You are on page 1of 39

ĐỀ CƯƠNG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Câu hỏi nhận định:


1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức luôn có trách nhiệm giải trình khi có yêu cầu.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 15, Luật PCTN 2018 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ
được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi quyết
định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp pháp để thực hiện trách nhiệm giải
trình.”
2. Đối với quà tặng là dịch vụ tham quan thì sẽ được thủ trưởng cơ quan bán lấy tiền nộp
ngân sách nhà nước.
- Sai. Theo Khoản 3, Điều 27, NĐ 59/2019/NĐ-CP quy định: “Đối với quà tặng là dịch vụ tham
quan thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông báo đến cơ quan, tổ chức, đơn vị cung
cấp dịch vụ về việc không sử dụng dịch vụ đó.”
3. Chỉ những tài sản có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên mới là tài sản phải kê khai theo quy
định của luật phòng chống tham nhũng.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 35, Luật PCTN 2018 quy định: “Tài sản, thu nhập phải kê khai bao
gồm:
a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công
trình xây dựng;
b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ
50.000.000 đồng trở lên;
c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.”
4. Luật phòng chống tham nhũng có quy định các biện pháp bảo vệ cho người tố cáo, phản
ánh hành vi tham nhũng.
- Sai. Theo Điều 56, Điều 57, Điều 58 của Luật tố cáo 2018 quy định về Biện pháp bảo vệ bí mật
thông tin của người tố cáo; Biện pháp bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo; Biện pháp
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo.
5. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi nhận được báo cáo về hành vi tham nhũng
nhưng không xử lý thì có thể bị cách chức.
- Đúng. Theo Điểm c, Khoản 2, Điều 85, NĐ 59/2019/NĐ-CP quy định: “Cách chức đối với
người đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo về hành vi đó mà tiếp tục tái phạm; người có
hành vi vi phạm lần đầu nhưng để xảy ra vụ việc tham nhũng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng.”
1
6. Tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ có khung hình phạt cao nhất là tử hình.
- Đúng.
+ Theo Khoản 4, Điều 353, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
+ Theo Khoản 4, Điều 354, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
7. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, chỉ cần công khai việc sử dụng tài chính công, tài sản công.
- Sai. Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 10, Luật PCTN 2018 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật về việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính
công, tài sản công hoặc kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác.”
8. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền không có trách nhiệm giải trình cho
báo chí.
- Sai. Theo Khoản 2, Điều 15, Luật PCTN 2018 quy định: “Trường hợp báo chí đăng tải thông
tin về vi phạm pháp luật và có yêu cầu trả lời các vấn đề liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ được giao thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và công
khai nội dung giải trình trên báo chí theo quy định của pháp luật.”
9. Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng là một trong những tiêu chí đánh
giá về công tác phòng chống tham nhũng.
- Đúng. Theo Điểm c, Khoản 1, Điều 17, Luật PCTN 2018 quy định: “Việc thực hiện các biện
pháp phòng ngừa tham nhũng là một trong các tiêu chí đánh giá về công tác phòng, chống tham
nhũng.”
10. Mọi hành vi nhũng nhiễu của công chức đều là hành vi tham nhũng.
- Sai. Theo Điểm k, Khoản 1, Điều 2, Luật PCTN 2018 quy định: “Nhũng nhiễu vì vụ lợi là hành
vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị khu vực nhà nước thực hiện.”
11. Yêu cầu giải trình phải được thực hiện bằng văn bản.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 10, NĐ/2019/NĐ-CP quy định: “Yêu cầu giải trình được thực hiện
bằng văn bản hoặc trực tiếp tại cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm giải trình.”
12. Nhận hối lộ một lợi ích phi vật chất thì không chịu trách nhiệm hình sự.

2
- Sai. Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 354, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận lợi ích phi vật chất cho chính
bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
CHỦ ĐỀ I: NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG
1. Khái niệm tham nhũng:
- Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi.
2. Nguyên nhân và điều kiện tham nhũng:
- Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị - kinh tế tạo ra những tiền đề
khách quan quan trọng làm cho tham nhũng phát triển. Lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham
nhũng. Khi còn điều kiện để lợi ích kết hợp với sự lạm quyền của những người có chức vụ, quyền
hạn thì vẫn còn có khả năng xảy ra tham nhũng. Có nhiều nguyên nhân và điều kiện phát sinh
tham nhũng, trong đó có những nguyên nhân, điều kiện cơ bản sau:
❖ Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
- Mức sống thấp, trình độ quản lý nhà nước, pháp luật hạn chế, đang trải qua quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế.
- Mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường (cạnh tranh, phân hóa...)
- Do hệ thống chính sách, pháp luật ở nước ta thiếu đồng bộ và nhất quán
- Thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn bất cập
- Công tác quản lý trên một số lĩnh vực còn chưa chặt chẽ hiệu quả
- Hành lang pháp lý còn khá lỏng lẻo và còn nhiều bất cập chính nội dung này đã gây ra sự thiếu
minh bạch và tạo cơ hội cho các cá nhân thực hiện hành vi tham nhũng
- Công tác kiểm tra giám sát chưa được chặt chẽ thiếu năng lực trách nhiệm; hệ thống quản lý
- Lương của CBCC còn ở mức thấp không có gì đảm bảo rằng họ toàn tâm toàn ý cho công việc.
Ví dụ: Bên hành lang Quốc hội sáng ngày 21/10/2022, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa chia
sẻ: Chính sách tiền lương cho cán bộ công chức viên chức hiện nay chưa tương xứng, mức thu
nhập còn quá thấp. Trong số hàng triệu cán bộ công chức, có thể một bộ phận nhỏ tiền lương với
họ không có ý nghĩa quá lớn, còn lại đa số cán bộ công chức vẫn đang sống nhờ vào tiền thu nhập
chính thức và có nguyện vọng tập trung vào công vụ, sống được bằng tiền lương. Thời gian qua
dù nhà nước đã tìm cách tăng thêm thu nhập, nhưng mức lương của công chức, viên chức vẫn
thấp hơn mức sống trung bình. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến
tham nhũng. Cán bộ công chức viên chức lương thấp nhưng lại chịu nhiều ràng buộc, trước những
áp lực này, không ít công chức, viên chức đã xin nghỉ việc.
❖ Nguyên nhân và điều kiện chủ quan:
3
- Lòng tham của con người.
- Do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ phận, tầng lớp trong xã
hội.
- Do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do chính
bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy thoái, tha hóa.
- Sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin - cho” còn tồn tại.
- Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiểu quả.
- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác quản lý, giáo dục
cán bộ, đảng viên còn kém.
- Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu đồng bộ.
- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin- cho” trong hoạt động công vụ còn
phổ biến, thủ tục hành chính còn phiền hà, nặng nề, bất hợp lý.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng, chống tham nhũng trong một số trường hợp còn chưa
chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm đối với những hành vi tham nhũng.
Ví dụ: Vụ thông thầu của Công ty AIC. Ở vụ án này, theo như đại diện Viện KSND Hà Nội đánh
giá trong phần luận tội, "vụ AIC là minh hoạ điển hình của lợi ích nhóm". Những người này vì
động cơ cá nhân, đã nhận hối lộ từ dàn lãnh đạo Công ty AIC, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
này trúng 16 gói thầu tại Dự án Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, gây thiệt hại cho Nhà nước 152 tỉ
đồng. Qua đó có thể thấy rằng: Chức năng nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong phòng
chống tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu
hiệu. Thiếu các công cụ phát hiện và xử lí tham nhũng kịp thời, hữu hiệu. Việc huy động lực
lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh
chống tham nhũng còn chưa được quan tâm đúng mức.
3. Tác động của tham nhũng:
- Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xã hội ở những điểm chính sau đây:
❖ Tác hại về chính trị:
- Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật. Các giá trị quản lý
nhà nước xây dựng không mang đến ý nghĩa tương xứng trong nhu cầu của người dân. Đây cũng
là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.
- Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khi bộ
phận lãnh đạo không đảm bảo đóng góp vai trò, thành quả vào sự nghiệp chung. Cản trở, tác động
lên các tư tưởng mạnh mẽ trong thống nhất xây dựng đất nước.

4
- Kỷ cương xã hội không thể giữ vững, các sức mạnh của nhà nước cũng giảm đi trong lòng tin
của nhân dân. Gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân.
Từ đó hạn chế sức mạnh, niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào lực lượng lãnh đạo. Cũng mang
đến cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược, lực lượng phản động.
- Làm cho bộ máy trở thành quan liêu, đội ngũ viên chức tốt cũng có thể bị tác động trong nhận
thức và thái độ.
Ví dụ: Một vụ án tham nhũng rất nổi tiếng cách đây vài năm là vụ ăn hối lộ tại trạm kiểm soát
liên hợp Đồng Bành (Lạng Sơn). Trong vụ việc này, trạm trưởng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của mình thông đồng, cho các chủ hàng nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Họ lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để nhận lợi ích riêng, hợp pháp hóa các hành vi theo quy định pháp luật.
❖ Tác hại về kinh tế:
- Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời gian, công sức của nhân dân. Giá
trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng
trăm, thậm chí chục ngàn tỷ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân sách
hằng năm của nước ta.
Ví dụ: Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong chi tiêu chính sách công như trong
xây dựng: các chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng loạt các
chi phí khác. Từ đó không đảm bảo ý nghĩa, hiệu quả sử dụng triệt để ngân sách nhà nước.
- Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi
dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho
để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể
hoặc cá nhân. Một số cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân sách không
nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội mà chỉ nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.
Ví dụ: Việc tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài sản công
trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức. Trong một số cơ quan, tổ chức đã
hình thành các đường dây tham ô hàng tỷ, thậm chí hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước.
- Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể
hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy
hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản
của Nhà nước, của tập thể, của công dân.
Ví dụ: Do tham nhũng mà một số công trình xây dựng như các công trình cầu đường, nhà cửa
kém chất lượng đã gây nguy hiểm cho cuộc sống của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
phát triển của nền kinh tế – xã hội. Các chất lượng công trình không đảm bảo về mặt thời gian,
vật chất đã bỏ ra.
- Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh. Làm giảm đáng kể năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp, chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Các hành vi tham nhũng
gây mất công bằng, bình đẳng để các doanh nghiệp tiếp cận quyền lợi theo pháp luật.
Ví dụ: Do tệ nạn tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy không có đủ thực lực và uy tín nhưng
nhờ “hối lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều đó không chỉ làm mất lòng tin
5
của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng, cạnh tranh lành mạnh mà còn dẫn đến nhiều hậu quả
xấu khác như: chất lượng công trinh kém, làm suy thoái phẩm chất của một số cán bộ, công chức,
viên chức, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, gây nguy hiểm cho cuộc sống người dân...
- Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong
khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải
mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như xin
cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng trường hợp một
thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quả lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra
thường xuyên, liên tục trong cuộc sống hằng ngày thì con số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm
trọng.
Ví dụ: Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hối lộ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức gây thiệt hại đến tài sản của người dân, làm ảnh hưởng đến giải quyết thủ tục hành chính
dẫn đến kéo dài việc giải quyết, gây mất thời gian, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tác động sâu sắc đến nhận thức, mất niềm tin của nhân dân khi sử dụng các dịch vụ của
nhà nước.
Liên hệ một số vụ án tham nhũng lớn năm 2022 và hậu quả:
Vụ biển thủ 3,8 triệu USD
Hôm 24/11/2022 TAND Hà Nội đã công bố bản án với 8 bị cáo liên quan đến hành vi biển thủ
3,8 triệu USD (tương đương 66 tỉ đồng) xảy ra tại Công ty CP dược phẩm Cửu Long, gây thiệt
hại tài sản của Nhà nước.
Vụ nâng khống thiết bị xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai
Đây là vụ án được dư luận, đặc biệt là những bệnh nhân của Bệnh viện Bạch Mai quan tâm. Vụ
án được đưa ra xét xử sơ thẩm hòi tháng 1/2022. Các bị cáo trong vụ án đã thông đồng để nâng
khống giá thiết bị y tế lên tới 300%, khiến người bệnh phải trả phí cao hơn thực tế nhiều lần.
❖ Tác hại về xã hội:
- Làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức XH, tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức NN
Ví dụ: Khiến cho người dân mất niềm tin vào những cán bộ, công chức, viên chức. Muốn làm
được thì phải được “bôi trơn” không sẽ bị “hành” gây cản trở việc làm các thủ tục HC của người
dân
- Cán bộ, công chức, viên chức không làm vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
nhân dân thay vào đó là vụ lợi cho bản thân
Ví dụ: Có những cán bộ, công chức, viên chức cho rằng do lương thấp nên họ cần phải được bồi
dưỡng bằng cách “làm nhanh” hồ sơ cho người dân…
- Dần dần tác động nhiều lĩnh vực khác rộng hơn như văn hoá, y tế, giáo dục…
Ví dụ: Năm 2020, tham nhũng đại án “Việt Á” về kit test hoặc Kỳ thi THPT Quốc gia 2018, các
giám khảo nâng điểm có thí sinh được nâng lên 29,95 điểm cho 4 môn trắc nghiệm
- Tham nhũng trợ cấp của Nhà nước đến với người dân

