Professional Documents
Culture Documents
3. Chẩn đóan sơ bộ và xử lý ban đầu đối với các trường mất thị lực đột
ngột
4. Chẩn đóan sơ bộ và xử lý ban đầu đối với các trường mất thị lực đột
ngột
ĐẠI CƯƠNG
Mất thị lực là một triệu chứng quan trọng đưa người bệnh đến gặp thầy
thuốc nhãn khoa. Nó là một dấu hiệu của rất nhiều bệnh lý về mắt. Người bác
sĩ có thể dựa vào tính chất của mất thị lực là đột ngột hay từ từ, hai mắt hay
một mắt, mất thị lực có kèm đỏ mắt hay không, để tiếp cận chẩn đoán nguyên
nhân mất thị lực một cách hệ thống. Ở đây không đề cập đến mất thị lực
thoáng qua và mất thị lực do chấn thương mắt.Về bệnh nguyên, có 3 nhóm
nguyên nhân:
1. Các bệnh lý làm mờ đục môi trường trong suốt của mắt, làm cho ảnh của
mật không thể hội tụ vào võng mạc như: viêm loét giác mạc, viêm màng bồ
đào trước, glaucoma cấp, xuất huyết dịch kính. Trong các bệnh lý nầy (ngoại
trừ xuất huyết dịch kính), vì có yếu tố viêm nên mờ mắt thường đi kèm đỏ
2. Các bệnh lý của võng mạc: thường gặp nhất là các bệnh tắc nghẽn mạch
máu võng mạc như tắc động mạch trung tâm võng mạc, tắc tĩnh mạch trung
3. Các bệnh lý của thị thần kinh và đường dẫn truyền thị giác: viêm thị thần
kinh, thiếu máu thị thần kinh, đột quị tuyến yên, mù võ não…
Sau đây sơ lược lâm sàng và cách xử lý các nguyên nhân mờ mắt thường
gặp nhất.
Mất thị lực thường được xem là đột ngột, nếu nó xuất hiện và phát triển trong
vòng vài phút đến một vài ngày. Mất thị lực có thể xãy ra một mắt hoặc hai
mắt, mất hoàn toàn hoặc một phần và thường có kèm những triệu chứng quan
trọng khác, đặc biệt là đỏ mắt (xem thêm bài chẩn đoán và xử lý đỏ mát).
1.1.1. Đại cương: Thường gặp ở người đứng tuổi, có tiền sử bệnh tim, cao
huyết áp, đái tháo đường… dẫn đến huyết khối và nghẽn mạch. Bệnh nhân
đột ngột thấy một mắt tối sầm lại đôi khi mù một mắt được phát hiện khi ngủ
dậy (tai biến xảy ra trong khi ngủ). Tình trạng mù hoàn toàn một mắt này có thể
xảy ra sau những lần mù một mắt nhất thời và đau trong hốc mắt.
Hình 6.1: tắc động mạch trung tâm võng mạc (phù võng mạc với hoàng điểm
anh đào)
1.1.2. Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào tam chứng: Mù đột ngột ở một mắt,
Khiếm khuyết đồng tử hướng lên, Phù võng mạc với hoàng điểm “chấm đỏ anh
đào” (H 1.1).
Đồng tử: giãn, có dấu khiếm khuyết hướng tâm (mất phản xạ ánh sáng trực
tiếp nhưng còn phản xạ đồng cảm (chiếu ánh sáng vào mắt lành thấy có phản
chứa máu, có thể thấy hình ảnh cột máu đứt đoạn thành nhiều quãng do ngừng
trệ tuần hoàn. Võng mạc bị phù chủ yếu ở cực sau làm cho vùng này có màu
trắng sữa. Gai thị nề phù. Riêng hoàng điểm do được cấp máu bởi mao mạch
hắc mạc thì đỏ tươi trên một nền võng mạc phù trắng sữa, đó là dấu hiệu
“chấm đỏ anh đào” rất đặc trưng của tắc động mạch trung tâm vỡng mạc
• Công thức máu, đường máu khi đói, lipit máu, Các xét nghiệm cầm
• VS (làm khẩn cấp), nếu tốc độ lắng máu cao có thể nghĩ tới bệnh viêm
động mạch tế bào khổng lồ. Khi đó phải dùng corticoide liều cao truyền
1.1.4. Xử lý
Đây là một cấp cứu nhãn khoa, cần phải lập tức tiến hành điều trị khẩn cấp
trước khi làm các xét nghiệm khác vì sự thiếu máu cục bộ ở các lớp của võng
mạc dẫn tới phù trong tế bào và tiến triển nhanh chóng đến hoại tử. Theo lý
thuyết, võng mạc còn sống được 100 phút sau khi tắc hoàn toàn động mạch
• Day, xoa nắn nhãn cầu vài phút để hy vọng di chyển cục nghẽn mạch nếu
có
• Giảm nhãn áp khẩn cấp: Chọc tiền phòng hút bớt thuỷ dịch, Acetazolamide
• Chuyển tuyến trên: Điều trị bệnh nguyên và tại mắt cho các biến chứng về
Tắc tĩnh mạch võng mạc là sự ngưng trệ tuần hoàn trở về, xảy ra ở thân tĩnh
mạch, ngay đĩa thị sau lá sàng hoặc tắc ở nhánh tĩnh mạch – thường gặp sau chỗ
bắt chéo động tĩnh mạch..Bệnh thường gặp ở người trên 50 tuổi, nguyên nhân
chủ yếu là do cao huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch, các bệnh lý làm
biến đổi thành phần huyết tương (tăng hồng cầu, tăng lipid máu ), biến đổi
thành mạch, các bệnh nhiễm trùng…Bệnh ít cấp tính và đỡ bi đát hơn tắc động
mạch trung tâm võng mạc nhưng hay gặp hơn và dễ tái phát. Tiên lượng lâu
Hình 6.2: Tắc hai nhánh tĩnh mạch trung tâm võng mạc qua soi đáy mắt
1.2.2. Chẩn đoán lâm sàng: dựa vào mờ mắt đột ngột không đỏ và các dấu
• Phù gai thị và võng mạc: Gai thị phù nề, giãn tĩnh mạch trước gai. Võng mạc
• Xuất tiết mềm: Là những nốt dạng bông màu trắng, bờ không rõ, nằm nông
trong lớp sợi thần kinh, do hoại tử sợi trục cùng các sản phẩm ở bào tương
• Hướng về các bệnh toàn thân: đo huyết áp, làm các xét nghiệm máu như
đường huyết, công thức máu, mỡ máu, xét nghiệm đặc hiệu chẩn đoán các
• Chụp mạch huỳnh quang võng mạc: phân loại thể không thiếu máu và thể
1.2.4. Xử lý
Điều trị nội khoa: mục đích là phục hồi tuần hoàn trong các nhánh bị tắc, chống
Các thuốc chống kết tụ tiểu cầu: Aspirin, Các thuốc giảm phù nề:
Acetazolamide (Diamox, Fonurit). Thuốc tiêu máu: Hyaza, tam thất..Thuốc tăng
cường thành mạch, giãn mạch và dinh dưỡng tổ chức võng mạc: Rutin C,
- Điều trị cao huyết áp, tăng lipid máu, bệnh tim mạch, đái tháo đường…
hoàng điểm.
