Professional Documents
Culture Documents
NĂM 2021
Tên công trình: NGHIÊN CỨU NHUỘM VẢI TƠ TẰM QUẢNG NAM
BẰNG CHẤT MÀU CHIẾT TÁCH TỪ HOA ĐẬU BIẾC
Đà Nẵng - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nghiên
cứu nêu trong luận văn này là trung thực và nội dung này chưa từng được tác giả khác
công bố.
Nghề dệt lụa xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc, có thể từ rất sớm
khoảng năm 6000 TCN nhưng chắc chắn là khoảng năm 3000 TCN là đã có. Ban đầu, chỉ
có vua mới được dùng hoặc ban tặng cho người khác tuy nhiên sau đó thì lụa dần dần
được các tầng lớp xã hội ở Trung Quốc dùng, ở nhiều nơi rồi lan ra đến các vùng khác
của châu Á. Lụa nhanh chóng trở thành một thứ hàng cao cấp ở những nơi mà thương
nhân người Hoa đặt chân tới, bởi nó bền và có vẻ đẹp óng ánh. Nhu cầu về lụa thì nhiều
và nó trở thành một ngành thương nghiệp xuyên quốc gia. Tháng 7 năm 2007, các nhà
khảo cổ đã phát hiện ra những mẫu vải lụa được dệt và nhuộm một cách tinh xảo trong
một ngôi mộ ở tỉnh Giang Tây có từ đời nhà Đông Chu, cách đây khoảng 2500 năm.
Bằng chứng đầu tiên về việc mua bán tơ lụa là việc phát hiện sợi tơ trong tóc của
một xác ướp Ai Cập. Lụa đã được đưa tới tiểu lục địa Ấn Độ, Trung Đông, châu Âu và
Bắc Phi thông qua con đường tơ lụa nổi tiếng.
Các vị vua Trung Hoa đã cố gắng giữ bí mật nghề nuôi tằm nhằm giữ thế độc quyền
của người Trung Hoa. Tuy nhiên người Triều Tiên đã học được nghề này vào khoảng năm
200 TCN, sau đó là người Khotan cổ vào khoảng nửa đầu thế kỷ I CN và người Ấn
Độ khoảng năm 300 CN.
Tại Việt Nam, theo thần tích làng Cổ Đô, huyện Ba Vì thì nghề chăn tằm, ươm tơ đã
có từ thời vua Hùng Vương thứ 6 do công chúa Thiều Hoa khởi nghiệp. Nêu theo đó dân
làng vốn giỏi nghề dệt lụa thờ Thiều Hoa làm thành hoàng. Trong thư tịch thì sách Hán
Thư cũng ghi là người Lạc Việt biết trồng dâu nuôi tằm và lại ghi rõ là "một năm có hai
vụ lúa, tám lứa tằm”.
1.1.2. Các làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng ở Việt Nam [45]
1.1.2.1. Làng nghề Vạn Phúc – Hà Đông (Hà Nội)
Làng lụa Vạn Phúc là cơ sở sản xuất tơ lụa nổi tiếng nhất ở Việt Nam, xuất hiện
cách đây hơn 1000 năm, tầm thế kỉ thứ XIII. Ngày xưa, sản phẩm của làng tơ lụa này
thường được chọn để may trang phục cho vua chúa, quan lại. Sản lượng đạt trên 2 triệu
m/năm, có trên 150 cửa hàng trong thôn, còn được bán ở nhiều nơi khác. Năm 1931 –
1932 sản phẩm lụa của làng nghề được quảng bá ra các nước châu Âu, được người Pháp
đánh giá là sản phẩm cao quý nhất, tinh xảo nhất của vùng đất Đông Dương lúc bấy giờ.
Nhưng hiện nay, làng nghề ngày càng bị mai một bởi thị hiếu trị trường, ngày càng ít
người sử dụng hàng lụa thật, lụa nguyên chất, vì thế đầu ra cho sản phẩm lụa ngày càng bị
khó khăn, đồng thời, tính chất đa dạng của sản phẩm lụa không cao, dẫn đến không đáp
ứng được xu thế của thị trường.
1.3. SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT NHUỘM VÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG [43],
[48]
Ngành dệt nhuộm đã phát triển từ rất lâu trên thế giới nhưng nó chỉ mới hình thành
và phát triển hơn 100 năm nay ở nước ta. Trong những năm gần đây, nhờ chính sách đổi
mới mở cửa ở Việt Nam đã có 72 doanh nghiệp nhà nước, 40 doanh nghiệp tư nhân, 40
dự án liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài cùng các tổ hợp đang hoạt động trong
lĩnh vực dệt nhuộm. Với số lượng các xí nghiệp dệt nhuộm đang ngày càng gia tăng như
hiện nay thì ngành công nghiệp dệt nhuộm đang thực sự tiềm ẩn khả năng gây ô nhiễm
môi trường sống rất cao. Theo Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc tại Châu Âu (UNECE),
ngành công nghiệp dệt nhuộm được xem là lĩnh vực gây ô nhiễm thứ hai sau hóa dầu, do
sử dụng rất nhiều loại hoá chất như axit, dung môi hữu cơ kiềm tính, thuốc nhuộm và chất
màu, các hoạt chất bề mặt...Ví dụ, một chiếc áo thun cotton ngắn tay tốn khoảng 2,7 mét
khối nước sạch và 150 gam hóa chất. Một phần đáng kể các hóa chất này xuất hiện trong
dòng thải. Ngân hàng Thế giới ước tính, dệt nhuộm sử dụng 1/4 hóa chất toàn thế giới
mỗi năm và 1/5 lượng nước ô nhiễm toàn cầu do ngành công nghiệp dệt nhuộm thải ra.
Theo nghiên cứu, trong nước thải dệt nhuộm có cả những chất dễ phân giải vi sinh
như bột sắn dùng hồ sợi dọc và những chất khó phân giải vi sinh như: Poli (vinyl axetat),
thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoạt tính và các chất dùng tẩy trắng vải. Với các loại
vải càng sử dụng nhiều xơ sợi tổng hợp như polyester thì càng dùng nhiều thuốc nhộm và
các chất hỗ trợ khó hoặc không phân giải vi sinh, dẫn tới lượng chất gây ô nhiễm môi
trường trong nước thải càng cao.
