You are on page 1of 57

Trường ĐH Kiến trúc Tp.

HCM
Khoa: Khoa học cơ bản
GVHD: Cô Nguyễn An Thụy

BÀI TẬP CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM


Tính nữ trong kiến trúc Đền thờ Nữ thần
Mariamman ở Thành phố Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
00 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 02 CHƯƠNG 2
4. Phương pháp nghiên cứu Những giá trị, ảnh hưởng của
tiếp xúc và giao lưu văn hóa Ấn
Độ và Việt Nam trên mảnh đất
01 CHƯƠNG 1 Sài Gòn

Nguồn gốc, lịch sử hình thành và xây 1. Những giá trị, ảnh hưởng của
tiếp xúc và giao lưu văn hóa Ấn
dựng đền nữ thần Mariamman tại Tp.
Độ và Việt Nam trên mảnh đất
HCM Sài Gòn
1. Sơ lược lịch sử quá trình hình 2. Tục thờ mẫu ở Việt Nam
thành và phát triển của Hindu giáo
2. Quá trình du nhập Hindu giáo vào
Việt Nam và TP. HCM
3. Lịch sử xây dựng đền Mariamman
MỤC LỤC
03 CHƯƠNG 3
Tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman và
tính nữ trong kiến trúc Đền thờ Nữ thần
Mariamman tại Thành phố Hồ Chí Minh 04 KẾT LUẬN
1. Vị trí của người phụ nữ trong truyền
thống văn hóa Ấn Độ
2. Cổ tích Tứ Pháp và dấu ấn của tín
ngưỡng Ấn Độ giáo
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu, Ấn giáo ở Sài
Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
05 TÀI LIỆU THAM KHẢO
4. Các đặc trưng âm tính của tín ngưỡng
thờ nữ thần Mariamman
5. Các đặc trưng âm tính của tín ngưỡng
thờ nữ thần Mariamman
6. Kiến trúc Đền thờ Nữ thần Mariamman
06 DANH SÁCH THÀNH
ở Sài Gòn VIÊN
MỞ ĐẦU
1 . Lý do chọn đề tài

Nền văn hóa Việt Nam sớm đã có sự giao lưu tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn độ. Với 1000
năm đô hộ, văn hóa Trung Hoa theo gót ngựa xâm lăng đã tràn vào nước ta với mục tiêu là
đồng hóa và ngu dân, nhưng nhân dân ta đã kiên cường không chịu khuất phục, bên cạnh đó,
nền văn hóa Ấn Độ lại đến Việt Nam một cách hài hòa và tự nhiên, để lại dấu ấn văn hóa tín
ngưỡng tôn giáo đa dạng và phong phú.

Ngày nay, ngay tại địa bàn sinh sống, làm việc và học tập, vẫn còn các công trình mang những
nét đặc sắc trong văn hóa tín ngưỡng Ấn Độ, nhóm mong muốn hiểu thêm quá trình và sự tiếp
xúc của văn hóa Việt Nam và Ấn độ và “Tính nữ” trong kiến trúc công trình đền thờ Nữ thần
Mariamman- tọa lạc trên đường Trương Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
MỞ ĐẦU
2. Mục tiêu nghiên cứu

● Hiểu thêm về văn hóa Ấn Độ, về phong tục, tín ngưỡng và sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn
Độ đến Việt Nam trong lịch sử.
● Tìm hiểu về sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Ấn Độ trên mảnh đất Sài Gòn
hình thành một nét văn hóa đậm chất riêng, một di sản đô thị nơi Sài Gòn hoa lệ nhưng
cũng đầy bình dị len lõi sâu trong từng ngõ ngách, trong đời sống sinh hoạt hằng ngày
của người dân nơi đây.
● Đền nữ thần Mariamman và tính nữ trong tín ngưỡng thờ nữ thần.
● Liên hệ với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
MỞ ĐẦU
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

● Văn hóa Việt nam và sự tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ


● “Tính nữ” trong công trình đền thờ Nữ thần Mariamman

4. Phương pháp nghiên cứu:

● Tìm hiểu qua các kênh thông tin mạng, sách báo, tài liệu lịch sử,... Ngoài ra nhóm còn
đến công trình thăm quan để trực tiếp trải nghiệm trong một không gian kiến trúc thờ
Nữ thần Ấn độ, từ đó tiến hành xử lý thông tin, số liệu, bối cảnh, từ đó đi vào phân tích đề
tài nghiên cứu
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ XÂY
DỰNG ĐỀN THỜ NỮ THẦN MARIAMMAN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
1/ Sơ lược lịch sử quá trình hình thành và phát triển
của Hindu giáo

a. Một số khái niệm

- Tên gọi: Hindu giáo (Hinduism) dùng để chỉ một tôn giáo
ở Nam Á đó là Ấn Độ giáo. Hindu giáo là tôn giáo đa
thần, đại diện cho các hiện tượng thiên nhiên hay các
nhân vật linh thiêng xuất hiện trong sử thi nổi tiếng;
Bà-La-Môn là một tôn giáo rất cổ của Ấn Độ, cội nguồn
của Hindu giáo; Đền thờ Hindu giáo là các công trình
kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc
một danh nhân quá cố trong Hindu giáo.
- Các vị thần phổ biến trong tín ngưỡng của người
Nam Ấn: Mariamman là một nữ thần mưa ở miền
Nam Ấn Độ; Kartikeya còn được gọi là Murugan,
Skanda… là vị thần chiến tranh của đạo Hindu;
Ganesha là vị thần của sự khởi đầu, người bảo trợ
của chữ viết và học tập.

- Biểu tượng tôn giáo: Vahana là “thú


cưỡi” của các vị thần; Linga và Yoni là
biểu tượng cho thần Shiva và sự sinh
sôi và phát triển, trong đó Linga là
biểu tượng đặc tính dương và Yoni là
biểu tượng đặc tính âm; Mandala là
một hình vuông, chứa một vòng tròn
với một điểm trung tâm, biểu thị vũ
trụ trong cái nhìn của một bậc giác
ngộ.
b. Lịch sử hình thành và phát triển Hindu giáo tại Ấn Độ

- Giai đoạn 1: thời kỳ Veda (Vệ Đà) (1400-1000 TCN)

Đây là giai đoạn Hindu giáo bắt đầu hình thành từ Veda giáo, thờ cúng thiên nhiên, đội ngũ
thầy cúng đóng vai trò quan trọng, có địa vị và quyền lực trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, hình thành
đẳng cấp Tăng lữ Bà-La-Môn

- Giai đoạn 2: khoảng 1000 - 400 năm TCN

Là giai đoạn Đạo Bà-La-Môn hình thành trên cơ sở Veda giáo, phân chia xã hội Ấn Độ thành 5
giai cấp: Tăng lữ Bà-La-Môn, Sát-Đế-Ly, Phệ-Xá, Thủ-Đà-La và Chiên-Đà-La. Từ đó, luật pháp Manu
hình thành, kỳ thị giai cấp.

- Giai đoạn 3: từ 400 năm TCN đến ngày nay

Giai đoạn này đạo Bà-La-Môn hoàn thiện, biến đổi thành Ấn Độ giáo với khả năng thay đổi
thích ứng nhanh chóng, phục hồi những giá trị cơ bản, loại trừ các yếu tố lạc hậu, thái quá và trở
thành quốc giáo của người Ấn Độ.
C. Kiến trúc đền thờ Hindu giáo

● Đặc điểm chung của kiến trúc đền Điện thờ (Garbhagriha) là nơi quan trọng
thờ Hindu giáo nhất, nằm ở trung tâm và đặt tượng chủ thần
chính với ít nhất một sảnh đường Mandala.
Thần đường thường chỉ được thiết kế một
- Về bố cục, luôn được thiết kế kiến trúc cửa, ba phía xây kín. Thần đường có hình
cân xứng dựa theo Mandala, căn vào dáng như một tháp nhọn dần lên đỉnh vừa
thể hiện hình tượng núi Meru, vừa có sự
bốn hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc) để tạo
tương quan với tỉ lệ cơ thể con người
thành hình vuông, bên trong lại chia
thành 64 hoặc 81 ô bằng nhau, mỗi ô gắn Cách trang trí trong thần đường rất ít để tín
với một vị thần theo đúng vai trò và vị trí. đồ tập trung. Tiền sảnh Mandala và hành
Trong đó hình vuông trung tâm được lang quanh thần đường lại có nhiều tranh
dành cho vị thần Sáng tạo (Thần tượng thờ. Phần mái và cổng đền tương ứng
Brahma) với cách trang trí khác nhau. Hướng đông là
sự sống, hướng Tây là cái chết, hướng Nam là
trung tính và hướng Bắc là tự nhiên.
C. Kiến trúc đền thờ Hindu giáo