1.3.1. Đại cương: Bong võng mạc là hiện tượng lớp thần kinh cảm thụ võng
mạc bị tách ra khỏi lớp biểu mô sắc tố (bình thường 2 lớp nầy dính lại). Giữa
hai lớp nầy là dịch. Bệnh có khuynh hướng phát triển rộng đến bong toàn bộ,
- Bong võng mạc nguyên phát: Gây ra do một hay nhiều vết rách hoặc lỗ của
lớp thần kinh cảm thụ. Chính vì vậy có khuynh hướng gọi là bong võng mạc có
rách.
- Bong võng mạc thứ phát: Sự tích lũy chất lỏng ở khoang dưới võng mạc
không do những vết rách hay lỗ rách của lớp thần kinh cảm thụ mà thứ phát sau
một quá trình bệnh lý của võng mạc, dịch kính hay màng bồ đào. Có hai nhóm
bong võng mạc thứ phát: một là bong võng mạc co kéo do các tổ chức tân tạo
dính bất thường lên mặt trong của lớp thần kinh cảm thụ của võng mạc; hai là
bong võng mạc xuất tiết do sự rối loạn hàng rào máu võng mạc hoặc hắc –
võng mạc.
1.3.3. Chẩn đoán lâm sàng: (bong võng mạc nguyên phát)
Dấu hiệu sớm là ruồi bay, hoa mắt, chớp sáng, sau đó là giảm thị lực, khuyết thị
+ Vùng võng mạc bong: Màu xám hoặc hồng sẫm, các mạch máu võng mạch
đi theo các nếp của võng mạc bong, có thể thấy lổ rách, hoàng điểm có thể có
bong (H 1.3).
+ Những tổn hại trên võng mạc: Xuất huyết, xuất tiết, rối loạn sắc tố, , tổ chức
xơ, màng trước võng mạc, tăng sinh dịch kính võng mạc trên mặt trước và sau
võng mạc.
co kéo dịch kính võng mạc, phẫu thuật đơn giản chỉ là hàn rách bằng lạnh,
kết hợp ấn dộn tại chỗ bằng silicon, có thể tháo dịch hay không.
• Với những bong võng mạc có co kéo và một số hình thái khác: ngày nay
nhờ có cắt dịch kính có thể điều trị khỏi phần lớn những hình thái bong võng
mạc có co kéo của dịch kính võng mạc, lỗ hoàng điểm hay rách cực sau,
rách khổng lồ… Thường cắt dịch kính là bắt buộc, còn vai trò của phẫu
thuật cổ điển đến đâu phụ thuộc vào từng tác giả, kỹ thuật phối hợp và từng
Viêm thần kinh thị là tình trạng viêm huỷ myelin của thần kinh thị. Trong nhiều
trường hợp, viêm thị thần kinh thường liên quan với bệnh xơ cứng rải rác,
nhưng nó cũng có thể xuất hiện riêng lẽ. Bệnh thường gặp ở người trẻ, nữ
nhiều hơn nam. Nguy cơ phát triển thành bệnh xơ cứng rải rác sau khi bị viêm
thần kinh thị từ 11,5% đến 85%. Viêm thị thần kinh, nếu xảy ra ở đầu thần kinh
thị được gọi là viêm gai thị, khi đó đĩa thị bị phù, nếu xảy ra ở phía sau đầu thần
kinh thị được gọi là viêm thần thị hậu cầu khi đó đĩa thị bình thường
1.4.2. Chẩn đoán lâm sàng:
• Mất thị lực đột ngột ( một hoặc hai mắt) thường xảy ra từ vài giờ đến vài
ngày, thị lực giảm nhanh trong 2-3 ngày và mức độ giảm ổn định trong 7-10
ngày.
• Đau nhẹ trong hoặc xung quanh mắt biểu hiện ở trên 90% bệnh nhân. Triệu
chứng đau có thể xảy ra trước hoặc cùng lúc với mất thị lực, đau tăng khi
vận động nhãn cầu và kéo dài không quá vài ngày.
• Tổn thương đồng tử hướng tâm tương đối (RAPD: Relative Afferent
Pupillary Defect) được ghi nhận như một yếu tố gợi ý chẩn đoán viêm thần
kinh thị.
• Soi đ ắt: Hai phần ba các mắt bị bệnh dây thần kinh thị có gai thị bình
thường, một phần ba còn lại cho thấy có hình ảnh phù gai thị.
• MRI: hình ảnh thần kinh thị có cường độ tín hiệu cao hơn bình thường,
không có u, có tổn thương nhu mô não chất trắng quanh não thất III.