Hiện mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn chất nhuộm màu chủ yếu là
chất màu hóa học tổng hợp từ Trung Quốc, Hàn Quốc…trong đó, khoảng 50% bằng con
đường không chính thức. Có khoảng 150 loại màu nhuộm vải đang được bán trên thị
trường hiện nay là màu azo, được sản xuất từ các chất có thể gây ung thư như aromatic
amine. Theo PGS-TS Hoàng Thị Lĩnh - giảng viên khoa Dệt May - Thời trang (ĐH Bách
khoa Hà Nội) - sự liên kết giữa màu nhuộm với sợi là sự liên kết không bền chắc, nên vải
có độ bền màu giới hạn. Đặc biệt, khi có lỗi xảy ra trong quy trình nhuộm, như nhuộm
quá màu hoặc sai loại sợi... sẽ dẫn đến tình trạng giải phóng chất màu ra ngoài. Với khả
năng hoà tan trong dầu, các chất dẫn có sẵn màu có thể thẩm thấu qua da người. Khi các
hợp chất này thâm nhập vào cơ thể, chúng bị phân huỷ trong hệ trao đổi chất của cơ thể
và chất aromatic amine nguyên thuỷ sẽ hình thành. Quy trình phân huỷ chất này có thể
xảy ra trong đường ruột, gan hay ngay trên bề mặt da, làm tổn hại đến sức khoẻ, thậm chí
nguy hại đến cả tính mạng người sử dụng.
Bên cạnh đó, công nghiệp dệt, nhuộm của nước ta đang sử dụng một lượng nước rất
lớn phục vụ cho các công đoạn sản xuất, đồng thời xả ra môi trường một lượng nước thải
bình quân từ 12-300m3/tấn vải. Trong đó nguồn ô nhiễm chính là là từ công đoạn dệt,
nhuộm, nấu tẩy. Theo kết quả phân tích nước thải ở làng nghề dệt, nhuộm Vạn Phúc (Hà
Nội) của Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường (Bộ Tư lệnh Hoá học), nhiều chỉ số của
các chất độc hại cao hơn nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
1.4.1.2. Cơ chế xuất hiện màu của các hợp chất hữu cơ [7],[16],[17], [26]
Nhờ những thành tựu của các ngành vật lý và hoá học người ta đã xác định rằng chỉ
có những điện tử vòng ngoài (điện tử hoá trị) của chất màu mới tham gia vào quá trình
hấp thụ ánh sáng kèm theo sự chuyển động của chúng. Khi hấp thụ ánh sáng thì hợp chất
màu sẽ tiếp nhận năng lượng của các hạt photon, làm cho các điện tử vòng ngoài bị
chuyển sang trạng thái kích động, sau đó phần năng lượng này có thể chuyển sang các
dạng: quang năng, hoá năng, nhiệt năng v.v. và hợp chất màu lại trở về trạng thái ban đầu
như vậy sự hấp thụ ánh sáng là kết quả của sự tương tác của các điện tử vòng ngoài của
các nguyên tử và phân tử các hợp chất hữu cơ với photon ánh sáng. Những hợp chất hữu
cơ nào có liên kết các điện tử vòng ngoài với nhân yếu thì chỉ cần năng lượng của các tia
có bước sóng lớn trong miền thấy được của quang phổ cũng đủ làm chuyển dịch và hấp
thụ một phần các tia này làm cho nó có màu. Hợp chất nào có điện tử vòng ngoài liên kết
với nhân càng yếu thì càng cần ít năng lượng để kích động chúng, càng dễ hấp thụ các tia
có bước sóng dài hơn và cho màu sâu hơn. Bởi vậy cấu tạo phân tử của hợp chất màu hay
thuốc nhuộm phải như thế nào để năng lượng của các tia sáng trong miền thấy được của
quang phổ cũng đủ làm thay đổi chuyển động các điện tử vòng ngoài của chúng, làm cho
chúng có màu. Nguyên nhân làm cho các điện tử vòng ngoài liên kết với nhân yếu là:
trong phân tử chứa hệ thống mối liên kết nối đôi cách dài; trong hệ thống này ngoài
nguyên tử cacbon còn có các nguyên tử khác như oxy, nitơ, lưu huỳnh v.v.; do ảnh hưởng
của các nhóm thế; do hiện tượng ion hoá phân tử và cấu tạo phẳng của phân tử.
- Ảnh hưởng của hệ thống liên kết nối đôi cách
Trong các hợp chất hữu cơ thường gặp hai loại liên kết cơ bản: liên kết đơn và liên
kết đôi. Để kích động các điện tử trong mối liên kết đơn cần có một năng lượng lớn,
tương ứng với năng lượng của các tia sóng ngắn nên những hợp chất chỉ chứa một loại
liên kết nối đơn thường không có màu. Ngược lại, các điện tử vòng ngoài của mối liên kết
nối đôi do liên kết với nhân yếu, chúng linh động, nên chỉ cần một năng lượng nhỏ cũng
đủ kích động, nên chúng có khả năng hấp thụ các tia sáng có bước sóng lớn hơn trong
miền thấy được của quang phổ và chúng có màu.
Nếu như các mối liên kết nối đơn và nối đôi trong một hợp chất hữu cơ được xếp
liên tục thành một hệ thống “một cách một” hay còn gọi là “nối đôi cách”, “nối đôi liên
hợp” thì các điện tử vòng ngoài sẽ linh động hơn. Độ linh động của các điện tử vòng
ngoài trong hệ thống này phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
+ Độ dài của hệ thống;
+ Bản chất các nguyên tử chứa trong hệ thống;
+ Cấu tạo của hợp chất (mạch thẳng hay mạch vòng).
Hợp chất hữu cơ chứa trong hệ thống mối liên kết nối đôi cách càng dài thì hệ thống
điện tử vòng ngoài càng linh động, nó càng dễ hấp thụ các tia sáng có bước sóng lớn nên
màu càng sâu. Mặt khác dù có cấu tạo mạch vòng hay mạch thẳng, hợp chất hữu cơ phải
chứa đựng các mối liên kết nối đôi cách lập thành một hệ thống liên tục thì nó mới có khả
năng sâu màu. Sự hấp thụ chọn lọc xảy ra khi trong phân tử chứa hệ liên hợp đủ mở rộng.
Để chất có màu sắc đậm, phân tử của chất đó phải chứa một số lớn các nhóm không no,
được gọi là “nhóm mang màu” (C=C; C=N; N=N; N=O; vòng benzen… , tất cả liên hợp
được với nhau. Đồng thời, để màu sắc được đậm đà, phân tử các chất đó thường phải
chứa các “nhóm trợ màu”, chẳng hạn như OH, NH 2…chứa đôi điện tử tự do cũng tham
gia vào hệ liên hợp. Các nhóm này còn đóng vai trò tác nhân liên kết với bề mặt vải sợi .
Bảng 1.2. Bảng sự chuyển màu do ảnh hưởng nối đối liên hợp [7]
Trong bảng 1.2 là một vài thí dụ minh hoạ ảnh hưởng của độ dài của hệ thống liên
kết nối đôi cách đến năng lượng kích động và khả năng hấp thụ ánh sáng của một số chất.