● Phân loại phong cách kiến trúc đền


thờ Hindu giáo - Phong cách Dravida là phong cách Nam Ấn,
hình thành từ TK XI đến TK XVIII. Kiến trúc mái
- Phong cách Nagara là phong cách Bắc Ấn,
đền có cấu trúc hình kim tự tháp đỉnh bằng,
hình thành từ khoảng TK thứ IX. Phong
đặt trong những tường bao nhiều lớp hình
cách đền có đặc điểm như mái đền có cấu
thành các sân trong, tháp cổng cao lớn gọi là
trúc dạng tổ ong với các đường cong vươn
Gopura. Đền thờ mang phong cách Dravidian
lên, trên cùng có một đĩa đá Amalaka
cơ bản có 4 phần: chính điện (Vimana), các
đựng một búp sen Kalasa được gọi là tháp
cửa (Mandapas), cổng - kim tự tháp
hoặc đỉnh Sikhara. Công trình không có
(Gopurams) và hội trường (Chawadis). Bên
sân, đặt trên những khu đất trống, bao
cạnh đó, một ngôi đền luôn có hồ nước hoặc
gồm mặt bằng môn sảnh, thần đường,
giếng nước, sử dụng cho mục đích thiêng
phòng cầu phúc đều có hình dáng vuông.
liêng, hay phục vụ sinh hoạt.
Phong cách Nagara được xây theo lối
hướng thượng, các tháp cao dần đều từ
cổng vào đến tháp chính.
Phong cách Nagara
Phong cách Dravida
2/ Quá trình du nhập Hindu giáo vào Việt Nam và TP. HCM

a. Quá trình du nhập Hindu giáo vào Việt Nam

Quá trình du nhập Hindu giáo vào Đông Nam Á là do vị trí địa lý nằm ngay trên con đường
hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Văn hóa Ấn Độ tràn xuống phía Nam chính là khu
vực Đông Nam Á và ảnh hưởng sâu rộng đến khu vực này, tạo nền tảng cho sự phát triển của văn
hóa Ấn Độ trên cơ sở văn hóa bản địa. Quá trình du nhập Hindu giáo tại Việt Nam cũng là theo
đường biển mà đến.

b. Lịch sử hình thành và phát triển Hindu giáo tại TP. HCM

Năm 1867, thực dân Pháp chiếm đóng khu vực Nam Bộ và xây dựng một thành phố ngay cửa
khẩu Sài Gòn. Sau đó, vào cuối thế kỷ XIX, giai đoạn Công ty Đông Ấn Pháp kiểm soát một số bang ở
Ấn Độ, thực dân Pháp đã đưa người Tamil từ thuộc địa Pondicherry và Karaikal nằm dọc theo duyên
hải phía Nam Ấn Độ tới Sài Gòn. Ở Sài Gòn, bộ phận người Ấn này đã tham gia vào công cuộc kinh
doanh ở nhiều lĩnh vực, nhất là tín dụng, địa ốc và vải sợi. Theo thời gian cư trú tại Việt Nam, họ lập
nên một số ngôi đền Hindu giáo để làm nơi thực hành tôn giáo.
c. Kiến trúc Hindu giáo tại TP. HCM

- Cộng đồng dân cư Nam Ấn đã xây dựng tổng cộng bốn cơ sở tôn giáo. Đó là Đền thờ
Mariamman, Đền thờ Sri Thenday Yutthapani, Đền thờ Subramaniam Swamy và Đền thờ
Ganesha. Các ngôi đền tuy được xây dựng để thờ các vị thần và mục đích khác nhau, nhưng
đều có nhiều nét tương đồng.

- Đền thờ Mariamman được xây dựng vào đầu TK XX, ngôi đền được những người Tamil xây
dựng theo phong cách kiến trúc Dravia. Nhiều vật liệu và các tượng thờ trong ngôi đền đều
nhập từ Ấn Độ. Đây là ngôi đền thờ nữ thần Mariamman.

- Đền thờ Sri Thenday Yutthapani là ngôi đền có từ năm 1920,


được xây dựng lại trên nền của một ngôi đền Hindu đã được

thành lập vào cuối TK 19. Ngôi đền này thờ thần Murgan.

Ngôi đền là một minh chứng cho tộc người Ấn tại miền Nam

Việt Nam một thời thịnh vượng.


- Đền thờ Subramaniam Swamy (hay còn
gọi chùa ông) là ngôi đền Ấn đầu tiên
được xây dựng tại Sài Gòn, để thờ tự nam
thần Subramanian Swamy và cử hành các
thủ tục cưới hỏi của người theo tôn giáo.
Vật liệu xây dựng và đồ dùng trang trí các
tượng thần phần lớn đều nhập từ Ấn Độ
và do chính thợ thủ công tay nghề cao
người Tamil thực hiện.
3/ Lịch sử xây dựng đền Mariamman

- Theo tài liệu của Ban Quản trị đền Mariamman,


ngôi đền này được cộng đồng người Ấn xây dựng
vào đầu thế kỷ XX. Ban đầu, nó chỉ là một ngôi
đền nhỏ lợp mái tôn dành cho những tín đồ Ấn
Độ giáo. Năm 1950, ngôi đền được những người
Tamil trong Hội Ấn kiều sinh sống tại Sài Gòn xây
dựng lại theo kiến trúc của một ngôi đền Ấn Độ
giáo miền Nam Ấn Độ. Nhiều vật liệu và các
tượng thờ trong ngôi đền đều nhập từ Ấn Độ.

- Ngôi đền Mariamman từng có thời kỳ bị bỏ


hoang. Đến năm 1990, ngôi đền này hoạt động
trở lại dưới sự quản trị của một thương gia người
Ấn Độ là cháu ruột của vị cai quản trước (qua
đời năm 2005). Hiện nay, ngôi đền được quản lý
bởi một Ban Quản trị do chính quyền quận 1 cử
ra.
CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ, ẢNH HƯỞNG CỦA TIẾP XÚC VÀ GIAO
LƯU VĂN HÓA ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM TRÊN MẢNH ĐẤT SÀI GÒN
1. Những giá trị, ảnh hưởng của tiếp xúc và giao lưu văn hóa Ấn Độ và Việt Nam trên mảnh
đất Sài Gòn

1.1. Vài nét về lịch sử hình thành cộng đồng người Ấn tại TP HCM

-Người Ấn ở Sài Gòn thường được cư dân bản địa gọi là người Chà hoặc
đôi khi là Chà Và. Cộng đồng gốc Ấn này có nhiều nhóm địa phương khác
nhau.

-Nhóm Chà Bombay là nhóm người Ấn có gốc tại thành phố Bombay,
Delhi, Benares. Họ đến Sài Gòn từ những thập niên đầu của thế kỉ XIX. Họ
là những chuyên gia thực thụ trên thương trường tơ lụa và có một số chi
điếm quan trọng ở một số thành phố khác. Là những thương nhân giàu có,
nhóm Bombay này lập ra những bang hội kinh doanh rất phát đạt ở Sài
Gòn xưa. Họ chính là cộng đồng xây dụng nên đền Hindu giáo Gurnagar
trên đường An Dương Vương, khu vực Chợ Lớn.
Thứ hai là nhóm Chà Chetty. Nhóm này được biết đến nhiều với hoạt động cho vay. Đa số
thành viên nhóm này có quốc tịch Pháp và do đó nhận được sự ưu đãi rất lớn từ chính quyền
thực dân như “những người châu Á không phải Việt Nam”. Họ cho vay, thế chấp nhà cửa,
ruộng đất một cách hợp pháp. Họ cũng là tầng lớp giàu có và cũng đã xây nên những ngôi
đền Hindu giáo đầu tiên nguy nga trên đất Sài Gòn.

