi tăng khối lượng nguyên liệu, lượng chất màu trong hoa đậu biếc tách ra càng
nhiều. Tuy nhiên khi tăng lượng hoa đậu biếc vượt quá mức tối ưu mà lượng dung môi
không đổi thì bề mặt tiếp xúc giữa nguyên liệu và dung môi giảm hay lượng dung môi sẽ
không đủ để hòa tan các hợp chất mang màu trong hoa đậu biếc. Do đó chọn tỉ lệ tối ưu là
30g/100 mL nước để khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tiếp theo.
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian đến quá trình chiết tách dịch màu từ hoa đậu biếc
Khảo sát ảnh hưởng của thời gian chiết đến quá trình chiết tách hoa đậu biếc trong
điều kiện: khối lượng hoa đậu biếc: 30 g; thể tích dung môi: 100 mL nước; nhiệt độ chiết:
60oC; pH môi trường là 7; thời gian chiết tách thay đổi: 45 phút, 60 phút, 75 phút, 90
phút.
Kết quả ảnh hưởng của thời gian chiết đến phổ UV-Vis và mật độ quang của dịch
chiết được trình bày ở Hình 3.2 và Bảng 3.2.

Hình 3.2. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các thời gian chiết khác nhau.
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của thời gian chiết đến giá trị mật độ quang A tại max của dịch
chiết.
Thời gian (p) 45 60 75 90
A 0.71 0.92 0.83 0.80
Kết quả Hình 3.2 và Bảng 3.2 cho thấy khi thời gian chiết càng tăng thì lượng chất
màu tách ra càng tăng và đạt cao nhất ở 60 phút. Nếu tiếp tục tăng thời gian thì lượng chất
màu giảm xuống. Thời gian chiết phụ thuộc vào nguyên liệu, dung môi và nhiệt độ chiết.
Khi thời gian chiết càng dài thì hiệu suất càng cao. Tuy nhiên đến một ngưỡng thời gian
nhất định việc tăng thời gian không làm tăng hiệu quả chiết mà còn ảnh hưởng đến cấu
trúc chất màu hoặc có thể tách ra các chất khác có ảnh hưởng đến màu của dịch nên mật
độ quang giảm. Vì vậy, 60 phút là khoảng thời gian đủ để hòa tan hoàn toàn các chất màu
có trong hoa đậu biếc nên chọn thời gian tối ưu là 60 phút để khảo sát các yếu tố ảnh
hưởng tiếp theo.
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình chiết chất màu từ hoa đậu biếc
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình chiết chất màu từ hoa đậu biếc thực hiện
trong điều kiện thí nghiệm: khối lượng hoa đậu biếc: 30g; thể tích dung môi: 100 mL
nước; thời gian trích ly: 60 phút; pH môi trường là 7; nhiệt độ thay đổi: 60 0C, 700C, 800C,
900C.
Kết quả ảnh hưởng của nhiệt độ đến mật độ quang của các dịch chiết từ hoa đậu biếc
được trình bày ở Hình 3.3 và Bảng 3.3.
Hình 3.3. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các nhiệt độ chiết khác nhau.
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ chiết đến giá trị mật độ quang A tại max của dịch
chiết.
Nhiệt độ (oC) 60 70 80 90
A 0.71 0.91 1.42 1.50
Kết quả Hình 3.3 và Bảng 3.3 cho thấy khi nhiệt độ tăng thì khả năng chiết chất
màu tăng và ở nhiệt độ 90ᵒC có mật độ quang cao nhất. Nguyên nhân: Nhiệt độ chiết có
ảnh hưởng lớn đến quá trình chiết tách chất màu. Khi nhiệt độ tăng sẽ làm tăng vận tốc
khuếch tán của chất màu vào dung dịch, dẫn đến hiệu suất chiết tách chất màu tăng lên
đến một giá trị tối ưu nhất định. Vì vậy nhiệt độ 900C là phù hợp cho quá trình chiết tách.
3.2. NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH NHUỘM VẢI TƠ TẰM BẰNG CHẤT MÀU
TÁCH TỪ HOA ĐẬU BIẾC
3.2.1. Ảnh hưởng của thời gian nhuộm
Quá trình nhuộm được thực hiện trong điều kiện: 20mL dịch chiết/ 1 mẫu vải kích
thước 10 cm x 10 cm; nhiệt độ nhuộm: 60 0C; thời gian nhuộm thay đổi: 30 phút, 45phút,
60 phút, 75 phút, 90 phút; số lần nhuộm: 1 lần.