6
Ví dụ: Bà Đặng Thị Hà ở ấp Kênh 3, xã Vĩnh Thuận (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang), cho
biết 4 ha lúa của gia đình bà đã bị thiệt hại 100%. Thế nhưng, chính quyền địa phương chỉ hỗ trợ
cho bà 1 ha với số tiền 2 triệu đồng thay vì 8 triệu đồng theo quy định.
• KẾT LUẬN:
- Từ những phân tích nói trên có thể thấy, hậu quả của tham nhũng là rất nghiêm trọng, xảy ra ở
các lĩnh vực của đời sống xã hội, một mặt gây thất thoát về kinh tế, tác động trực tiếp tới các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Đảng, Nhà nước ta; mặt
khác xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vấn nạn tham
nhũng, nếu không được phát hiện, đấu tranh, xử lý kịp thời thì có thể tiếp tục cản trở việc thực
hiện và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây ra tiêu cực, bức xúc trong đời
sống xã hội. Đặc biệt, các vụ án tham nhũng cũng chính là cơ hội hết sức thuận lợi để các thế lực
bên ngoài lợi dụng can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta thông qua các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”, từng bước gây ra những bất ổn về chính trị - xã hội, âm mưu thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” như đã từng thực hiện ở các quốc gia Trung Đông và Bắc Phi.
Chủ đề II: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG
1. Khái niệm
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
- Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi.
2. Một số nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng
- Người khẳng định, chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra tham nhũng. Tham nhũng là “hành động
xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất”
+ Bác Hồ đến phát biểu tại Hội nghị Bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập, nhấn mạnh:
“Muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì trước hết tự mình phải trong sáng.
Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội thì
trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh
hiểu rất rõ rằng, đây là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân, cho nước cần phải
ra sức kiên trì sửa chữa. Đặc biệt, sự phê phán không chỉ bằng văn thư hành chính nội bộ mà còn
công khai lên báo chí công luận, như để tự phê bình, tự kiểm điểm trước nhân dân. Điều đó đủ để
quần chúng thấy rõ quan điểm, thái độ của Đảng ta không chấp nhận sự tồn tại của những hành
vi ấy trong đời sống chính trị của Đảng và toàn dân. Đồng thời, là sự khởi đầu cho việc hình thành
một lối sống văn hóa trong Đảng, một tập quán chính trị tiến bộ và là tiêu chí quan trọng của một

7
đảng “là đạo đức, là văn minh” - đã là cán bộ, đảng viên phải trong sạch, phải nói không với tham
nhũng.
- Bác đánh giá tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt.
+ Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, với chế độ; làm rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ. Vấn đề tham ô,
lãng phí, quan liêu trong bộ máy công quyền, dù là bộ phận nhỏ, đã là một nguy cơ lớn đối với
tiền đồ dân tộc.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tư tưởng, công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
+ Có thể thấy rằng, mọi tư tưởng, hành động của cán bộ đều ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân
dân và vận mệnh của đất nước. Kết quả của công việc thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào
người cán bộ tốt hay kém. Chính vì thế, Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”. Đấu tranh để giành được chính quyền về tay nhân dân là rất khó, nhưng đấu tranh để củng
cố được chính quyền của nhân dân cho thật trong sạch, vững mạnh càng khó hơn. Một đảng lãnh
đạo chính quyền, sao cho không xảy ra tham ô, lãng phí, quan liêu là một việc làm rất khó khăn,
đòi hỏi phải có một đội ngũ những người lãnh đạo có tâm, có tầm, có tài.
=> Như vậy, có thể thấy, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà nước. Cũng
chính vì vậy, đấu tranh chống tham nhũng sẽ còn là cuộc đấu tranh thường xuyên, lâu dài, phức
tạp và là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị.
3. Các biện pháp phòng chống tham nhũng theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thứ nhất, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
- Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng là biện pháp hàng đầu trong
đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng, toàn dân phải nâng cao
đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất,
những chuẩn mực đạo đức mới, bằng việc nêu gương người tốt, việc tốt; những tấm gương đạo
đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để
mỗi người tự giác với trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, chú trọng công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý
- Muốn chống tham nhũng có hiệu quả cần phải làm tốt công tác cán bộ, từ việc tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng... Khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dân chủ, công
khai và đủ các tiêu chuẩn đề ra, trong đó tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng là quan trọng nhất.
Cán bộ là yếu tố quyết định chất lượng của đường lối, chính sách, đặc biệt là vai trò gương mẫu,
đi đầu trong thực hiện chính sách.
Thứ ba, phải công khai, dân chủ, có khen thưởng, có kỷ luật

8
- Công khai, dân chủ là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng. Chế
độ mà chúng ta lựa chọn và xây dựng là chế độ dân chủ. Thực hiện tốt dân chủ và công khai sẽ
tạo dựng được khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, đồng thời sẽ tạo môi trường tốt để phòng
ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng.
Thứ tư, thực hiện tự phê bình và phê bình
- Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên,
trong quá trình tự phê bình và phê bình phải thành thật. Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết,
không nể nang, phải dựa vào sự thực, phải đào tận gốc rễ những khuyết điểm. Không nên thoa
vẽ, che giấu. Không nên “ít thít ra nhiều”, càng không nên nói việc nhỏ bỏ việc lớn, nói việc cũ
quên việc mới.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
- Theo Hồ Chí Minh, mục đích kiểm tra là xem xét các vấn đề phát sinh để phát hiện ưu điểm mà
phát huy, những khuyết điểm mà khắc phục, sửa chữa. Kiểm tra là công việc thường xuyên, hàng
ngày của lãnh đạo.
- Về cách thức kiểm tra, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
+ Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải biết tự kiểm tra, tự kiểm soát hành vi, công việc của chính mình
thông qua tự phê bình và phê bình. Cán bộ cấp càng cao, cơ quan lãnh đạo càng cao, càng phải
tự giác và thành khẩn tự phê bình và phải làm gương, nêu gương cho cấp dưới, không để xảy ra
“thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
+ Phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, kiểm tra từ dưới lên, từ trên
xuống dưới; kiểm tra thường xuyên, bất thường, định kỳ; kiểm tra trực tiếp, gián tiếp. Trong các
hình thức và phương pháp kiểm tra, Hồ Chí Minh đề cao kiểm tra thường xuyên và kiểm tra trực
tiếp. Người thường xuyên nhắc nhở các đồng chí ở bộ, ban, ngành ở Trung ương cần phải thường
xuyên đi kiểm tra và giải quyết các công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều.
4. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh đối với phòng chống tham nhũng trong thời đại ngày nay
- Quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô là một trong những bộ phận hợp thành quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chế độ mới ở nước ta. Hiện nay, quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng có vai trò
cực kỳ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
giá” của Đảng và dân tộc ta.
- Bằng những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo, độc đáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham
nhũng đã, đang và sẽ là kim chỉ nam định hướng cho toàn Đảng và toàn dân tộc trong công cuộc
ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.
- Để tiếp tục phát huy những giá trị chân lý của Người, Đảng ta triển khai quyết liệt, đồng bộ,
đồng thời tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh"
9
- Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng tiếp tục đưa ra đường lối chủ trương, Nghị quyết đúng
đắn về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam trong sạch.
Thực tiễn cho thấy, đa số cán bộ, Đảng viên thực hiện tốt việc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số người do nhận thức chưa đúng, lợi dụng địa vị, chức
quyền lấy của công làm của riêng gây tổn hại đến lợi ích nhân dân. Vì vậy, bản thân mỗi cán bộ,
Đảng viên phải ý thức được tác hại của tham nhũng, lãng phí đối với đất nước, nhân dân; luôn tu
dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong thời đại ngày nay
- Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng
ta luôn xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu là một nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ này là trực tiếp, phải tiến hành thường xuyên của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, làm cho dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuất bản sách:” Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà Nước ta”
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại buổi họp báo sau Đại hội XIII của Đảng ngày 1-
2-2021: “Tôi nói là không dừng, không nghỉ, không kể đó là ai, không có vùng cấm”.
Dựa vào Nhân dân để chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những bài học quý được nhiều
đại biểu nêu ra tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực giai đoạn 2012-2022. Phát biểu ý kiến tại Hội nghị này, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã nhấn mạnh
đến việc phát huy vai trò của Nhân dân trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”. Nhắc lại quan
điểm “Dân là gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Cuộc chiến
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta phải dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư
luận để chọn lọc, tiếp thu cái đúng.”
- Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng khẳng định:
“Thời gian qua và thời gian sắp tới, Đảng sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng,
tiêu cực, kiên quyết, kiên trì xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tiêu cực với tinh thần không có
vùng cấm, không có ngoại lệ bất kể người đó là ai. Chúng ta xử lý tham nhũng lớn nhưng cũng
xử lý cả tham nhũng vặt, xử cấp địa phương và cả cấp Trung ương, xử người đương chức và cả
người về hưu, không có hạ cánh an toàn.
“Nhà dột có chỗ, mía sâu có đốt. Chỗ nào dột, chỗ nào sâu thì xử lý chỗ đó. Vướng vào phạm,
sai phạm, tham nhũng, tiêu cực thì về hưu ngủ cũng không ngon”.
6. KẾT LUẬN
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan
tâm vấn đề phòng, chống tham ô, lãng phí. Người coi tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc nội
xâm, là kẻ thù của nhân dân, là “tội lỗi đê tiện nhất” trong xã hội. Vì vậy, cần phải nghiêm trị các
hành vi tham nhũng. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí có ý
10
nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Đất nước
đang đứng trước những thời cơ lớn đồng thời phải đối mặt với những thách thức lớn, nghiêm
trọng, việc tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là quyết tâm của Đảng và Nhà
nước ta nhằm xây dựng một bộ máy quản lý và lãnh đạo trong sạch, vững mạnh, khắc phục được
một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước đảm bảo sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi lên và thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chủ đề III: Thực trạng phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
(Khái niệm tham nhũng trong Luật)
1. Thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay:
❖ Mặt đạt được
- Có những thay đổi to lớn về mặt nhận thức: Hiện nay chúng ta quan tâm nhiều hơn, nhìn rõ hơn
tác hại tiềm ẩn, khôn lường của tham nhũng, tiêu cực, làm hư hỏng, mất cán bộ, mất niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Không chỉ trong khu vực nhà nước mà còn mở rộng
ra cả khu vực ngoài nhà nước. Đặc biệt, không chỉ phòng, chống tham nhũng, lãng phí mà còn
gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Ví dụ Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng phát biểu kết luận tại Phiên họp thứ 23 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, ngày 12/01/2023.
- Đề ra mục tiêu tổng quát, định hướng toàn bộ phương châm, tư tưởng hành động và các nhiệm
vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đó là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ
cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Ví dụ Mới đây, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa XIII, tất cả 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhanh chóng đi vào hoạt động, đạt được những kết quả
bước đầu.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước được tăng cường, phát
hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà
nước, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ví dụ
Trong 10 năm qua (2012 - 2022), đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ,
đảng viên, trong đó có hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý (có 4 ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 36 ủy viên Trung ương, nguyên ủy viên Trung ương; hơn 50 sĩ quan
cấp tướng trong lực lượng vũ trang); qua thanh tra, kiểm toán kiến nghị xử lý trách nhiệm gần
44.700 tập thể, cá nhân, chuyển cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
- Công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng được đẩy mạnh, tạo chuyển biến tương
đối rõ; tiến độ điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được đẩy
nhanh hơn. Ví dụ Tham nhũng của công ty Việt Á lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 "bắt

11
tay" với giám đốc CDC (trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh)một số địa phương nâng
khống giá bộ xét nghiệm COVID-19 để hưởng lợi bất chính số tiền lớn lên tới hàng trăm tỷ đồng.
❖ Khó khăn, hạn chế:
- Một số văn bản, quy định nhằm thực hiện cơ chế, chính sách về PCTN chưa được ban hành
đúng thời gian đã đề ra; một số quy định đã bộc lộ hạn chế, vướng mắc nhưng chậm được sửa
đổi, bổ sung như chuyển đổi vị trí công tác, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra
tham nhũng...
- Một số nơi, công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa
được sâu rộng. Nội dung tuyên truyền, giáo dục về PCTN chưa thật sự hấp dẫn, nhận thức của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng về công tác PCTN còn hạn chế, dẫn tới thiếu tự giác
trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về PCTN.
- Việc công khai, dân chủ một số mặt hoạt động như cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản,
đầu tư dự án, xây dựng... vẫn còn nhiều hạn chế. Vẫn còn tình trạng lạm dụng các quy định về bí
mật nhà nước để không thực hiện việc công khai, minh bạch. Nhiều chế độ, định mức, tiêu chuẩn
chậm được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn, nhất là các quy định về chi tiêu tài chính.
- Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
số người đứng đầu bị xử lý còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện, xử lý. Còn có sự
nhầm lẫn giữa xử lý người đứng đầu khi có sai phạm và xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
- Hiệu quả phát hiện tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa cao. Các vụ việc, vụ án
tham nhũng được phát hiện, xử lý chủ yếu ở cấp cơ sở và chủ yếu là đối tượng trực tiếp thực hiện.
Việc xử lý các vụ án tham nhũng thường bị kéo dài, tội phạm tham nhũng được cho hưởng án
treo chiếm tỷ lệ cao, tài sản bị tham nhũng, gây thiệt hại do tham nhũng được thu hồi và bồi
thường còn rất hạn chế.
❖ Nguyên nhân của khó khăn, hạn chế:
Nguyên nhân khách quan:
- Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được trình
độ phát triển của hoạt động thực tiễn.
- Do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán; trong
xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém.
- Sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính
“hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì
người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe.
- Do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa các giai tầng trong xã hội
ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh
tế thị trường hiện nay. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức,
nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực.
12
Nguyên nhân chủ quan:
- Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ; nhiều quy định còn chồng chéo,
mâu thuẫn, sơ hở, dễ bị lợi dụng.
- Bộ máy hành chính còn cồng kềnh; phân công, phân cấp chưa thật rõ ràng, rành mạch; cải cách
hành chính chưa tốt.
- Quy định về trách nhiệm người đứng đầu thiếu cụ thể, chưa khuyến khích họ tích cực, chủ động
trong phát hiện, xử lý tham nhũng xảy ra trong cơ quan, đơn vị, địa phương mình quản lý.
- Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về
tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng; chưa phát huy được hết sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức còn yếu. Một số cấp ủy, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị vẫn chưa quan tâm thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng hoặc có triển
khai nhưng còn hình thức.
- Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu
gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; chưa đi đầu và nêu gương trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
- Vai trò của các cơ quan dân cử, truyền thông và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng chưa
được phát huy đầy đủ.
2. Giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới:
- Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nhằm kiên quyết xóa
bỏ tệ chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển… theo nguyên tắc mọi quyền
lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, cần đẩy mạnh
công tác cải cách hành chính, xóa bỏ các thủ tục rườm rà. Hạn chế tối đa việc chỉ định thầu trong
các dự án đầu tư xây có nguồn vốn nhà nước.
- Tăng cường tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội mà trước
hết tập trung vào công tác quản lý nhà nước ở những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng như
Tài chính ngân sách, các dự án đầu tư công và tài sản công.
- Công khai số lượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm, đi học, đi nước ngoài…
Đặc biệt công khai việc kê khai tài sản của cán bộ phải được cải tiến, hiệu quả hơn, chịu trách
nhiêm về việc kê khai, cần công khai rộng rãi hơn để cán bộ và nhân dân giám sát.
- Xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, đảng viên trong công việc và trách nhiệm
giải trình trước cơ quan có trách nhiệm về những vấn đề liên quan theo quyền hạn, chức trách,
nhiệm vụ được giao. Có cơ chế phù hợp khen thưởng, bảo vệ người tố cáo tham nhũng, lãng phí
đúng. Tạo điều kiện, cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ chuyên trách làm công tác PCTN.
Nâng cao mức sống cho đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao.