Tầng lớp bình dân người Ấn sống chan hoà cùng dân nghèo thành thị. Cuối thế kỉ XIX, họ
chuyên hành nghề đánh xe ngựa chở khách, về sau, họ chuyển sang chăn nuôi bò, dê. Nhiều
người trong số họ lấy vợ Việt, sống với nghề nấu cà ri gia truyền.

Đại bộ phận bà con gốc Ấn định cư lâu dài ở TP HCM hiện nay là những người Ấn lai. Họ
là kết quả của những cuộc hôn nhân giữa người Ấn với người Việt hay người Ấn với người
Khmer. Ngày nay, những người Ấn chính gốc đến Sài Gòn trong một thời gian ngắn để làm việc
hoặc kinh doanh rồi họ lại trở về nước, không định cư ở Việt Nam.

Bên cạnh những nhóm Ấn theo Hindu giáo cũng có những nhóm khác theo đạo Islam hay
Sikh. Họ sống tập trung quanh thánh đường. Nhóm người Sikh trước đây sống ở quận 1 quanh
thánh đường trên đường Tôn Thất Thiệp. Nhóm người Ấn theo Islam giáo quy tụ quanh những
thánh đường ở Đông Du, Chợ Lớn, v.v.
Từ giữa thế kỉ XIX, sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, số người nước ngoài, trong đó
có người Ấn, đến Sài Gòn tăng dần. Theo thống kê thì vào năm 1898 với diện tích 780 ha và
trong khoảng 30.000 người ở Sài Gòn thì có đến gần 1000 người Ấn Độ, cụ thể là 505 người Ấn
Độ và 405 người Ấn quốc tịch Pháp.

Thời gian trôi qua, hoàn cảnh người Việt và người Ấn cũng đã thay đổi. Mối quan hệ giữa
hai cộng đồng này ngày càng tốt đẹp vì sự gần gũi, thân thiện mà những thế hệ người Ấn mới
mang lại. Trong các đền đài Hindu giáo, không chỉ có người Ấn đến lễ bái mà còn thấy không
ít người Việt và cả người Hoa, người Khmer.

Đến giữa thế kỉ XX, số lượng người Ấn Độ ở Sài Gòn tăng lên nhiều và dần dần hình
thành nhóm cộng đồng rõ rệt. Người Chà Bombay, người Ấn bán vải lụa ở đường Lê Lợi, Hàm
Nghi, Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo) và hai bên chợ Bến Thành. Người Chà (gồm cộng
đồng người theo Hindu giáo, Islam giáo) thường buôn bán vải và lụa ở đường Hàm Nghi, Lê
Lợi, Đồng Khánh và trong chợ Bến Thành. Ở khu vực Chợ Lớn, người Chà có cửa hàng bán vải
lụa ở đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm) và trong chợ Bình Tây. Họ cũng
bán kẹo, bánh ngọt, rượu, đồ cổ, mỹ nghệ và trang sức. Một số người Chà làm nghề chế tác đồ
trang sức và có cửa hàng trên đường Tôn Thất Hiệp, khu vực này có nhiều nhà hàng phục vụ
món cà ri dê, gà và các loại bánh ngọt đặc biệt. Có khá nhiều nhà hàng Ấn Độ nằm trên
đường Cây Mai, gần một nhà thờ Islam giáo trên đường Nguyễn Trãi (Chợ Lớn).
1.2. Hoạt động thương mại của cộng đồng người Ấn tại TPHCM

1. 2.1 Hoạt động kinh doanh vải

Ngày nay, hoạt động buôn bán trang phục – vải của cộng đồng người Ấn tại TP HCM
không còn sôi nổi như trước nữa, có thể kể đến của hiệu vải Tô Hoàng Tân (tên Việt Nam),
Sultane (tên tiếng Ấn). Những thế hệ Ấn kiều sau này mở cửa hàng ở đường Đồng Khởi để
buôn bán vải – trang phục Ấn Độ như: cửa hàng Cashmere house hay Cashmir trên đường
Đồng Khởi, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cashmere là một loại len siêu mềm và cực kì đắt đỏ được tạo ra từ giống dê Cashmere.
Một sợi len đạt chuẩn phải có đường kính ít nhất 18,5 mm và chiều dài ít nhất 3,175 cm.
Cashmere được biết đến với sự đa dạng và khả năng thích ứng của nó. Cashmere tự nhiên có
ba màu khác nhau: xám, nâu và trắng. Loại len này có thể được xe thành sợi mỏng hay dày,
có thể dệt thành vải nhẹ hoặc nặng tùy theo nhu cầu sử dụng. Cashmere cũng có độ ẩm cao,
cho phép bản thân nó có khả năng điều chỉnh độ ẩm tương đối của môi trường. Điều đó
khiến Cashmere thích ứng tốt với mọi khí hậu. Ở những vùng rất lạnh, một chiếc áo dày, hay
lượt khăn Cashmere mỏng cũng đủ khả năng giữ ấm cơ thể. Mặc dù từ Cashmere được dùng
để chỉ chung các loại len siêu mềm, nhưng len Cashmere 100% nguyên chất phải được bắt
nguồn từ dê Cashmere – đây là giống dê sống chủ yếu ở vùng cao nguyên châu Á như Ấn Độ.
Ngoài Cashmere còn có len Pasmina, cũng
là một loại len quý. Loại len này rất mịn và Cashmere
tốt. Đây là một loại vải len cũng làm từ một
giống dê bản địa, đặc biệt ở dãy Himalaya,
những con dê này được nuôi dưỡng thương
mại và sản xuất quần áo Pashmina. Các sản
phẩm Pashmina thường rất mềm, trọng
lượng nhẹ, dùng để làm khăn choàng.
Pashmina
Ngoài buôn bán các loại vải truyền thống – trang phục Ấn Độ, cộng đồng người Ấn
tại TP HCM còn buôn bán các mặt hàng handmade, jacket, hoặc một số loại thảm
truyền thống được nhập khẩu từ Ấn Độ.

Một số loại sản phẩm được cộng đồng người Ấn bày bán tại đường Đồng Khởi, quận 1, TP HCM
1.2.2 Hoạt động kinh doanh trang sức truyền thống

-Trang sức truyền thống Ấn Độ là một phần không thể thiếu trong văn hoá Ấn Độ, có
nguồn gốc từ nền văn hoá cổ xưa. Trang sức bằng vàng được sử dụng phổ biến và
rộng rãi, đóng vai trò quan trọng trong các phong tục tập quán, văn hoá và vấn đề
làm đẹp của cả nam giới lẫn nữ giới

Vòng tay Choodiyan: là một loại trang sức


được làm từ vàng và đá quý. Đây là một loại vòng
đeo tay truyền thống của Ấn Độ, được người phụ
nữ mới lấy chồng ở Ấn Độ đeo. Theo tập tục, phụ
nữ Ấn Độ đeo vòng tay Choodiyan thì sẽ không
làm bất cứ công việc nào trong nhà cho đến khi
họ tháo những vòng tay này ra.
Vòng đeo bắp tay Baaju band: đây cũng
là một loại trang sức khá phổ biến đối với
phụ nữ Ấn Độ, vòng đeo bắp tay này được
đeo khi mặc những bộ trang phục ngắn
tay. Đây là loại trang sức sử dụng phổ biến
ở vùng Rajasthan- Bắc Ấn trong các nghi
lễ cưới xin ở Ấn Độ. Chất liệu phổ biến của
vòng đeo này cũng là vàng, đồng hoặc
đính kim cương.
Chuỗi đeo Mangal Sutra: là một loại vòng cổ
truyền thống của người Hindu ở Ấn Độ, là một
trong những món đồ trang sức quý nhất của
những người phụ nữ đã có chồng ở Ấn Độ. Vòng
cổ người phụ nữ Ấn đeo suốt cuộc đời hôn nhân
của mình. Đây là chuỗi đeo cổ có ý nghĩa bảo vệ
người phụ nữ khỏi những cái ác và đánh dấu sự
hợp nhất giữa người chồng và vợ khi kết hôn.
Thông thường, những mặt dây chuyền truyền
thống được làm bằng chất liệu là vàng hoặc
đồng.

