You are on page 1of 34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


LỚP: L10

NHÓM: 7

HỌC KỲ 221, NĂM HỌC 2022-2023

ĐỀ TÀI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.


LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN
TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY.

GVHD: ThS. Phan Thị Thanh Hương


Sinh viên thực hiện MSSV
Phạm Thị Nguyệt Hằng 1911116
Trần Thị Thu Hằng 1913287
Nguyễn Lê Hảo Hảo 1913271
Phan Thị Thu Hiền 1911175
Văn Trọng Hiển 1913388

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


LỚP: L10

NHÓM: 7

HỌC KỲ 221, NĂM HỌC 2022-2023

ĐỀ TÀI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.


LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN
TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY.

GVGD: ThS. Phan Thị Thanh Hương


Sinh viên thực hiện MSSV
Phạm Thị Nguyệt Hằng 1911116
Trần Thị Thu Hằng 1913287
Nguyễn Lê Hảo Hảo 1913271
Phan Thị Thu Hiền 1911175
Văn Trọng Hiển 1913388

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022

2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ THẢO LUẬN NHÓM BTL


Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Lớp 10 – Nhóm 7

Đề tài:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay.

Kết quả
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công (Nhóm tự đánh giá mức độ Ghi chú
đóng góp của từng cá nhân)
1 1911116 Phạm Thị Nguyệt Hằng 2.2 100%
2 1913287 Trần Thị Thu Hằng 1.4, 1.5, 2.1, Tổng hợp 100%
3 1913271 Nguyễn Lê Hảo Hảo Mở đầu, Kết luận 90%
4 1911175 Phan Thị Thu Hiền 2.3 90%
5 1913388 Văn Trọng Hiển 1.1, 1.2, 1.3 90%
NHẬN XÉT,
ĐÁNH GIÁ CỦA
GIẢNG VIÊN
Họ và tên nhóm trưởng:Trần Thị Thu Hằng Số ĐT: 0328196303 Email: hang.tranbbh_614@hcmut.edu.vn
NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)
GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)
Trần Thị Thu Hằng

1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3

PHẦN NỘI DUNG 5

CHƯƠNG 1 5

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 5

1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản 5

1.2. Các mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải
do Đảng Cộng sản lãnh đạo 8

1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết dân tộc, lấy liên
minh công nông làm nền tảng 10

1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc 12

1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
mạng 14

CHƯƠNG 2 17

LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC
BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY 17

2.1. Vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay 17

2.2. Thực trạng việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây 19

dựng Tổ quốc hiện nay 19

2.2.1. Ưu điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc hiện nay 19

1
2.2.2 Khuyết điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc hiện nay 22

2.3. Thực hiện việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng
Tổ quốc hiện nay 25

PHẦN KẾT LUẬN 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

2
PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động, phát triển nhanh
chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng đúng đắn này đã nhận diện
chính xác những vấn đề dân tộc thuộc địa. Đồng thời, nó còn tìm ra con đường đúng đắn
để giải phóng dân tộc thuộc địa cũng như đề cao tinh thần tự lực tự cường dựa vào sức
mạnh dân tộc giành thắng lợi. Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng Người luôn
đứng vững trên lập trường để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc đó là luôn luôn khẳng
định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng, của giai
cấp công nhân từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song song
đó, chủ trương đại đoàn kết dân tộc, tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng được
thực hiện sát sao. Đồng thời, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn
luôn được nêu cao. Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân
tộc với vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy tiềm năng cách mạng của
toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước nhân dân bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc không chỉ có ý nghĩa sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam, mà nó còn có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh
đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc.

Tuy hòa bình đã được lặp lại ở Việt Nam, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện
công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, thanh niên cần phải có khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Vì vậy, mỗi sinh viên trong thời
đại mới cần phải có ý thức được trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ và xây dựng
Tổ quốc hiện nay.

3
Mục đích nghiên cứu đề tài

Liên quan đến đối tượng nghiên cứu, mục đích của đề tài là làm sáng tỏ toàn bộ tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, khẳng định sự đúng đắn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo
vào cách mạng Việt Nam bằng những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong 90 năm
qua.

Nhiệm vụ của đề tài

Để tìm hiểu rõ và nghiên cứu sâu vào chủ đề của nhóm, chúng em đã tiến hành thực
hiện hai nhiệm vụ cần thiết của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ hai, phân tích việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

4
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi Thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách
thống trị nước ta, với truyền thống yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ
chủ quyền, nền độc lập dân tộc, hàng loạt các phong trào yêu nước đã diễn ra sôi nổi gắn
với những khuynh hướng chính trị khác nhau, xong đều chung một kết quả là thất bại. Đất
nước lúc bấy giờ lâm vào “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”. Đó là tình
trạng khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và bế tắc về đường lối cách mạng ở Việt Nam, nó
đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.

Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải
chịu cảnh khốn cùng, lầm than, Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước
của ông cha và Người nhận thấy được con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì “xin
giặc rủ lòng thương”, con đường cùa Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn
mang nặng cốt cách phong kiến. Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước
của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra
đi tìm một con đường mới. Vượt qua tầm nhìn của các bậc tiền bối lúc bấy giờ, Hồ Chí
Minh muốn tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở phương Tây, như Người
đã nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” 1. Từ ngày rời tổ quốc, Người đã
bôn ba nhiều nước, Người đã đi qua Pháp, nhiều nước châu Phi ven biển Đại Tây Dương,
Ấn Độ Dương, đã từng sống ở Mỹ, ở Anh... Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ,

1
Trần Dân Tiên (2015), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.11.

5
tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền
của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy rằng “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”2. Có thể thấy cách mạng tư sản là cuộc cách mạng
không triệt để và người quyết định không đi theo con đường ấy.

Qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người
khẳng định chân lý “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
là cách mạng vô sản.”3 Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga bởi lẽ “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ
nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam... Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”4. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Thực tiễn đã cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ
Chí Minh. Đặc biệt là đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Con đường
giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu
sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, con đường cách mạng
vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội -
giải phóng con người. Còn theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam và các nước thuộc địa do hoàn

2
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.296.
3
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.30.
4
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.304.

6
cảnh lịch sử - chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải phóng dân tộc - giải phóng xã
hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của
Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần thiết phải tiến hành cách mạng quốc gia tức là cách
mạng giải phóng dân tộc, sau đó là làm cách mạng thế giới (tức cách mạng xã hội chủ
nghĩa). Từ trong thực tế chỉ đạo cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh,
Người chỉ rõ trong lúc này, “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc lúc
này mà không giành lại được, thì quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng không đòi lại
được”5. Năm 1946, Người ra lời kêu toàn quốc kháng chiến: “...Thà hi sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!” 6. Tư tưởng về việc đặt
lợi ích dân tộc lên trên, lên trước được thể hiện cụ thể trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước
năm 1966 bằng một khẩu hiệu, mang một chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, thắng lợi
lịch sử của Cách mạng Tháng Tám dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
năm 1945, Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2/9/1945, Hồ
Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập”7. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên
bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho
việc xác lập và bảo vệ quyền con người.

Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống chiến
tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và chiến tranh
giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng

5
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.281
6
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.480
7
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.3

7
thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống dựng nước và giữ
nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

1.2. Các mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh đã khẳng định cách
mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Ðảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”8. Khẳng định
Đảng Cộng sản như “người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán về vai trò
lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu –
điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính
trị tồn tại và phát triển theo theo những quan điểm của Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp
vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng,
đảng đó phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quân
chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Theo luận điểm chung của chủ nghĩa Mác - Lênin
đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp giữa phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong điều kiện Việt Nam, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào yêu nước đang tập
hợp được tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia chống Pháp, để thành lập được
đảng cộng sản phải bắt đầu từ sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu
nước, vào giai cấp công nhân, giác ngộ họ, hình thành các tổ chức cộng sản. Sau này,
Người tổng kết Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Quan điểm của Hồ Chí Minh trên
đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai

8
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.289.

8
cấp, tầng lớp trong xã hội trừ tư sản mại bản và đại địa chủ, tất cả đều có mâu thuẫn dân
tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân với đế quốc thực dân. Những phong
trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước, dần dần
tiến theo xu hướng cộng sản. Rõ nhất là từ sau năm 1925, hàng loạt tổ chức yêu nước ra
đời, nổi bật nhất là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Hồ Chí Minh thành lập. Đấu
tranh giai cấp gắn chặt với đấu tranh dân tộc, rất khó để tách bạch mục tiêu của các phong
trào đó, tuy lực lượng, phương thức, khẩu hiệu của những cuộc đấu tranh có khác nhau,
xong đều cùng một mục tiêu duy nhất đó là giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển là do nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam lúc
bấy giờ, Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của toàn
dân tộc Việt Nam với mục đích được Hồ Chí Minh khẳng định trong tám chữ “Đoàn kết
toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục
tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương
lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ:
chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho
nhân dân.

Về các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh là sự vận
dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của của V.I. Lênin. Người nêu rõ 5
nguyên tắc xây dựng Đảng là: (1) Tập trung dân chủ. (2) Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. (3) Tự phê bình và phê bình. (4) Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. (5) Đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Đặc biệt, Người rất đề cao xây dựng Đảng về đạo đức, xác định mục tiêu
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, để Đảng
thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Luận điểm về tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng là một
điểm sáng tạo mới, thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện của một
xã hội quá độ từ sản xuất nhỏ, lạc hậu đi lên, Người chỉ rõ: “Đảng ta như cơ thể sống, tồn

9
tại trong xã hội, không thể không chịu ảnh hưởng của xã hội, nhất là những hạn chế, thói
hư tật xấu trong xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng phải “là
đạo đức, là văn minh” mới lãnh đạo được nhân dân”9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựa vào
dân để xây dựng Đảng khẳng định mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, với
dân tộc và niềm tin của Người vào nhân dân trong xây dựng Đảng.

1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết dân tộc, lấy
liên minh công nông làm nền tảng

Sinh thời, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý
bằng dân, được lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người cũng khẳng
định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”10. Người
lý giải rằng, “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”11. Có thể thấy được, muốn cách mạng thành công thì
ta cần phải tập hợp và đoàn kết được toàn dân. Điểm nổi bật thể hiện sự sáng tạo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc. Quan niệm trên
của Người là kế thừa từ chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Lênin: “Không có sự đồng tình ủng
hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp
vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được…”12. Từ đó khẳng định cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, hay có thể nói quần chúng nhân dân làm nên lịch
sử.