13
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng; quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công
chức; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Kiểm tra toàn diện công tác
cán bộ, chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng, dư luận xã hội phản ánh, tố
cáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
- Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án liên quan đến tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp, dư luận xã hội quan tâm. Kiên quyết xử lý nghiêm những người bao che, dung túng, tiếp tay
cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc xử lý hành vi tham nhũng. Ngăn chặn, xử lý có hiệu quả
tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, nhất là "tham nhũng
vặt" trong giải quyết công việc.
- Các cơ quan chức năng tập trung nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các vụ việc, vụ án kinh tế,
tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ
việc, vụ án kinh tế, tham nhũng. Chú trọng công tác điều tra, mở rộng án, thu hồi tài sản, không
để các đối tượng đối phó, tiêu hủy tài liệu, bỏ trốn, tẩu tán tài sản; không để xảy ra oan, sai, bỏ
lọt tội phạm.
Chủ đề IV: THỰC TRẠNG XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG THỰC THI CÔNG VỤ HIỆN
NAY VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
(Khái niệm xung đột lợi ích trong Luật)
1. Thực trạng xung đột lợi ích trong thực thi công vụ hiện nay
❖ Về mặt tích cực
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng đã liệt kê một số tình huống xung đột
lợi ích trong thực thi công vụ, nhiệm vụ của cá nhân và các biện pháp để kiểm soát đối với các
tình huống này.
- Ngày 25/10/2021, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều
đảng viên không được làm, trong đó một số quy định thậm chí có ý nghĩa cấm xảy ra xung đột
lợi ích trong quan hệ công vụ.
❖ Về mặt tiêu cực:
- Tình trạng xung đột lợi ích vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi.
+ Ví dụ Ông Nguyễn Trúc Giang (Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cái
Nước, tỉnh Cà Mau), có vợ làm giám đốc nhưng không khai báo (các tờ khai lý lịch từ năm 2012
- 2020, ông Giang đều ghi vợ là Dương Ánh Nguyệt, nghề nghiệp nội trợ). Thời gian từ năm
2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn tư vấn Hiệp Thành (do bà Dương Ánh Nguyệt làm giám đốc)
đã ký 26 hợp đồng với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cái Nước. Ở đây yếu
tố lợi dụng quyền hạn để vụ lợi chưa được làm rõ để có thể có kết luận ông Nguyễn Trúc Giang
có dấu hiệu tham nhũng hay không tuy nhiên có một điều chắc chắn là đã nảy sinh tình huống
xung đột lợi ích hiện hữu.
14
+ Hay như trường hợp của ông Nguyễn Đức Chung - nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội. Vào tháng 8/2021, ông Chung đã bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ” trong vụ án mua hoá chất Redoxy 3C để xử lý ô nhiễm các hồ ở Hà
Nội. Ông Nguyễn Đức Chung được xác định chủ mưu để công ty của con trai độc quyền bán hoá
chất. Hành vi của bị can Nguyễn Đức Chung ngoài việc gây thiệt hại cho Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội để vụ lợi cho công ty gia đình còn ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của tổ chức,
cá nhân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội, của người đứng đầu Thành phố Hà Nội. Kết luận của cơ quan điều tra đã chỉ ra một tình
huống xung đột lợi ích điển hình nhưng đã không được phát hiện, ngăn chặn, xử lý dẫn đến hậu
quả nghiêm trọng, dẫn đến hành vi tham nhũng.
- Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, chưa phát hiện
được sai phạm, xử lý chưa nghiêm minh; lãnh đạo chưa gương mẫu,..
❖ Nguyên nhân của tiêu cực
Nguyên nhân khách quan:
- Thiếu hệ thống luật, quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành về phòng chống, phát hiện xung đột
lợi ích trong thực thi công vụ cũng như các biện pháp chế tài.
- Thiếu các công cụ kiểm tra, thanh giám sát hiệu quả, chưa đặt việc kiểm tra, thanh tra, giám sát
về xung đột lợi ích trong hoạt động thực thi công vụ thành một nhiệm vụ quan trọng trong phòng
chống tham nhũng.
- Chưa có cơ quan đầu mối chuyên trách, chưa quy định về trách nhiệm cụ thể về phòng chống,
ngăn ngừa xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.
Nguyên nhân chủ quan
- Xuất phát từ những vấn đề lương bổng, về đãi ngộ,.. chưa tương xứng với áp lực công việc. Ví
dụ như hiện nay, tại các đơn vị y tế cấp cơ sở như trạm y tế phường, cán bộ y tế phải đảm nhận
nhiều công việc, nhiệm vụ, nhưng chế độ lương thưởng lại không đáp ứng được nhu cầu của họ.
Do đó, lợi ích của họ không đảm bảo nên họ phải tìm cách khác để đảm bảo cho lợi ích của mình.
- Xung đột lợi ích khi thực thi công vụ nảy sinh ra từ chính lòng tham, sự ích kỉ của bản thân với
mong muốn đạt được nhiều lợi ích hơn nữa dù những lợi ích mà mình được hưởng đã tương xứng.
Điển hình là các vụ án tham nhũng lớn đều do những cán bộ có chức vụ cao, quyền hạn lớn và
có mức đãi ngộ từ nhà nước cao nhưng vì lòng tham mà thực hiện các hành vi sai trái.
2. Biện pháp khắc phục
- Để giảm bớt, tiến tới ngăn chặn triệt để xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức trong cả nước thì trong thời gian tới các cấp, các ngành cần thực
hiện hiệu quả và đồng bộ các biện pháp sau:
❖ Đối với nhà nước

15
- Chú trọng hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung pháp luật về cán bộ, công chức theo hướng làm rõ và
xác định dấu hiệu nhận diện tình huống xung đột lợi ích; xây dựng và hoàn thiện quy trình, thủ
tục, thẩm quyền quản lý, xử lý và mức xử lý, xử phạt vi phạm pháp luật về xung đột lợi
- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập; thể chế, chính sách về tặng, nhận quà, trách nhiệm
giải trình; phát hiện kịp thời các giao dịch, biến động tài sản có dấu hiệu xung đột lợi ích.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích, nhất là trong
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về kiểm soát xung đột lợi ích; chú trọng phương
thức, nội dung tuyên truyền, phổ biến bảo đảm nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên
chức trong việc kiểm soát xung đột lợi ích.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động công vụ theo hướng ngăn chặn, phát hiện
các tình huống xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.
- Xử lý kiên quyết, mạnh mẽ và dứt điểm các vụ việc có vi phạm.
❖ Đối với cán bộ, công chức, viên chức
- Thực hiện nghĩa vụ giải trình khi được yêu cầu với tinh thần trách nhiệm cao để đảm bảo tính
công khai, minh bạch của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quá trình thực hiện và kết
quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
- Chủ động, tự giác kiểm soát xung đột lợi ích trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ vì họ là
người biết rõ nhất và phát hiện nhanh nhất các nguy cơ cũng như thấy trước các khả năng nẩy
sinh xung đột lợi ích khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Chủ đề V: CHỌN 1 QUỐC GIA ĐỂ TÌM HIỂU CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM. (ĐAN MẠCH)
• Tình hình tham nhũng trong các lĩnh vực của Đan Mạch
Thủ tục hành chính
- Mặc dù, các thủ tục hành chính vẫn bị coi là vấn đề gây khó chịu đối với các tổ chức và cá nhân,
Chính phủ quan liêu làm việc không hiệu quả có thể là trở ngại đối với hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, tuy nhiên các khoản thanh toán bất thường và hối lộ hầu như không xảy ra
trong hệ thống công, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh và các dịch vụ liên quan khác.
- Thời gian cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp tại Đan Mạch chỉ bằng một nửa thời gian
so với các quốc gia phát triển khác trong khối OECD. Các doanh nghiệp có thể khởi động công
ty trong vòng vài giờ thông qua hệ thống đăng ký rất dễ dàng. Thời gian cấp giấy phép xây dựng
tại Đan Mạch cũng ít hơn đáng kể so với các quốc gia có thu nhập cao khác trong OECD.
- Nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai của Đan Mạch cũng rất thấp. Các công ty hoạt động
tại Đan Mạch thể hiện sự tin tưởng cao đối với các quyền sở hữu đất đai và các luật liên quan để
bảo vệ quyền lợi của họ. Các công ty ít có khả năng gặp phải trường hợp quan chức đòi hối lộ
trong khi tương tác với các dịch vụ đất đai ở Đan Mạch. Các công ty và cá nhân không thuộc EU,
không hoạt động tại Đan Mạch trong vòng 5 năm trước đó chỉ có thể mua bất động sản dưới sự
16
cho phép của Bộ Tư pháp Đan Mạch. Việc đăng ký sở hữu đất đai ở Đan Mạch mất ít hơn 1/5
thời gian trung bình cần thiết ở các quốc gia khác trong OECD.
Quản lý thuế
- Các công ty báo cáo rằng hối lộ và thanh toán bất thường cực kỳ hiếm khi thực hiện thanh toán
thuế hàng năm. Gần một nửa số công ty được khảo sát coi việc gian lận thuế là hành vi tham
nhũng phố biến nhất. Một loạt các vụ bê bối liên quan đến quản lý yếu kém trong các cơ quan
thuế của Đan Mạch đã được đưa ra ánh sáng trong những năm trước đây.
Ví dụ các vụ bê bối:
1. 11/2018 cảnh sát Đan Mạch cho biết có 16 người và 3 công ty đã bị buộc tội trốn thuế và tiêu
thụ nhiều hàng ăn cắp có tổng giá trị lên tới 500 triệu kroner Đan Mạch (tương đương 76 triệu
USD), cảnh sát nêu rõ một số đối tượng trong 16 bị cáo nói trên có họ hàng với nhau và chúng
đã chuyển tiền vào một chuỗi các công ty nhằm rửa tiền và trốn thuế.
2. Ngân hàng lớn nhất Đan Mạch - Danske Bank cũng từng liên quan đến bê bối rửa tiền trị giá
hàng trăm tỷ euro khiến Cơ quan Giám sát ngân hàng châu Âu (EBA) phải vào cuộc. Theo số
liệu điều tra của một công ty luật đối với Danske Bank, giai đoạn 2007 - 2015, hơn 1.500 tỷ
kroner (tương đương 200 tỷ euro) đã được giao dịch thông qua chi nhánh Danske Bank tại
Estonia. Trong số các tài khoản bị điều tra, có khoảng 6.200 tài khoản có dấu hiệu khả nghi và
đều đã "lọt" vào tầm ngắm của giới chức. Chính ngân hàng này cũng không thể chắc chắn lượng
tiền phi pháp được giao dịch tại chi nhánh ở Estonia. Vụ việc đã khiến Giám đốc điều hành của
ngân hàng phải từ chức
• Các công tác phòng, chống tham nhũng chủ yếu của Nhà nước Đan Mạch:
a. Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phát huy vai trò của báo chí.
- Tổ chức Trách nhiệm xã hội toàn cầu của Đan Mạch (Global CSR) thực hiện nhiệm vụ nâng
cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng. Các doanh nghiệp phải
bảo đảm quyền con người, bảo vệ môi trường và phòng ngừa tham nhũng, góp phần phát triển
kinh tế bền vững. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, thể hiện ở việc xây dựng, thực hiện quy
tắc ứng xử nhân viên của doanh nghiệp, tập huấn nâng cao nhận thức về các giải pháp phòng
ngừa tham nhũng; cam kết không đưa hối lộ, nếu có thì sẽ bị áp dụng các hình phạt từ đuổi việc
đến đi tù. Các giám đốc của doanh nghiệp có nhân viên tham nhũng thì giám đốc đó sẽ bị xử lý
nghiêm khắc. Tham gia vào việc nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có vai trò quan
trọng của các công ty Luật.
- Bên cạnh đó, ở Đan Mạch, báo chí có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh chống tham nhũng.
Báo chí Đan Mạch có quyền theo dõi, giám sát cả 3 nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Báo chí bảo vệ dân chủ, nhân quyền và môi trường sinh thái, phát hiện các hành vi sai
phạm, tham nhũng của các quan chức, tạo áp lực rất lớn đối với các chính trị gia.
- Hiệp hội Nhà báo Đan Mạch động viên, khuyến khích các nhà báo đấu tranh chống tham nhũng.
Hàng năm có giải thưởng cho các nhà báo có thành tích chống tham nhũng. Tại các cuộc trao giải
thưởng này, có sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ.
17
b. Tăng cường vai trò của Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán nhà nước trong phòng ngừa, phát
hiện và xử lý tham nhũng.
- Thông qua chức năng giám sát, Thanh tra Quốc hội có vai trò, tác động rất lớn đến việc hạn chế
lạm dụng quyền lực, nâng cao trách nhiệm của công chức. Thanh tra Quốc hội là cơ quan hoạt
động độc lập, không chịu bất kỳ sự chi phối nào, có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của
cơ quan hành pháp, góp phần bảo đảm hoạt động của cơ quan hành pháp minh bạch, có hiệu quả;
hạn chế lạm dụng quyền của các cơ quan nhà nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.
Nhiệm vụ của cơ quan này gắn chặt với công tác phòng, chống tham nhũng, đồng thời thực hiện
việc gắn kết đồng bộ giữa phòng ngừa và xử lý tham nhũng.
- Kiểm toán Đan Mạch là cơ quan trực thuộc Quốc hội, có 6 Tổng Kiểm toán quốc gia do Quốc
hội chỉ định, theo nhiệm kỳ Quốc hội. Hoạt động của kiểm toán nhà nước nhằm bảo đảm nguyên
tắc quản lý nhà nước tốt, minh bạch, tuân thủ pháp luật, việc chi tiêu ngân sách phải đạt được các
mục tiêu Quốc hội đặt ra. Mặt khác, hoạt động của Kiểm toán nhà nước còn góp phần đánh giá
việc sử dụng ngân sách nhà nước có đúng mục tiêu, đối tượng, định mức chi tiêu hoạt động không
trên cơ sở đó để phát hiện và loại trừ tham nhũng.
c. Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
- Công tác này do Bộ Ngoại giao đảm nhận và được thực hiện trên những nguyên tắc cơ bản như:
chống tham nhũng là một phần của việc quản trị theo nghĩa rộng; đánh giá về tham nhũng và các
công cụ hỗ trợ việc đánh giá; chống tham nhũng là công việc cụ thể và là công việc liên ngành;
cam kết và hỗ trợ quốc tế các thành viên tham gia Công ước Chống tham nhũng của Liên hợp
quốc…
• Các biện pháp PCTN của Đan Mạch mà Việt Nam có thể học hỏi:
- Đan Mạch đã được ghi nhận là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới và đã
áp dụng nhiều chủ trương hiệu quả để phòng chống tham nhũng. Việt Nam có thể học hỏi một số
điểm sau đây từ chủ trương phòng chống tham nhũng của Đan Mạch:
+ Luật pháp và hệ thống pháp lý: Đan Mạch đã thiết lập một hệ thống pháp lý chặt chẽ và hiệu
quả để đối phó với tham nhũng. Luật pháp về phòng chống tham nhũng rõ ràng, công bằng và có
hiệu lực, đồng thời có quy định về trách nhiệm và trừng phạt các hành vi tham nhũng.
+ Tăng cường kiểm soát và giám sát: Đan Mạch đã thành lập các cơ quan độc lập để giám sát và
kiểm soát các hoạt động chính phủ. Các cơ quan này có quyền lực độc lập và được trang bị đủ tài
nguyên để thực hiện nhiệm vụ của mình.
+ Đánh giá công bằng và độc lập: Đan Mạch đã đặt sự đánh giá công bằng và độc lập lên hàng
đầu trong việc xử lý các vụ án tham nhũng. Việt Nam có thể học cách tạo ra một hệ thống tư pháp
và cơ quan điều tra độc lập, không bị ảnh hưởng chính trị, để đảm bảo rằng các vụ án tham nhũng
được xử lý một cách công bằng và minh bạch.
+ Tích cực trong việc tạo dựng một văn hóa chống tham nhũng: Đan Mạch đã tạo ra một văn hóa
chống tham nhũng thông qua việc tăng cường giáo dục và tạo ra ý thức công cộng về tác hại của