Các mẫu vải sau khi nhuộm hong khô và đo CIELAB. Kết quả đo CIELAB và
cường độ màu của các mẫu vải được trình bày ở Hình 3.4 và Bảng 3.4.

30 phút 45 phút 60 phút 75 phút 90 phút


Hình 3.4. Ảnh hưởng của thời gian đến quá trình nhuộm vải
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của thời gian nhuộm đến cường độ màu của vải
Thời gian 30 45 60 75 90
(phút)
Cường độ 18,72 19,26 22,59 19,62 18,41
màu
Bảng 3.4 cho thấy, khi tăng thời gian nhuộm thì lượng chất mang màu gắn lên sợi
tơ càng nhiều và làm vải đậm màu. Tuy nhiên, nếu thời gian nhuộm càng kéo dài thì
cường độ màu lại có xu hướng giảm do các chất mang màu trong thuốc nhuộm đã bị oxy
hóa thành pigment không có khả năng nhuộm màu được nữa. Như vậy thời gian nhuộm
tối ưu là 60 phút.
3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ nhuộm
Ảnh hưởng của nhiệt độ nhuộm được thực hiện trong điều kiện: 20mL dịch chiết/1
mẫu vải kích thước 10 cm x 10 cm; thời gian nhuộm: 60 phút; nhiệt độ nhuộm thay đổi từ
500C - 900C; số lần nhuộm: 1 lần.
Các mẫu vải sau khi nhuộm hong khô và đo CIELAB. Kết quả đo CIELAB và
cường độ màu của các mẫu vải được trình bày ở Hình 3.5 và Bảng 3.5.

50oC 60oC 70oC 80oC 90oC


Hình 3.5. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình nhuộm vải
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của nhiệt độ nhuộm đến cường độ màu của vải
Nhiệt độ 50 60 70 80 90
(oC)
Cường độ 19,45 22,59 24,65 18,78 14,89
màu
Bảng 3.5 cho thấy, nhiệt độ ảnh hưởng đến cường độ màu của vải khi nhuộm. Khi
nhiệt độ tăng từ 50oC đến 70oC thì cường độ màu của vải tăng và đạt cao nhất tại 70 oC.
Nguyên nhân là do khi nhiệt độ tăng thì cấu trúc sợi tơ tằm sẽ mở ra, đồng thời tính linh
động của các phần tử mang màu tăng và vượt qua được rào cản năng lượng hoạt hóa của
quá trình nhuộm nên chất màu dễ gắn chặt vảo sợi vải. Tuy nhiên, cường độ màu vải lại
giảm khi nhiệt độ nhuộm tăng từ 70oC đến 90oC; điều này có thể là do ở nhiệt độ quá cao
các phân tử thuốc nhuộm chuyển động mạnh và liên kết không bền lên bề mặt vật liệu do
giảm đi ái lực với sợi tơ nên màu nhạt hơn. Ngoài ra, ở nhiệt độ quá cao sẽ không đảm
bảo tính mềm mại, tính hút ẩm tốt của vải tơ tằm dẫn đến sự gắn kết của chất màu lên sợi
vải kém. Vì vậy nhiệt độ nhuộm thích hợp là 70oC.
3.2.3. Ảnh hưởng của cầm màu tanin
Đặc điểm của chất màu tự nhiên là kém bền màu với các tác nhân bên ngoài. Vì vậy
cần phải tăng độ bền màu cho vải bằng chất cầm màu. Có nhiều cách cầm màu và phương
pháp cầm màu cho vải. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp
cầm màu sau cho vải bằng tanin. Vải sau khi nhuộm được cầm màu trong điều kiện thí
nghiệm sau: mẫu vải kích thước 10 cm x 10 cm / 20 mL nước; nhiệt độ cầm màu: 70 0C;
thời gian cầm màu: 60 phút; nồng độ chất cầm màu tanin thay đổi từ 2g/L, 5g/L, 10g/L.
Các mẫu vải sau khi nhuộm hong khô và đo CIELAB. Kết quả đo CIELAB và
cường độ màu của các mẫu vải được trình bày ở Hình 3.6 và Bảng 3.6.