Trong quan niệm của C. Mác, F. Angghen, lực lượng cách mạng trong cách mạng vô
sản là công nhân; từ sau Công xã Paris là công nhân và nông dân. Với V. I. Lênin, trong
Cách mạng Tháng Mười Nga là công nhân, nông dân và binh lính, chủ trương thành lập xô
viết trong công nhân, nông dân và binh lính. Với Hồ Chí Minh, từ sự phân tích xã hội Việt
Nam, khi độc lập dân tộc bị cướp mất, thì cả dân tộc Việt Nam, bao gồm tất cả các giai
cấp, tầng lớp đều là người nô lệ, đều là “vong quốc nô”. Trừ một số phản động, tay sai cho

9
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.403.
10
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.283.
11
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.287.
12
V.I Lênin (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t39, tr.251.

10
ngoại bang, tất cả mọi người dân Việt Nam đều có mâu thuẫn đối với sự cai trị của thực
dân Pháp. Với niềm tin “hễ là người Việt Nam thì ai ai cũng ít nhiều đều có lòng yêu nước”,
Người chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc. Trong lực lượng cách
mạng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định nòng cốt, chủ lực là công - nông và lao động
trí óc. Theo Người đó là những lực lượng trung kiên nhất của cách mạng, gan góc đấu
tranh, không sợ hy sinh gian khổ. Từ lực lượng chủ lực, nòng cốt của cách mạng lôi cuốn
toàn dân tộc tham gia cuộc đấu tranh giải phóng. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng ở Việt Nam.

Vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách
mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công - nông là gốc của cách mạng, còn trí thức
tiểu tư sản là bầu bạn của công - nông. Đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dù
trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc hay trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ chủ
nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, liên minh công - nông - trí
thức luôn là nhân tố đóng vai trò quyết định. Sự sáng tạo, độc lập của Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn thể hiện trong việc vận dụng quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào tình hình cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mà trọng tâm
chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Người khẳng định: “Quần chúng là những người
sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo
ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa”13. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Thông qua Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc chống đế quốc Mỹ cứu nước
(năm 1967), một lần nữa, Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân
của cách mạng Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, với

13
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t2, tr 41.

11
khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó chính là sự kế thừa và phát huy tinh
thần độc lập dân tộc của dân tộc ta trong thời đại mới.

1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem
thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản
ở chính quốc. Quan điểm này vô hình đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong
trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6/1924), Hồ
Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức ở các thuộc địa”14, Người sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người đã
nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, đánh giá
đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.

Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản khi nghe một số ý kiến coi trọng cách mạng
vô sản ở chính quốc hơn thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn nêu ý kiến của mình
“Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng
chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng
là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện
nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa
hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa
cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng
của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí
lại khinh thường thuộc địa”15. Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và
tìm ra được liều thuốc vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; thẳng thắn phê bình những người
cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa và không thực hiện đúng di huấn

14
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.295.
15
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.295-296

12
của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, thậm chí là ngay cả những người lãnh đạo Quốc
tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ thuộc vào sự nghiệp giải phóng giai cấp
vô sản, coi phong trào giải phóng dân tộc là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Bởi lẽ thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế
quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” của chủ nghĩa đế quốc. Cho
nên cách mạng ở thuộc địa có vai trò rất quan trọng trong việc cách mạng ở chính quốc
tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.

Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng nhân
dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà không thể dựa vào sự cầu viện
ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể
làm nên sự nghiệp cách mạng. Lý giải cho việc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa có sức bật thuận lợi hơn là vì các nước đế quốc có chính sách khai thác, bóc lột
thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man, đẩy nhân dân thuộc địa vào khó khăn, túng quẫn. Điều
đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân thuộc địa
vô cùng sâu sắc. Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn,
một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được giác ngộ và
soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực sự trở thành động lực giải phóng dân
tộc.

Trong tác phẩm Bản án chế độ Thực dân Pháp (năm 1925) Nguyễn Ái Quốc có viết
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và
một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật
ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi
kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt

13
sẽ lại mọc ra”16. Người lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ nghĩa tư bản lúc
bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào đầu ở chính quốc, nó
sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống của thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh
không còn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi phục và quay lại chống cách mạng chính quốc,
điều đó không những gây tổn thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà còn
khiến nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa. Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính
quốc và cách mạng thuộc địa cùng với các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách
mạng triệt để. Một mặt tấn công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị
đau ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà của mình, tạo đà cho
cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng lợi.Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạnh
của chủ nghĩa tư bản dần dần bị suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm
hết cho chúng. Người khẳng định: “Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ
ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những
người anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”17.

Với thực tiễn Cách mạng tháng 8 năm 1945 cũng như thắng lợi của phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới những năm 60 của thế kỷ XX, trong khi cách mạng chính quốc
còn chưa nổ ra đã chứng minh luận điểm của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cách mạng

Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định
phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực
hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở
nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc
bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo

16
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.130.
17
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.48.

14
lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”, “lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa.
Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”18. Người khẳng định Độc lập tự do không thể
cầu xin mà có được. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như
cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”19.
Đó là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đã được thể hiện trong
Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sức
mạnh của quần chúng nhân dân dân được giác ngộ và tổ chức thành hai lực lượng: lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu
tranh quân sự, kết hợp khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Vì vậy, khởi nghĩa
vũ trang là cuộc nổi dậy to lớn của quần chúng với sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính
trị và đấu tranh quân sự, dùng vũ khí để đánh đuổi bọn cướp nước, giành chính quyền.
Người nói: Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích
hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
để giành thắng lợi cho cách mạng. Quán triệt quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Người đã chỉ rõ bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực cách mạng của quần chúng,
nghĩa là toàn dân vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược.

Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu
chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền
thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa
để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa
bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”20. Theo Người, hòa
bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do,
dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến

18
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.114.
19
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.5, tr.391.
20
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.286.