Hình 6.4: Hình ảnh MRI ở bệnh nhân viêm TKT hậu cầu: TKT trái tăng cường
độ tín hiệu hơn TKT phải. Tổn thương nhu mô não chất trắng
• Điện thế gợi thị giác (VEP) : Là phương tiện quan trọng để đánh giá bệnh
nhân nghi ngờ viêm thần kinh thị và có thể có kết quả bất thường ngay cả
khi MRI của thần kinh thị bình thường. VEP thường cho thấy thời gian tiềm
phục kéo dài và biên độ giảm, mất đáp ứng P100 trong giai đoạn cấp và
Methylprednisolone tiêm tĩnh mạch 250mg × 4 lần/ngày trong 3 ngày đầu, sau
đó chuyển sang dạng uống 1mg/kg/ngày trong 11 ngày tiếp theo. Sau đó giảm
liều dần.
neuropathy = AION) là một nguyên nhân phổ biến của mờ mắt đột ngột thuộc
nhóm nguyên nhân do thần kinh thị ở người lớn tuổi. AION được chia thành 2
nhóm: nhóm không do viêm đông mạch (NAION) và nhóm do viêm động mạch
(AAION) có liên quan đến bệnh cảnh viêm đông mạch tế bào lớn (Giant cell
arteritis). Trong đó, nhóm không do viêm động mạch chiếm đến 95% các
trường hợp thiế ầ ước. Đặc điểm lâm sàng là mất thị lực đột
ngột với gai thị phù, đôi khi có xuất huyết hình ngọn lửa và xuất tiết xơ bông (H
1.5)
Hình 6.5 Phù đ ị trong NAION: đ ị phù lan toả, ở mức độ vừa phải
dạng phù xung huyết nhẹ, nhạ à có vài xuất huyết hình ngọn lửa cạnh
gai.
Cần phải phân biệt thiếu máu do viêm hay không do viêm dựa vào bảng sau:
Dấu hiệu khác ở mắt tắc động mạch TTVM, nhồi máu hắc
Dấu toàn thân cao huyết áp: 50 % đau đầu, suy nhược, giảm cân, đau các
Đ ứng với không Giảm những triệu chứng toàn thân, thị
Trong thì sớm, thường thấy hình ảnh khiếm khuyết đổ đầy của mạng mạch máu
gai thị phần trước lá sàng ( chậm hơn 5 giây so với bình thường ) hoặc khiếm
khuyết đổ đầy một vùng mao mạch hắc mạc cạnh gai (ít gặp hơn ). Trong thì
muộn, thường thấy hiện tượng đĩa thị tăng quang từng phần không đều.
• Điện thế gợi thị giác ( VEP ): Xét nghiệm này cho thấy có sự giảm biên độ
sóng trong khi thời gian tiềm phục lại bình thường.
1.5.4. Xử lý
• NAION: Chưa có điều trị nào được ghi nhận có hiệu quả đối với NAION.
Điều trị Corticoide liều uống hoặc tĩnh mạch không cho thấy hiệu quả
thể sử ốc cải thiện chuyển hóa của tế bào thần kinh gốc Piracetam
• AAION: Viêm động mạch thái dương là 1 bệnh lí cấp cứu. Thuốc điều trị
chính là corticoid.
Khởi đầu có thể dùng đường tĩnh mạch (500-2000mg/24h) sau đó chuyển
sang đường uống (60-80mg/ngày). Duy trì liều điều trị này cho đến khi tốc độ
lắng máu và CRP ổn định ở mức thấp, thường khoảng 2-3 tuần. Sau đó giảm
dần liều. Thời gian giảm liều thay đổi tuỳ theo từng bệnh nhân và chủ yếu dựa
vào tốc độ lắng máu và CRP, có thể kéo dài từ 1 đến vài năm sao cho đạt đến
liều duy trì thấp nhất (khoảng 7mg/ngày) nhưng vẫn giữ ổn định tốc độ lắng
trường trong suốt, ngăn cản tia sáng đến võng mạc. Vì nguyên nhân viêm, nên
ngoài biểu hiện mờ các triệu chứng đi kèm là đỏ mắt và đau nhức mắt. Các
bệnh lý thường gặp là viêm loét giác mạc, viêm màng bồ đào trước, glaucoma
Mất thị thị đột ngột hai mắt ít gặp, bệnh nguyên thông thường là mù võ não và
Mù vỏ não: là tình trạng bệnh nhân bị giảm thị lực đột ngột nghiêm trọng hoặc
mù hoàn toàn cả hai mắt trong khi đó phản xạ đồng tử và đáy mắt vẫn bình
thường. Nguyên nhân hay gặp nhất của mù vỏ não là nhồi máu thuỳ chẩm hai
bên và ít gặp hơn là do u nguyên phát hoặc di căn gây tổn thương hai thuỳ
chẩm. Để củng cố chẩn đoán cần chụp CTscan hoặc MRI sọ não đồng thời
khảo sát sự tưới máu của hệ động mạch cảnh hai bên, động mạch nền cấp máu
cho não sạu. nên phối hợp với chuyên khoa thần kinh để chẩn đoán và điều trị
Viêm thị thần kinh hai bên có bệnh cảnh lâm sàng giống như một bên nhưng ở
những trường hợp nầy, thị lực giảm từ từ trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng,
xảy ra ở một mắt hoặc hai mắt, giảm từ mức độ nhẹ cho đến nặng. Thông
thường, giảm thị lực từ từ không kèm đỏ mắt, không đau nhức mắt, nên trong
nhiều trường hợp, khi bệnh nhân đến gặp bác sĩ thì thị lực đã giảm sút nghiêm
trọng. Các nguyên nhân thường gặp là: tật khúc xạ, đục thuỷ tinh thể, glaucoma
2.1.1. Đại cương: Cận, viễn, loạn thị là các tật khúc xạ của mắt, là nguyên
nhân hàng đầu của mờ mắt từ từ đặc biệt là ở trẻ em. Triệu chứng chung của
tật khúc xạ là nhìn xa không rõ, hay mỏi mắt, nhức đầu. Đối với trẻ em, hay
nheo mắt, xốn mắt, cầm sách đọc quá gần, và than nhức mỏi mắt.