Nếu như tổng số mối liên kết nối đôi khá lớn, nhưng chúng không nằm thành một hệ
thống nối đôi cách liên tục trong phân tử của hợp chất hữu cơ thì độ linh động của các
điện tử vòng ngoài cũng không tăng lên và hợp chất không có màu hoặc màu không sâu.
Cao su là một thí dụ điển hình, phân tử của nó chứa trên một trăm mối liên kết nối
đôi nhưng chỉ hấp thụ được các tia sáng có bước sóng trong khoảng 200 nm nên có không
có màu.
- Ảnh hưởng của các nguyên tử khác ngoài cacbon
Khi trong hệ thống nối đôi liên hợp của một hợp chất hữu cơ nào đó ngoài cacbon
còn chứa các nguyên tố khác như: O, N, S…v.v...; do các nguyên tử này có điện tích hạt
nhân và khoảng cách từ nhân đến các điện tử vòng ngoài khác nhau, khi nằm chung trong
hệ thống nối đôi liên hợp thì các điện tử vòng ngoài này dễ dàng chuyển dịch từ
nguyên tử này sang nguyên tử khác, nghĩa là chúng linh động hơn, nên các hợp chất này
sẽ hấp thụ được các tia sáng có bước sóng lớn hơn và có màu sâu hơn. Các nhóm
nguyên tử có chứa các liên kết không bão hòa cũng quyết định màu của chất như các
nhóm:
Bảng 1.3. Ví dụ sự chuyển màu do ảnh hưởng của các nguyên tử khác ngoài cacbon
[16]
Các nhóm tạo màu cho hợp chất hữu cơ gọi là nhóm hàm sắc. Những nhóm làm
tăng màu cho nhóm hàm sắc gọi là nhóm trợ sắc. Có hai loại nhóm trợ sắc:
Nhóm đẩy điện tử: -OH, -NH2, -SH, -OCH3, -NHCH3, -N(CH3)2
Nhóm hút điện tử: -NO2, -NO, -COCH3
Chỉ sau khi đưa các nhóm trợ sắc vào thì màu của hợp chất mới trở nên thuần nhất
và có đủ cường độ. Nếu trong phân tử hiện diện đồng thời các nhóm đẩy điện tử và hút
điện tử, hiệu ứng trợ sắc sẽ cao.
- Ảnh hưởng của các nhóm thế
Các phân tử của hợp chất hữu cơ khi ởtrạng thái kích động luôn luôn khác với trạng
thái bình thường của chúng. Khi hấp thụ năng lượng của các tia sáng thì sự phân bố
mật độ điện tử vòng ngoài của chúng sẽ thay đổi, mật độ điện tử sẽ tăng lên hoặc giảm đi
ở những vị trí nhất định của phân tử. Trong phân tử sẽ có những vị trí tích điện dương và
những vị trí tích điện âm, nói khác đi ánh sáng đã làm phân cực hóa chúng, đây là tính
chất chung của tất cả các hợp chất hữu cơ có màu.
Những hợp chất hữu cơ chứa trong phân tử hệ thống nối đôi liên hợp sẽ có khả
năng phân cực dễ hơn các hợp chất khác, khả năng này sẽ tăng lên mạnh mẽ khi ở đầu
mạch và cuối mạch có chứa các nhóm thế có khả năng nhận và nhường điện tử. Điều này
sẽ làm cho các điện tử vòng ngoài linh động hơn và hợp chất sẽ có thể hấp thụ được các
tia sáng có bước sóng lớn hơn và màu sẽ sâu hơn. Các nhóm C=O liên kết với nhau làm
cho hợp chất có màu sậm hơn. Liên kết bền hơn giữa các nguyên tử C thuộc những bộ
phận riêng biệt của phân tử dẫn đến màu sậm hơn và cường độ màu lớn hơn.
Bảng 1.4.Ví dụ sự chuyển màu do ảnh hưởng nhóm thế [17]
Hình 1.12. Mô hình sự hấp thu ánh sáng và màu sắc ở vùng khả kiến [26]
Theo thuyết MO các điện tử trong phân tử được phân bố trên các mức năng lượng
tương ứng với các MO theo thứ tự năng lượng tăng dần. Trong những trường hợp đơn
giản thứ tự mức năng lượng được sắp xếp như sau:
Thuốc nhuộm tự nhiên màu vàng: Tất cả thuốc nhuộm tự nhiên màu vàng đều có
nguồn gốc thực vật. Màu vàng quan trọng hơn cả được dùng trong nhiều thế kỷ qua là
rezeda. Khi phối nó với màu xanh chàm sẽ nhận được màu xanh lục gọi là màu Lincon
tuyệt đẹp [7]. Màu vàng hay vàng nâu phải kể đến flavone, polyene, pyran, iso-quinoline.
Mỗi phân lớp hóa học chức nhiều nhóm màu đa dạng, chẳng hạn pyran colorants chứa 2
nhóm lớn là xanhthons và flavonoids (flavones, isoflavones, flavonols… Chính điều này
đã góp phần tạo ra cho chất màu tự nhiên sự đa dạng và phong phú.
Hình 1.15. Cấu tạo của thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ tía [7]
Thuốc nhuộm tự nhiên màu xanh chàm: Trong các màu xanh tự nhiên có màu xanh
lam và màu xanh chàm được dùng đến ngày nay. Lúc đầu người ta cho rằng đó là hai màu
khác nhau, về sau mới biết chúng có cấu tạo hóa học giống nhau và chính là inđigo được
tách chiết từ cây họ chàm có tên khoa học là Indigofera tinctoria L. Hiện nay inđigo là
một trong hai thuốc nhuộm tự nhiên vẫn còn có ý nghĩa thực tế mặc dù nó đã được tổng
hợp và sản xuất ở qui mô công nghiệp.
Hình 1.16. Công thức cấu tạo của thuốc nhuộm Indigofera tinctoria L [20]
Thuốc nhuộm tự nhiên màu đen: Thuốc nhuộm tự nhiên màu đen có ý nghĩa thực tế
duy nhất là màu đen campec, nó đã được biết từ năm 1500, nhưng đến năm 1812 mới
thực sự có ý nghĩa thực tế khi một nhà hóa học Pháp đã tìm thấy nó có khả năng tạo thành
phức không tan với muối kim loại có màu đen. Khi mới tách từ gỗ campec ra, hợp chất
ban đầu có màu đỏ gọi là hematein, khi kết hợp với muối crôm nó chuyển thành màu đen
vì thế mà gỗ campec trở nên có giá trị. Mặc dù chưa biết cụ thể cấu tạo của phức kim loại
này nhưng người ta cho rằng nó có cấu trúc đại phân tử, trong đó ion crôm liên kết với
các phân tử hematein để tạo thành phức [30]. Màu đen campec được dùng như là một
thuốc nhuộm đơn, riêng biệt, để nhuộm tơ tằm, da và một vài vật liệu khác, vẫn có ý
nghĩa đến ngày nay.