15
tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.

Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa
vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với Người, đấu
tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của
cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12/1944,
trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra
Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn “Chính trị
trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị
nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ
quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.

Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ
đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa
vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện
cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn
bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi
nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền
về tay nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh
đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình
độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng
thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến
tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Tóm lại, những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không
chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên
thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra

16
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” 21. Có thể
nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều
kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.

Điều đặc biệt ở đây là sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là Người xây dựng cơ sở
lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là người tổ
chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách
nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với tinh thần
“các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng
chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người
xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi.
Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày
càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam. Ta có thể khẳng định, những cống hiến sáng
tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung
cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như
truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

CHƯƠNG 2

LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG
CUỘC BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY

2.1. Vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay

Sinh viên là một phần trong đội ngũ tri thức của lực lượng thanh niên Việt Nam, là
một tầng lớp xã hội đặc thù, có mối quan hệ gắn bó mặt thiết với các tầng lớp khác trong
xã hội; sinh viên có mặt ở tất cả địa phương, các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc

21
Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.2.

17
phòng, an ninh của cả nước. Sinh viên là lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ nước nhà,
là nguồn lực chủ yếu trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, đóng vai trò then
chốt trong phát triển đất nước, là lực lượng to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hiện nay. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng
cũng là lực lượng xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Không có thanh niên, các nhiệm vụ trọng đại của đất nước thật
khó hoàn thành.

Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước
ta luôn đánh giá rất cao vai trò của sinh viên trong công cuộc góp phần xây dựng, phát huy
truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ sinh viên tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của bản thân trong công cuộc xây dựng Tổ quốc văn
minh, vững đẹp, giàu mạnh. Nhận thức tầm quan trọng của sinh viên trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc lại càng được đẩy mạnh hơn nữa qua từng năm, do nền kinh tế có
nhiều thay đổi, thời kỳ hội nhập quốc tế mở rộng nên các cấp, ngành và các tổ chức, đoàn
thể chính trị xã hội cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy vai trò, sức
mạnh của sinh viên trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Sinh viên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và
nguồn lực con người. Chăm lo phát triển sinh viên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo
đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục
sinh viên thành lớp người “vừa hồng vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội. Trước sự quan tâm, chăm lo và kỳ
vọng lớn lao của Đảng và Nhà nước, hơn bao giờ hết, mỗi sinh viên cần nhận thức rõ vai
trò và trách nhiệm để không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu để trở thành lực
lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng vững chắc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

18
2.2. Thực trạng việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc hiện nay

2.2.1. Ưu điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá vị trí vai trò quan trọng của sinh viên trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước. Đảng xác định sinh viên là chủ hiện tại và
tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã
hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt đối với sinh viên và tổ chức Đoàn, nhất là thời
kỳ phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước tăng cường quản lý công tác
thanh niên thông qua việc triển khai nhiều chính sách thích hợp khác nhằm bồi dưỡng và
tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện cho sinh viên; quá trình xã hội hóa công tác
sinh viên ngày càng được triển khai rộng rãi, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để sinh
viên phát triển. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế, phấn đấu đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để Việt Nam
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại là điều kiện, môi trường thuận lợi để
thanh niên thể hiện tài năng sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Với đường lối đúng đắn của
Đảng, đất nước tiếp tục ổn định, vị thế không ngừng tăng lên đã tạo cơ hội lớn cho sinh
viên học tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri thức nhất là những thành tựu khoa
học - công nghệ. Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ không ngừng tăng lên là cơ
sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo cho sinh viên những năm tới đây. Bên cạnh
đó, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng Hội Sinh viên Việt Nam không ngừng
lớn mạnh, các hoạt động của Đoàn – Hội bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, phù hợp
với từng đối tượng sinh viên, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Sinh viên Việt Nam dù ở trong bối cảnh lịch sử nào, luôn ý thức được vai trò, trách
nhiệm của mình với đất nước và vận mệnh dân tộc, không ngừng phấn đấu, rèn luyện, học
tập và sáng tạo. Sinh viên Việt Nam - lực lượng xung kích trong nghiên cứu khoa học, sáng