18
tham nhũng. Việt Nam có thể học cách đẩy mạnh giáo dục và tạo ra ý thức công cộng về tham
nhũng, từ cấp cơ sở đến cấp cao nhất, để xây dựng một xã hội không tham nhũng.
+ Khuyến khích sự cộng tác và báo cáo: Đan Mạch khuyến khích mọi người dân và tổ chức báo
cáo hành vi tham nhũng và sự vi phạm luật pháp. Họ đã tạo ra các cơ chế bảo vệ và đảm bảo rằng
người báo cáo không bị truy cứu hình sự hay bất kỳ hành động trừng phạt nào khác.
+ Xây dựng đạo đức và giá trị trong xã hội: Đan Mạch đã đặt sự tôn trọng đạo đức và giá trị xã
hội lên hàng đầu. Qua việc xây dựng một nền văn hóa công bằng, minh bạch và chống tham
nhũng, họ đã giúp tạo ra một xã hội không chỉ chống tham nhũng mà còn tôn trọng đạo đức và
truyền thống.
❖ KẾT LUẬN
- Từ những kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Đan Mạch và thực tiễn tại Việt Nam; hiện
nay Đảng, Nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện gấp rút 4 giải pháp cơ bản sau:
a. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có đức, có tài; người Việt Nam phát triển
toàn diện chân, thiện, mỹ
- Đội ngũ cán bộ của Đảng là nhân tố quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
thật sự có đức, có tài là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, cả trước mắt và
lâu dài, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu quả.
- Không chỉ là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, mà chúng ta phải phát hiện, lựa chọn, đào tạo
và sử dụng những người có đủ tiêu chuẩn đức và tài từ trong các nhà trường và xã hội để xây
dựng thành đội cán bộ có đức - tài, có tâm - tầm.
b. Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
- Kiểm soát quyền lực là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước pháp quyền. Vấn đề cơ bản của kiểm
soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy Nhà nước vừa có khả năng kiểm soát xã hội, vừa
buộc Nhà nước phải tự kiểm soát chính mình. Đảng, Nhà nước đã có nhiều văn bản pháp luật để
kiểm soát quyền lực.
- Xóa bỏ tối đa cơ chế “xin - cho”. Đây là điều kiện nảy sinh tham nhũng. Hạn chế tối đa việc chỉ
định thầu trong các dự án đầu tư xây có nguồn vốn nhà nước. Tăng cường ứng dụng khoa học -
công nghệ vào mọi lĩnh vực điều hành Nhà nước, quản trị doanh nghiệp, quản lý cán bộ.
- Thực hiện tối đa chính phủ điện tử, chính phủ số. Ứng dụng tối đa công nghệ số vào các kỳ thi
tuyển dụng, bổ nhiệm, chuyển ngạch cán bộ của các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội. Đẩy mạnh sử dụng thẻ ngân hàng, hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong giao
dịch xã hội, nhằm kiểm soát dòng tiền lưu thông vừa hạn chế tham nhũng vừa chống rửa tiền
Ví dụ: Vừa qua Ngành Giao thông vận tải ứng dụng công nghệ trong thi bằng lái xe, khai báo
thuế, hải quan bằng tờ khai điện tử đã hạn chế nhiều tiêu cực, tham nhũng.
c. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội
19
- Công khai, minh bạch là yếu tố quan trọng của một nền quản trị quốc gia hiệu quả và bảo đảm
dân chủ của Nhà nước pháp quyền. Là một trong bốn giải pháp quan trọng nhằm hạn chế tiêu cực
tham nhũng. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chính sách nhằm tăng cường tính công
khai, minh bạch. Song, vẫn còn nhiều kẽ hở, mang nặng tính hình thức.
- Về công tác cán bộ: Cần công khai số lượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm,
đi học, đi nước ngoài… điều này đã được quy định song vẫn chưa thực sự dân chủ, còn mang
nặng tính hình thức mà cần phải thay đổi, đặc biệt công khai việc kê khai tài sản của cán bộ phải
được cải tiến, hiệu quả hơn, chịu trách nhiêm về việc kê khai, cần công khai rộng rãi hơn để cán
bộ và nhân dân giám sát. Sau 5 năm phải được tổ chức kiểm tra, khắc phục tình trạng kê khai chỉ
có thủ trưởng cơ quan và cơ quan tổ chức cán bộ biết rồi cất tủ.
- Mở rộng các hình thức, quy mô công khai: Nhiều hoạt động còn mang tính hình thức như việc
công khai trong quy hoạch sử dụng đất, nhiều người dân trong vùng quy hoạch cũng không hề
biết, hoặc ngược lại quy hoạch chưa được công khai đã bị lộ lọt, nhiều người dân tranh thủ xây
nhà tạm, trồng cây để được đền bù …
d. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tính pháp chế trong thực thi pháp luật.
- Hiện nay nhiều quy phạm pháp luật không được thi hành nghiêm túc. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của nhà nước trên một số lĩnh vực chưa thật sự tập trung, kiên quyết,
dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu”
- Dẫn chứng:
+ Luật đất đai quy định rõ thẩm quyền cấp đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất… Nhưng hiện
nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều ó tình trạng chia lô, nền xây nhà trái phép.
+ Nhiều cán bộ được bổ nhiệm thần tốc, cả họ làm quan, bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn,
phẩm chất, năng lực ...
Chủ đề VI:“HOẠT ĐỘNG CHUYỂN ĐỔI SỐ, CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG”
• Khái niệm Chuyển đổi số, Chính phủ số, Chính phủ điện tử
- Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống,
cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.
- Chính phủ số là quá trình Chính phủ chuyển đổi số, thay đổi mô hình hoạt động và quy trình
làm việc. Đồng thời, Chính phủ cũng đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ, tăng tốc cung cấp
các dịch vụ công thông qua công nghệ hiện đại.
- Chính phủ điện tử là chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tạo ra phong
cách quản lý mới của chính phủ, bao gồm việc thay đổi phương thức làm việc bên trong Chính
phủ (điện tử hóa); phương thức xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật và quyết định quản lý
nhằm tạo ra môi trường tương tác mới giữa chính phủ với các cá nhân, tổ chức trong xã hội; giữa
các cơ quan trong chính phủ với nhau; giữa chính phủ với chính phủ khác.
20
• Hoạt động chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay
- Hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số cụ thể là là chỉ đạo, điều phối các bộ, ngành,
địa phương tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số theo hướng mang lại kết quả thực chất, bền vững,
ưu tiên nguồn lực để đạt được các chỉ tiêu quan trọng thuộc các Chương trình, Chiến lược quốc
gia về phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
- Năm 2019, khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (Vinasa) cho thấy
40,6% đơn vị tham gia khẳng định đã sẵn sàng nguồn lực và 23,6% đang triển khai các hoạt động
chuyển đổi số.
- Tháng 6/2020, Thủ tướng phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030". Kể từ đó, hàng loạt chính sách mới được ban hành và 2020 được xem là
năm khởi đầu trên con đường chuyển đổi số quốc gia.
- Chuyển đổi số cho đến hiện nay được áp dụng vào nhiều lĩnh vực ví dụ:
+ Chuyển đổi số trong báo chí theo Quyết định số 348/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày
6/4/2023 về Phê duyệt chuyển đổi số trong báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2023.
Mục tiêu xây dựng các cơ quan báo chí theo hướng chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại; làm tốt sứ
mệnh thông tin tuyên truyền phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất
nước.
+ Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thôn minh giai đoạn
2021-2025 theo Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 2 tháng 8 năm 2022 về phê duyệt chuyển đổi
số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021-2025.
Với mục đích nâng cao chất lượng đời sống người dân, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng
dịch vụ giữa nông thôn - thành thị, từng bước hướng tới nông thôn mới thông minh.
+ Chuyển đổi số trong an sinh xã hội không dùng tiền mặt theo Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25
tháng 11 năm 2022 về thúc đẩy chuyển đổi số trong an sinh xã hội không dùng tiền mặt. Nhằm
giải quyết vấn đề đồng bộ danh sách, nhu cầu ứng dụng CNTT tạo điều kiện để người dân tiếp
cận các dịch vụ xã hội một cách thuận lợi, đặc biệt là chi trả không dùng tiền mặt.
+ Trong lĩnh vực thanh toán điện tử, sau hơn một năm triển khai thí điểm, tính đến hết tháng 8,
tổng số người đăng ký và sử dụng tài khoản Mobile Money đạt gần 2,2 triệu người. Trong đó, số
lượng người dùng tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa... đạt hơn 1,5 triệu người, chiếm
gần 70%, theo thông tin từ Bộ TT&TT.
• Hoạt động xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay
- Việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng
phục vụ phát triển Chính phủ điện tử rất chậm so với tiến độ cần có; các hệ thống thông tin dữ
liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; chất lượng dữ liệu
và thông tin chưa được cập nhật kịp thời, chính xác; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai chưa
bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy của quốc gia trong giao dịch điện tử thấp.

