Phân tầng xã hội là sự phân chia những người trưởng thành trong xã hội thành các nhóm kinh tế xã hội khác nhau. Đồng thời, các nhóm này được xếp hạng theo tôn ti trật tự trên dưới để tạo thành các tầng lớp trong hệ thống. Mỗi tầng bao gồm những người có địa vị tương tự gần với nhau. Hệ thống xếp hạng tôn ti trật tự này là sự bất bình đẳng mang tính cấu trúc và là thuộc tính của xã hội. Sự bất bình đẳng này cũng mang tính thiết chế và có thể trao quyền qua các thế hệ. Trong hệ thống phân tầng , các thành viên sẽ khác nhau về khả năng thăng tiến (di động) bởi địa vị không giống nhau của họ trong các bậc thang xã hội. Phần lớn xã hội cho đến hiện nay đều tồn tại sự phân tầng về tài sản, của cải, quyền lực chính trị, uy tín xã hội, đời sống văn hóa. Đồng thời, xã hội còn phân tầng theo giới, tuổi, tôn giáo và tộc người.(Định nghĩa này được tham khảo từ các nguồn tài liệu (Giddens, Anthony and Mitchell Duneier,2000:174; Giddens, 2001:282). Theo tạp chí khoa học xã hội số 11 (279) 2021 Vấn đề phân tầng xã hội và di động xã hội ua các nghiên cứu trong và ngoài nước của tác giả Hà Thúc Dũng có đề cập đến khái niệm Phân tầng xã hội như sau: “Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội thành nhiều giai tầng khác nhau về của cải, địa vị chính trị, uy tín xã hội cũng như sự khác biệt về trình độ học tập vấn nghề nghiệp, nhà ở, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử”(Bilton, Bonmett, Jones, 1993). Phân tầng xã hội là một chủ đề được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam từ sau thời kỳ Đổi mới, thể hiện qua số lượng các cuộc điều tra và bài báo khoa học. Theo tạp chí khoa học xã hội số 11 (279) 2021 Vấn đề phân tầng xã hội và di động xã hội cuả các nghiên cứu trong và ngoài nước của tác giả Hà Thúc Dũng có đề cập đến khái niệm Di động xã hội như sau: “Di động xã hội là sự chuyển động lên hoặc xuống trong một xã hội phân tầng. Di động xã hội có thể giữa các thế hệ (so sánh người nào đó với cha mẹ/ ông bà của họ) hoặc bên trong một thế hệ (so sánh vị thế của người nào đó trong suốt cuộc đời họ), mặc dù kiểu di động đầu ít được các nhà xã hội học quan tâm hơn kiểu di động sau”. 2.Khái niệm Di động xã hội Di động xã hội thường là sự chuyển dịch trở thành khuôn mẫu của các cá nhân (nhưng đôi khi là cả nhóm) giữa các địa vị KTXH khác nhau trong hệ thống phân tầng của bất khi xã hội nào (Scott, J.. 2009:477; Kerbo, 2000332, 355). -Người ta phân chia thành di động xã hội theo chiều dọc và chiều ngang. +Di động theo chiều dọc là sự chuyển dịch đi lên hoặc đi xuống trong dãy tôn ti thứ bậc xã hội, nhưng khả năng di động đi xuống ít khi được xem xét (Persell,1987:228). Sở dĩ như vậy, bởi vì xã hội công nghiệp hóa thì khả năng di động đi lên của các cá nhân càng lớn. Điều này giải thích vì sao mà các tầng lớp trung lưu càng lớn trong quá trình công nghiệp hóa (Giddens, 2001:293). +Di động theo chiều ngang là sự dịch chuyển từ địa vị xã hổi này sang địa vị khác ngang hàng. Các nhà nghiên cứu thường quan tâm đặc biệt đến di động theo chiều dọc hơn là di động theo chiều ngang, bởi vì quy mô tổng thể của di động theo chiều dọc cho ta biết được một số điều rất quan trọng về hệ thống phân tầng. Chẳng hạn như, mức độ di động theo chiều dọc càng lớn, thì hệ thống phân tầng càng mở và xã hội ngày càng tiến gần đến sự bình đẳng về cơ hội. Hoặc , xã hội trở nên bất bình đẳng hơn là do người ta dựa trên các yếu tố thuộc về trình độ, năng lực và kỹ năng cá nhân (tức những yếu tố giành đạt được) hơn là quy gán sẵn (Kerbo, 2000:334). -Người ta cũng phân biệt di động xã hội giữa các thế hệ và di động xã hội trong một thế hệ. +Di động giữa các thế hệ là sự so sánh địa vị KTXH từ một thế hệ này sang thế hệ tiếp theo. Còn di động trong một thế hệ là sự di động đi lên hoặc đi xuống (tức đi theo chiều dọc) của một cá nhân trải qua trong một thời kì dài ,thậm chí trong cả một cuộc đời lao động của họ. 3. Đo lường Di động xã hội Đo lường di động xã hội nhằm tìm hiểu phương pháp đo lường sự thay đổi từ địa vị gốc ban đầu tới địa vị xã hội tại một thời điểm xác định nào đó. Trước đây, chỉ số gắn kết (Index of Association) thường được sử dụng ruộng rãi trong việc đo lường mức độ gắn kết về địa vị xã hội giữa hai thế hệ. Sau đó, chỉ số này tỏ ra sai lệch. Vì vậy Saburo Yasuda( nhà xã hội học Nhật Bản) đã nghiên cứu ra phương pháp đo lường mới được thể hiện qua chỉ số Yasuda (Yasu da Index) mang tên ông. Phương pháp đo lường di động xã hội giữa các thế hệ của Yasuda và ý nghĩa xã hội học của chúng được trình bày chi tiết trong nguồn tài liệu (Yasuda, 1964, 1971; Kosaka, 1994:54-60, 186-187).