Là mắt có cấu tạo hài hòa giữa chiều dài trước sau của nhãn cầu và công suất
hội tụ của mắt. Khi đó ảnh cuả một vật ở vô cực (quang sinh lí là 5m) sẽ hội tụ
đúng trên võng mạc. Nghĩa là tiêu điểm sau trùng với võng mạc. Lúc đó người
sáng song song vào mắt sẽ hội tụ trước võng mạc. Nói cách khác, mắt cận thị
có tiêu điểm sau trước võng mạc, do đó, ảnh trên võng mạc sẽ mờ đi.
Hình 6.6: mắt cận thị, ảnh hội tụ trước võng mạc
- Cận thị trục (cận thị đơn thuần) như đã nói trên, là sự mất quân bình giữa
chiều dài của mắt và lực khúc xạ của nó. Nhưng 2 chỉ số nầy vẫn nằm trong
giới hạn bình thường. Đây là loại cận thị thường gặp, bắt đầu ở lứa tuổi đi học,
nhỏ hơn 6 độ, không có những tổn thương thực thể ở mắt.
- Cận thị bệnh lí: chiều dài của mắt quá giới hạn bình thường. Cận trên 6 độ có
sáng vào mắt sẽ hội tụ sau võng mạc. Nghĩa là tiêu điểm sau nằm sau võng
Nguyên nhân phổ biến của viễn thị là trục nhãn cầu ngắn. Ở trẻ em mới sinh
thường có một độ viễn thị nhẹ từ 2 – 3 độ. Trong quá trình phát triển cùng với
sự trưởng thành của cơ thể, nhãn cầu cũng dài thêm ra, mắt sẽ trở thành chính
thị. Nếu sự phát triển này không trọn vẹn sẽ gây nên viễn thị.
Là mắt có hệ quang học không phải là lưỡng chất cầu. Nghĩa là bề mặt giác
mạc không phải đồng nhất hình cầu mà có những kinh tuyến với các đường
kính khác nhau. Do đó ảnh của một điểm qua hệ quang học nầy không phải một
điểm mà là một đường thẳng. Mắt loạn thị có thể đi cùng với cận và viễn thị.
Điều chỉnh kính cho mắt loạn thị phức tạp hơn so với mắt cận và viễn.
Chẩn đoán tật khúc xạ dựa vào đo khúc xạ chủ quan và khách quan.
- Đeo kính gọng: là phương pháp đơn giản, ít tốn kém và an toàn nhất. Nó được
Có đỏ mắt , Không đỏ
Đau mắt mắt, không
đau mắt
Viêm giác mạc: soi đáy mắt Thấy rõ đáy
có tổn thương không được mắt
giác mạc tối đen
Viêm mống Xuất huyết dịch Bong võng Bệnh mạch máu Bệnh thần kinh
mắt thể mi: kính võng mạc thị
mạc
đồng tử co nhỏ,
dính trước,
Glaucoma cấp: Tắc động mạch Viêm thị
đồng tử giãn to trung tâm võng
thần kinh
phù giác mạc, mạc
tiền phòng nông
Tắc tĩnh mạch Thiếu máu
trung tâm thị thần kinh
- Mang kính tiếp xúc (contact lens): Trong trường hợp không muốn mangtrước
võng mạc
kính
gọng, không muốn hoặc không có chỉ định mổ, có thể mang kính tiếp xúc.
- Phẫu thuật: Được chỉ định cho những trường hợp vì lí do nghề nghiệp hay lí do
gì đó mà không muốn mang kính gọng hoặc kính tiếp xúc. Hiện nay phương
pháp mổ bằng laser (LASIK) cho kết quả rất tốt.Tuy phương pháp này chỉ được
áp dụng cho trẻ lớn hơn 18 tuổi khi mà độ khúc xạ của trẻ ổn định.
2.2.1. Đại cương: đục thể thuỷ tinh là hiện tượng mất trong suốt của thấu kính
(thể thuỷ tinh), do đó ngăn không cho ánh sáng hội tụ vào võng mạc, gây mờ
mắt từ từ. Đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân gây mù loà hàng đầu trên thế giới
chấn thương mắt, đái tháo đường, sử dụng corticosteroid, các biến chứng của
Dựa vào các triệu chứng giảm thị lực từ từ và tuỳ theo mức độ đục thuỷ tinh
thể mà thị lực giảm nhiều hoặc ít, chói mắt khi ra nắng, giả cận thị. Nhỏ giãn
đồng tử, khám thuỷ tinh thể qua sinh hiển vi sẽ biết được hình thái đục ( đục
võ, đục nhân, đục dưới bao) hoặc độ cứng nhân (độ I, II, III, IV, V)
tinh thể đục được lấy ra và thay vào đó là một thấu kính nhân tạo có độ hội tụ
tương đương. Hiện nay mổ đục thuỷ tinh thể bằng phương pháp phaco là hiện
đại nhất. Thị lực sau mổ phục hồi nhanh ngay ngày hôm sau, bệnh nhân có thể
về trong ngày.
tiến triển mạn tính ở người lớn tuổi có tăng áp lực nội nhãn và các yếu tố chưa
được biết khác góp phần làm tổn hại thị thần kinh. Áp lực nội nhãn tăng do
giảm thoát lưu thuỷ dịch qua lưới bè mặc dù góc tiền phòng mở. Glaucoma góc
mở là một trong những nguyên gây mù hàng đầu ở các nước phát triển.
2.3.2. Yếu tố nguy cơ: nhiều yếu tố nguy cơ đã được xác định, để bao gồm:
tăng nhãn áp, tiền sử gia đình, chủng tộc, tuổi trên 40, và cận thị.
Hình 6.8: lõm gai tiến triển trong glaucoma góc mở.