Ở Việt Nam: Hệ quần thể thực vật nước ta đa dạng và phong phú, đồng bào ở khắp
mọi miền đất nước đã biết sử dụng những thực vật tự nhiên tạo màu dùng trong thực
phẩm, dệt lụa, làm thuốc rất có giá trị về kinh tế và dược lý [7]. Khí hậu nhiệt đới tại Việt
Nam và một số nước trong khu vực rất phù hợp cho nhiều loại thực vật phát triển, một số
loài hoa quả trái cây được dùng trong công nghiệp thực phẩm như quả giành giành, bột
nghệ để nhuộm màu vàng v.v…và một số khác dùng trong công nghệ dệt nhuộm. Chưa
có tài liệu nào cho biết niên đại cụ thể người Việt Nam biết dùng chất màu tự nhiên, chỉ
biết rằng từ thời thượng cổ, các dân tộc Việt Nam đã biết sử dụng thuốc nhuộm lấy từ
thảo mộc để nhuộm quần áo, nhuộm tóc, …
Những thập kỷ đầu của thế kỷ này đồng bào thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Bộ đã dùng lá chàm để nhuộm màu xanh lam; dùng nước chiết từ củ nâu để nhuộm màu
nâu tươi, khi nhúng vào bùn ao màu nâu sẽ chuyển thành màu đen rất bền và đẹp do phản
ứng tạo phức giữa thuốc nhuộm và ion kim loại có trong bùn. Ngoài ra để nhuộm nâu và
đen người ta còn dùng lá bàng, vỏ sú, vỏ vẹt…ở một số vùng Nam Bộ còn dùng nước
chiết từ quả mặc nưa để nhuộm lót, sau đó nhúng vào bùn sông Hậu sẽ tạo màu đen bền
và đẹp. Dưới đây là một số loài thực vật được dùng trong công nghệ dệt nhuộm phù hợp
với khí hậu Việt Nam.
Bảng 1.7. Nguồn thuốc nhuộm tự nhiên phù hợp với khí hậu Việt Nam [30]
Tên Phần Màu
Khí Vùng Vật
Truyền thực nhuộm
Tên Loài hậu miền liệu
thống vật
Điều
Bixaorellana Màu vàng Nhiệt Châu Á, Cam,
màu Hạt
L đỏ đới Nam Mỹ vàng
Hạt
Camellia Nhiệt Châu Á Lá Lụa, Vàng,
Trà sinenisi (L) đới Cotton nâu,
xanh,
Kuntza
đen
Nhiệt Lá
Mộc Terminalia Châu Á Vàng,
đới (tươi,
lan cappa L nâu
khô)
Đông
Mặc Diospyros L Nhiệt Trái
Mackloeur Nam Lụa Đen
nưa mollis Griff đới cây
Á
ChâuÁ,
Nhiệt Cotton,
Chàm Indigofera L Chàm Châu Lá Xanh
đới lụa
Mỹ
Châu
Cây lá Lawsonia Nhiệt Cam,
Phi Lá
móng Spinosa L đới nâu đỏ
Châu Á
Châu Á,
Khaya Vàng
Xà cừ Châu Lụa Lá, vỏ
senegalensis nâu
Phi
Lụa,
Gỗ Caesalpinia
Châu Á Gỗ da, Đỏ
vang sappan L
đồ gỗ
Sophora Nhiệt Nụ
Đa Châu Á
Japonica L đới Hoa
Lụa, Đỏ
Curcuma Nhiệt
Nghệ Châu Á Củ da, tươi,
Longa L đới
gỗ đỏ, tím
Nam
Hồng Manilkara Nhiệt Mỹ,
Lá Nâu
xiêm zapo L đới Việt
Nam
Trầu Nhiệt Đông
Piper betle L Lá Nâu
không đới Nam
Á
Australia
châu Á,
châu Xanh
Bạch
Eucalyptus Phi, Lá lá cây
đàn
châu tươi
Mỹ,
châu Âu
Caesalpinia
Mexico, Lụa,
Điệp Pulchernma Vỏ Vàng
châu Á cotton
L
Dioscorea
Củ Việt Nâu,
Girrhose Củ cotton
nâu Nam đen
Lour
Hình 1.18. Cấu trúc mặt cắt ngang của tơ tằm [23]
Thành phần chính của tơ tằm gồm 72-81% Fibroin; 19-28% sericin; 0,8-1,0% axit
béo và sáp; 1,0-1,4% muối và khoáng chất [23]. Fibroin gồm các loại acid amin như
glycine, serisine, analine, tyrosine…nhưng không có systine nên cấu trúc phân tử có phần
khác so với keratin trong len. Fibroin ở dạng mạch thẳng, các phân tử acid amin xếp song
song và chỉ liên kết ngang với nhau bởi những nối hydrogen, đây là cấu trúc dạng β,
không xoắn nên ít đàn hồi cũng như không xốp.
2 Quereetin
3 Myricetin
4 Taxaxerol
5 Tannic acid
6 3-monogluciside
7 β-sitosterol
8 Delphinidin-3,5-
diglucoside
9 Malvidin -3-β-glucoside
p-hydroxycinnamic acid
11 Ethyl-α-D-
galactopyranoside
12 Anthocyanin glucoside
1.7. Giới thiệu về chất màu anthocyanin [2], [35], [36], [51], [52], [53]
1.7.1. Khái niệm vế chất màu anthocyanin
Anthocyanin là chất khá phân cực nên có khả năng tan tốt trong dung môi phân cực
[6], hiện thuộc nhóm các chất màu tự nhiên tan trong nước lớn nhất trong thế giới thực
vật. Thuật ngữ anthocyanin bắt nguồn từ Hi Lạp, trong đó anthocyanin là sự kết hợp giữa
anthos- nghĩa là Hoa và kysanesos- nghĩa là màu xanh. Là sắc tố tự nhiên thuộc nhóm
flavonoid. Anthocyanin, thuộc nhóm flavonoid, là sắc tố trong không bào thực vật, tan
trong nước chịu trách nhiệm về màu đỏ sáng, tím hoặc màu xanh của hoa, vỏ, hạt, quả và
lá. Nguồn cung cấp anthocyanin chính trong quả ăn được như là nho, anh đào, mận, mâm
xôi, dâu tây, táo, đào, việt quất,... Nhóm rau có chứa sắc tố anthocyanin như cà tím, bắp
cải tím, tía tô, hoa đậu biếc,... Cường độ và độ bền màu anthocyanin phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như thành phần cấu trúc, nồng độ chất màu, pH, nhiệt độ, ánh sáng, sự hiện diện
của các chất màu khác, ion kim loại, enzyme, oxy, vitamin c, đường và SO 2,... [37], [38].