21
- Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện
dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc
còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công
nghệ thông tin gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai các dự án. Điều này dẫn đến
tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương còn chưa có đầy đủ thông tin dữ liệu
số của các đối tượng mình quản lý.
• Tác động của chuyển đổi số, chính phủ điện tử đến công tác phòng chống tham nhũng
Tích cực
- Giảm chi phí và tăng hiệu quả công việc cũng như chất lượng cung cấp dịch vụ trong các cơ
quan hành chính nhà nước. Ví dụ Đối với việc cấp thẻ Căn cước công dân, có 78,6 triệu thẻ Căn
cước công dân gắn chip điện tử được cấp cho công dân (tăng 2 triệu thẻ so với cuối tháng
12/2022). Ngoài ra, đã triển khai, kết nối, chia sẻ với 13 đơn vị bộ, ngành, 01 doanh nghiệp nhà
nước, 03 doanh nghiệp viễn thông và 60 địa phương (tăng 01 doanh nghiệp và 29 địa phương so
với tháng 12/2022).
- Tạo ra một Chính phủ có trách nhiệm, thực hiện công việc một cách minh bạch, chống tình trạng
tham nhũng, quan liêu và tăng trách nhiệm giải trình.
+ Một trong những lợi ích lớn nhất của chuyển đổi số đó là tính minh bạch, bởi vì khi đấy thì
thông tin được lưu trữ một cách đầy đủ trong từng bước một. Việc triển khai công tác chuyển đổi
số và các hoạt động cập nhật trên hệ thống website cũng như trên các app giúp cho việc phục vụ
người dân một cách rất nhanh, cũng như đưa ra các số liệu gần như là theo thời gian thực cho các
cơ quan.
- Nâng cao năng lực của chính phủ, tạo mạng lưới liên kết giữa cơ quan công quyền với nhân
dân.
+ Mỗi bộ, ngành, địa phương có một nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của mình để tích hợp, chia
sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu trong nội bộ, đồng thời là đầu mối kết nối
với các bộ, ngành, địa phương khác thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia. Việc
ứng dụng chuyển đổi số giúp chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước để đáp ứng khả năng
cung cấp dịch vụ số cho người dân theo nguyên tắc người dân chỉ cần cung cấp thông tin một lần
cho các cơ quan nhà nước.
- Nâng cao chất lượng ra quyết định và thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh
vực từ đó cải thiện chất lượng phục vụ cho người dân, nâng cao năng suất, chất lượng giải quyết
công việc của các cơ quan chính phủ.
Ví dụ ứng dụng chuyển đổi số trong lĩnh vực giao thông đường bộ: hệ thống dữ liệu về giao thông
được kết nối với mạng lưới camera giám sát và cảm biến giao thông để theo dõi tình hình giao
thông, phân tích dữ liệu và dự báo tình trạng ùn tắc hay tai nạn giao thông. Điều này giúp chính
phủ có cái nhìn tổng quan về tình trạng giao thông và phát triển các biện pháp giảm ùn tắc và tăng
an toàn. Phân tích dữ liệu giao thông thu thập được để đề xuất các cải tiến về hạ tầng giao thông,
bao gồm việc điều chỉnh đường đi, xây dựng thêm đường hoặc cải thiện kết nối giao thông. Điều
22
này giúp chính phủ ra quyết định về đầu tư và phát triển hạ tầng giao thông dựa trên dữ liệu và
phân tích chính xác.
Tiêu cực
- Thông qua chuyển đổi số các hành vi tham nhũng, tiêu cực diễn ra tinh vi hơn, khó lường hơn.
Bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet các hành vi tham nhũng ngày càng trở
nên tinh vi hơn, các đối tượng sử dụng công nghệ thông tin để thực hiện hành vi vụ lợi, rửa tiền
gây khó khăn cho công tác kiểm soát, kê biên tài sản của người có chức vụ quyền hạn.
Ví dụ trong vụ án Nhật Cường, Cựu chủ tịch UBND TP Hà Nội đã lợi dụng chức vụ quyền hạn
của mình để thực hiện hành vi vụ lợi bằng cách Thông qua giới thiệu, ông Chung đã làm quen
với bị can Phạm Quang Dũng (cán bộ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế,
buôn lậu - Bộ Công an) và nhiều lần nhận tài liệu mật và tài liệu vụ án Nhật Cường từ tháng
7/2019 đến tháng 6/2020. Trong đó, có 5 lần chiếm đoạt 9 tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà
nước độ "Mật" bị can Dũng hai lần dùng điện thoại chụp trộm và photocopy 4 tài liệu ở cơ quan.
Sau khi thu thập được tài liệu, bị can Dũng đã nhiều lần cung cấp thông tin, tài liệu cho ông
Chung thông qua ba phương thức: Sử dụng ứng dụng phần mềm Viber trên điện thoại di động để
trao đổi, cung cấp thông tin; chuyển trực tiếp file ảnh chụp tài liệu qua Viber và thông qua người
trung gian để cung cấp tài liệu bản giấy. Kết quả điều tra cũng xác định dịp Tết Nguyên đán 2019,
bị can Nguyễn Đức Chung thông qua lái xe Nguyễn Hoàng Trung đưa cho Phạm Quang Dũng
phong bì có 10.000 USD tại đường Giải Phóng.
- Việc ứng dụng Chính phủ điện tử vẫn còn chung chung, nằm rải rác, chưa đồng bộ, dẫn đến tình
trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương không có đầy đủ thông tin về dữ liệu số
của đối tượng, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả phòng,
chống tham nhũng.
Ví dụ trong đại dịch covid 19, khi tình hình dịch bệnh tăng mạnh, cùng với đó là sự ra đời của
các app phòng chống covid 19, tuy nhiên không có sự đồng bộ, chia sẻ dữ liệu của các cơ quan
với nhau, vì thế dẫn đến tình trạng mỗi bộ phát hành một loại app riêng ví dụ như Ứng dụng PC-
Covid. Hay trong việc sử dụng ứng dụng cấp thẻ xanh cho tài xế chạy xe, bộ GTVT ra một app
riêng, bộ Công An ra một app riêng. Qua đó cho thấy cơ sở dữ liệu giữa các bộ không đồng bộ,
thiếu sự chia sẻ dữ liệu giữa các bộ với nhau.
- Việc chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử cần một nguồn ngân sách lớn, tuy nhiên việc
thiếu cơ chế , chính sách quản lý, giám sát trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử tạo lỗ hổng
cho các đối tượng tham nhũng có cơ hội vụ lợi thông qua các hoạt động đầu tư, xây dựng cơ hở
hạ tầng viễn thông. Chỉ định thầu, đấu thầu mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động
chuyển đổi số.
Ví dụ Ông Nguyễn Đức Chung (cựu chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội) đã lợi dụng
chức vụ quyền hạn can thiệp trái phép vào hoạt động đấu thầu gói thầu số hóa doanh nghiệp do
sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội làm chủ gói thầu để giúp liên doanh Nhật Cường – Đông Kinh
trúng thầu. Gây thiệt hại cho nhà nước hơn 26 tỉ đồng.

23
• Giải pháp nâng cao hoạt động chuyển đổi số, chính phủ điện tử đến công tác phòng
chống tham nhũng
- Để toàn xã hội tham gia phòng, chống tham nhũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu phòng, chống
tham nhũng theo công nghệ điện toán đám mây.
- Xây dựng phần mềm phòng, chống tham nhũng chạy trên kho ứng dụng Android, iOS… để mọi
người dân đều có thể tải phần mềm về điện thoại và tác nghiệp trực tuyến với cơ quan phòng,
chống tham nhũng. Người dân hoàn toàn có thể phản ánh, kiến nghị, tố cáo tham nhũng trực tuyến
mọi lúc, mọi nơi thông qua điện thoại thông minh của mình; cung cấp thông tin trực tuyến về
hành vi tham nhũng, về kê khai tài sản không trung thực, tài sản biến động tăng khủng…. cho các
cơ quan phòng, chống tham nhũng, các cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập nhanh chóng, kịp thời.
- Nâng cao năng lực các ứng dụng chính phủ điện tử, đòi hỏi cơ sở hạ tầng viễn thông phải được
tăng cường, nguồn nhân lực, sự hợp tác và phối hợp giữa các thể chế vững chắc hơn và một nền
quản trị nhà nước tốt.
- Đảm bảo sự hiện diện của các cơ quan giám sát của chính phủ là không thể thiếu để thực hiện
chính phủ điện tử một cách nhất quán. Chính phủ điện tử nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
nhằm cải thiện các dịch vụ công và giảm thiểu tham nhũng bằng cách thực hiện các hành động
quyết liệt để tiếp nhận, giải quyết, xử lý các khiếu nại của người dân đối với các dịch vụ kém và
các hành vi tham nhũng. Thông tin được đưa ra là một hình thức minh bạch hóa các quy định và
việc áp dụng các chính sách nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình bằng cách nâng cao nhận thức
cho các nhà hoạch định chính sách và đội ngũ công chức để tránh các hành động dẫn đến tham
nhũng.
Chủ đề VII: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KÊ KHAI TÀI SẢN, THU NHẬP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
• Mặt đạt được
- Thanh tra Chính phủ đã có hướng dẫn và các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương triển khai
việc xác minh tài sản, thu nhập theo kế hoạch hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai tài
sản, thu nhập được lựa chọn ngẫu nhiên.
- Quá trình kiểm tra, xác minh tài sản, thu nhập đã phát hiện một số vi phạm như tình trạng sai
sót trong kê khai tài sản, thu nhập như sử dụng biểu mẫu chưa đúng quy định, nhiều trường hợp
người kê khai còn chủ quan, không nghiên cứu kỹ văn bản hướng dẫn, đồng thời cơ quan quản
lý cán bộ chưa sâu sát trong việc hướng dẫn, kiểm tra, rà soát dẫn đến kê khai không đúng quy
định.
- Việc kê khai tài sản, thu nhập ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn cả nước đã được tiến
hành khá thường xuyên, đều đặn hàng năm; tuy lúc đầu còn có những hạn chế và lúng túng trong
triển khai thực hiện, kê khai không đúng trình tự, thủ tục nhưng đã được các cơ quan, tổ chức,
đơn vị bước đầu khắc phục.

24
- Việc chấp hành về thời hạn kê khai, báo cáo kết quả kê khai đã có những chuyển biến tích cực;
việc kê khai tài sản, thu nhập, trả lương qua tài khoản đã được triển khai rộng rãi, có tác động,
tạo sự chuyển biến về ý thức, hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
- Tính tự giác và trách nhiệm của các đối tượng trong diện phải kê khai tài sản, thu nhập đã có
dấu hiệu được nâng lên; việc kê khai tài sản, thu nhập đã có những tác dụng ở góc độ giúp công
tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức chặt chẽ hơn…
- Thanh tra, kiểm tra được tiến hành một cách thường xuyên nhằm phát hiện và xử lí nhiều vụ sai
phạm (ví dụ vụ án Nguyễn Hoàng Sa nguyên PGĐ sở y tế Cà Mau bị kỷ luật cảnh cáo, vụ án ông
Nguyễn Đức Chung nguyên Chủ tịch UBND TP Hà Nội kê khai không đúng sự thật hàng tỷ đồng
bị phạt tù).
- Số lượng văn bản được ban hành chi tiết hơn nhằm hướng dẫn cụ thể về việc kê khai, nhằm
tránh sự lấp liếm, lách Luật.
• Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt đạt được thì việc kê khai tài sản, thu nhập vẫn tồn tại những bất cập, hạn
chế, yếu kém trong việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập trong thời gian qua. Cụ thể là:
- Việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập được tiến hành trong thời gian qua vẫn nặng về có kê khai
nhưng không công khai. Số cơ quan, đơn vị công khai các bản kê khai còn ít và chưa làm theo
đúng quy định. Do đó, cán bộ, công chức, viên chức cơ quan, đơn vị và nhân dân hầu như không
nắm được số liệu kê khai tài sản, thu nhập của các đối tượng có nghĩa vụ kê khai. Điều này dẫn
đến khó khăn trong việc so sánh, đánh giá đúng những tài sản mà người có nghĩa vụ kê khai đang
sở hữu. Do đó, việc kê khai đúng hay không, hợp lý hay không hợp lý khó định danh được chính
xác.
- Việc kê khai tài sản, thu nhập còn bỏ ngỏ khâu kiểm tra, xác minh, đánh giá, kết luận. Người có
nghĩa vụ kê khai đã “tự giác” kê khai theo bản mẫu quy định. Tuy nhiên, nội dung kê khai hầu
như không được bộ phận chức năng kiểm tra, xác minh, đánh giá và kết luận. Vì thế, người có
nghĩa vụ kê khai luôn tâm niệm “đến hẹn lại lên” với việc kê khai tài sản, thu nhập hàng năm.
- Kê khai mang tính đại khái, không trung thực, thậm chí “phóng đại” nguồn tài sản, thu nhập.
-Đối tượng có nghĩa vụ kê khai phải sử dụng 2 đến 3 bản giấy để kê khai trong mỗi lần kê khai
gây tốn kém, lãng phí (theo quy định hiện nay, đối tượng có nghĩa vụ kê khai lên đến hàng triệu
người). Không những thế, số lượng các trang trong bản kê khai quá nhiều gây khó khăn cho việc
niêm yết công khai.
- Do lỗ hỏng từ Pháp luật. Đây là vấn đề nan giải gây khó khăn nhất trong công tác PCTN. Ví dụ
như:
+ Theo quy định, ngoài việc kê khai tài sản thuộc quyền sở hữu cá nhân thì người có nghĩa vụ kê
khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con
chưa thành niên. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản chuyển tài sản của mình cho con đã
thành niên (chưa kể chuyển cho các đối tượng khác), nhất là trong trường hợp người con này
25
không thuộc diện kê khai tài sản thì cũng không thể đánh giá, giám sát một cách chính xác tài
sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Mặt khác, trong các quy định của pháp luật mới chỉ
nhấn mạnh đến việc phải xác minh tài sản, thu nhập trong các trường hợp “có vấn đề” theo quy
định. Vì thế, các bản kê khai hầu như không có xác minh, đánh giá, kết luận.
+ Điều 35 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định, người có nghĩa vụ kê khai phải kê
khai tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai. Tuy nhiên, theo quy định về phương thức kê khai, có thể
có trường hợp cán bộ sau khi kê khai lần đầu thì nhiều năm sau, thậm chí là hàng chục năm sau
mới phát sinh việc kê khai tài sản lần thứ 2. Điều này không bảo đảm cho việc theo dõi chính xác
thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập.
• Nguyên nhân hạn chế
+ Do ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19 nên nhiều bộ, ngành, địa phương không tổ chức được
các hội nghị tập trung để quán triệt, hướng dẫn cụ thể và lưu ý về những điểm mới trong việc
thực hiện kê khai tài sản, thu nhập nên phần nào ảnh hưởng đến kết quả thực hiện.
+ Tổ chức tiến hành kê khai nhưng thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả việc kê khai.
Việc hoạch định chính sách trong một nền công vụ trông chờ vào sự tự giác của cán bộ, công
chức, viên chức mà chưa tính đến nền công vụ phải có kiểm soát mang tính cưỡng chế. Có nghĩa
là, đã thực hiện tổ chức kê khai thì bắt buộc phải thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm tra, xác
minh và đưa ra kết luận về bản kê khai.
+ Nhiều người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa quan tâm đúng mức và chưa có trách
nhiệm đến cùng với việc kê khai tài sản, thu nhập ở cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao phụ trách.
Do đó, đơn vị chức năng tổ chức tiến hành việc kê khai một cách chiếu lệ, đối phó; những người
có nghĩa vụ phải kê khai không quan tâm nội dung phải kê khai như thế nào cho đúng, cho trúng
yêu cầu.
+ Ý thức chấp hành về kê khai tài sản, thu nhập trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức
chưa cao, chủ yếu vẫn dựa trên tinh thần tự giác. Do nhiều lý do nên không ít người đã tìm kẽ hở
của pháp luật cũng như cách thức tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập để kê khai đối phó hoặc
không trung thực.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tổ chức kê khai tài sản, thu nhập dù tăng nhưng còn bỏ
trống. Thực tế nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có tiến hành tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập
nhưng không tổ chức bộ phận thanh tra, giám sát việc thực hiện. Bên cạnh đó, cấp trên cũng
không có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, hướng dẫn các quy định pháp luật về vấn đề kê khai
tài sản, thu nhập còn bị xem nhẹ và chưa được quan tâm nhiều. Đặc biệt là bộ phận Công chức
cấp xã tại những vùng nông thôn chưa qua đào tạo
• Giải pháp
1. Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật để khắc phục những hạn
chế, bất cập, tạo hành lang pháp lý trong triển khai, thực hiện kê khai và kiểm soát việc kê khai