2.3.4. Xử lý
Mục tiêu của điều trị là (1) ổn định tình trạng thần kinh thị và lớp sợi thần kinh
võng mạc (2) điều chỉnh nhãn áp (3) ổn định thị trường. điều trị nội khoa và
2.3.4.1. Điều trị nội khoa: Các thuốc thường dùng nhất là prostaglandin analogs
Betoptic-S 0.25%, 0.5% nhỏ tại chổ, các thuốc ít dùng hơn là alpha 2 adrenergic
2.3.4.2. Phẫu thuật: Chuyển tuyến trên để phẫu thuật: mở bè bằng laser (Argon
2.3.4.3. Theo dõi: cần phải có chế độ theo dõi chặc chẽ lâu dài về nhãn áp, sự
tổn thương thị thần kinh theo chương trình theo dõi, quản lý bệnh glaucoma
Sơ đồ 6.1 :Phân tích chẩn đoán mất thị lực đột ngột
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Câu 1: Nguyên nhân giảm thị lực đột ngột một mắt, không đỏ, không đau
thường là: ngoại trừ:
a. Xuất huyết pha lê thể
d. Thiếu máu thị thần kinh do viêm động mạch tế bào lớn
Câu 2: Nguyên nhân giảm thị lực đột ngột một mắt, kèm đỏ mắt, đau nhức
thường là: ngoại trừ:
a. Bệnh glôcôm cấp
Câu 3: Một bệnh nhân bị mất tuyệt đối thị lực 2 mắt, đáy mắt hoàn toàn bình
thường,
Còn phản xạ ánh sáng nghĩ tới:
a. Mù võ não
Câu 5: Mất thị lực đột ngột một mắt, khám mắt bình thường, nên nghĩ đến
a. Viêm thị thần kinh hậu cầu
b. U tuyến yên
c. Thiếu máu sau thị thần kinh
d. Tất cả đúng
1. Giả u não
a. 1, 2, 3 đúng.
b. 1, 2, 4 đúng
c. 2, 3, 4 đúng
d. Tất cả đúng
7
CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ LÝ ĐỎ MẮT
2. Biết phân loại, chẩn đóan và xử lý viêm kết mạc trên lâm sàng.
3. Biết phân loại, chẩn đóan và xử lý viêm kết mạc trên lâm sàng.
1. ĐẠI CƯƠNG:
Đỏ mắt là biểu hiện mắt đỏ khi mở do sự giãn các mạch máu nông của
bề mặt nhãn cầu, có bệnh nguyên từ viêm, nhiễm trùng, dị ứng, tăng nhãn áp.
Những nguyên nhân thông thường nhất gây đỏ mắt là: (1) viêm kết mạc, (2)
viêm, loét giác mạc, (3) viêm màng bồ đào trước (4) tăng nhãn áp cấp tính (5)
các bệnh lý khác như: viêm củng mạc, thượng củng mạc, viêm nhiễm bờ mi,
viêm lệ đạo, viêm hốc mắt, dị vật giác mạc, dị vật kết mạc…
Về hình thái, người ta phân biệt hai loại đỏ là cương tụ ngoại vi, do sự
giãn nở hệ thống mạch máu kết mạc nông, thường gặp trong viêm kết mạc đơn
thuần, và cương tụ rìa, do sự giãn hệ kết mạc thể mi trước, nằm sâu hơn,
thường do viêm mống mắt thể mi, viêm giác mạc, tăng nhãn áp cấp. Tuy nhiên,
trên lâm sàng đôi khi khó phân biệt ranh giới giữa 2 loại cương tụ trên.
Người thầy thuốc khi tiếp cận với bệnh nhân bị đỏ mắt, bước đầu tiên là
phải xác định rõ đỏ mắt do tổn thương phần nào của nhãn cầu (kết mạc, giác
mạc, bờ mi, mống mắt…) bước tiếp theo là chẩn đoán xác định và chẩn đoán
nguyên nhân (ví dụ viêm kết mạc do vi rus hay viêm mống mắt …). Bệnh nhân
đỏ mắt thường đi kèm với các triệu chứng khác như mờ mắt, đau nhức mắt, sợ
ánh sáng…Để có chẩn đoán chính xác cần phải hỏi bệnh sử, khám kỹ các
thành phần từ kết mạc, bờ mi, giác mạc, tiền phòng, mống mắt…để thu thập
triệu chứng, hình thành chẩn đoán sơ bộ, nếu cần cho xét nghiệm thích hợp để
thiết lập chẩn đoán xác định..Sau đây mô tả qui trình chẩn đoán và xử lý các
2.1. Đại cương: viêm kết mạc (VKM) là một tình trạng viêm nguyên phát của
kết mạc đặc trưng bởi sự giãn mạch, thẩm lậu tế bào và xuất tiết. Trong hầu
hết các trường hợp viêm kết mạc tự khỏi, nhưng một số trường hợp tiến triển
nặng, gây nhiều biến chứng nội ngoại nhãn nghiêm trọng.
2.2. Phân loại: Có thể phân loại theo nguyên nhân (nhiễm trùng, không nhiễm
• VKM cấp là viêm kết mạc khởi phát đột ngột, kéo dài ít hơn 4 tuần.
• VKM dị ứng (VKM mùa xuân, VKM dị ứng theo mùa, VKM tiếp
2.3. Chẩn đoán: Chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm sàng của từng loại viêm
kết mạc. Nhuộm gram và nuôi cấy chỉ được thực hiện khi nghi ngờ viêm kết
mạc nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh hoặc viêm kết mạc mãn tính tái diễn.