Tuy nhiên không chỉ có màu xanh anthocyanin còn mang đến cho thực vật nhiều màu sắc
rực rỡ khác nhau như hồng, đỏ, cam và các gam màu trung gian. Các anthocyanin khi mất
hết nhóm đường được gọi là anthocyanidin hay aglucon. Mỗi anthocyanin có thể bị
glycosyl hóa acylate bởi các loại đường và các axit khác tại các vị trí khác nhau. Vì thế
lượng anthocyanin lớn hơn lượng anthocyanidin từ 15÷20 lần.
Hiện nay các nghiên cứu về quy trình chiêt tách chất màu anthocyanin từ một vài
nguyên liệu như hành lá, tỏi tía, cần tây, càn ta đã được thực hiện bởi các tác giả Kiều Thị
Nhi, Nguyền Tuấn Kiệt, Hoàng Thị Ngọc Nhơn [4],
1.7.2. Cấu trúc hóa học của Anthocyanin
Hiện nay từ thực vật đã phân lập được khoảng 539 anthocyanin khác nhau [39].
Chúng khác nhau do sự khác nhau về các nhóm chức R1 đến R7 có trong phân tử.
Anthocyanin là những glycozit do gốc đường glucose, glactose, … kết hợp với gốc
aglucon có màu được gọi là anthocyanidin. Aglucon của chúng có cấu trúc cơ bản được
mô tả trong hình 1.21. Các gốc đường có thể gắn vào vị trí 3, 5, 7; thường được gắn vào
vị trí 3 và 5 còn vị trí 7 rất ít. Phân tử anthocyanin gắn đường vào vị trí 3 gọi là
monoglycozit, ở vị trí 3 và 5 gọi là diglycozit. Khi thủy phân anthocyanin thu được đường
và anthocyanidol. Các aglucon của anthocyanin khác nhau chính là do các nhóm gắn vào
vị trí R1 và R2 thường là H, OH hoặc OCH3.
Tuy nhiên, chỉ có 6 loại anthocyanidin thường tìm thấy trong thực vật là cyanidin,
delphinidin, malvidin, pelargonidin, peonidin và petunidin. Các glycosid của 3 loại
anthocyanidin không bị metyl hóa (gồm cyanidin, delphinidin và pelargonidin) là phổ
biến nhất trong tự nhiên, chúng chiếm 80% sắc tố có trong lá, 69% sắc tố trong quả và
50% sắc tố trong hoa.
Hình 1.23. Ví dụ về cấu trúc của một anthocyanin phức tạp (delphinidin 3,7,3’,5’-
tetra-(6-O-p-coumaroyl-β-glucosid))
Ngoài ra, liên kết glycosit còn có thể bị thay đổi do sự acyl hóa bởi các acid hữu cơ
hay sự tạo phức với các ion kim loại. Một sự thay đổi nhỏ về pH trong tế bào cùng với
khả năng tổ hợp màu (co-pigmentation) và sự tạo phức ion cũng có thể dẫn đến sự thay
đổi màu sắc rất đa dạng của các anthocyanin.
1.7.3. Tính chất vật lý và hóa học của các anthocyanin
1.7.3.1. Sự hấp thụ ánh sáng và màu sắc
Anthocyanin là một hợp chất có khả năng hấp thụ các tia sáng trong vùng nhìn thấy.
Màu của anthocyanin tạo ra từ màu tím đến xanh của nhiều loại rau quả. Độ hấp thụ
anthocyanin phụ thuộc vào dung môi, pH và nồng độ. Thông thường, pH ở vùng acid
mạnh sẽ có độ hấp thụ lớn hơn. Nồng độ anthocyanin càng lớn, độ hấp thụ càng mạnh. Độ
hấp thụ thể hiện bản chất của mỗi loại anthocyanin do khả năng hấp thụ khác nhau của
chúng. Trong vùng ánh sáng nhìn thấy, các anthocyanin có độ hấp thụ cực đại tại bước
sóng 5 ÷ 540 nm. Độ hấp thụ liên quan mật thiết đến màu sắc của anthocyanin.
Ngoài ra, màu sắc của các anthocyanin còn được quyết định bởi cấu trúc phần
glucosyl hóa (bản chất phân tử đường liên kết với khung anthocyanidin, mức độ và bản
chất của sự este hóa các phân tử đường bởi các acid mạch thẳng hay thơm), nhiệt độ, ánh
sáng, pH dung dịch và sự tổ hợp màu…
1.7.3.2. Tính tan
Anthocyanin là hợp chất khá phân cực do phân tử chứa nhóm chức phân cực (H, -
OH, -OCH3) nên tan tốt trong dung môi phân cực như nước, metanol, axeton, etanol,...
1.7.3.3. Tính không bền [40]
Độ bền của các anthocyanin được quyết định bởi nhiều yếu tố bao gồm cấu trúc
phân tử, nồng độ anthocyanin, pH, nhiệt độ, cường độ và bản chất bức xạ ánh sáng chiếu
vào, sự tổ hợp màu, sự có mặt của các ion kim loại, enzym, oxy, acid ascorbic, đường, các
sản phẩm phân hủy của chúng và sulfur dioxit.
Ảnh hưởng của cấu trúc
Bản chất và vị trí liên kết của các glycosyl và các nhóm acyl gắn vào aglucon
thường ảnh hưởng đáng kể đến độ bền màu và khả năng hoạt động của anthocyanin.
Một số anthocyanin bền hơn các anthocyanin khác. Nói chung, việc tăng số nhóm –
OH trong phân tử làm giảm độ bền của nó, trong khi đó việc tăng số nhóm – CH3 làm
tăng độ bền của phân tử. Màu sắc của các thực phẩm chứa chất màu anthocyanin có bộ
khung pelargonidin, cyanidin hay delphinidin thường kém bền hơn màu của các thực
phẩm chứa khung petunidi, malvidin. Ngoài ra, các anthocyanin chứa đường galactose
thường bền hơn khi chứa đường arabinose. Gần đây, một số nghiên cứu còn cho thấy các
anthocyanin chứa các nhóm thế acyl hóa thường bền trong quá trình chế biến và bảo quản
hơn so với các chất màu tự nhiên khác. Sự bền hóa này là do sự giảm khả năng tham gia
phản ứng của phân tử anthocyanin với các phân tử nước (tác nhân nucleophile). Màu sắc
của anthocyanin sẽ được ổn định hoàn toàn nếu các anthocyanin mang các acid thơm ở
vòng –B của cation flavylium thay vì là các acid mạch hở.