26
tài sản. Chú trọng đánh giá, tổng kết toàn diện và cụ thể các chủ trương, giải pháp về minh bạch
tài sản, thu nhập đã được triển khai và thực tiễn thực hiện thời gian qua.
2. Tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc kê khai và kiểm soát việc kê
khai tài sản để phát huy tính tự giác, trung thực và ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức trong việc kê khai, giám sát việc kê khai tài sản.
3. Kê khai phải triệt để, công khai. Không để tình trạng kê khai xong cất vào hộc tủ, ngăn kéo.
Vấn đề là chọn hình thức công khai hợp lý mà vẫn bảo đảm tính khách quan, hiệu quả (niêm yết
bản kê khai hoặc công bố trong cuộc họp). Muốn vậy, kê khai phải có kiểm tra, tổng hợp và xác
nhận. Việc đánh giá tính trung thực của bản kê khai phải được tiến hành qua xác minh thực tế.
Thực hiện tốt việc công khai sẽ góp phần yêu cầu người kê khai phải trung thực và nghiêm túc
hơn trong nội dung kê khai của mình.
4. Đẩy mạnh việc quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị và của người dân về thực hiện quy định minh bạch tài sản, thu nhập. Cần có chế tài
ràng buộc trách nhiệm đối với người đứng đầu, nếu việc kê khai tài sản, thu nhập mang tính hình
thức, đối phó, người đứng đầu phải chịu kỷ luật. Các đối tượng thuộc diện kê khai cần tự giác và
có trách nhiệm hơn trong việc kê khai cũng như giám sát các đối tượng khác.
5. Việc kiểm tra, xác minh để kết luận bản kê khai trung thực hay không trung thực là việc cần
phải làm. Dù cho không phải năm nào cũng điều tra, xác minh với mọi đối tượng có trách nhiệm
phải kê khai (vì không thể đủ nguồn lực và thời gian). Do đó, bên cạnh các trường hợp cần xác
minh theo quy định của pháp luật, cần tiến hành xác minh ngẫu nhiên một số trường hợp. Việc
này có tác dụng nhắc nhở mọi đối tượng phải có trách nhiệm kê khai đúng, đủ, trung thực, hạn
chế việc kê khai chiếu lệ, đối phó, gian dối.
Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định của Đảng, Nhà nước
để uốn nắn, xử lý kịp thời vi phạm quy định về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản. Phát huy
vai trò giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội, của cộng đồng cư dân trong việc kê khai và
kiểm soát việc kê khai tài sản.
6. Kiên quyết thực hiện việc xử lý tài sản, thu nhập được kê khai không trung thực khi bị phát
hiện. Theo quy định, người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, sau khi xác minh, điều tra
có kết luận thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, số tài sản không giải
trình được cũng phải được xử lý một cách kiên quyết, nghiêm túc. Công ước của Liên hợp quốc
về chống tham nhũng mà Việt Nam đã tham gia ghi rõ: tài sản không giải trình được, bất minh là
phải tịch thu. Cần quy định và quyết tâm thực hiện việc tịch thu những tài sản thu nhập bất minh.
7. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cần tiếp tục quán
triệt, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập, tăng cường
các hoạt động tập huấn, hướng dẫn, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ để tổ chức thực hiện có hiệu
quả. Cần tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc để hướng dẫn, quán triệt trực tiếp các quy định có
liên quan và việc tổ chức thực hiện cho các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, trên cơ sở tiếp
thu các ý kiến, vấn đề còn chưa rõ hoặc có vướng mắc ở cơ sở để xây dựng, ban hành văn bản
27
hướng dẫn tạm thời giúp các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể sớm triển khai thực hiện, bảo đảm
thống nhất và đúng quy định.
Chủ đề VIII: PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG VÀ
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NÀY
• Các quy định pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng
a. Thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ tục tố tụng hình sự.
- Đây là biện pháp trong đó việc thu hồi chỉ được tiến hành sau khi có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật. Đây là cách thức truyền thống hiện được nhiều quốc gia áp dụng, chú trọng mục
đích trừng trị, giáo dục, cải tạo người có hành vi phạm tội, qua đó nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật, phòng ngừa, hạn chế mầm mống tội phạm. Ngoài ra, trong các vụ án hình sự, với việc
sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước (quyền khám xét, quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài
liệu có liên quan sau khi có sự đồng ý của tòa án hoặc cơ quan công tố, ...) việc thu thập chứng
cứ phục vụ quá trình điều tra và xét xử sẽ thuận lợi hơn so với các vụ kiện dân sự.
- Những chủ thể là những người thực thi pháp luật sẽ phải thu thập chứng cứ, tìm kiếm và bảo vệ
tài sản, thực hiện truy tố đối với cá nhân hoặc pháp nhân và có được phán quyết của toà án. Sau
khi có phán quyết, toà án có thể ban hành lệnh tịch thu tài sản. Trong trường hợp tài sản do phạm
tội mà có đã được tẩu tán sang quốc gia khác, phương thức thu hồi tài sản sẽ dựa trên truy tố hình
sự sẽ được thực hiện thông qua cơ chế hợp tác quốc tế giữa các quốc gia. Mục đích của việc truy
tố và tịch thu hình sự thực chất đó chính là sự công nhận của xã hội về bản chất tội phạm hình sự
của tham nhũng và trách nhiệm của người vi phạm. Thêm vào đó, các hình thức phạt tù, phạt tiền
và tịch thu tài sản góp phần răn đe, ngăn ngừa các vi phạm tương tự sau này.
b. Thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Đây là biện pháp THTSTN mà trong đó nạn nhân của tham nhũng (có thể là thể nhân, pháp
nhân hoặc nhà nước), thông qua một vụ kiện dân sự tại tòa án (trong nước hoặc nước ngoài) để
xác lập quyền sở hữu đối với tài sản được cho là do tội phạm mà có (đòi lại tài sản) và/hoặc kiện
đòi bồi thường thiệt hại, đền bù. Bản chất của trách nhiệm dân sự là tập trung khắc phục thiệt hại
hay hậu quả của hành vi phạm pháp, là biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải
bồi thường cho người bị tổn hại nếu có thiệt hại thực tế. Ưu điểm nổi trội của biện pháp THTSTN
theo thủ tục dân sự đó là việc giảm tải nghĩa vụ chứng minh cho các cơ quan chức năng, nghĩa
vụ chứng minh trong trường hợp này thuộc về đương sự.
- Thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ tục dân sự cho phép các chủ sở hữu tài sản ngay tình được
khởi kiện các bên thứ ba để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Theo thỏa thuận ngầm, một ngân hàng đã tiếp tay cho tội phạm tham nhũng rửa tiền để
đổi lại lãi suất từ 1-3% của tài khoản đó được dùng để rửa tiền. Xử lý theo thủ tục dân sự, một số
quốc gia cho phép khởi kiện ngân hàng để bồi thường cho toàn bộ thiệt hại do hành vi rửa tiền
gây ra. THTSTN theo thủ tục dân sự có thể được tiến hành trước, đồng thời với thủ tục hình sự
hoặc sau khi các thủ tục hình sự đã kết thúc.

28
- Ưu điểm nổi bật của biện pháp THTSTN theo thủ tục dân sự đó là yêu cầu về tiêu chuẩn về
chứng cứ tại các phiên tòa dân sự thấp hơn so với tố tụng hình sự, qua đó tạo thuận lợi cho việc
THTSTN. Nói cách khác, biện pháp THTSTN theo thủ tục dân sự giúp khắc phục được một trong
những khó khăn lớn nhất trong các vụ án tham nhũng và THTSTN là việc phải chứng minh tội
phạm và nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản được cho là do tham nhũng mà có. Ngoài ra, ưu
điểm của biện pháp này còn thể hiện ở chỗ, việc khởi kiện dân sự có thể được mở rộng tới các
bên thứ ba, mà có thể là bất kỳ ai đã hỗ trợ cho bị đơn chính, các thành viên gia đình, cộng sự
thân thiết, các bên trung gian, các định chế tài chính, luật sư, kế toán, ... và trong khởi kiện dân
sự, các quan chức hoặc cựu quan chức và tài sản của họ không được hưởng quyền miễn trừ.
- Hạn chế của khởi kiện dân sự để THTSTN là không thể tận dụng các công cụ điều tra hình sự
và các biện pháp mang tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, chỉ có thể yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ bồi thường khi chứng minh được thiệt hại thực tế - điều mà phụ thuộc rất lớn vào
hiệu quả giám định tư pháp ở mỗi quốc gia.
c. Thu hồi tài sản tham nhũng không dựa trên kết án.
- Đây là biện pháp mà trong đó các cơ quan chức năng tiến hành THTSTN của người bị tình nghi
phạm tội mà không cần phải có phiên tòa hình sự để đưa ra phán quyết buộc tội. Tùy theo hệ
thống pháp luật quốc gia, căn cứ để THTSTN có thể dựa trên dấu hiệu làm giàu bất chính hoặc
nguyên tắc không ai được hưởng lợi từ tài sản được lấy được một cách bất hợp pháp trong khi
người sở hữu tài sản không thể chứng minh được nguồn gốc của tài sản...Khi đó, nghĩa vụ chứng
minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản thuộc về người đang giữ tài sản. Với biện pháp này, cơ
quan chức năng chỉ cần chứng minh rằng tài sản có liên quan đến một hành vi bất hợp pháp dựa
trên tiêu chuẩn bằng chứng “xác suất đáng tin” - một tiêu chuẩn thấp hơn so với tiêu chuẩn của
bằng chứng hình sự. Mặc dù đây là một biện pháp rất nhanh chóng và hiệu quả nhưng gây tranh
cãi lớn vì nếu không áp dụng thận trọng sẽ dẫn đến nguy cơ vi phạm một số quyền cơ bản của
con người như quyền được xét xử công bằng, quyền suy đoán vô tội, quyền bí mật đời tư.
d. Thu hồi tài sản tham nhũng thông qua các quyết định hành chính.
- Biện pháp này thường được áp dụng trong các trường hợp THTSTN không có tranh chấp hoặc
đối với khoản tiền mặt không lớn.
Ví dụ: Luật Hành chính Đức (German Administrative Offence Act) quy định trừng phạt hành vi
hối lộ bằng việc ấn định các khoản tiền phạt lớn. Cụ thể, ngay cả khi chưa thể truy cứu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, các doanh nghiệp có thể phải chịu hình phạt lên tới 01 triệu Euro
do hành vi tham nhũng thực hiện bởi người đại diện hoặc nhân viên của họ. Việc thực thi hình
phạt tiền không loại trừ khả năng thu hồi những lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp có được nhờ
hành vi hối lộ. Trong vụ của tập đoàn Siemens Telecom, tập đoàn này đã phải nộp khoản tiền
phạt lớn theo quy định của pháp luật hành chính do hành vi đưa hối lộ tại nhiều quốc gia để giành
được các hợp đồng với chính phủ.
• Thực trạng về các quy định thu hồi tài sản tham nhũng.
Kết quả đạt được.