19
tạo, tình nguyện và tham gia các hoạt động giao lưu, hội nhập, phát huy tiềm năng trí tuệ,
phát huy ý tưởng, sáng kiến trên các lĩnh vực, cống hiến phát minh hữu ích cho đất nước
nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước vươn tầm thế
giới. Dự án Air mass - “Hệ thống lọc không khí trong xe buýt và xe ô tô” do nhóm sinh
viên chương trình Chất lượng cao, trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh
phối hợp triển khai với các sinh viên Đại học RMIT để loại bỏ bụi mịn và những chất ô
nhiễm trong không khí, giúp loại bỏ mùi hôi khó chịu và xử lý những loại khói bụi ô nhiễm
do các phương tiện giao thông thải ra - đã “chinh phục” giải Quán quân cuộc thi “Bach
Khoa Innovation 2020”. Với mô hình máy phân loại rác ứng dụng trí tuệ nhân tạo, nhóm
năm sinh viên chương trình Chất lượng cao ngành Kỹ thuật Cơ Điện tử, chương trình Tiên
tiến ngành Kỹ thuật Điện - Điện tử, chương trình Đại trà ngành Công nghệ May và ngành
Kỹ thuật Hàng không đã đạt giải Ba cuộc thi “Từ nhà sáng tạo đến khởi nghiệp”. Nguyễn
Thanh Ngân, sinh viên chương trình Chất lượng cao ngành Khoa học Máy trính của Trường
Đại học Bách khoa, đã xuất sắc giành được giải Nhì cá nhân cuộc thi “Mật mã học Quốc
tế NSUCrypto 2020” do các học viện, đại học của Nga, Bỉ, Belarus phối hợp tổ chức. Nhóm
hai sinh viên Nguyễn La Thông (K2017) và Nguyễn Trọng Tín (K2018) chương trình Chất
lượng cao ngành Kỹ thuật Máy tính đã cùng nhau đoạt giải Vô địch cuộc thi “Expert
Challenge 2020” do Intel Việt Nam tổ chức. Trong khuôn khổ Liên hoan Tuổi trẻ Sáng tạo
TP.HCM lần thứ XI-2020, dự án “Áo phao tích hợp nón phao dành cho người dân khu vực
bão lũ” của nhóm sinh viên Bách khoa nhóm ngành Môi trường chương trình Chất lượng
cao K2019 và K2020 đã vinh dự đạt giải Nhì cuộc thi “Sáng tạo vì biển đảo quê hương”.
Nhóm Biomass Lab gồm các thành viên đến từ chương trình Chất lượng cao ngành Kỹ
thuật Hóa học và Công nghệ Thực phẩm trường Đại học Bách Khoa đã xuất sắc giành được
một trong ba giải Nhất của cuộc thi “Tech Planter châu Á 2020” thông qua dự án tận dụng
bùn thải của các nhà máy giấy để tạo nên cellulose chất lượng cao, từ đó sản xuất vật liệu
sinh học nanocrystal cellulose (CNC). Tháng 3/2021, nghiên cứu “Đánh giá khả năng sử
dụng trùn quế trong xử lý chất thải thực phẩm” do hai sinh viên chương trình Chất lượng
cao, ngành Kỹ thuật Hóa học K2018 tiến hành đã được trao giải Nhất đồng hạng của cuộc

20
thi “Sáng kiến Nghiên cứu dành cho sinh viên” (URI) thuộc dự án BUILD-IT của USAID
(Mỹ).

Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn các cấp đã thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên tích cực thực hiện Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Các cấp bộ Đoàn chủ động phối hợp, tổ chức hiệu
quả công tác tuyên truyền, vận động thanh niên đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự; đẩy
mạnh thực hiện Cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo” với nhiều hoạt động phong
phú, đa dạng hướng về chủ quyền biên giới, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Nổi bật là,
hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển do Trung ương Đoàn
phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức, với điểm nhấn là sản phẩm phần
mềm tích hợp hải trình trực tuyến kết hợp cuộc thi thiết kế các sản phẩm truyền thông và
thi trắc nghiệm trực tuyến tìm hiểu lịch sử Đường Hồ Chí Minh trên biển, đoàn tàu không
số trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Thông qua triển khai, thực hiện có hiệu quả các phong trào, thanh niên lực lượng vũ
trang đã phát huy tốt vai trò nòng cốt trong giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, khi dịch Covid-19 bùng phát, hàng vạn cán bộ, đoàn viên, thanh
niên Quân đội, Công an và Dân quân tự vệ xung kích, tình nguyện tham gia trên tuyến đầu,
trực tiếp có mặt tại tâm dịch để hỗ trợ chính quyền địa phương, tiếp tế cho nhân dân phòng,
chống dịch; tổ chức tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc giới; đấu tranh phòng, chống tội
phạm; đảm bảo an ninh, an toàn trong các khu giãn cách xã hội và cách ly y tế.

Cấp bộ Đoàn các cấp tích cực triển khai các hoạt động xây dựng nông thôn mới, các
đợt tình nguyện cao điểm, các hoạt động vì an sinh xã hội, bảo vệ môi trường,… đã cổ vũ
cán bộ, đoàn viên, thanh niên phát huy sáng kiến, tích cực nghiên cứu khoa học, tăng năng
suất lao động với nhiều mô hình, cách làm mới, thiết thực, hiệu quả cao, góp phần thực
hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng,
tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội. Tiêu biểu, như: chiến dịch “Thanh niên tình nguyện
hè 2021” gắn với thông điệp 3T (Tiên phong, Tương trợ, Thích ứng) được tổ chức rộng

21
khắp với gần 25.000 đội thanh niên tình nguyện, thu hút hơn 1.002.000 đoàn viên, thanh
niên tham gia, huy động nguồn lực với tổng trị giá gần 200 tỉ đồng. Trung ương Đoàn tiếp
tục triển khai thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, như: Dự án xây
dựng Làng Thanh niên lập nghiệp, Đề án Đảo Thanh niên,… mang lại hiệu quả thiết thực.
Các cấp bộ Đoàn địa phương có đường biên giới quốc gia tích cực phối hợp với lực lượng
chức năng thực hiện công tác tuần tra đường biên, mốc giới, kiểm soát các đường mòn, lối
mở. Nhiều đơn vị thực hiện tốt công tác chỉ đạo, định hướng cho các liên đội trường trung
học cơ sở và đoàn trường trung học phổ thông ký kết giao ước thi đua, cam kết tham gia
phòng, chống ma túy và xây dựng lối sống lành mạnh.