Ảnh hưởng của pH
Khi pH thay đổi làm cho cấu trúc của anthocyanin thay đổi, từ đó dẫn đến sự thay
đổi màu sắc. Do trên gốc aglucon có mang điện tích dương nên các anthocyanin có khả
năng nhận H+ hoặc OH- nên làm thay đổi màu sắc của anthocyanin, khi tăng nhóm OH -
màu của anthocyanin chuyển theo hướng sắc màu xanh.
Hình 1.24. Sự thay đổi cấu trúc phân tử và màu sắc của anthocyanin theo pH
Ví dụ:
pH < 2: các anthocyanin thường ở dạng muối oxonium (cation flavylium) màu cam
đến đỏ.
pH = 4 ÷ 5: chúng có thể chuyển về dạng bazơ cacbinol hay bazơ chalcon không
màu.
pH = 6 ÷ 7: ở dạng anion quinoinoid có màu tím.
pH = 7 ÷ 8: ở dạng bazơ quinoidal có màu xanh dương.
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Khi tăng nhiệt độ thì tốc độ phân hủy anthocyanin tăng. Đối với anthocyanin 3-
glucoside khi nhiệt độ tăng sẽ cắt đứt liên kết anthocyanin -3-glucoside tạo thành các gốc
aglucon, gốc aglucol là một gốc kém bền với nhiệt nên màu của anthocyanin giảm dần.
Nhiệt độ cao thúc đẩy sự phân hủy chất màu anthocyanin. Nói chung, ở trên 70°C sẽ
gây ra sự phân hủy và mất màu anthocyanin rất nhiều. Đôi khi nhiệt độ tăng còn dẫn đến
phản ứng Maillard của các đường trong anthocyanin cũng diễn ra (đặc biệt khi có mặt
oxy), làm anthocyanin biến thành màu nâu. Tuy nhiên, các anthocyanin được acyl hóa thì
bền nhiệt hơn các anthocyanin không bị acyl hóa.
Ngoài ra, mức độ ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phân hủy và biến đổi màu sắc
anthocyanin phụ thuộc vào pH. Ví dụ: Ở pH = 2 ÷ 4: nhiệt độ tăng dẫn đến sự mất màu
anthocyanin. Nguyên nhân là do đã xảy ra sự thủy phân liên kết glycosyl của anthocyanin
tạo ra cation flavylium kém bền và sau đó phân hủy thành chalcone không màu.
Nói chung, những yếu tố làm tăng độ bền của anthocyanin theo pH cũng làm tăng
độ bền nhiệt của nó. Ví dụ: Ở 0oC pelargonidin 3-glucosid bền hơn petunidin 3-glucosid,
còn petunidin 3-glucosid lại bền hơn malvidin 3-glucosid. Các arabinose của cyanidin và
peonidin bền hơn galactose tương ứng khi xử lý nhiệt.
Ngược lại, nhiệt độ thấp làm bền hóa và có thể làm tăng hàm lượng anthocyanin. Do
đó, anthocyanin thường chỉ dùng để tạo màu cho các thực phẩm bảo quản lạnh như kem,
sữa chua, thức uống từ sữa, …
Ảnh hưởng của ánh sáng
Tương tự như nhiệt độ, ánh sáng thúc đẩy sự phân hủy anthocyanin tạo thành cation
flavylium, sau đó chuyển hóa thành các dạng carbinol rồi chalcone không màu. Do vậy,
các dịch chiết anthocyanin bền màu hơn khi bảo quản trong bóng tối. Tuy nhiên, sự acyl
hóa làm tăng độ bền của anthocyanin đối với ánh sáng.
Ảnh hưởng của oxy không khí và tác nhân oxy hóa
Sự có mặt của oxy không khí làm tăng khả năng phá hủy các anthocyanin, đặc biệt
khi có mặt acid ascorbic. Khác với sự phân hủy nhiệt, các galactosid của anthocyanin bền
đối với sự phá hủy bởi oxy hơn so với arabinosid [21]. Ngoài ra, pH càng cao thì sự phân
hủy anthocyanin bởi oxy không khí càng mạnh. Các anthocyanin cũng phản ứng với các
gốc tự do chứa oxy (ví dụ gốc peroxid). Trong phản ứng này, anthocyanin đóng vai trò là
chất chống oxy hóa. Vì vậy, anthocyanin được xem là có tác dụng ngăn ngừa các bệnh
tim mạch.
Ảnh hưởng của acid ascorbic
Acid ascorbic thường được bổ sung vào nước ép trái cây để bảo vệ chống oxy hóa
và tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy rằng acid
ascorbic thúc đẩy sự phân hủy các anthocyanin. Nguyên nhân là do khi đó xảy ra các
phản ứng polymer hóa, ngưng tụ anthocyanin dẫn đến sự nhạt màu sắc tố hay sự phân hủy
anthocyanin gây ra bởi H2O2 tạo thành trong quá trình oxy hóa acid. Tuy nhiên, độ bền
của các anthocyanin acyl hóa tăng lên khi có mặt acid ascorbic.
Ảnh hưởng của đường
Đường có thể có trong hoa quả, dịch chiết anthocyanin tự nhiên hay được bổ sung
vào trong quá trình sản xuất, chế biến. Nghiên cứu cho thấy đường (ví dụ: saccharose,
fructose, glucose, xylose) và các sản phẩm phân hủy của chúng (ví dụ: furfural) làm giảm
độ bền của các anthocyanin. Phản ứng của anthocyanin với các sản phẩm phân hủy của
đường và acid ascorbic dẫn đến sự tạo thành các sắc tố anthocyanin polymer hóa có màu
nâu. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy đường cũng có thể bảo vệ màu của các sản
phẩm chứa anthocyanin khỏi sự phân hủy trong điều kiện bảo quản lạnh.
Ảnh hưởng của enzyme
Sự bất hoạt enzym làm tăng độ bền của anthocyanin. Các enzym phân hủy
anthocyanin thường gặp nhất là glycosidase (làm phá vỡ liên kết cộng hóa trị giữa đường
và khung aglucon của anthocyanin), peroxidase và các phenolase (như phenol oxydase,
polyphenol oxydase). Trong phản ứng phân hủy anthocyanin bởi enzym, các enzym trước
tiên sẽ oxy hóa các hợp chất phenolic có trong môi trường tạo thành các quinon, sau đó
các quinon sẽ phản ứng với anthocyanin làm phân hủy chất màu và dẫn đến sự tạo thành
các sản phẩm ngưng tụ có màu nâu.