29
- Công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trong năm
2022 tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực cho thấy, các cơ quan tố tụng đã tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa
tài khoản, ngăn chặn giao dịch tài sản có giá trị trên 160.000 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị
khác; các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được gần 16.000 tỷ đồng, tăng hơn 290% về tiền
so với năm 2021.
- Để phát hiện tài sản tham nhũng, kiểm soát tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của
CBCC tại Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2020/NĐ-
CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị.
- Việc kiểm soát, phát hiện nguy cơ hình thành tài sản tham nhũng còn được thể hiện thông qua
các quy định về tặng quà và nhận quà tặng trong hoạt động công vụ tại Nghị định số 59/2019/NĐ-
CP Quy định cụ thể về việc tặng quà, nhận quà; việc báo cáo, nộp lại và xử lý quà tặng; trách
nhiệm thực hiện của cán bộ, công chức, viên chức và thủ trưởng cơ quan, đơn vị; việc xử lý vi
phạm của cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm.
+ Nhà nước đề ra các quy định về quản lý thuế thu nhập cá nhân. Thông qua khoản thuế thu nhập
cá nhân nộp vào ngân sách nhà nước, các cơ quan chức năng có thể xác định những giao dịch
hoặc chi tiêu vượt quá thu nhập hợp pháp, từ đó gián tiếp kiểm soát được tài sản, thu nhập của
công dân.
+ Để đảm bảo tính minh bạch trong các giao dịch tài chính của công dân, qua đó gián tiếp kiểm
soát và phòng ngừa sự hình thành tài sản tham nhũng, tại Điều 29 Luật PCTN quy định về việc
thanh toán không dùng tiền mặt.
Những hạn chế, bất cập.
- Tỷ lệ thu hồi tài sản trong đa số các vụ án tham nhũng có tăng nhưng còn thấp so với số phải
thu hồi. Số tiền, tài sản bị thất thoát do tham nhũng rất lớn nhưng tài sản để đảm bảo thi hành án
thì nhỏ, chưa có các biện pháp, quy định cụ thể để truy tìm tài sản của người phải thi hành án bị
che giấu nguồn gốc.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa chú trọng áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế, kê
biên tài sản, phong tỏa tài khoản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thậm chí,
trong một số vụ án, vụ việc vẫn còn để xảy ra tình trạng có đối tượng bỏ trốn, tẩu tán tài sản ra
nước ngoài.
- Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 chưa quy định các biện pháp ngăn chặn khi phát hiện
tài sản có dấu hiệu tham nhũng qua việc kiểm soát tiền, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và như vậy, cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức không có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết để ngăn ngừa việc tẩu tán,
chuyển dịch hoặc hủy hoại tài sản.

30
- Công tác thu hồi tài sản tham nhũng áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa để ngăn chặn
việc tẩu tán tài sản trong các vụ án tham nhũng trong quá trình xử lý vụ án hình sự, các cơ quan
tiến hành tố tụng mới tập trung vào chứng minh hành vi phạm tội để bảo đảm không oan sai,
không bỏ lọt tội phạm nhưng chưa chú trọng, kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu
tán tài sản.
- Hiện nay nước ta chưa có quy định cụ thể về tiền ảo. Trong một số vụ án tham nhũng, kinh tế,
đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thường không chuyển trực tiếp tiền ra nước ngoài thông
qua tài khoản ngân hàng vì rất dễ bị phát hiện, với sự bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay
các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế có xu hướng sử dụng số tiền chiếm
đoạt được để mua tiền ảo (như đồng bitcoin …) rồi mới chuyển ra nước ngoài do vậy rất khó để
kiểm soát. Mặc khác do không có quy định cụ thể nên việc tạm giữ, thu giữ đồng tiền ảo do các
đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng, kinh tế sử dụng số tiền chiếm đoạt được mua đồng tiền
ảo còn gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế
Nguyên nhân khách quan.
- Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
+ Trong bối cảnh chuyển đổi ở các quốc gia đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tể vận hành theo quy luật thị trường như Việt Nam bên cạnh những kết
quả đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ như: Ảnh hưởng tiêu cực
đến đạo đức, văn hóa, xã hội; phân hóa giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh; ô nhiễm môi
trường và phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội... trong đó có vấn nạn tham ô, tham nhũng.
+ Các quy luật kinh tế, cạnh tranh, đặc biệt là quy luật giá trị không chỉ tác động đến kinh tế mà
còn tác động đến tư tưởng, tình cảm, kích thích sự quan tâm của con người đến lợi ích vật chất.
Do đó, một số người quá đề cao các yếu tố vật chất đã hình thành, phát triển lối sống thực dụng,
bỏ qua những giá trị, chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội. Một số người vì
những mục tiêu cá nhân, để làm giàu, kiếm tiền đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có tham ô, hối
lộ, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
+ Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ đã tạo ra môi trường, điều kiện thuận
lợi để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng, che dấu, chuyển hóa, tẩu tán tài sản
tham nhũng như: Lợi dụng cơ chế, chính sách ứng dụng khoa học, công nghệ, thu hút đầu tư;
chuyển tài sản ra nước ngoài, mua tiền kỹ thuật số, tiền điện tử; mua quốc tịch nước ngoài... gây
khó khăn cho công tác điều tra, phát hiện, thu thập, thu hồi các tài sản trong các vụ án tham nhũng.
+ Có rất nhiều yếu tố tạo điều kiện cho tham nhũng nảy sinh và cản trở những nỗ lực kiểm soát
tham nhũng bằng pháp luật. Trong bồi cảnh thiếu vắng các thiết chế để giám sát việc lạm dụng
quyền lực trong quá trình chuyển đổi, việc lạm dụng những kẽ hở của chính sách tư hữu hoá trong
quá trình cổ phần hoá để trục lợi, thậm chí biến doanh nghiệp nhà nước thành công ty gia đình ...
đã tạo điêu kiện cho một nhóm người, trong đó có các CBCC trở nên giàu có và quay lưng lại với
lợi ích cộng đông.
31
- Hệ thống pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng vẫn thiếu đồng bộ và nhất quán, chưa hoàn
thiện, chưa phù hợp với pháp luật quốc tế, còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định chi tiết,
cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản tham nhũng.
- Từ tháng 7 năm 2021 đến nay, dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, đặc biệt là 3 địa bàn có
số việc, tiền phải thu hồi chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội có thời gian giãn
cách xã hội dài dẫn đến nhiều thủ tục thi hành án như xác minh, đo vẽ hiện trạng, thẩm định giá,
bán đấu giá, giao tài sản đấu giá thành, bàn giao tài sản sung công... bị chậm tiến độ so với dự
kiến do phải thực hiện các quy định về phòng, chống dịch bệnh, giãn cách xã hội ở địa phương.
- Tình trạng pháp lý của nhiều tài sản kê biên không rõ ràng, phức tạp về pháp lý; có sự chênh
lệch giữa biên bản kê biên và khối lượng thực tế; một số trường hợp Tòa án chậm chuyển giao
hoặc chuyển giao thiếu tài liệu, hồ sơ pháp lý của tài sản kê biên; chậm giải thích, đính chính bản
án theo đề nghị của cơ quan thi hành án dân sự... Đây là những nguyên nhân quan trọng làm cho
kết quả thu hồi còn thấp trên tổng số vụ việc có điều kiện thi hành, đồng thời làm chậm tiến độ
thu hồi tài sản.
- Hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó khăn, vướng
mắc. Việc thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt về chế độ
chính trị, pháp luật và cơ chế phân công trách nhiệm phòng, chống tội phạm ở mỗi nước.
- Người phạm tội tham nhũng có sự chuẩn bị kỹ, đối phó ngay từ khi thực hiện các hành vi phạm
tội; chủ động xóa dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, chứng từ, che giấu, tẩu tán tài sản (kể cả tẩu tán ra
nước ngoài). Sau khi xử lý hết tài sản kê biên, do đa số người phải thi hành án phải chấp hành
hình phạt tù dài hạn nên không có thu nhập để thi hành án.
Nguyên nhân chủ quan
- Các lực lượng có chức năng đấu tranh chống tham nhũng chưa thực sự quyết liệt trong việc thu
hồi tài sản tham nhũng, chưa làm hết trách nhiệm, còn nể nang, né tránh, ngại va chạm.
- Các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng thường tập trung vào việc chứng minh
hành vi vi phạm nhưng lại chưa quan tâm đến việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Không ít
trường hợp, tài sản đã bị tẩu tán trước khi bản án có hiệu lực pháp luật. Khi nhận được bản án thì
cơ quan thi hành án không thể thực hiện được vì không còn tài sản để thi hành án.
- Nhiều vụ tham nhũng, cơ quan điều tra chưa thực hiện hết yêu cầu của Viện Kiểm sát khi trả hồ
sơ, Viện Kiểm sát phải trả yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần làm cho vụ án kéo dài. Việc thực
hiện giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng... thường rất chậm, kéo dài, không
đáp ứng yêu cầu về thời gian theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, nên ảnh hưởng đến
tiến độ giải quyết vụ án.
- Vấn đề minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập của xã hội nói chung và của những người có
chức vụ, quyền hạn nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế, vì tài sản rất dễ rơi vào trạng thái
không rạch ròi, của chồng cho vợ, bố cho con, anh cho em... dẫn đến tài sản ngoài thống kê và
kiểm soát của cơ quan chức năng rất lớn.

32
- Việc xử lý tội phạm tham nhũng chưa đúng mức và kiên quyết, còn nhiều vụ cho hưởng án
treo... Dẫn đến việc đấu tranh chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng thông qua công
tác chống rửa tiền còn diễn ra rất nhiều.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc tính chất nghiêm
trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực mình quản lý; chưa thực
sự gương mẫu, quyết liệt, nói chưa đi đôi với làm; thiếu bản lĩnh, dĩ hòa vi quý, nể nang, né tránh,
thậm chí còn bao che cho người vi phạm.
Giải pháp thu hồi tài sản tham nhũng của nước ta hiện nay:
Để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm
đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Bí thư yêu cầu các cấp
uỷ, tổ chức đảng thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp đối với
công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế;
xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác phòng, chống
tham nhũng. Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện có
hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, địa phương,
cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác thu hồi tài sản
tham nhũng tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
- Thống nhất quyết tâm và hành động đồng bộ trong thu hồi tài sản tham nhũng: Quán triệt quan
điểm của Đảng, xác định nhiệm vụ thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án kinh
tế, tham nhũng quan trọng ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử người
phạm tội, các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương vào cuộc quyết liệt để tăng cường
phát hiện, xử lý nhiều vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế lớn và truy tìm, kê biên, xử lý tài
sản. Các giải pháp có tính chiến lược, lâu dài vừa cụ thể, bảo đảm khắc phục hạn chế, đồng thời
tạo đột phá, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong thu hồi tài sản tham nhũng.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản
bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về
trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát,
chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong toả; sớm khắc phục
những bất cập, vướng mắc trong kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thẩm định giá, bán đấu giá
tài sản, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
- Nghiên cứu rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, thi hành
án dân sự và các quy định pháp luật liên quan theo hướng bổ sung cho thanh tra viên, kiểm toán
viên thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản khi phát hiện có dấu hiệu
tội phạm tham nhũng, kinh tế; xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc truy nguyên,
truy tìm, kê biên tài sản, phong toả tài khoản ngay từ giai đoạn thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy
tố, xét xử. Hoàn thiện cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự để thực hiện tốt công tác phát hiện, xử
lý tài sản do phạm tội mà có ở nước ngoài.
33
- Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thu hồi
tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; xác định rõ vai
trò, trách nhiệm của cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan
thi hành án dân sự, ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp; kịp thời áp dụng các biện pháp thu
giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, đất đai, phong toả tài khoản ngay trong quá trình kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.
- Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp trong
công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt, nhất là chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong công tác thi hành án dân sự, thu hồi tài sản tham nhũng; chỉ đạo các cơ quan chức năng
phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý tài sản, đất đai và các cơ quan liên
quan cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về tài khoản, tài sản, đất đai theo yêu cầu của cơ quan
có thẩm quyền, kịp thời áp dụng các biện pháp tạm giữ, kê biên, phong toả, xử lý tài sản bị thất
thoát, chiếm đoạt trong quá trình tố tụng và thi hành án dân sự.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm
đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; kịp thời phát hiện, khắc phục những tồn tại,
hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những sai phạm, tiêu cực trong công tác
thu hồi tài sản.
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án dân sự, bảo đảm đủ số lượng, vững về chuyên môn nghiệp vụ, có
phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự liêm, chính, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng trong
giai đoạn hiện nay.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng; chủ động phối hợp với các tổ
chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý tài sản
do phạm tội mà có đang ở nước ngoài. Đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp
hình sự giữa Việt Nam với các nước, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong phòng, chống tham
nhũng có yếu tố nước ngoài.
• Kết Luận
- Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCTN ở Việt Nam trong những năm tới, chúng ta
cần tăng cường các hoạt động PCTN theo hướng: đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là TTHC
theo hướng công khai, minh bạch, dễ tiếp cận để giảm thiểu cơ hội tham nhũng; nâng cao vai trò
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong thực hiện công tác PCTN; tạo điều kiện thuận lợi
cho công dân và các tổ chức xã hội tham gia PCTN; chú trọng nội dung phòng, chống tham nhũng
trong công tác quản lý công chức Nhà nước; nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án tham nhũng; ban hành và thực hiện tốt các cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước trên
các lĩnh vực có nhiều cơ hội tham nhũng. Từ những định hướng trên, Việt Nam ta phải thực hiện
đồng bộ cả những giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nạn tham nhũng lẫn tích cực đấu tranh chống
tham nhũng. Do vậy, muốn đạt được mục tiêu ngăn chặn, xóa bỏ nạn tham nhũng, chúng ta cần
phải nghiêm túc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên.