2g/L 5g/L g/L


Hình 3.6. Ảnh hưởng của cầm màu tanin đến cường độ màu
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của cầm màu đến cường độ màu của vải
Tanin 2g/L 5g/L g/L
Cường độ màu 16,54 20,62 17,45
Quan sát các mẫu vải và Bảng 3.6 cho thấy, sử dụng nồng độ tannin là 5g/L cho màu
vải sáng, đậm và đều màu. Khi nồng độ tăng lên thì màu vải đậm và có các đám đen xuất
hiện.
Nhận xét: Quan sát các mẫu vải và Bảng 3.6 cho thấy vải sau khi nhuộm bằng chất
màu trích ly từ hoa đậu biếc và cầm màu bằng dung dịch tanin 5g/L đạt độ bền màu cao
với nước.
KẾT LUẬN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã thu được một số kết quả:
1. Tìm được điều kiện và phương pháp trích ly tối ưu chất màu tự nhiên từ hoa đậu
biếc và củ dành dành bằng phương pháp chưng ninh:
 Hoa đậu biếc:
- Nhiệt độ trích ly: 90oC
- Khối lượng hoa đậu biếcnhuộm: 30g/100 mL nước.
- Thời gian trích ly: 60 phút
- pH = 7
2. Thiết lập được quy trình nhuộm vải tối ưu có sử dụng chất cầm màu là Tanin tăng
khả năng gắn màu của dịch trích ly lên vải tơ tằm. Các thông số tối ưu của quy trình
nhuộm bằng dịch chiết từ hoa đậu biếc và củ dành dành khô như sau:
 Hoa đậu biếc:
- Nhiệt độ nhuộm: 700C
- Thời gian nhuộm: 60 phút
- Số lần nhuộm: 1 lần
- Chất cầm màu: dung dịch Tanin với nồng độ 5g/L.
3. Vải sau khi nhuộm bằng chất màu trích ly từ hoa đậu biếc và cầm màu bằng dung
dịch Tanin 5g/L đạt độ bền màu cao với giặt.
KIẾN NGHỊ
- Cần có những nghiên cứu tiếp theo để có thể đề xuất cơ chế cho phản ứng gắn màu
của dịch trích ly từ hoa đậu biếc trên vải tơ tằm.
- Đánh giá sự thay đổi màu sắc và độ bền màu của vải sau nhuộm bằng phương pháp
đo màu trên hệ thống không gian màu LAB.
- Nghiên cứu quy trình tái sử dụng các dịch màu sau nhuộm.
- Nghiên cứu phương pháp sử dụng bã hoa đậu biếc làm phân bón hữu cơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Huỳnh Thị Kim Cúc, Phạm Châu Huỳnh (2013). Xác định hàm lượng
anthocyanin trong một số nguyên liệu rau quả bằng phương pháp pH vi sai, Tạp chí Khoa
học & Công nghệ, Trường Đại học Đà Nẵng.
[2] Huỳnh Thị Thanh (2011). Anthocyanin và những nguyên liệu chứa anthocyanin,
Đồ án môn học, Trường Đại học Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM.
[3] Nguyễn Thị Trang (2011). Nghiên cứu chiết xuất chất màu anthocyanin từ cây
Cẩm, Đồ án tốt nghiệp, Trường Đại học Nha Trang.
[4] Kiều Thị Nhi, Nguyễn Tuấn Kiệt, Hoàng Thị Ngọc Nhơn (2017). Nghiên cứu
quy trình chiết tách anthocyanin hiệu quả từ hành tím, hành lá, tỏi tía, cần tây, cần ta, Tạp
chí Khoa học công nghệ và Thực phẩm 12 (1) (2017) 0-7, Trường Đại học Công nghiệp
Thực phẩm TP.HCM.
[5] Nguyễn Thị Hiền và các cộng sự (2013). Nghiên cứu chiết tách anthocyanin từ
Hibiscus Sabdariffa - ứng dụng để sản xuất giấy chỉ thị phát hiện nhanh hàn the trong
thực phẩm, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
[6] Nguyễn Đức Hạnh, Hoàng Thị Lệ Hằng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Hoàng
Việt (2017). Nghiên cứu tinh sạch Anthocyanin bằng phương pháp sắc ký cột từ củ khoai
lang tím. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - số 12(85), 71-74.