Ảnh hưởng của sự tổ hợp màu
Màu sắc của các anthocyanin có thể được ổn định hay tăng cường khi có mặt một số
chất không màu hay màu nhạt có trong môi trường. Hiện tượng này được gọi là sự tổ hợp
màu (copigmentation). Chất làm ổn định hay tăng cường màu của anthocyanin được gọi
là chất tổ hợp màu (copigment). Ví dụ: Màu đỏ của nước ép quả nho chứa sắc tố malvidin
3-glucosid chuyển sang đỏ hơi xanh khi thêm tannin hay acid gallic.
Sự tổ hợp màu gây ra sự chuyển dịch cực đại hấp thụ của anthocyanin về phía vùng
sóng dài (tương ứng chuyển từ màu đỏ sang xanh) và làm màu đậm hơn. Nguyên nhân
của sự tổ hợp màu có thể là do sự tạo thành các phức nội phân tử, phức liên phân tử xảy
ra trong dung dịch anthocyanin.
Hình 1.25. Sự tổ hợp màu liên phân tử giữa delphinidin 3-glucosid và rutin tạo
thành ra 2 dạng phức: phức kẹp (A) và phức song song (B)
Hình 1.26. Sự tổ hợp màu nội phân tử của các antyhocyanin acyl hóa
Hiện tượng tổ hợp màu có thể được ứng dụng để cải thiện màu sắc của các sản phẩm
giàu anthocyanin bằng cách thêm vào các dịch chiết thực vật giàu một chất copigment
thích hợp.
Ảnh hưởng của nồng độ anthocyanin
Độ bền màu và cường độ màu của anthocyanin tăng lên khi tăng nồng độ của nó.
Điều này cũng có nghĩa là khi tăng hàm lượng tổng của anthocyanin thì sẽ quan trọng hơn
là khi tăng hàm lượng các anthocyanin riêng lẻ.
1.8. Tình hình nghiên cứu, khai thác và sử dụng anthocyanin tự nhiên
Một số đề tài, công trình nghiên cứu về anthocyanin trong thời gian gần đây:
Huỳnh Thị Kim Cúc, Phạm Châu Huỳnh (2013). Xác định hàm lượng anthocyanin
trong một số nguyên liệu rau quả bằng phương pháp pH vi sai, Tạp chí Khoa học & Công
nghệ, Trường Đại học Đà Nẵng. Kết quả cho thấy một số nguyên liệu có hàm lượng
anthocyanin tương đối cao như: quả dâu ta 1,188 %; bắp cải tím 0,909%; lá tía tô 0,397%;
trà đỏ 0,335%, vỏ nho 0,564%, vỏ cà tím 0,441% [1].
Kiều Thị Nhi, Nguyễn Tuấn Kiệt, Hoàng Thị Ngọc Nhơn (2017). Nghiên cứu quy
trình chiết tách anthocyanin hiệu quả từ hành tím, hành lá, tỏi tía, cần tây, cần ta, Tạp chí
Khoa học Công nghệ và Thực phẩm 12 (1) (2017) 0-7, Đại học Công nghiệp Thực phẩm
TP.HCM. Kết quả thu nhận anthocyanin từ hành tím đạt giá trị cao nhất trong nhóm
nguyên liệu đã khảo sát [4].
Nguyễn Thị Trang (2011). Nghiên cứu chiết xuất chất màu anthocyanin từ cây
Cẩm, Đồ án tốt nghiệp, Trường Đại học Nha Trang. Kết quả xác định được một số thành
phần hóa học cơ bản của lá Cẩm như sau: Hàm lượng nước 78.32%, anthocyanin tổng số
39272 ( mg/kg khô), hiệu suất chiết anthocyanin từ lá Cẩm bằng phương pháp ngâm chiết
ở 0oC và phương pháp siêu âm ở 80oC gần như nhau và khá cao (93-96%) [3].
Nguyễn Thị Hiền và các cộng sự (2013). Nghiên cứu chiết tách anthocyanin từ
Hibiscus Sabdariffa - ứng dụng để sản xuất giấy chỉ thị phát hiện nhanh hàn the trong
thực phẩm, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Kết quả
nghiên cứu sản xuất được giấy chỉ thị phát hiện nhanh hàn the trong thực phẩm có
ngưỡng tối thiểu tốt hơn và độ nhạy tương tự như giấy nghệ [5].
1.8.1. Tình hình trên thế giới
Trên thế giới chất màu anthocyanin thường được thu nhận từ dịch chiết của quả nho,
vỏ nho, bắp cải đỏ, củ cải đỏ, … Hỗn hợp anthocyanin sử dụng rộng rãi nhất trong thực
phẩm là anthocyanin từ vỏ nho (E163 (i)) và anthocyanin chiết xuất từ quả nho đen (E163
(iii)). Hiện nay, bắp cải đỏ (Brassica oleracea L.) cũng được xem là nguồn anthocyanin tự
nhiên có giá trị do có khả năng trồng với diện tích lớn, có thể thu hoạch quanh năm, tạo ra
màu hồng sáng ở pH thấp và màu hồng/tím hoa cà ở pH trung tính, không có mùi lạ, bền
với nhiệt và ánh sáng hơn so với các anthocyanin chiết từ các nguồn tự nhiên khác như vỏ
nho, quả nho đen, …
Trong thực tế anthocyanin chủ yếu được chiết xuất dưới dạng thô để sử dụng trong
thực phẩm do việc tinh chế anthocyanin khá khó khăn. Sản phẩm anthocyanin thương mại
có thể ở dưới dạng dịch chiết cô đặc hay ở dạng bột khô (bằng cách trộn dịch chiết
anthocyanin cô đặc với chất mang thích hợp rồi sấy phun).
Xử lí sơ bộ
Đánh giá dịch chiết Đo UV- VIS Xác định mật độ quang
Hình 2.3. Quy trình trích ly chất màu từ hoa đậu biếc
Quá trình trích ly chất màu từ hoa đậu biếc trong dung môi nước được thực hiện như
Hình 2.3, với những điều kiện tối ưu về tỉ lệ nguyên liệu/dung môi, nhiệt độ, thời gian.
Dịch chiết tối ưu trích ly từ hoa đậu biếc được nhuộm trên vải tơ tằm 100% theo sơ
đồ Hình 2.4.
Xử lí sau nhuộm
I
Phần trăm truyền qua T%: T%= I .100 (2.3)
0
Các mối quan hệ giữa mật độ quang A, độ truyền qua T như sau: A= - logT
Kết quả xác định UV-Vis được thực hiện trên thiết bị UV-Vis Spectrophotometer tại
phòng thí nghiệm trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
2.3.3. Phương pháp quang màu CIE LAB
Hệ màu CIE L*a*b* được xây dựng dựa trên khả năng cảm nhận màu của mắt người. Các
giá trị Lab mô tả tất cả những màu mà mắt một người bình thường có thể nhìn thấy được.