34
Chủ đề IX: PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÁC MINH TÀI SẢN, THU NHẬP VÀ
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NÀY.
❖ Thực trạng về xác minh tài sản, thu nhập hiện nay:
Những mặt đạt được:
Các quy định pháp luật đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kê khai, kiểm soát, xác minh tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
+ Hàng năm, việc kê khai, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được tiến
hành ở các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục. Những năm
gần đây, việc thực hiện chi trả lương và các khoản phụ cấp cho cán bộ, công chức, viên chức nói
chung và người có chức vụ, quyền hạn nói riêng đã được thực hiện qua tài khoản ngân hàng. Nhờ
có các biện pháp tuyên truyền thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về kê
khai, xác minh tài sản, thu nhập, ý thức của những người trong diện phải kê khai tài sản, thu nhập
được nâng cao. Công tác kê khai tài sản, xác minh thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn đã
góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch của hệ thống công vụ.
Kê khai và xác minh tài sản, thu nhập được xác định là một trong những giải pháp quan trọng
trong công tác phòng ngừa tham nhũng.
+ Trong thời gian qua việc kê khai xác minh tài sản, thu nhập ở Việt Nam đang ngày càng được
hoàn thiện về hành lang pháp lý, đạt được những kết quả bước đầu trong thực tế triển khai.
Công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và việc kê khai, công khai, kiểm soát tài sản, thu
nhập luôn được Đảng ủy, Ban Giám đốc lãnh đạo, chỉ đạo.
+ Xác định đây là giải pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng; coi việc chỉ đạo
và tổ chức thực hiện công tác kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của tập thể, cá nhân hàng
năm ở cơ quan.
Không chỉ phát hiện những tồn tại, thiếu sót trong các bản kê khai của đối tượng kê khai, mà qua
công tác xác minh cũng cho thấy khó khăn, vướng mắc của các thành viên tổ xác minh.
+ Việc xác minh, thu thập thông tin từ các đơn vị liên quan như văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất, các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý đăng ký phương tiện giao thông… còn có nhầm
lẫn, thiếu sót do hệ thống cơ sở dữ liệu của các ngành chưa hoàn thiện; số liệu xác minh chỉ trong
phạm vi của tỉnh, đối với những tài sản nằm ngoài địa bàn tỉnh thì chưa thể xác minh. Mặt khác,
do chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, cách thức xác minh nên Chánh Thanh tra tỉnh không
có cơ sở để chỉ đạo xác minh và kết luận đối với các tài sản, thu nhập gắn liền với đất; vàng, kim
cương, các loại đá quý; tiền mặt, tiền cho vay, tiền gửi trong và ngoài nước; cổ phiếu, trái phiếu,
các giấy tờ có giá trị khác; các tài sản, tài khoản ở nước ngoài.
Những hạn chế:
- Quy định pháp luật liên quan đến việc xác minh và kiểm soát việc xác minh tài sản, thu nhập
của cán bộ, công chức nói chung và người có chức vụ, quyền hạn chưa đồng bộ, đầy đủ. Như là
35
quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát, thiếu các biện pháp bảo đảm
thực hiện, đặc biệt là trình tự, thủ tục giải quyết các yêu cầu về cung cấp thông tin. Các quy định
về minh bạch tài sản, thu nhập chưa đủ mạnh để kiểm soát tài sản, thu nhập; còn vướng mắc về
trình tự, thủ tục giải trình, xác minh tài sản, thu nhập; chưa có quy định về việc xử lý tài sản, thu
nhập không được giải trình một cách hợp lý.
- Hiện nay còn một số tình trang như: cá nhân có nghĩa vụ kê khai chưa nghiên cứu đầy đủ văn
bản, kê khai thiếu thông tin, chưa đầy đủ chính xác về tài sản, thu nhập, nhất là liên quan đến
quyền sử dụng đất, nhà ở, các tài sản có giá trị, các khoản tiền gửi tại ngân hàng; việc góp vốn
kinh doanh; tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai; biến động về tài sản, thu nhập và giải trình nguồn
gốc tài sản, thu nhập tăng thêm…
- Bản thân người trong diện kê khai còn lúng túng khi phải tự định giá một số tài sản trước đây
không phải kê khai, xong theo quy định mới phải kê khai. Theo hướng dẫn tại Nghị định số
130/2020/NĐ-CP tài sản, thu nhập phải kê khai có mục các khoản tiền mặt, tiền cho vay, tiền trả
trước, tiền gửi cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam mà tổng giá trị quy
đổi từ 50 triệu đồng trở lên gây khó khăn trong việc xác định.
- Nội dung các mẫu kê khai không thống nhất, các quy định về nội dung các mẫu kê khai không
thống nhất (lần đầu, hàng năm); việc xác định giá trị từng loại tài sản, thời điểm phát sinh tài sản
có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc kê khai cũng khác nhau; khi công khai bản kê khai tài
sản khó xác định chính xác giá trị, chất lượng tài sản của người có nghĩa vụ phải kê khai.
- Vẫn còn tình trạng việc kê khai tài sản, thu nhập còn mang nặng tính hình thức: Việc kê khai tài
sản, nhà ở hàng năm của cán bộ, công chức vẫn còn mang tính hình thức; thu nhập bằng tiền chưa
được quan tâm đúng mức nên hầu như chưa được đặt ra. Cán bộ, công chức kê khai và nộp cho
cơ quan quản lý, cơ quan quản lý cán bộ, công chức chỉ làm nhiệm vụ lưu hồ sơ mà chưa có cơ
chế giải trình, kiểm tra, xác minh để đảm bảo việc kê khai tài sản minh bạch, trung thực.
- Trách nhiệm của người đứng đầu, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị (đơn vị) thiếu chủ động tổ
chức kê khai, hầu hết chỉ triển khai khi có nhắc nhở, đôn đốc của cấp trên; việc lập danh sách xác
định người có nghĩa vụ kê khai chưa được quan tâm, có đơn vị danh sách kê khai không được
phê duyệt. Bộ phận phụ trách công tác tổ chức, cán bộ chưa nắm được quy trình, quy định tổ chức
kê khai do đó thiếu sự hướng dẫn và yêu cầu đối với người khai; sai sót trong tiếp nhận, xử lý,
lưu giữ bản khai. Hầu hết các đơn vị đều không mở sổ theo dõi việc giao, nhận Bản kê khai; nhiều
người khai chưa đúng mẫu, người khai không ký trên các tờ trong bản kê khai; bản khai không
được lưu cùng hồ sơ của Người có nghĩa vụ kê khai tại đơn vị mình.
Nguyên nhân hạn chế
Nguyên nhân khách quan:
- Hệ thống pháp luật còn chồng chéo, trùng lắp, chưa có quy định cụ thể về xác minh, kê khai,
kiểm soát tài sản, thu nhập.

36
- Về việc xác minh, kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn
thực hiện độc lập, thiếu sự gắn kết phối hợp với các biện pháp khác, như thực hiện trách nhiệm
giải trình của người có chức vụ, quyền hạn đối với tài sản, thu nhập của mình.
- Các quy định về nội dung xác minh tài sản, thu nhập dễ tiếp cận nhưng chưa được hướng dẫn
chi tiết và chưa thống nhất đối với một số cá nhân được lựa chọn xác minh ngẫu nhiên.
- Việc thực hiện thanh toán bằng tiền mặt trong đời sống xã hội ở nước ta còn khá phổ biến, do
vậy khó kiểm soát các giao dịch có sử dụng tiền mặt. Điều này gây khó khăn cho việc kê khai,
kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Ví dụ: Tại Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN nhận định: “Việc thanh toán bằng tiền
mặt vẫn còn phổ biến, gây khó khăn cho việc phát hiện các hành vi trốn thuế, rửa tiền, tham
nhũng... Tuy nhiên, hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt chưa hoàn
thiện, cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu”.
Nguyên nhân chủ quan:
- Ý thức của một số bộ phận người có chức vụ, quyền hạn trong việc kê khai tài sản, thu nhập
chưa cao, chưa tự giác.
- Trách nhiệm của người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được phát huy, chưa
thực sự được đề cao. Người đứng đầu chưa thực sự quan tâm, quyết liệt trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, chưa thực sự gương mẫu trong thực hiện việc kê khai, công khai bản kê khai tài sản, thu
nhập.
- Về việc còn tồn tại một số cá nhân trong cơ quan, đơn vị thực hiện kê khai không trung thực,
không kê khai tài sản, thu nhập biến động mà chưa được giải trình một cách hợp lý.
- Vẫn còn tồn tại một số cá nhân chưa đảm bảo thực hiện xác minh, kê khai tài sản, thu nhập
không trung thực, minh bạch, còn xảy ra tình trạng trốn thuế trong kê khai nộp thuế thu nhập cá
nhân cho Nhà nước.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện xác minh, kê khai tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn chưa được tiến hành thường xuyên. Một số vụ việc có phát hiện
những dấu hiệu không trung thực của người kê khai nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền xử
ký kịp thời, nghiêm minh.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về xác minh, kê
khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan
tâm, chưa hiệu quả, bị xem nhẹ hay thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập đối với người có chức
vụ, quyền hạn còn hình thức chưa rõ ràng, nghiêm túc.
Giải pháp khắc phục:
- Để nâng cao hiệu quả xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cần thiết ban
hành văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về thời gian, cách thức xác minh tài sản, thu nhập
đối với các đối tượng được xác minh, theo hướng:

37
+ Cần thiết xem xét, phân tích kỹ nguồn gốc hình thành tài sản trong bản kê khai tài sản, thu nhập
lần đầu.
+ Chú trọng phần biến động tài sản và giải trình lý do biến động.
+ Xem xét, đối chiếu với bản kê khai tài sản, thu nhập của vợ/chồng người được xác minh (nếu
nằm trong đối tượng phải kê khai TSTN) để đánh giá một cách khách quan, đầy đủ, chính xác và
đảm bảo tính trung thực hay không. Kiểm soát TSTN của cán bộ, công chức một cách toàn diện
hơn, vì theo quy định con trên 18 tuổi thì bố mẹ không phải kê khai tài sản, điều này dễ dẫn đến
việc “lách luật”, bố mẹ tham nhũng chuyển tài sản cho con đã thành niên đứng tên sở hữu.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong việc xác minh tài sản, thu nhập
+ Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong việc xác minh TSTN. Hiện nay,
việc xác minh TSTN chỉ mới dừng ngang mức độ để cho các đối tượng được xác minh tự giác kê
khai, cung cấp các bằng chứng để chứng minh TSTN hiện có và cam đoan tự chịu trách nhiệm
về kê khai của mình chứ chưa tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức có liên quan, như: Văn
phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, các ngân hàng thương mại, cơ quan thuế, cơ quan công an…
để chứng minh các cá nhân đã khai hết tài sản của mình hay chưa. Trong thời gian tới, cần có sự
phối, kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan để nâng cao hơn nữa hiệu quả
công tác xác minh TSTN.
- Tiếp cận của công chúng đối với kê khai, minh bạch TSTN.
+ Việc thông tin công khai TSTN cho phép hệ thống công khai TS,TN tranh thủ sự tham gia của
tổ chức xã hội dân sự trong giám sát tờ khai, tăng cường cưỡng chế, từ đó nâng cao uy tín của cơ
chế. Trong một số trường hợp, cơ quan quản lý công khai TSTN có thể trông cậy vào sự sẵn sàng
và năng lực của các tổ chức phi Chính phủ, giới truyền thông, hay cả hai, để tiến hành các hoạt
động kiểm tra mức sống mà nguồn lực và năng lực của cơ quan không cho phép.
- Xác minh nội dung kê khai để giám sát những thay đổi đáng ngờ về tài sản và bảo đảm rằng
mức thu nhập, tài sản được kê khai phù hợp với thu nhập hợp pháp của công chức, cũng như
không có dấu hiệu nào cho thấy tồn tại các xung đột lợi ích tiềm tàng hay thực tế.
+ Kiểm tra từng tờ khai về tính nhất quán nội tại trong nội dung, đối chiếu các tờ khai để theo dõi
thay đổi theo từng thời điểm. Kiểm tra chéo nội dung kê khai với các nguồn, cơ sở dữ liệu bên
ngoài (thông tin đất đai, xe cộ, thuế, ngân hàng, v.v...). Phân tích nội dung kê khai để phát hiện
các điểm không phù hợp có thể có (hay mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và nhiệm vụ công).
- Cần có cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán qua tài khoản,
mở rộng diện sử dụng tài khoản trong thanh toán.
+ Tài khoản trong thanh toán đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát thu nhập, tài sản
đối với cán bộ, công chức. Ở nước ta các văn bản quy định hạn chế sử dụng tiền mặt, thanh toán
không dùng tiền mặt, chi trả lương qua tài khoản đã được ban hành nhưng thực tế triển khai còn
gặp nhiều khó khăn một phần do hệ thống văn bản chưa đồng bộ, thiếu những quy định pháp lý
cụ thể, chế tài trong việc bắt buộc phải sử dụng tài khoản trong thanh toán, quy định về hạn mức
thanh toán tiền mặt cũng không được nhiều người ủng hộ, hệ thống pháp lý về bảo vệ người tiêu
38
dùng trực tuyến hầu như chưa có. Vì vậy, thời gian tới cần phải hoàn thiện một cách đồng bộ hệ
thống các quy định này.
III. Kết luận:
- Có thể nói, nếu như kiểm soát tài sản, thu nhập trong cơ quan, tổ chức, đơn vị là một chế định
mới quan trọng của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì xác minh tài sản, thu nhập được
coi là khâu thiết yếu của quá trình kiểm soát tài sản, thu nhập. Việc xác minh tài sản, thu nhập
nhằm ngăn ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng (nếu có) đối với người có nghĩa vụ kê khai;
đồng thời góp phần thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018 và Nghị định 130.

39

You might also like