[7] Cao Hữu Trượng, Hoàng Thị Lĩnh (tái bản 2002), Hóa học thuốc nhuộm, NXB
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
[8] PGS.TS. Hoàng Thị Lĩnh (2012) Nghiên cứu khả năng sử dụng chất màu tự
nhiên để nhuộm vải bông và tơ tằm, thiết lập qui trình công nghệ và triển khai ứng dụng
cho một số cơ sở làng nghề dệt nhuộm, Báo cáo đề tài Nghị định thư.
[9] Nguyễn Kim Phi Phụng (2007), Giáo trình phương pháp cô lập hợp chất hữu
cơ, NXB Đại học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh.
[10] Huỳnh Văn Trí (2012), Vật liệu may, NXB Đại học Công Nghiệp Tp. Hồ Chí
Minh, 34 – 154.
Tiếng Anh
[11] Motohashi S and Nakayama T (2008). Clinical applications of natural killer T
cell-based immuno-therapy for cancer. Cancer Sci 99:638-645.
[12] Terahara N, Oda M, Matsui T, Osajima Y, Saito N, Toki K, et al. Five new
anthocyanins ternatins A3, B4, B3, B2 and D2 from Clitoriaternatea flowers. J Nat Prod
1996; 59: 139-144. http://dx.doi.org/.21/np960050a .
[13] Trease, GE và Evans, WC (1983). Pharmacopoeia textbook, 12th version,
Tindall và Co., London, pp. 343-383.
[14] A gusti nieto-galan (2001) Colouring Textiles-A History of Natural
Dyestuffs in Industrial Europe, Springer-Science+Business Media, B.V, Volume 217.
[15] Adeel Shahid, Ali Shaukat, Bhatti.A. Ijaz and Zsila Ferenc, Dyeing of cotton
fabric using Pomegranate (Punica Granatum) Aqueous Extract, Asian Journal Of
Chemistry, 21(5), 2009, 3493-3499.
[16] Arthur D Broadbent (2001), Basic Principles of Textile coloration, Society
of Dyer and colourists.
[17] C L Bird and W S Boston, Eds (1975). The Theory of Coloration of Textiles,
Bradford SDC.
[18] Jain N, Ohal CC, Shroff SK, Bhutada RH, Somani RS, Kasture VS and Kasture
SB (2003). Clitoria ternatea and the CNS. Pharmacology, Biochemistry and Behavior, 75:
529.
[19] C. Mahidol, P. Sahakitpichan and S. Ruchirawat (1994), Bioactive natural
products from Thai plants”, Pure Appl. Chem, Vol. 66, No. -11, pp. 2353-2356.
[20] Hermine Lathrop-Smit (1978) Natural dyes, J. Lorimer.
[21] Francis (1989). Food colourants: Anthocyanins. Cr. Rev. Food Sci. Nutri.
28:273-314.
[22] Keka Sinha, Papi Das Saha, Siddhartha Dat (2012) Extraction of natural dye
from pels of Flame of forest (Butea monosperma) flower: Process optimization using
response surface methodology (RSM), Dyes and Pigments, Volume 94, Issue 2, Pages
212-216, ISSN 0143-7208.
[23] K. Murugesh Babu (2013) Silk Processing, properties and applications. The
Textile Institute, Oxford Cambridge Philadelphia New Delhi, Number 149.
[24] Md. Koushic Uddin, Ms. Sonia Hossain (20) A comparitive study on silk
dyeing with acid dye and reactive dye, International Journal of Engineering &
Technology.
[25] Marcos Almeida Bezerra, Ricardo Erthal Santelli, Eliane Padua Oliveira,
Leonardo Silveira Villar, Luciane Amelia Escaleira (2008) Response surface
methodology (RSM) as a tool for optimization in analytical chemistry, 76, tr.965 – 977.
[26] Niir Board Of Consulnts & Engineers (2005) The Complete Book on Natural
Dyes & Pigments, Asia Pacific Business Press, ISBN: 8178330326, 9788178330327.
[27] Siriwan Kittinaovarat (2006), One-Bath Dyeing and Finishing by Using
exhaustion and Pad-Dry-Cure Methods on Cotton Fabrics Using Mangosteen Rind
Dye and Glyoxal, J. Sci. Res. Chula. Univ., Vol.31 No.2.
[28] Supaluk Teppanrin, Porntip Sae-be, Jantip Suesat, Sirisin Chumrum, and
Wanissara Hongmeng (2012), Dyeing of Cotton, Bombyx Mori and Silk Fabrics with the
Natural Dye Extracted from marind Seed, International Journal of Biochemistry and
Bioinformatics, vol.2, No.3.