2.2.2 Khuyết điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhận thức về vai trò, trách nhiệm của không ít cán
bộ, đoàn viên, thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng về bảo đảm quốc phòng, an ninh,
xung kích tham gia bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế; cá biệt có một bộ phận sinh viên bản lĩnh
chính trị chưa vững vàng, bị các thế lực thù địch, phản động lôi kéo, kích động, có hành
động không đúng quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
ngại khó, ngại khổ, không chịu phấn đấu vươn lên, thích hưởng thụ hơn là thích làm việc;
chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ vinh dự, trách nhiệm và niềm tự hào được sinh ra và lớn
lên khi đất nước đã đạt được nhiều thành tựu sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng để có thể đem hết tài năng, trí tuệ, sức trẻ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Trước những biến động mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, các thế lực
thù địch, phản động càng ráo riết tấn công vào Cương lĩnh, đường lối của Đảng; phủ nhận
Nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN; rêu rao rằng kinh tế
nhiều thành phần thì phải có “đa nguyên”, “đa đảng”; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và
công an; thổi phồng những sai lầm, khuyết điểm, nhất là từ việc một số đảng viên có chức
có quyền nhưng thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật và kỷ luật Đảng. Cùng với chiêu
trò gửi thư ngỏ, kêu gọi ký tên vào các thỉnh nguyện thư, tổ chức diễn đàn, tọa đàm trên

22
internet, mạng xã hội, các thế lực xấu còn cho rằng, khi Đảng khuyến khích đảng viên làm
giàu đồng nghĩa là Đảng đã đánh mất bản chất giai cấp của mình; cho rằng Điều 4 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”...
theo đó, chỉ có đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong xã hội. Lợi
dụng sự bùng nổ của công nghệ truyền thông và tâm lý dễ cả tin, chủ quan khi tham gia
mạng xã hội của sinh viên, các thế lực xấu thường xuyên tung ra những thông tin bịa đặt,
xuyên tạc trắng trợn; tăng cường bình luận, tuyên truyền kích động để tấn công vào nền
tảng tư tưởng của Đảng. Chúng vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận
dụng phát triển lực lượng ở trong nước, dùng “cộng sản nói xấu cộng sản”, “cộng sản con
nói xấu cộng sản bố” hòng tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ Đảng và xã hội
ta. Chúng xây dựng kế hoạch, đầu tư kinh phí, tổ chức, bộ máy, công nghệ, thiết bị máy
móc để “khuếch đại hiệu ứng” chống phá; dựa vào những thông tin trên báo chí chính thống
của chúng ta để “thêm bớt”, xuyên tạc bản chất vấn đề; lợi dụng những phần tử cơ hội, bất
mãn, suy thoái, biến chất trong nước, trong đó có cả trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, sinh
viên làm “công cụ chống phá” từ bên trong; lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta chống tham
nhũng, tiêu cực, xử lý kỷ luật, truy tố những cán bộ từng giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, để “lu
loa”, quy chụp, cho đó là bản chất của chế độ một Đảng cầm quyền. Nguy hiểm hơn, thời
gian gần đây, chúng thông qua các hoạt động “diễn đàn”, “hỗ trợ nhân đạo”, “tham quan”,
“du lịch”, “hội nghị”, “đào tạo”... cùng các “mồi nhử” kinh tế khác để tuyên truyền, lôi
kéo, mê hoặc sinh viên; tán phát các tài liệu, luận điệu phản động nhằm gây hoang mang,
tạo ra tình trạng bất ổn trong xã hội, chúng lấy việc các cơ quan chức năng của chúng ta
truy tố những kẻ lợi dụng mạng xã hội để tung tin thất thiệt, gây nhiễu loạn thông tin;
những đại gia lũng đoạn thị trường chứng khoán... để vu cáo Đảng, Nhà nước ta hình sự
hóa các quan hệ dân sự. Cùng với các chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc”, “tôn giáo”, chúng ra sức lợi dụng một số vấn đề bức xúc trong nhân dân chưa được
giải quyết kịp thời để kích động sinh viên, lôi kéo tụ tập - khiếu kiện đông người, gây mất
trật tự, an ninh. Cùng với đó là không ngừng cổ vũ lối sống thực dụng, hưởng lạc, tôn thờ
đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, bất chấp đạo lý, pháp luật, kỷ cương…

23
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong đa số sinh viên vẫn còn những bất cập, hạn chế; nhận thức về
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chưa đầy đủ, sâu sắc. Việc đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch trong các tổ chức sinh viên chưa thường xuyên, liên tục,
còn bị động theo tình huống; việc cung cấp thông tin chính thống cho sinh viên chưa kịp
thời, chưa đầy đủ; nhiều bài viết đấu tranh, phản bác chưa đủ sức thuyết phục về khoa học,
lý luận, thiếu sức chiến đấu. Trình độ khai thác, sử dụng công nghệ thông tin của không ít
tổ chức sinh viên còn bất cập, lúng túng, nhất là sử dụng công nghệ cao trong đấu tranh
trên không gian mạng. Công tác giảng dạy, học tập lý luận chính trị, tổng kết thực tiễn đấu
tranh, phản bác trong các tổ chức sinh viên chưa được chú trọng thường xuyên. Nội dung
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tổ chức sinh viên còn chậm đổi mới, thiếu sinh
động, kém hiệu quả. Chưa có bộ phận chuyên sâu trong tổ chức sinh viên có trình độ lý
luận chính trị, kỹ năng, kinh nghiệm sử dụng công nghệ cao trên mạng internet để chủ động
đấu tranh, phản bác bằng những hình thức, phương pháp, nội dung phù hợp. Công tác kiểm
tra, xử lý kỷ luật phát ngôn của thanh niên còn bị xem nhẹ, nhiều sai phạm lớn chậm được
phát hiện xử lý.