Một cửa hiệu trang sức Kashmir trên đường Đồng


Khởi chuyên buôn bán các loại trang sức truyền
thống Ấn Độ như: vòng tay Choodiyan, chuỗi đeo
cổ Magal Sutra, vòng đeo trên bắp tay Chuỗi đeo Mangal Sutra
Baajuband hoặc những vòng cổ, khuyên tai,
nhẫn… Chủ cửa hàng cho biết , hầu hết những
loại trang sức này được làm chủ yếu bằng đá
quý, hoặc kim loại. Đa số những mặt hàng trang
sức này được nhập khẩu từ Ấn Độ.
1.2.3. Hoạt động kinh doanh ẩm thực

So với việc kinh doanh vải – trang sức Ấn Độ thì việc buôn bán ẩm thực dường như phát triển
hơn rất nhiều. Dọc theo các con đường lớn khu vực quận 1 như: Hồ Tùng Mậu, Hai Bà Trưng, Nguyễn
An Ninh, Lê Thánh Tôn, v.v. không khó bắt gặp những quán ăn mang đậm chất Ấn Độ. Cà ri là món ăn
không thể thiếu và không thể không nếm thử khi đến với ẩm thực Ấn Độ. Món cà ri được chủ các
quán ăn, nhà hàng Ấn Độ làm rất công phu với rất nhiều bí quyết về nguyên liệu, công thức chế biến.
Thông thường món cà ri không thể thiếu thịt (tùy khẩu vị từng người mà có thể dùng các loại thịt
khác nhau, trừ thịt heo và bò), rau củ quả, bột cà ri, nước dừa. Họ cũng thường cho sữa vào để phục
vụ khách đến từ châu Âu.
Trước năm 1975, người Chà Châu Giang (tức người Chăm, Chăm Pa) được đánh đồng gọi là người
Chà Ấn . Người Chà Châu Giang có một món ăn gọi là cơm nị mà ngày nay khi vào các nhà hàng
Ấn Độ bạn sẽ dễ dàng bắt gặp và nó đã trở thành một phần trong ẩm thực Ấn Độ.

Cơm nị được người Ấn nấu khá công phu. Cơm nị được nấu từ một loại gạo đặc trưng được
trồng ở Ấn Độ gọi là gạo Pasmati. Đây là một loại gạo rất đắt, 1 kg có giá khoảng 85.000 – 200.000
đồng. Bên cạnh đó, hương vị không thể thiếu là hạt bội (Yalanda). Đây là một loại hạt có hình dạng
giống hạt bưởi, chỉ được trồng ở Ấn Độ, loại hạt này rất thơm. Thực khách ăn cơm nị lấy một cái
đĩa lớn trộn cơm với cà ri và ăn bốc.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển tại TP HCM, ẩm thực Ấn Độ đã
có rất nhiều thay đổi, nhưng nhìn chung, vẫn mang màu sắc đặc trưng của
hương vị Ấn Độ.
Tiểu kết

Cộng đồng người Ấn đến Việt Nam và mang theo nền văn hoá của mình. Họ
xây dựng đền, thánh đường để làm trung tâm cố kết nội bộ cộng đồng. So với các
quốc gia khác ở Đông Nam Á như Malaysia hay Singapore, số lượng người Ấn ở TP
HCM khá khiêm tốn, tuy vậy, cộng đồng người Ấn ở đây cũng đã đóng góp trong việc
quảng bá văn hoá, thu hút vốn đầu tư từ Ấn Độ, góp phần thắt chặt mối quan hệ tốt
đẹp giữa hai nước Việt Nam và Ấn Độ.

Dấu ấn Ấn Độ trong giao thoa văn hóa ở Việt Nam qua lăng kính tôn giáo đã, đang và
sẽ hiện hữu trong lịch sử, trong đời sống của người dân dưới nhiều khía cạnh khác
nhau, từ văn hóa, hội họa, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo,... cho đến thương mại, kĩ
nghệ, kinh tế,... Dấu ấn đó sẽ được tiếp biến, phát triển và giao thoa văn hóa dưới
quan hệ hôn nhân, huyết thống, cạnh tranh cùng tồn tại trong mối quan hệ đa chiều,
đa cực cũng như sự tương đồng văn hóa trong tiến trình hội nhập toàn cầu giữa hai
dân tộc Việt Nam – Ấn Độ.
Cộng đồng người Ấn đã đến Sài Gòn vào các năm đầu 1870 cho đến đầu thế kỷ 20. Họ
thường làm ăn sinh sống khu vực quanh chợ. Như khu vực quanh chợ đường Rue
Ohier (Tôn Thất Thiệp ngày nay), có rất nhiều người Ấn tập trung và gần đó như
đường Catinat (Đồng Khởi), Rue d'Adran (Hồ Tùng Mậu). Trên đường Tôn Thất Thiệp
hiện vẫn còn đền thờ của người Ấn. Khi chợ Bến Thành mới xây, nhiều người Ấn đến
lập nghiệp quanh chợ trên các đường xung quanh như Rue d'Espagne (Lê Thánh Tôn),
Rue Viénot (Phan Bội Châu), Rue Schroeder (Phan Châu Trinh), Rue Amiral Courbet
(Nguyễn An Ninh) và Rue Soubaraine (Lưu Văn Lang). Đền thờ người Ấn ở góc đường
Trương Định và Lê Thánh Tôn hiện nay vẫn còn.

Trên mảnh đất Sài Gòn, nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa, phảng phất những hình
ảnh của văn hóa Ấn Độ để lại sau sự giao thoa giữa hai nền văn hóa, mà đi sâu vào
đời sống tinh thần của người dân nơi đây.

Nói đến văn hóa Ấn Độ thì thứ di sản hiện hữu rõ nét nhất và ảnh hưởng sâu đậm
nhất đến Việt Nam chính là tôn giáo, tín ngưỡng. Nổi bậc nhất ở Sài Gòn là ba đền
thờ Ấn Độ giáo lớn do người Ấn xây dựng khi đến Việt Nam.
2. Tục thờ mẫu ở Việt Nam

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam hay thường gọi là Đạo Mẫu (道母), thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam
phủ, tứ phủ xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là
sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, Thánh Mẫu, Thánh Cô, Mẫu tam phủ, tứ
phủ không hoàn toàn đồng nhất. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa lấy
việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con
người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở
đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành
kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến. Ngoài ra còn có Thánh Bản mệnh là vị thần
đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đi đến với Mẹ (Mẫu) - Đấng Tối cao trong Đạo Mẫu Việt Nam –
Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam.

Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Ủy ban Liên
Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố
Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong tín ngưỡng của người Việt và một sổ dân tộc anh em, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mầu thần
là một hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy đều là sự tôn sùng
các thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần với thờ Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ không
hoàn toàn đồng nhất, mà chúng có quá trình phát triển, phản ánh nhận thức cũng như cơ sờ
phát triển xã hội Việt Nam.

