Professional Documents
Culture Documents
Bệnh bạch tạng
Bệnh bạch tạng
- Mắt: các dấu hiệu và triệu chứng bệnh bạch tạng còn có thể liên quan
đến chức năng của mắt, bao gồm: mắt cử động qua lại liên hồi (rung giật
nhãn cầu), hai mắt không thể nhìn cùng một hướng khác (lác), cận
thị hoặc viễn thị, nhạy cảm với ánh sáng hoặc nhãn cầu có độ cong bất
thường gây mờ mắt.
Nguyên nhân gây bệnh bạch tạng
Do đột biến trên NST thường, làm mất khả năng tổng hợp enzim
tyrosinase (enzim này biến tyrosin thành melanin).
Mở rộng
1. Tyrosinase (monophenol monooxygenase) không thể thiếu trong cơ
thể, được sinh ra từ một amino axit có tên là phenylalanin.
2. Tyrosinase là enzim chịu trách nhiệm kích thích sự sản sinh Melanin,
bảo vệ da trong các trường hợp bị tổn thương.
Tyrosinase và quá trình hình thành Melanin
Ngoài ra, đi sâu vào nguyên nhân gây bệnh thì bạch tạng phụ thuộc vào
loại rối loạn xảy ra, chẳng hạn như:
- Bạch tạng da và mắt (OCA): OCA ảnh hưởng đến da, tóc và mắt, gồm
một số nhóm nhỏ:
OCA1: được gây ra bởi sự bất thường trong các enzyme tyrosinase có thể
làm cho người bệnh có tóc trắng, da nhợt nhạt và đôi mắt sáng màu hoặc
làn da, tóc, mắt nhạt màu.
OCA2: được gây ra bởi sự bất thường trong 2 gen OCA gây giảm sản
xuất melanin. Những người có OCA 2 bẩm sinh có đôi mắt và da nhạt
màu cùng với lông mày vàng hoặc nâu nhạt.
OCA3: được gây ra bởi sự bất thường trong gen TYRP, làm cho những
người mắc bệnh bạch tạng thuộc nhóm OCA 3 có làn da màu nâu đỏ, đỏ,
hoặc màu hạt dẻ cùng với mắt nâu.
OCA4: được gây ra bởi sự bất thường trong protein SLC45A2, nhóm này
gây ra các triệu chứng tương tự như OCA2.
- Bạch tạng mắt (OA): gây ra bởi một đột biến gen trên nhiễm sắc thể X
và xảy ra hầu như chỉ ở nam giới. Những người bị bạch tạng măt có thể
có tóc, da và màu mắt bình thường nhưng không có màu trong võng mạc.
Bệnh bạch tạng được phân thành nhiều loại
Tùy vào vùng da bị ảnh hưởng mà bạch tạng được chia ra làm nhiều loại
khác nhau. Khi bạch tạng khắp cơ thể, ảnh hưởng phần lớn mọi vùng da,
thì được gọi là bạch tạng tổng quát. Khi ảnh hưởng chỉ một phần cơ thể
gọi là bạch tạng một phần, hay chỉ một phần nhỏ cơ thể, hay bị chỉ ở mặt
và tay (bạch tạng mặt và tay).
Vì sao bị bệnh bạch tạng ?
1. Bệnh tự miễn là một trong những lý do hay dẫn đến bạch tạng do các
kháng thể và tế bào miễn dịch tấn công tế bào hắc tố da. Các bệnh khác
như ung thư, stress, hoặc di truyền từ gia đình cũng khiến cho tế bào hắc
tố bị tổn thương. Các lý do khác như bị phỏng, tiếp xúc hóa chất, tổn
thương da do tai nạn cũng dẫn đến bạch tạng do tế bào hắc tố bị tổn
thương.
2. Trẻ em sẽ có nguy cơ sinh ra bị bạch tạng nếu có bố mẹ bị bạch tạng
hoặc bố mẹ mang gen bệnh bạch tạng:
- Nếu một trong hai người là bố hoặc mẹ mang gen lặn bệnh lý của cha,
ông...thì các dấu hiệu bên ngoài của bệnh bạch tạng không xuất hiện -
người con sẽ có màu da, tóc vẫn bình thường (tức nhìn bên ngoài không
hề biết người đó tiềm ẩn bệnh bạch tạng) nhưng mang gen lặn bệnh lý.
- Nếu cả bố và mẹ tuy bình thường về sắc hình nhưng đều mang gen lặn
bạch tạng thì con của họ sinh ra ở dạng đồng hợp tử về gen lặn do đó
bệnh bạch tạng thể hiện ra bên ngoài.
- Những gen lặn bạch tạng tồn tại dai dẳng trong dòng họ từ thế hệ này
qua thế hệ khác, nếu họ lấy vợ, lấy chồng không có gen lặn bệnh bạch
tạng thì con cái đẻ ra không bị bệnh bạch tạng nhưng mang gen lặn bệnh
lý. Trái lại, nếu lấy phải vợ hoặc chồng cũng có gen lặn bạch tạng thì
những cặp gen lặn bệnh lý tương đồng gặp gỡ nhau dễ tạo sinh những
đứa con bạch tạng. Vì vậy nếu hai vợ chồng này tiếp tục sinh con thì tỷ lệ
con sinh ra mắc bệnh bạch tạng là lớn.
Hội chứng Griscelli (GS): gây ra bởi một thiếu hụt ở một trong ba gen.
GS gồm bạch tạng, các rối loạn miễn dịch và các rối loạn về thần kinh.
GS thường gây tử vong trong vòng mười năm đầu tiên của cuộc đời.