Ngoài nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của hạn chế, bất cập nêu trên
xuất phát từ nhận thức lơ là, coi nhẹ của không ít cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Việc học
tập lý luận chính trị ở nhiều tổ chức sinh viên thiếu nghiêm túc, chỉ nhằm hợp thức hóa,
theo phong trào. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức lực lượng chưa tập trung, thiếu thống
nhất; thiếu tính chuyên nghiệp, kỹ năng, kinh nghiệm và trình độ sử dụng công nghệ...

Hơn hết là xuất phát từ công tác giáo dục quản lý của gia đình còn lỏng lẻo, chưa chặt
chẽ; các thành viên trong gia đình ít quan tâm, hỏi han, chia sẻ với nhau; bản thân một bộ
phận sinh viên thiếu động cơ, ý chí phấn đấu vươn lên, sống buông thả, không đặt ra những
mục tiêu, nhiệm vụ phấn đấu, khi gặp thất bại, khó khăn, trở ngại là nản lòng, nhụt ý chí,
hoặc dao động… Chính vì vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng, quản lý để phát huy vai trò của

24
sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là việc làm vô cùng cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.

2.3. Thực hiện việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc hiện nay

Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước
ta luôn đánh giá rất cao vai trò của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng trong công
cuộc góp phần xây dựng, phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc. Trước đòi hỏi của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặt ra yêu cầu cần phải tăng
cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm sinh viên trong đảm bảo quốc phòng, an
ninh, xung kích tham gia bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, các cấp bộ Đoàn cần tập trung thực
hiện hiệu quả một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của sinh viên đối với
nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới nội
dung và phương thức giáo dục của Đoàn hướng vào nâng cao bản lĩnh chính trị, khơi dậy
tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng, khát vọng cống hiến của sinh viên, để họ nhận
thức đúng trách nhiệm của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giáo dục, cần
kiên trì và kịp thời đổi mới cách thức truyền thụ, học tập lý luận chính trị, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho sinh viên. Tăng cường các
biện pháp bám nắm và kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận xã hội cho sinh viên trước
những vấn đề mới nảy sinh, nhất là vấn đề phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau. Cùng với
đó, cần chú trọng xây dựng cơ chế cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời để mỗi sinh
viên đều là người có thể truyền tải thông điệp giáo dục tích cực. Tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin, tận dụng tối đa ưu thế của các công cụ, phương tiện truyền thông hiện đại,
mạng xã hội, hệ thống báo chí, xuất bản của Đoàn trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho
sinh viên; chú trọng tuyên truyền nhân tố tích cực, gương điển hình tiên tiến, người tốt,
việc tốt, hành động đẹp. Trong đó, chú trọng xây dựng các bộ công cụ tuyên truyền, các
sản phẩm truyền thông trên internet, các ứng dụng trên mạng xã hội và các thiết bị di động
thông minh với nội dung trẻ trung, sinh động, phù hợp với thị hiếu của sinh viên.

25
Hai là, phát huy vai trò của sinh viên trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Các cấp bộ Đoàn cần chú trọng nâng cao nhận thức, hiểu biết, sức đề kháng của sinh viên
về các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, nhất là sức đề kháng trước sự
chống phá của các thế lực thù địch. Tích cực tuyên truyền, vận động sinh viên tham gia
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, nhất
là trên không gian mạng. Để hiệu quả, cần thường xuyên kiện toàn Ban Chỉ đạo các cấp
của Đoàn; tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ nòng cốt, chuyên trách
hoặc kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch tại
các địa phương, cơ quan, đơn vị; tổ chức và phát triển lực lượng chuyên gia, cộng tác viên
để thực hiện nhiệm vụ; duy trì cơ chế thông tin, báo cáo và hoạt động thường xuyên định
kỳ hằng tuần.

Để sinh viên tự phòng ngừa, sàng lọc, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch, phản động, các cấp bộ Đoàn cần chủ động cung cấp thông tin, trang bị
kiến thức, phương pháp, kỹ năng bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ an ninh tư
tưởng, an ninh văn hóa trên không gian mạng. Duy trì và phát triển hệ thống phần mềm kết
nối các trang cộng đồng trên mạng xã hội của Đoàn từ Trung ương tới cơ sở. Đồng thời,
tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức của sinh viên trong thực hiện nghĩa vụ quân sự,
thực sự là lực lượng xung kích trong xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng để xây
dựng thế trận và nền quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận và nền an ninh nhân dân vững
chắc.

Ba là, phát huy vai trò xung kích của sinh viên trong lực lượng vũ trang tham gia xây
dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng của Đoàn phù hợp với
đặc thù hoạt động của sinh viên trong lực lượng vũ trang. Trong đó, tập trung vào các hoạt
động tình nguyện giúp đỡ thanh thiếu niên, nhân dân vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu,
vùng xa; tổ chức Chiến dịch “Hành quân xanh” gắn với hoạt động tình nguyện của tuổi trẻ
lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng, củng cố tình đoàn kết quân - dân. Trong đẩy mạnh
Phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo”, tập trung phát huy sáng kiến, sản phẩm, công trình sáng

26
tạo của thanh niên Quân đội, Công an, tích cực cải tiến kỹ thuật, làm chủ vũ khí, khí tài,
trang thiết bị mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cùng với đó, tổ chức tốt các phong
trào để sinh viên tích cực hơn nữa trong xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đồng thời, phát huy vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tham gia khắc phục
hậu quả thiên tai, dịch bệnh.