Đền Mariamman vốn là cơ sở thờ tự của cộng đồng người Ấn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ khi
đến định cư ở Sài Gòn, người Ấn đã xây dựng nhiều cơ sở thờ tự. Hiện nay, trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh còn lại ba cơ sở thờ tự của người Ấn theo Ấn Độ giáo là đền Mariamman (còn
gọi là Chùa Bà, chùa Bà Ấn giáo, chùa Bà Đen), đền Subramaniam Swami (còn gọi là Chùa Ông)
và đền Sri Thenday Yutthapani. Trong số ba cơ sở thờ tự kể trên, đền Mariamman thờ nữ thần
thu hút sự chiêm bái và thờ cúng đông đảo của cả cộng đồng người Ấn lẫn người Việt, trong
khi hai ngôi đền còn lại thờ nam thần thì vắng lặng, chủ yếu là người Ấn đến cầu nguyện. có lẽ
người Việt đã khá quen thuộc với tín ngưỡng thờ Mẫu, nên việc thờ phụng nữ thần Mariamman
đã được họ dễ dàng tiếp nhận. Từ đó, nó được dần biến đổi để phù hợp với văn hóa và thói
quen thực hành tín ngưỡng của địa phương. Sau nhiều thập niên tồn tại, từ một ngôi đền phục
vụ cho việc thực hành tôn giáo của người Ấn Độ tha hương, đền Mariamman giờ đây, với dáng
vẻ của một ngôi đền Ấn giáo, đã trở thành nơi để cầu bình an, cầu may mắn của đông đảo
người dân Sài Gòn đa văn hoá và tín ngưỡng.
Đền Mariamman vốn là nơi phục vụ nhu cầu tôn giáo và tụ họp của cộng đồng người Ấn ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chúng ta có tthể thấy rõ sự giao lưu tiếp biến văn hóa ở cơ
sở thờ tự này. Trong quá trình cộng cư lâu dài với người Việt, văn hóa Ấn Độ đã chịu sự tác
động của nhiều yếu tố theo quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Ngôi đền này thu hút sự
cúng bái của không chỉ người Ấn, mà còn của nhiều tộc người khác. Nguyên nhân của hiện
tượng này, theo chúng tôi chủ yếu do ngôi đền Mariamman không còn là cơ sở thờ tự chỉ dành
cho cộng động người Ấn. Ngay từ khi xây lại vào năm 1950, ngôi đền này đã mở cửa tiếp đón cả
người Việt, thậm chí người Hoa hay người Khmer. Mọi người đều thành tâm dâng vật phẩm lên
những vị thần được thờ trong ngôi đền Mariamman vốn khá xa lạ với nền văn hóa của mình.
Điều này phải chăng do trong văn hóa Việt, thờ nữ thần có lịch sử lâu đời. Loại hình thờ cúng
này hướng đến cuộc sống thực tại của con người như sức khỏe, tài lộc, may mắn. Vì lẽ đó, thờ
cúng nữ thần của người Ấn nhanh chóng hội nhập vào văn hóa Việt và trở thành nét văn hóa
độc đáo tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận nữ thần Mariamman vào đời sống tâm linh
người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh nhiều khả năng còn do vị trí ngôi đền này trước đây từng
là ngôi miếu nhỏ mà người Việt thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. Vì vậy, khi đền xây xong, cư dân sống
quanh khu vực ngôi đền vẫn đến lễ bái, cầu nguyện. Việc thờ nữ thần Mariamman trong văn
hóa Ấn hay thờ nữ thần trong văn hóa Việt đều được hình thành và phát triển từ hàng nghìn
năm trong trong quan niệm của con người về vũ trụ quan, nhân sinh quan.
Điều đó thể hiện sự kính ngưỡng đối với người sinh ra, nuôi dưỡng, bảo lưu các thế hệ giống
nòi, là điểm tựa về vật chất và tinh thần, là sự ấp ôm che chở bao la cho mỗi người trước mọi sự
khó khăn. Những hiện tượng siêu nhiên dần được gắn với người mẹ, từ người mẹ cụ thể đến
người mẹ siêu phàm. Người mẹ được thần tượng hóa trong đời sống con người. Việc thờ nữ thần
do vậy cũng tự nhiên và đáng tự hào về tính nhân văn của người Việt.
Chương III: TÍN NGƯỠNG THỜ NỮ THẦN MARIAMMAN VÀ
TÍNH NỮ TRONG KIẾN TRÚC ĐỀN THỜ NỮ THẦN MARIAMMAN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1. Vị trí của người phụ nữ trong truyền thống văn hóa Ấn Độ:

Trong truyền thống văn hóa Ấn Độ, có thời kỳ phụ nữ chiếm vị trí khá quan trọng, đặc
biệt là phụ nữ Hindu giáo trong thời kỳ đầu. Phụ nữ trong các gia đình hoàng tộc được
quyền chọn chú rể cho mình bằng cách đeo vòng hoa vào người mình chọn. Tuy các
cuộc hôn nhân này chủ yếu là các cuộc liên hôn, nhưng dù sao người phụ nữ cũng được
quyền lựa chọn đấng lang quân cho mình. Ở Ấn Độ, chế độ đa thê chiếm vai trò chủ đạo
trong đời sống hôn nhân, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp chấp nhận đa phu được ghi
thành sử sách, huyền thoại như trường hợp Draupadi, nữ anh hùng nổi tiếng và gây
tranh cãi nhất trong sử thi thần thoại Mahabharata, kết hôn với năm anh em nhà
Pandava, trở thành hình mẫu của chủ nghĩa nữ quyền ở Ấn Độ [Mai Ngọc Chừ (cb) 2008:
313-314].
Trong hệ thống các sử thi, các kinh sách tôn giáo Ấn Độ, bên cạnh các nam thần đầy sức
mạnh và quyền lực cũng tồn tại một hệ thống các nữ thần đông đảo không kém. Các nữ thần
được tôn thờ như biểu tượng của lực lượng siêu nhiên, thánh thiện, ưa chuộng hòa bình, diệt
trừ và chiến thắng cái ác. Bộ ba đấng tối cao Brahma, Vishnu và Shiva luôn được miêu tả với
sự trợ lực của các bà vợ và một lực lượng nữ thần hùng hậu.

● Vợ của Thần Sáng tạo Brahma là người đẹp Sarasvati, nữ thần học vấn và đỡ
đầu cho nghệ thuật, khoa học và ngôn từ.
● Lakshmi, vợ của Thần Bảo tồn Vishnu, là nữ thần của sự giàu có và may mắn.
● Nữ thần Durga là biểu tượng của tình yêu tinh khiết, lòng dũng cảm và ánh
sáng, duy trì trật tự đạo đức và sự công bằng xã hội.
● Nữ thần Sati, hóa thân thành người vợ thứ nhất của Thần Hủy diệt Shiva, là
nữ thần hạnh phúc gia đình và tuổi thọ; Shakti (tính lực nữ) còn gọi là Parvati,
hóa thân thành người vợ thứ hai của Shiva, là hiện thân hoàn chỉnh của Adi
Parashakti – nữ thần sáng thế tối cao, người mà tất cả chư thần đều nhận là
hiện thân của bà.

Song nổi tiếng và đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Ấn phải kể tới Nữ thần sông Hằng (Ganga), dòng sông duy nhất chảy qua ba thế
giới thiên đường, hạ giới và địa ngục, có quyền năng tối thượng mang đến may mắn
và gột rửa mọi tội lỗi của thế gian.
Kerala có phần đất phía đông
tiếp giáp với vùng Tamil Nadu và
biên giới giữa hai vùng này có
phần mềm dẻo, không thật sự
rạch ròi. Người dân Kerala sử
dụng cả hai ngôn ngữ là tiếng
Malayalam (ngôn ngữ chính của
Kebala) và tiếng Tamil (ngôn ngữ
chính của vùng Tamil Nadu).
Trong thời kỳ trung đại, triều đại
Kulasekhara cai trị một lãnh thổ
bao gồm toàn bộ Kerala ngày nay
và một phần của bang Tamil
Nadu. Hiện nay, cả hai vùng này
tạo nên vùng cực nam của Ấn Độ,
nơi chứa đựng nhiều dấu vết văn
hóa cổ Dravidian, mà tín ngưỡng
thờ nữ thần Mariamman là một
trong số đó.
2. Cổ tích Tứ Pháp và dấu ấn của tín ngưỡng Ấn Độ giáo :