2.3.1. Viêm kết mạc virus:: Khởi phát đột ngột, một hoặc hai mắt với đỏ mắt
kiểu cương tụ ngoại vi), phù kết mạc, phù mi, chảy nước mắt trong, không có
ghèn, phản ứng hột ở kết mạc sụn mi dưới. Ngoài ra các dấu chứng đặc trưng
Với adenoviral: Có hạch, xuất huyết dưới kết mạc, viêm giác mạc chấm biểu
Với herpes simplex virus: mụn nước hoặc loét da mi, viêm giác mạc hình cành
Với Varicella (herpes) zoster virus: mụn nước hoặc loét da mi một bên
2.3.2. Viêm kết mạc vi trùng: Thường một bên, Sung huyết kết mạc nhãn cầu,
có mủ hoặc ghèn nhiều. Đối với VKM lậu cầu: một bên hoặc hai bên, sung
huyết kết mạc, phù mi và ghèn, mủ nhiều. Thẩm lậu hoặc loét giác mạc là dấu
VKM do Clammydia ở người lớn: sung huyết kết mạc nhãn cầu, phản ứng hột ở
kết mạc sụn, màng máu giác mạc, viêm giác mạc chấm biểu mô.
• VKM dị ứng theo mùa: Hai mắt, ngứa mắt, đỏ, phù kết mạc, chảy
• VKM mùa xuân: Hai mắt, ngứa, đỏ, nhú khổng lồ kết mạc sụn mi
trên, chảy nước mắt trong hoặc nhầy, tróc biểu mô giác mạc; sẹo, tân
thích như mang kính sát tròng, bụi, khói…Chẩn đoán thường là loại trừ.
2.4. Điều trị: Tuỳ theo nguyên nhân, tránh lạm dụng kháng sinh (sẽ gây độc kết
giác mạc) và corticoteroid (gây kéo dài viêm kết mạc adenoviral, làm nặng
thêm nhiễm herpes simplex). Nếu corticosteroid được dùng trong viêm kết mạc
mãn tính tái diễn cần chú ý theo dõi biến chứng tăng áp và đục thuỷ tinh thể.
2.4.1. Viêm kết mạc dị ứng: Có thể dùng kháng histamin H1, co mạch (Opcon-
hoặc thuốc kết hợp kháng histamin và ổn định dưỡng bào (Astelin, Optivar,
Elestat …). Nếu các triệu chứng không cải thiện sau 1 – 2 tuần, có thể dùng
2.4.2. Viêm kết mạc do adenovirus: không có điều trị kháng virus đặc hiệu, tuy
nhiên có thể dùng nước mắt nhân tạo, kháng histamin, chườm lạnh để giảm
triệu chứng. Corticosteroid nhỏ có thể làm giảm triệu chứng, bớt sẹo trong
những trường hợp viêm kết giác mạc nặng, tuy nhiên cần phải theo dõi chặt
2.4.3. Viêm kết mạc do herpes simplex virus: Dùng kháng virus: trifluridine 1%
nhỏ 5 – 8 lần/ ngày (không quá 2 tuần vì có thể độc giác mạc). Uống acyclovir
tác dụng điều trị. Đối với người suy giảm miễn dịch, dùng acyclovir 800mg, 5
lần/ngày trong 7 ngày. Có thể dùng kháng sinh để dự phòng bội nhiễm.
2.4.5. Viêm kết mạc vi trùng: Đối với những VKM nhẹ thường tự khỏi. Sử
dụng kháng sinh trong những trường hợp nầy là theo kinh nghiệm. Một liệu
trình kháng sinh phổ rộng 5 -7 ngày thường được chọn. Đối với các VKM nặng
cần phải nhuộm gram, nuôi cấy, và chọn kháng sinh theo sự hướng dẫn của kết
quả nuôi cấy sau khi đã dùng liệu pháp kháng sinh ban đầu. đối với VKM do
clamydia có thể dùng azithromycin 1g liều duy nhất hoặc doxycycline 100mg x2
3.1. Đại cương: Viêm loét giác mạc là một quá trình viêm, sau đó là loét ở
giác mạc, thường do vi trùng hoặc nấm. (Viêm giác mạc do hespes simplex
virus có dạng lâm sàng đặc thù riêng và ít gặp hơn sẽ trình bày riêng) Bất cứ
nguyên nhân nào làm mất sự toàn vẹn của biểu mô và / hoặc bất thường film
nước mắt cho phép vi trùng xâm nhập vào nhu mô, tăng sinh và phát triển có
thể gây nên loét nhu mô, áp-xe trong nhu mô, phù nhu mô và phản ứng viêm
3.2.1. Ngoại lai: Chấn thương mắt, phẫu thuật mắt, mang contact lens, nhỏ mắt
corticosteroid…
• Các bệnh toàn thân: Đái tháo đường, suy giảm miễn dịch, thiếu vitamin
A…
• Tại mắt: Các bất thường của film nước mắt, hở mi, lộn mi, quặm mi, các
nhiễm trùng phần phụ mắt, các bất thường của biểu mô giác mạc…
3.3.1. Triệu chứng cơ năng: Mờ mắt, đau nhức mắt, cộm, xốn, sợ ánh sáng,
• Sung huyết kết mạc kiểu cương tụ rìa (đỏ mắt), phù kết mạc, có thể phù
mi.
• Giác mạc: khuyết biểu mô, thẩm lậu nhu mô tăng dần, nếp gấp ở màng
descemet, gia tăng phản ứng tiền phòng, có hoặc không có mủ tiền
• Trên đây mô tả triệu chứng VGM chung. Đối với nấm, tổn thương giác
mạc thường có bờ mượt, mép tổn thương gồ lên so với bề mặt giác mạc
lành, cấu trúc thô, sắc tố xám nâu, xung quanh có thể có tổn thương vệ
tinh.
3.3.3. Xét nghiệm: Bởi vì các triệu chứng lâm sàng là không đặc hiệu để phân
biệt nguyên nhân của viêm loét giác mạc, nên trong những trường hợp nghi ngờ
nấm, hoặc viêm thẩm lậu giác mạc trung bình, hoặc sâu với diện tích tổn
thương giác mạc tương đối, cần phải làm thêm xét nghiệm.