Bốn là, đẩy mạnh tham gia thực hiện các chương trình, dự án, cuộc vận động hướng
về biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Triển khai hiệu quả các chương trình, dự án sinh viên
tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở vùng biên giới, biển, đảo. Trọng tâm là đẩy mạnh
Cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”; các chương trình: “Tháng ba biên giới”,
“Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc”, “Tuổi trẻ vì biển, đảo Tổ quốc”, xây dựng Đảo Thanh
niên, v.v. Các cấp bộ Đoàn cần tập trung tổ chức tốt các hoạt động phối hợp, hỗ trợ các hải
đội dân quân thường trực; thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, Công an; tăng
cường các hoạt động giúp đỡ gia đình, thân nhân cán bộ, chiến sĩ đang công tác nơi biên
giới, biển, đảo.

Song song với đó, cần làm tốt công tác chỉ đạo, hướng dẫn cán bộ, đoàn viên, thanh
niên trên từng địa bàn dân cư tích cực phối hợp với thanh niên lực lượng vũ trang trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của các đội
thanh niên xung kích, tuần tra, tự quản, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông ở cơ sở, v.v.
Đồng thời, tăng cường đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, nhất là tệ
nạn ma túy trong thanh, thiếu niên. Nhân rộng các mô hình kết nghĩa, phối hợp công tác
giữa tổ chức Đoàn trong lực lượng vũ trang với tổ chức Đoàn trên địa bàn dân cư, trường
học và các ngành, các cấp, nhất là trong giáo dục, giúp đỡ, cảm hóa thanh thiếu niên chậm
tiến bộ.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam đối với nhiệm vụ đảm bảo
quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các cấp,

27
các ngành. Trước hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của cấp ủy, chính
quyền các cấp; sự đồng tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của các
cấp bộ Đoàn nói riêng và của mỗi sinh viên nói chung, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng đất nước
Việt Nam phát triển hùng cường.

28
PHẦN KẾT LUẬN

Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động, phát triển nhanh
chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng đúng đắn này đã nhận diện
chính xác những vấn đề dân tộc thuộc địa. Đồng thời, nó còn tìm ra con đường đúng đắn
để giải phóng dân tộc thuộc địa cũng như đề cao tinh thần tự lực tự cường dựa vảo sức
mạnh dân tộc giành thắng lợi.

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng Người luôn đứng vững trên lập
trường để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc đó là luôn luôn khẳng định vai trò lịch sử
của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân từ
cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song song đó, chủ trương đại
đoàn kết dân tộc, tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng được thực hiện sát sao.
Đồng thời, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn luôn được nêu cao.
Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc với vấn đề giai
cấp, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy tiềm năng cách mạng của toàn dân tộc, đưa đến
thắng lợi vĩ đại cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước nhân dân bình đẳng,
ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc không chỉ có
ý nghĩa sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam, mà nó còn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các dân
tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành
độc lập dân tộc.

Tuy hòa bình đã được lặp lại ở Việt Nam, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện
công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, thanh niên cần phải có khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Vì vậy, ỗi sinh viên trong thời
đại mới cần phải có ý thức được trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ và xây dựng
Tổ quốc hiện nay.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc và ý nghĩa hiện thực với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay,

https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ho-chi-minh-ve-cach-mang-giai-phong-
dan-toc-va-y-nghia-hien-thuc-voi-cong-cuoc-doi-moi-dat-nuoc-hien-nay-
73758.html
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật, Hà Nội.
3. Đoàn – Hội sinh viên trường Đại học Tôn Đức Thắng, Thanh niên Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
https://student.tdtu.edu.vn/doan-hoi/thanh-nien-viet-nam-trong-thoi-ki-day-manh-
cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-va-hoi
4. Hồ Chí Minh (2015), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Tạp chí của Ban tuyên giáo trung ương (2022), Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc,
https://tuyengiao.vn/khoa-giao/vi-tri-vai-tro-cua-doi-ngu-tri-thuc-trong-su-nghiep-
xay-dung-bao-ve-to-quoc-140572
6. ThS. Nguyễn Văn Thật (2022), Phát huy vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc,
https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/04/21/phat-huy-vai-tro-cua-thanh-nien-
trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc/
7. TS. Nguyễn Anh Tuấn (2022), Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tuổi trẻ Việt
Nam đối với nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, xung kích tham gia bảo vệ Tổ
quốc,
http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-ky-niem-lon/nang-cao-nhan-thuc-trach-nhiem-
cua-tuoi-tre-viet-nam-doi-voi-nhiem-vu-dam-bao-quoc-phong-a/18485.html
8. Trần Dân Tiên (2015), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30
9. PGS.TS Nguyễn Danh Tiên (2020), Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại,
https://tcnn.vn/news/detail/48328/Nhung-sang-tao-ly-luan-cua-Ho-Chi-Minh-ve-
cach-mang-giai-phong-dan-toc-va-gia-tri-thoi-dai.html
10. Trường Chính trị tỉnh ủy Thái Nguyên (2022), Tìm hiểu về cách mạng giải phóng
dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
http://truongchinhtrithainguyen.gov.vn/vi/nghien-cuu-khoa-hoc/Nghien-cuu-Trao-
doi/tim-hieu-ve-cach-mang-giai-phong-dan-toc-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-
185.html
11. PGS.TS Nguyễn Danh Tiên (2020), Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại,
https://tcnn.vn/news/detail/48328/Nhung-sang-tao-ly-luan-cua-Ho-Chi-Minh-ve-
cach-mang-giai-phong-dan-toc-va-gia-tri-thoi-dai.html

31

You might also like