Sách Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Nhưng chưa ai đưa ra ánh sáng
sự kiện Ấn Độ giáo xuất hiện ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn
chùa Dâu trước Phật giáo hoặc
Minh San, NXB Văn hóa Dân tộc
đồng thời mà thực tế cho thấy sự
xuất bản năm 1998, từ trang 81 đến
tích Tứ pháp có nội dung gắn liền
93 đã ghi lại cổ tích “Tứ pháp – Tín
với Bà La Môn giáo, trong đó nhà
ngưỡng độc đáo của người Việt”
sư Khâu Đà La là nguyên nhân cốt
rút trích từ sách cổ “Lĩnh Nam
truyện và Sĩ Nhiếp là người tạo ra
chích quái”. Tứ pháp đặc trưng
hình tượng các nữ thần Mây, Mưa,
cho bốn người con gái của Phật
Sấm, Chớp. Do đó, người ta cho Sĩ
mẫu Man nương trong một gia
Nhiếp chính là tín đồ đầu tiên của
đình khi xuất hiện được phân ngôi
Bà La Môn giáo học đạo từ nhà sư
thứ có tên là Pháp Vân, Pháp Vũ,
Khâu Đà La. Hiện tượng mây, mưa,
Pháp Lôi, Pháp Điện. Đạo Phật do
sấm , chớp theo thần thoại Ấn Độ
nhà sư Khâu Đà La là người đầu
đều do từng vị thần linh đại diện
tiên đưa đạo Phật từ Ấn Độ tới đây
như Indra (Thần sấm sét), Vayu
rồi đến các nhà sư Ấn Độ khác
(Thần gió), Uma (Thần ánh sáng),
như thiền sư Ma Ha Kỳ vực, Tỳ Ni
Agni (Thần lửa), Mari (Thần mưa),…
Đa Lưu Chi, Mâu Tử,…
Trong nội dung cổ tích Tứ pháp, chúng ta thấy có một chi tiết sau cùng tuy
nhỏ nhưng trở thành sự kiện lớn được xác định có liên quan đến Ấn Độ giáo.
Đó là viên đá rớt ra từ gốc cây cổ thụ mà dân gọi là Pháp Quang đem thờ bên
tượng Pháp Vân. Nay được biết chính xác là linga.

Có thể nói tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam từ Bắc tới Nam đều có ảnh hưởng
hay được xuất phát từ sau thời Tứ Pháp ở Luy Lâu – Thuận Thành (Bắc Ninh)
như Bà Chúa Thượng Ngàn, Mẫu Thỏa, Bà Chúa Kho,… Nghi thức “chầu văn”,
hầu đồng ở các lễ hội và tục thờ Mẫu này được UNESCO vinh danh.
Ở lớp văn hóa muộn hơn, lưu dân người Việt đã không ngại lấy tượng thần Vishnu chế tác thành
Phật bốn tay, rồi dựng chùa Linh Sơn tự tại thị trấn Óc Eo, nơi dân gian còn gọi là chùa Phật bốn tay.
Người Khmer đã chuyển hóa thêm một mức sâu sắc hơn là biến thần Bà La Môn giáo thành tín
ngưỡng thờ Ông Tà (Neak Ta) và Bà Đen (Yeay Khmau). Sự xuất hiện của tín ngưỡng này còn lan tỏa
tới Sài Gòn và Gia Định – Đồng bằng sông Cửu Long do người Khmer mang tới và người Việt, người
Hoa “ăn theo” vào thời kỳ trước và sau Sài Gòn 300 năm.

Ở khu phố 4, phường Bến Thành có đền bà


Mariamman, người dân thường gọi là Bà Đen, nơi
mà xưa kia tồn tại ngôi miếu Linh Sơn thánh mẫu.
Miếu này được dân địa phương lập ra để cầu
nguyện có thể có nguồn gốc Bà Đen ở núi Tây Ninh
nhưng thời đầu nhà Nguyễn đổi tên thành Linh
Sơn thánh mẫu do được vua phong. Về sau lại
trùng hợp với sự xuất hiện của đền bà Đen tức nữ
thần Mariamman do cộng đồng người Ấn đến Sài
Gòn lập nghiệp dựng nên vào thời cuối thế kỷ XIX, Bốn tượng nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện
tọa lạc số 45 Trương Định, phường Bến Thành,
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu, Ấn giáo ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh :

Tín ngưỡng thờ Mẫu trong Ấn Độ giáo khi du nhập vào nước ta được phát huy rất tích cực,
gồm có Tứ pháp là nữ thần Pháp Vân (Mây), Pháp Vũ (Mưa), Pháp Lôi (Sấm), Pháp Điện (Chớp), Bà Đen
ở Tây Ninh, Bà Po Naga ở Nha Trang, Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc.

Các bà vợ của ba danh thần chủ lực Brahma, Vishnu, Shiva (Trimurty) của Bà La Môn giáo - Ấn
Độ giáo đều được coi trọng và thờ cúng chủ yếu ở các đền thờ của hai tôn giáo này, đặc biệt các bà
vợ được chuyển hóa hay hóa thân nổi tiếng được thờ chính ở các địa phương miền Nam Ấn Độ là
Mariamman (nhưng cũng còn kèm theo một số bà có nguồn gốc ở phía Bắc từ núi Tuyết hay
Himalaya) rồi truyền sang các nước ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Việt Nam trong ba miền Bắc, Trung,
Nam. Song thời kỳ Ấn Độ giáo mới du nhập vào đầu Công nguyên ở Việt Nam lại lấy tên người bản xứ
như Tứ pháp, Po Naga, Po Sa Nư, Bà Chúa Xứ, Bà Đen,...ộ thuộc bộ tộc Dravidian da đen khác với bộ
tộc Aryan da trắng (các bà như Kaliman, Saravasti) từ miền Bắc rồi thành Thiên Y A Na, Bà Chúa Xứ,..
đều có thể mô phỏng hình tượng Mariamman ở miền Nam Ấn Độ. Do đồng hóa Nam Bắc giữa hai bộ
tộc này mà Ấn Độ về sau có sắc trắng, có sắc đen lấy tên đồng hóa chung là Hindu thống nhất và
đạo hợp nhất chung là Ấn Độ giáo (Hinduism). Ở thời kỳ đầu Bà La Môn giáo du nhập vào Phù Nam,
Champa, Chân Lạp kể cả miền Bắc Việt Nam đều không có tên nữ thần Mariamman nhưng các tượng
nữ thần vẫn cứ tạc màu đen mang sắc tộc Dravidian (Nam Ấn Độ) nhưng ý nghĩa về sự linh thiêng thì
giống nhau.
Chỉ tới thời thực dân phương Tây chiếm đóng các nước Đông Nam Á thì tín ngưỡng đa thần
này mới có tên Ấn Độ giáo và thờ nữ thần chủ ở các đền đều mang tên Mariamman như ở
Sài Gòn thời Pháp thuộc và giữ luôn tên này từ đó tới nay. Đặc điểm kiến trúc của các đền
đều gần như nhau có phong cách hay mô típ thống nhất của nghệ thuật kiến trúc đền tháp
Ấn Độ, đặc biệt tháp cổ hình tượng núi Meru.

Ở quận 1, tập trung ba đền nhưng chỉ có một đền thờ nữ thần Mariamman, hai đền còn lại
thờ thần nam là con của bà Mariamman (Muruga – Thần chiến tranh, dũng sĩ đắc lực của
Shiva), một đền có tên Subramariaman Swamy và đền còn lại là Sri Thenday Yutthapani. Cho
tới ngày nay thì đền Mariamman đã trở thành cơ sở tín ngưỡng dân gian hàng ngày thu hút
rất đông người đến từ nhiều miền, kể cả người nước ngoài là khách du lịch và người theo
đạo Hindu đến chiêm bái. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện rõ nét qua lễ hội vía Bà tháng 10
hàng năm phục hồi lại tổ chức lễ rước ảnh (thay vì rước kiệu) không chỉ có bà Mariamman
mà còn cả ba nữ thần nữa là Kaliaman, Laskmi và Saravasti. Đúng là bốn nữ thần hay Tứ
pháp. Dân chúng tới cầu nguyện từ hạnh phúc, sức khỏe, mua bán đến cầu con,… Từ vật
phẩm, tiền công đức thu được, chủ yếu tiền và gạo được ban quản trị sử dụng vào hoạt
động từ thiện – xã hội (cứu trợm giúp người nghèo, bệnh tật, học bổng, hỗ trợ nhà tình
thương,…) ngoài công tác hành lễ, tu bổ, bảo tồn,…
Đền Mariamman Đền Subramariaman Swamy Đền Sri Thenday Yutthapani

Tiểu kết: Văn hóa Ấn Độ về xây dựng đền tháp và thực hành tín ngưỡng thờ cúng với những đặc điểm tương
đồng với tín ngưỡng thờ Mẫu đã du nhập vào Việt Nam ngay từ buổi ban đầu hình thành nên tập tục thờ
cúng các thần linh từ cuối thời vua Hùng Vương chuyển sang thời đô hộ của nhà Hán, rồi kéo dài cho đến
ngày nay. Thành tố văn hóa Ấn Độ tồn tại bên cạnh văn hóa tín ngưỡng riêng trên dãy đất hình chữ S mà mỗi
nền văn hóa du nhập và chuyển hóa theo bản địa đều có một mô hình di sản văn hóa vật thể không tách rời
di sản văn hóa phi vật thể.
4. Các đặc trưng âm tính của tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman :

Xuất phát từ vùng đất phía nam Ấn Độ với truyền thống xã hội mẫu hệ, phong
tục thờ cúng Nữ thần Mariamman được xem như một dấu hiệu của một xã hội mang
tính nữ và tôn vinh vai trò của những người phụ nữ có tài năng và đức hạnh.
Mariamman thường kết hợp với các nữ thần khác như Parvati, Kali, Durga,...được thờ ở
các đền thờ Hindu giáo theo tinh thần tổng hợp, đa thần của các tôn giáo Ấn Độ và trở
thành nữ thần chiếm ưu thế ở vùng nông thôn của bang Tamil Nadu.