• Soi tươi: Cho kết quả nhanh về nấm. các loại nấm thường gặp là
• Nhuộm gram: dùng tốt nhất cho vi khuẩn phân biệt gram âm, gram
dương, kết quả có sau 5 phút. Cũng có thể thấy nấm (độ nhạy 50%).
Nhuộm giemsa: có thể thấy vi khuẩn, nấm, clamydia. Cho kết quả sau 2
phút.
• Nuôi cấy và kháng sinh đồ: là phương tiện để định danh vi trùng gây
bệnh và độ nhạy của kháng sinh. Các chủng gram dương thường gặp là
Moraxella species…
• Có thể nuôi cấy lại sau 12 giờ ngừng kháng sinh nếu kết quả nuôi cấy
Kháng sinh nhỏ với khả năng thấm tốt vào giác mạc là đường dùng chủ yếu, có
thể tiêm dưới kết mạc. Kháng sinh ban đầu thường dùng theo kinh nghiệm có
Vi trùng Kháng sinh Nồng độ (nhỏ) Tiêm dưới
kết mạc
(ciprofloxacin)
phổ rộng như bảng 1. Đối với những trường hợp nặng (loét trung tâm, tổn
thương sâu, rộng hơn 2mm…) nên dùng liều tấn công cứ mỗi 5 – 15 phút nhỏ 1
giọt trong 3 giờ đầu, sau đó mỗi 30 – 60 phút nhỏ 1 giọt. Giãn đồng tử (atropin
1% 1giọt x 2 lần/ngày) cũng được dùng để chống dính mống và giảm đau.
Bảng 7.1 Kháng sinh điều trị ban đầu cho viêm giác mạc vi trùng (
• Điều trị sau khi có kết quả nuôi cấy:. nếu bệnh nhân cải thiện sau điều trị
ban đầu, không cần phải thay đổi điều trị theo kháng sinh đồ. Tuy nhiên sự
phối hợp kháng sinh ban đầu để tạo một phổ diệt khuẩn rộng có thể trở nên
không cần thiết một khi vi trùng gây bệnh đã được phân lập. Trong trường
hợp lâm sàng không cải thiện với điều trị ban đầu, nên dùng kháng sinh theo
chỉ dẫn của kết quả nuôi cấy và kháng sinh đồ.
bào bằng cách gắn vào thành tế bào nấm, có hiệu quả đối với cả hai dạng
Amphotericin B, dù xâm nhập mô mắt kém, là loại thuốc được lựa chọn
để điều trị viêm giác mạc do nấm men. Ngoài ra, nó có hiệu quả chống lại
nhiều loại nấm sợi nhỏ. Cách dùng: là nhỏ 1 giọt/mỗi 30 phút trong 24 giờ đầu
tiên, mỗi giờ 1 giọt trong 24 giờ thứ hai, và sau đó là từ từ giảm dần theo các
Natamycin chỉ có dạng huyền dịch nhỏ mắt., có hiệu quả tốt chống nấm
sợi, đặc biệt Fusarium. Tuy nhiên, do sự xâm nhập mắt kém, nó có chủ yếu
được hữu ích trong trường hợp với nhiễm trùng giác mạc bề ngoài.
• Các Azoles (imidazoles và triazoles) bao gồm ketoconazole, miconazole,
ketoconazole uống được hấp thu vào máu và đạt nồng độ tốt trong tiền
phòng giác mạc vì vậy cần được xem xét trong việc điều trị viêm giác mạc
do nấm sâu.
Liều lượng dành cho người lớn của ketoconazole là 200-400 mg / ngày,
có thể được tăng lên đến 800 mg / ngày Tuy nhiên, do các hiệu ứng phụ, tăng
liều nên được thực hiện cẩn thận.. Vai trò tiềm năng của itraconazole trong
điều trị viêm giác mạc do nấm vẫn còn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, nó có thể hổ
trợ hữu ích trong điều trị viêm giác mạc nấm.
4.1. Đại cương: HSV là một virus DNA thường ảnh hưởng đến con người.
Nhiễm trùng xảy ra do tiếp xúc trực tiếp da hoặc niêm mạc tổn thương chứa
virus hoặc tiết. HSV type 1 (HSV-1) là chủ yếu chịu trách nhiệm nhiễm trùng
miệng mặt và mắt, trong khi HSV type 2 (HSV-2) thường là nguyên nhân lây
Nhiễm HSV-1 nguyên phát xảy ra phổ biến nhất ở da, niêm mạc chịu sự phân
phối của các dây thần kinh sinh ba, thường không có triệu chứng hoặc biểu hiện
như một nhiễm trùng hô hấp trên không đặc hiệu. Sau đó, vi rút lây lan từ các
tế bào biểu mô bị nhiễm bệnh đến dây thần kinh cảm giác ở gần đó và được
vận chuyển dọc theo sợi trục dây thần kinh đến hạch sinh ba. Ở đó, bộ gen virus
đi vào nhân của tế bào thần kinh, nơi mà nó vẫn tồn tại vô thời hạn ở trong
trạng thái tiềm ẩn. Nhiễm trùng nguyên phát của bất kỳ nhánh nào của dây V
(nhánh mắt, hàm trên, hàm dưới), có thể dẫn đến nhiễm trùng tiềm ẩn của các
tế bào thần kinh trong hạch sinh ba. Sự lây lan của HSV trong hạch làm phát
triển các dạng lâm sàng của nhiễm HSV mắt ngay mà không nhất thiết phải
Nhiễm HSV thứ phát được coi là sự kích hoạt của virus trong các hạch thần
kinh sinh ba, di chuyển theo các sợi trục thần kinh đến giác mạc.
4.2.1. Viêm giác mạc biểu mô: đặc trưng bởi viêm giác mạc hình cành cây,
4.2.3. Viêm giác mạc nội mô: điển hình là VGM hình đĩa
H 7.7: Viêm giác mạc nội mô hình đĩa với loét nhu mô thứ phát.