[29] Su Yan,Shanshan Pan and Junling Ji (2017), research articles, Silk fabric dyed
with extract of sophora flower bud, tr 308-315.
[30] Thomas Bechtold and Ri Mussak (Edited 2009), Handbook of Natural
Colorants, John Wiley & Sons Ltd ISBN: 978-0-470-51199-2, 65 – 72.
[31] Venkasubramanian Sivakumar, J. Vijaeeswarri, J. Lakshmi Anna (2011)
Effective natural dye extraction from different plant materials using ultrasound,
Industrial Crops and Products, Volume 33, Issue 1, Pages 116-122, ISSN 0926-6690.
[32] Fantz PR (1991). Ethnobotany of Clitoria (Leguminosae). Economic Botany
(New York Botanical Garden Press) 45: 511–520.
[33] Motohashi S and Nakayama T (2008). Clinical applications of natural killer T
cell-based immuno-therapy for cancer. Cancer Sci 99:638-645.
[34] Trease, GE và Evans, WC (1983). Pharmacopoeia textbook, 12th version,
Tindall và Co., London, pp. 343-383.
[35] Kannan, V. (2011), Extraction of Bioactive Compounds from Whole Red
Cabbage and Beetroot using Pulsed Electric Fields and Evaluation of their Functionality,
Master Thesis, Dept. Food Sci. and Tech., University of Nebraska-Lincoln.
[36] Shipp, J., Abdel-Aa, E. M. (20). Food Applications and Physiological Effects of
Anthocyanins as Functional Food Ingredients, The Open Food Science Journal, Vol. 4,
pp. 7-22.
[37] Francis (1989). Food colourants: Anthocyanins. Cr. Rev. Food Sci. Nutri.
28:273-314.
[38] Mazza, G. and Minitiati, E. (1993). Introduction: Anthocyanin in Fruits,
Vegetables and Grains. CRC Press, Boca Raton, Florida, pp: 1-28.
[39] Andersen R.A (2005). Algal culturing techniques. Elsevier/Academic Press,
Burlington, Mass, pp. 226.
[40] Anna Bakowska-Barczak (2005). Acylated Anthocyanins as Stable, Natural
Food Colorants – A Review, Pol. J. Food Nutr. Sci., Vol. 14/55, No 2, pp. 7-116.
[41] Niraj Kumar Singh, Jeetendra Kumar Gupta, Kamal Shah, et al (2017). A
review on Clitoria ternatea (Linn.): Chemistry and pharmacology. OMICS Group eBooks,
2017.
[42] Kamkean N., Wilkinson J. M. (2009). The antioxidant activity of Clitoria
ternatea flower petal extracts and eye gel. Wiley online Library, phytotherapy research.
Trang web
[43]https://baomoi.com/cong-nghiep-thoi-trang-thu-pham-gay-o-nhiem-nguon-
nuoc/c/25984363.epi
[44]http://nhanong.com.vn/chung-tay-hoi-sinh-to-tam-xu-quang-mid-4-6-0-
26980.html
[45] https://nhasilkcorp.com/lang-nghe-det-lua-viet/
[46]http://www.vhttdlqnam.gov.vn/index.php/nghien-c-u-tim-hi-u-v-nganh/chuyen-
m-c-van-hoa/danh-nhan-ten-du-ng/140-di-s-n-van-hoa-v-t-th/638-to-t-m-qu-ng-nam-
trong-con-du-ng-to-l-a-tren-bi-n
[47] https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A5a
[48]http://vui.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/cay-chat-mau-tu-nhien-tiem-nang-lon-
nhung-bo-ngo.html
[49]https://caycanhhanoi.vn/cay-canh/cay-hoa-dau-biec-dau-hoa-tim-bong biec?
v=e14da64a5617
[50] https://www.researchgate.net/publication/263714827_Clitoria_ternatea_L_Old_
and_new_aspects
[50] https://www.researchgate.net/publication/312498930_Phytochemistry_and_pha
rmacological_activities_of_Clitoria_ternatea
[51] http://en.wikipedia.org/wiki/anthocyanin
[52] http://community.h2vn.com/index.php?topic=3633.0
[53] http://www.micro-ox.com/chem_tan.htm
[54] https://baokhuyennong.com/hoa-dau-biec/

You might also like