Tên gọi Mari theo tiếng Tamil có nghĩa là “Mưa” và Amman có nghĩa là “Mẹ”, cả
hai đều mang các đặc trưng nữ nổi bật. Với tên gọi nghĩa là “Mưa”, Mariamman được
tôn vinh là Nữ thần mùa màng và thịnh vượng. Đây là mong ước lớn nhất của người dân
nông thôn sống bằng nghề trồng trọt, định cư và ứng xử theo lối hài hòa không làm
mất lòng nhau.
Mẹ là khái niệm nữ tính thiêng liêng nhất trong cuộc đời của bất kỳ con người nào. Người
mẹ gắn liền với các con. Nói đến mẹ là nhớ ngay đến công ơn sinh thành, sự gắn bó, quan tâm,
chăm sóc, dưỡng dục. Trong các gia đình phương Đông, người mẹ đồng thời vừa quán xuyến điều
phối kinh tế gia đình, vừa tham gia sản xuất, góp phần tạo dựng kinh tế gia đình nói riêng và xã
hội nói chung. Ở Ấn Độ, Mariamman vừa là thần Mưa vừa là thần Mẹ, được tôn vinh là nữ thần an
sinh xã hội, hôn nhân gia đình, trẻ thơ ở vùng Tamil Nadu [Vương Liêm].

Với trọng trách của một vị nữ thần, một người mẹ luôn che chở, bảo vệ cho các tín đồ, ở
Việt Nam với lối sống thiên về tình cảm, nữ thần Mariamman ngoài việc phù hộ cho các tín đồ
được sống sung túc, hạnh phúc, còn kiêm thêm chức năng lắng nghe, an ủi, giải tỏa những nỗi
niềm, khúc mắc trong cuộc sống. Chính vì vậy, đền thờ Bà ở Thành phố Hồ Chí Minh thu hút được
nhiều du khách và tín đồ đến tham quan, cúng bái, cầu nguyện. Đền Bà đi vào văn hóa người dân
nơi đây bằng các tên dân dã như “đền Bà Ấn”, “chùa bà Ấn”, “chùa bà Đen”, “chùa bà
Mariamman”,...bên cạnh tên chính thức “Đền Mariamman”.
5. Các đặc trưng dương tính của tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman :

Nữ thần Mariamman được người dân miền Nam Ấn Độ tôn vinh là nữ thần làng, người có
công bảo vệ đất, bảo vệ làng xuất phát từ các câu chuyện về sự tích của Bà như Bà là người có
công chống lại các bộ tộc da trắng từ miền Bắc xuống xâm chiếm và đồng hóa ngừi bản địa
phương Nam. Do vậy, trong các lễ vía Bà, người ta làm biểu tượng những mũi tên ngược để tưởng
nhớ về chiến công và sự hy sinh của Bà.

Trong các truyền thuyết về Nữ thần Mariamman, người ta thường mô tả Bà có khuôn mặt
đỏ, mặc váy đỏ thể hiện uy quyền. Màu đỏ là màu may mắn, là sắc màu mang tính dương rõ rệt và
thể hiện Bà luôn mang trong mình sức mạnh và quyền năng. Chính vì điều này, trong các kỳ lễ và
lễ vía Bà hàng năm, các ngôi đền có Lễ hiến tế bằng lửa theo phong tục của các dân tộc thờ lửa
để có thể tiêu trừ các ác nghiệp, xui xẻo, mang lại sức mạnh cho cá nhân và cộng đồng.

Các đặc trưng dương tính trong tín ngưỡng thờ Nữ thần Mariamman tuy không nhiều,
nhưng cũng đủ cho thấy các yếu tố văn hóa Ấn Độ mang tính trung gian. Các yếu tố thường
mang tính nước đôi, có âm dương, Trong các truyền thuyết hoặc tượng thờ, Nữ thần Mariamman
cũng được mô tả như một người phụ nữ xinh đẹp, một tay cầm đinh ba (Trishula) và tay kia cầm
chiếc bát sọ người (Kapala). Hình ảnh Bà cũng được thể hiện bằng các phong thái trái ngược
nhau, khi thì hiền hòa, khi thì đáng sợ với răng nanh và tóc xõa hoang dại.
Tiểu kết: Nữ thần Mariamman có ba đặc tính cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Mariamman là nữ thần Thứ hai, Mariamman là nữ Thứ ba, Mariamman là nữ
của làng xã. Ấn Độ là một quốc gia thần của bệnh tật. Người thần sinh sản. Tín đồ Hindu
nông nghiệp, nền văn hóa ra đời Ấn tin rằng, nữ thần chữa giáo thường cầu cúng
trong bối cảnh của đời sống nông được bệnh đậu mùa và Mariamman về những vấn
thôn. Trong các ngôi làng, cư dân bệnh sởi. Trong các tháng đề gia đình như khả năng
tôn thờ các vị thần làng mùa hè (từ tháng ba đến sinh sản, con cháu khỏe
(gramadevata). Một làng có thể có tháng sáu) ở Nam Ấn, người mạnh hoặc lấy được chồng/
nhiều thần làng, mỗi vị có chức dân mang theo chậu nước vợ phù hợp. Người dân Ấn
năng riêng. Một trong những nữ trộn với bột nghệ và lá Độ thường dâng pongal
thần được cúng nhiều nhất ở Nam neem để tránh bệnh đậu (gạo nấu với đậu xanh) lên vị
Ấn là Mariamman. Bà thường được mùa và bệnh sởi. Theo nữ thần này. Ngày nay, tại
thờ đại diện bằng một tảng đá. Bà cách nói trên, nữ thần đền Mariamman ở Thành
là vị thần giám hộ ranh giới các Mariamman rất giống với phố Hồ Chí Minh, người Ấn
ngôi làng với nhau. Làng được xem nữ thần Shitala ở Bắc Ấn. vẫn làm lễ vật này để dâng
như một vũ trụ đầy đủ, quyền năng cúng bà.
trung tâm của làng thuộc về nữ
thần.
6. Kiến trúc Đền thờ Nữ thần Mariamman ở Sài Gòn

Đền Mariamman được xây dựng quy mô khá lớn gồm nhiều dãy nhà có mái vòm cột đặc trưng kiến trúc của Ấn Độ.
Điện thờ chính thờ thần Parvati, hiện thân của nữ thần Mariamman. Bên cạnh nữ thần Mariamman là hai bảo vệ
Maduraiveeran (bên trái) và Pechiamman (bên phải). Trước mặt nữ thần Mariamman là hai linga (biểu tượng sinh thực
khí nam) được đặt trên bệ yoni (biểu tượng sinh thực khí nữ), một để nổi trên bệ đá thấp, một nằm trong vuông lõm dưới
nền gạch có chiều cao hơn một mét. Khu cấm địa này được rào sắt bao quanh, chỉ có người làm lễ mới được vào. Bên
ngoài rào ngay chính giữa sảnh rộng là nơi cúng dường các vật phẩm như hương đèn, hoa quả, gạo muối, dầu đốt...