4.3.1. VGM biểu mô: Tất cả các trường hợp nầy đều tự khỏi sau 3 tuần nhưng
cần phải điều trị kháng virus để giảm tổn thương nhu mô và giảm tạo sẹo.
lần/ngày trong 10 – 14 ngày. Acyclovir 2g/ngày uống có hiệu quả tương đương
4.3.2. VGM nhu mô và nội mô: dùng kháng virus phối hợp corticosteroid.
5.1. Đại cương: Viêm màng bồ đào (VMBĐ) trước: tức là viêm mống mắt và /
hoặc thể mi. VMBĐ trước là thể thường gặp nhất trong các viêm nội nhãn.
Nguyên nhân thường là vô căn, các nguyên nhân khác bao gồm hội chứng
HLA-B27, sau chấn thương, phẫu thuật nội nhãn, nhiễm trùng: herpes simplex
Ngày nay, VMBĐ nói chung và VMBĐ trước nói riêng ngày càng rõ là một
biểu hiện ở mắt của một bệnh lý đa cơ quan. Mặc dù ở một số bệnh, VMBĐ chỉ
biểu hiện đơn độc một như là một hiện tượng miễn dịch khu trú ở mắt, nhưng
trong nhiều bệnh khác, VMBĐ là một biểu hiện ở mắt trong một bệnh lý toàn
thân như hội chứng HLA-B27, viêm mống mắt thể mi liên quan với viêm khớp
thiếu niên…
• Triệu chứng cơ năng: Đau, đỏ mắt, sợ ánh sáng là các biểu hiện thường
• Thực thể: Quan trọng là các dấu chứng biểu hiện viêm ở mống mắt, thể mi
quan sát được trong tiền phòng bao gồm fibrin, tyndall, mủ tiền phòng, lắng
5.2.2. Chẩn đoán nguyên nhân: Làm thêm các xét nghiệm:
• HLA-B27 là một gen nằm trên cánh ngắn NST số 6 và thường phối hợp với
viêm cột sống cứng khớp, viêm khớp phản ứng (hội chứng Rieter), bệnh
viêm ruột (inflammatory bowel disease), viêm khớp vảy nến (psoriatic
arthritis). HLA-B27 có trên 1,4 – 8% dân số bình thường, tuy nhiên trong dân
• Các xét nghiệm tối thiểu khác: Công thức máu, tổng phân tích nước tiểu,
Bảng 7.2: Tiếp cận chẩn đoán nguyên nhân VMBĐ trước
Lâm sàng Triệu chứng liên
Bệnh nghi ngờ Xét nghiệm bổ sung
VMBĐ quan
Khởi phát cấp, Viêm khớp, đau Hội chứng HLA-B27 HLA-B27, X quang
CS lưng
nặng, có hoặc lưng, các triệu
Không
Đau, đỏ trung bình Khó thở, nốt trên da Sarcoidosis (hiếm Serum ACE tăng ,
Mãn tính, đau đỏ Trẻ em, viêm khớp Viêm mống mắt thể Antinuclear antibody
(ANA), VSS
nhẹ Lắng đọng dạng mi liên quan JIA
Không
ngôi sao Viêm mống mắt thể
mi dị sắc Fuchs
5.3. Điều trị: Corticosteroid và giãn đồng tử nhỏ mắt là hai thuốc chủ yếu trong
điều trị VMBĐ trước. Prednisolone acetat 1% (pred forte) thường được sử dụng.
liều lượng tuỳ theo mức độ viêm, từ nhỏ hàng giờ đến vài lần / ngày. Có thể sử
dụng thêm corticosteroid tòan thân liều thấp đến trung bình từ 1 – 3 tuần tùy
theo mức độ nặng của bệnh. Các thuốc nhỏ giãn đồng tử thường dùng là:
cyclopentolate (tác dụng ngắn) và atropin (tác dụng dài). Chúng có tác dụng
giảm co thắt cơ thể mi (giảm đau, giảm sợ ánh sáng) và chống dính mống.
6.1. Đại cương: glaucoma góc đóng là tình trạng mống mắt áp vào lưới bè tại
góc tiền phòng làm cho thuỷ dịch không thể thoát ra ngoài mắt dẫn đến tăng áp
lực nội nhãn. Nếu sự đóng góc xảy ra đột ngột các triệu chứng (đỏ mắt, mờ
mắt, đau nhức mắt, nôn mữa…) sẽ xuất hiện cấp tính và nặng nề, trong trường
hợp nầy bệnh nhân cần phải được điều trị khẩn cấp để bảo tồn thị lực. Nếu sự
đóng góc xảy ra từng lúc hoặc từ từ glaucoma góc đóng dễ lầm với glaucoma
6.2.1. Triệu chứng cơ năng: Đau nhức mắt, đau nửa đầu cùng bên, mờ mắt
phòng hẹp, đồng tử giãn to, lười hoặc mất phản xạ ánh sáng. Nhãn áp tăng
6.3.1. Điều trị nội khoa: Trong cơn glaucoma góc đóng cấp, điều trị nội khoa
phải được thực hiện trước để làm hạ nhãn áp, giảm đau, bớt phù giác mạc,
nhằm chuẩn bị cho phẫu thuật. các thuốc thường dùng là:
• Trường hợp nhãn áp quá cao có thể dùng lợi niệu thẩm thấu (manitol)
tĩnh mạch.
6.3.2. Điều trị phẫu thuật: Điều trị triệt để glaucoma góc đóng nguyên phát là
phẫu thuật (cắt mống chu biên ). Điều nầy cho phép loại trừ nghẽn đồng tử và
loại trừ sự chênh lệch áp lực giữa tiền phòng và hậu phòng. Nếu không cắt
mống chu biên bằng laer được và dính góc nhiều phải phẫu thuật cắt bè củng
mạc. Mắt còn lại của các bệnh nhân nầy nếu hẹp tiền phòng nên được cắt
mống chu biên laser dự phòng sự bùng phát cơn glaucoma cấptrong tương lai.
3. Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược TP. HCM (2007), Nhãn Khoa Lâm Sàng,