Lab được xem là một mô hình màu độc lập đối với thiết bị và thường được sử dụng như
một cơ sở tham chiếu khi chuyển đổi một màu từ một không gian màu này sang một
không gian màu khác.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH
CHIẾT TÁCH DỊCH MÀU TỪ HOA ĐẬU BIẾC
3.1.1. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hoa đậu biếc/thể tích dung môi nước
Quá trình chiết tách dịch màu từ hoa đậu biếc thực hiện trong điều kiện thí nghiệm:
- Thể tích dung môi: 100 mL nước; nhiệt độ: 60oC; thời gian chiết: 60 phút; pH môi
trường 8; khối lượng hoa đậu biếcnhuộm thay đổi: 10g, 15g, 20g, 25g, 30g, 35g.
Kết quả ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hạt điều/thể tích dung môi nước đến phổ
UV-Vis của dịch màu được trình bày ở Hình 3.1 và Bảng 3.1.
Hình 3.1. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các khối lượng hoa đậu biếc khác nhau.
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng hoa đậu / thể tích dung môi nước đến giá trị
mật độ quang A tại λmax (450 nm) của dịch chiết.
Khối 10 15 20 25 30 35
lượng (g)
A 0.15 0.19 0.27 0.38 0.92 0.91
Kết quả Hình 3.1 và Bảng 3.1 cho thấy, khi tỷ lệ khối lượng hoa đậu biếc/thể tích
dung môi nước tăng thì mật độ quang của dịch chiết tăng và đạt tối ưu ở tỷ lệ 30g hoa đậu
biếc/100mL nước. Nếu tiếp tục tăng tỷ lệ khối lượng hoa đậu biếc từ 30 đến 35 gam thì
giá trị mật độ quang giảm, nghĩa là hiệu suất chiết cũng giảm dần. Ứng với một thể tích
nước, khi tăng khối lượng nguyên liệu, lượng chất màu trong hoa đậu biếc tách ra càng
nhiều. Tuy nhiên khi tăng lượng hoa đậu biếc vượt quá mức tối ưu mà lượng dung môi
không đổi thì bề mặt tiếp xúc giữa nguyên liệu và dung môi giảm hay lượng dung môi sẽ
không đủ để hòa tan các hợp chất mang màu trong hoa đậu biếc. Do đó chọn tỉ lệ tối ưu là
30g/100 mL nước để khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tiếp theo.
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian đến quá trình chiết tách dịch màu từ hoa đậu biếc
Khảo sát ảnh hưởng của thời gian chiết đến quá trình chiết tách hoa đậu biếc trong
điều kiện: khối lượng hoa đậu biếc: 30 g; thể tích dung môi: 100 mL nước; nhiệt độ chiết:
60oC; pH môi trường là 7; thời gian chiết tách thay đổi: 45 phút, 60 phút, 75 phút, 90
phút.
Kết quả ảnh hưởng của thời gian chiết đến phổ UV-Vis và mật độ quang của dịch
chiết được trình bày ở Hình 3.2 và Bảng 3.2.
Hình 3.2. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các thời gian chiết khác nhau.
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của thời gian chiết đến giá trị mật độ quang A tại max của dịch
chiết.
Thời gian (p) 45 60 75 90
A 0.71 0.92 0.83 0.80
Kết quả Hình 3.2 và Bảng 3.2 cho thấy khi thời gian chiết càng tăng thì lượng chất
màu tách ra càng tăng và đạt cao nhất ở 60 phút. Nếu tiếp tục tăng thời gian thì lượng chất
màu giảm xuống. Thời gian chiết phụ thuộc vào nguyên liệu, dung môi và nhiệt độ chiết.
Khi thời gian chiết càng dài thì hiệu suất càng cao. Tuy nhiên đến một ngưỡng thời gian
nhất định việc tăng thời gian không làm tăng hiệu quả chiết mà còn ảnh hưởng đến cấu
trúc chất màu hoặc có thể tách ra các chất khác có ảnh hưởng đến màu của dịch nên mật
độ quang giảm. Vì vậy, 60 phút là khoảng thời gian đủ để hòa tan hoàn toàn các chất màu
có trong hoa đậu biếc nên chọn thời gian tối ưu là 60 phút để khảo sát các yếu tố ảnh
hưởng tiếp theo.
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình chiết chất màu từ hoa đậu biếc
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình chiết chất màu từ hoa đậu biếc thực hiện
trong điều kiện thí nghiệm: khối lượng hoa đậu biếc: 30g; thể tích dung môi: 100 mL
nước; thời gian trích ly: 60 phút; pH môi trường là 7; nhiệt độ thay đổi: 60 0C, 700C, 800C,
900C.
Kết quả ảnh hưởng của nhiệt độ đến mật độ quang của các dịch chiết từ hoa đậu biếc
được trình bày ở Hình 3.3 và Bảng 3.3.
Hình 3.3. Phổ UV-Vis của dịch chiết ở các nhiệt độ chiết khác nhau.
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ chiết đến giá trị mật độ quang A tại max của dịch
chiết.
Nhiệt độ (oC) 60 70 80 90
A 0.71 0.91 1.42 1.50
Kết quả Hình 3.3 và Bảng 3.3 cho thấy khi nhiệt độ tăng thì khả năng chiết chất
màu tăng và ở nhiệt độ 90ᵒC có mật độ quang cao nhất. Nguyên nhân: Nhiệt độ chiết có
ảnh hưởng lớn đến quá trình chiết tách chất màu. Khi nhiệt độ tăng sẽ làm tăng vận tốc
khuếch tán của chất màu vào dung dịch, dẫn đến hiệu suất chiết tách chất màu tăng lên
đến một giá trị tối ưu nhất định. Vì vậy nhiệt độ 900C là phù hợp cho quá trình chiết tách.
3.2. NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH NHUỘM VẢI TƠ TẰM BẰNG CHẤT MÀU
TÁCH TỪ HOA ĐẬU BIẾC
3.2.1. Ảnh hưởng của thời gian nhuộm
Quá trình nhuộm được thực hiện trong điều kiện: 20mL dịch chiết/ 1 mẫu vải kích
thước 10 cm x 10 cm; nhiệt độ nhuộm: 60 0C; thời gian nhuộm thay đổi: 30 phút, 45phút,
60 phút, 75 phút, 90 phút; số lần nhuộm: 1 lần.
Các mẫu vải sau khi nhuộm hong khô và đo CIELAB. Kết quả đo CIELAB và
cường độ màu của các mẫu vải được trình bày ở Hình 3.4 và Bảng 3.4.