Ngay phía trên tượng Mariamman là tượng hai người con của bà là Ganesha và Murugan trong tư thế tôn kính. Hai điện
thờ nhỏ còn lại thờ Cô và Cậu (theo cách gọi của người Việt). Cả ba tượng Mariamman, Cô và Cậu đều được làm bằng đá
sơn đen, tay tượng và cổ tượng đeo đồ trang sức bằng bạc, đá quý. Phần nóc của ba điện thờ này có tượng thần và thú
chạm trổ công phu và đẹp mắt với nhiều màu sắc.
Phần sân ngoài là khu nhà hậu có
hình chữ U. Đáng chú ý là trên tường
của khu nhà hậu này là tượng của 18 vị
thần với tư thế và phong thái khác nhau
đặt trong vòm tròn, được thiết kế tỉ mỉ
và sơn phết màu sắc tươi sáng. Dưới mỗi
tượng đều có tên kèm theo: Nadarajar,
Paramsiva, Brahman, Mahavishu,
Kaliamman, Biaramasakthi, Samundi,
Thirumagal, Mageswari, Meenadchi,
Vaslambigai, Andal, Kamadchiamman,
Karumariamman, Sivagami, Parvathy và
Murgan. Tại ba góc là vị trí của tượng
ba vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo gồm:
Brahma, Vishnu và Shiva.
Sơ đồ cụ thể dưới đây:

Ngoài 18 bức tượng, trong ngôi đền


Mariamman còn có một con sư tử (Simha
vahanam) rất lớn, đặt ngay ở cổng chính điện, là
vật cưỡi của nữ thần Mariamman. Vì vậy, hầu
như mọi người tới ngôi đền đều dừng lại bái lạy
và vuốt ve con sư tử này cầu mong điều an lành,
tiêu trừ phiền muộn trong lòng.
Hoạt động tôn giáo tại đền:

Hoạt động cúng tế tại ngôi đền Mariamman diễn ra hằng ngày, chủ yếu
vào 8-9 giờ sáng và 7-8 giờ tối. Lễ trọng vào thứ sáu hằng tuần (ngày của nữ
thần Shakti, hóa thân của Mariamman, theo truyền thống Hindu giáo),
mồng một và rằm hàng tháng (theo truyền thống của người Việt) tại ngôi
đền Mariamman có thêm một thời điểm hành lễ vào 10-11 giờ trưa.

Lễ hội chính của ngôi đền Mariamman là Vía Bà, được tổ chức vào khoảng
tháng 9-10 dương lịch hằng năm. Trong lễ này, nhà đền làm nhiều hình mũi
tên ngược bằng lá dừa non treo khắp nơi trong di tích xen lẫn với lá xoài. Đối
chiếu với văn hóa Ấn Độ, đây là thời điểm diễn là lễ hội Navratri tôn sùng
những hóa thân của Durga và ngày cuối là ngày nữ thần trở lại trong hóa
thân hoàn thiện nhất: Parvati. Do vậy, người ta nghĩ rằng, nữ thần
Mariamman được thờ phụng trong ngôi đền này là dạng hóa thân hoàn
thiện nhất của nữ thần Parvati. Đây là tục thờ nữ thần trong văn hóa Ấn Độ.

Một điều thú vị nữa là, sau khi dâng hương và lễ vật, người viếng đền
Mariamman thường được nhận một phần lộc từ nhà đền, chủ yếu là hoa
nhài, thường được kết thành vòng cổ. Người nhận lộc thường đặt hoa trên
bàn thờ hoặc ngâm nước tắm như một nghi thức cầu may.
KẾT LUẬN
Đền Mariamman vốn là nơi phục Mariamman vốn khá xa lạ với Việc thờ nữ thần Mariamman
vụ nhu cầu tôn giáo và tụ họp của nền văn hóa của mình. Điều này trong văn hóa Ấn hay thờ nữ thần
cộng đồng người Ấn ở Thành phố Hồ phải chăng do trong văn hóa trong văn hóa Việt đều được hình
Chí Minh. Tuy nhiên, chúng ta có thể Việt, thờ nữ thần có lịch sử lâu thành và phát triển từ hàng nghìn
thấy rõ sự giao lưu tiếp biến văn hóa đời. Loại hình thờ cúng này năm trong trong quan niệm của
ở cơ sở thờ tự này. Trong quá trình hướng đến cuộc sống thực tại con người về vũ trụ quan, nhân
cộng cư lâu dài với người Việt, văn của con người như sức khỏe, tài sinh quan. Điều đó thể hiện sự
hóa Ấn Độ đã chịu sự tác động của lộc, may mắn. Vì lẽ đó, thờ cúng kính ngưỡng đối với người sinh ra,
nhiều yếu tố theo quy luật phát triển nữ thần của người Ấn nhanh nuôi dưỡng, bảo lưu các thế hệ
của tự nhiên và xã hội. Ngôi đền này chóng hội nhập vào văn hóa giống nòi, là điểm tựa về vật chất
thu hút sự cúng bái của không chỉ Việt và trở thành nét văn hóa và tinh thần, là sự ấp ôm che chở
người Ấn, mà còn của nhiều tộc độc đáo tại Việt Nam. Bên cạnh bao la cho mỗi người trước mọi sự
người khác. Nguyên nhân của hiện đó, việc tiếp nhận nữ thần khó khăn. Những hiện tượng siêu
tượng này, theo chúng tôi chủ yếu do Mariamman vào đời sống tâm nhiên dần được gắn với người mẹ,
ngôi đền Mariamman không còn là linh người Việt ở Thành phố Hồ từ người mẹ cụ thể đến người mẹ
cơ sở thờ tự chỉ dành cho cộng động Chí Minh nhiều khả năng còn do siêu phàm. Người mẹ được thần
người Ấn. Ngay từ khi xây lại vào năm vị trí ngôi đền này trước đây tượng hóa trong đời sống con
1950, ngôi đền này đã mở cửa tiếp từng là ngôi miếu nhỏ mà người người. Việc thờ nữ thần do vậy
đón cả người Việt, thậm chí người Việt thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. Vì cũng tự nhiên và đáng tự hào về
Hoa hay người Khmer. Mọi người đều vậy, khi đền xây xong, cư dân tính nhân văn của người Việt.
thành tâm dâng vật phẩm lên những sống quanh khu vực ngôi đền
vị thần được thờ trong ngôi đền. vẫn đến lễ bái, cầu nguyện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Tâm Anh (2014), Từ ngôi đền Mariamman tại thành phố Hồ Chí Minh suy nghĩ về tục thờ nữ thần của
người Việt, Trường Đại học Mở TP.HCM, TP.HCM.

[2] Đoàn Hoài Nam (2013), Tìm hiểu về đền Mariamman tại Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thực tập tốt nghiệp,
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

[3] https://vi.wikipedia.org/wiki/Mariamman

[4] Saigoneer (2022), Giao thoa văn hóa Ấn-Việt tại đền Mariamman, ngôi đền Ấn giáo trăm tuổi ở Sài Gòn,

[5] Geetesh Sharma do Thích Trí Minh dịch (2012), Những dấu vết văn hoá Ấn Độ tại Việt Nam, văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh.

[6] Nguyễn Phan Quang (1998), “Góp thêm tư liệu Sài Gòn- Gia Định từ năm 1859 đến năm 1945”, Nxb Trẻ thành phố
Hồ Chí Minh.

[7] Sơn Nam (1998), Đất Gia Định xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[8] Lê Duy An và cộng sự, Xuất khẩu trang sức vàng cao cấp sang Ấn Độ,
http://www.doko.vn/luan-van/chien-luoc-xuat-khau-trang-suc-vang-cao-cap-vao-an-do-213784, 21/12/2013.

[9] HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI của CỘNG ĐỒNG NGƯỜI ẤN tại TPHCM - THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC
(thanhdiavietnamhoc.com)

[10] Ngô Đức Thịnh (2014), Đạo thờ Mẫu ở Việt Nam, Nxb. Thời đại.

[11] Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam, Khoa Đông phương học-Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh-Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
THÀNH VIÊN

TRỊNH LÊ HIỀN PHƯƠNG HỒ NHẬT TRƯỜNG LÊ MỸ AN


21510101903 18510801836 21510101903

HUỲNH HÀ THANH NGỌC


TRẦN THỊ THANH TRÚC
20510101486
20510101444
HẾT
THANK YOU

You might also like