You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

…………o0o…………

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN
TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thu Huyền

Mã SV: 2211410075

Lớp Anh 03, Khối 1 Kinh tế quốc tế, Khóa 61

Lớp tín chỉ: TRI114(GD2-HK2-2223).6

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang


Hà Nội – 05/2023

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………...1
NỘI
DUNG…………………………………………………………………....3
1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến…………………………………
3
1.1 Khái quát về phép biện chứng duy
vật……………………………….....3
1.2 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến………………………………...........3
1.2.1 Khái niệm……………………………………………………………………3
1.2.2 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến………………………………….4
1.3 Ý nghĩa phương pháp
luận……………………………………………...5
2. Mối liên hệ giữa về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế………………………………………………...........6

2.1 Lý luận chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc
tế…………………………………………………………...6

2.1.1 Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ……………………………………6


2.1.2 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế……………………………………...7
2.1.3 Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế
hiệu quả ………………………………………………………………………………..8
2.2 Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta hiện
nay…………………………………………............9
2.2.1 Thực trạng ………………………………………………………………….9
2.2.2 Một số giải pháp, kiến nghị………………………………………………
11
KẾT LUẬN……………………………………………………………….....14
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….…15
LỜI MỞ ĐẦU
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, cách đây hàng nghìn năm đã có sự trao đổi hàng
hóa trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Đến khi chủ nghĩa tư
bản ngày càng phát triển thì lượng hàng hóa trao đổi trong nước và giữa các
quốc gia ngày càng tăng, chính vì vậy sự phụ thuộc về mặt kinh tế giữa các
quốc gia ngày càng chặt chẽ hơn.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ
bão nhờ thế mà các quốc gia, các cá nhân, các doanh nghiệp dễ dàng học tập,
trao đổi với nhau tạo nên sự đan xen đa chiều, vừa ảnh hưởng, vừa phụ thuộc
vào nhau. Dần dần, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng trở nên rõ
nét và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với các quốc
gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, thuật
ngữ hội nhập xuất hiện trong bối cảnh nước ta thúc đẩy mạnh mẽ chính sách
mở cửa, đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế.
Thuật ngữ hội nhập bắt đầu được Đảng ta sử dụng đầu tiên trong Văn kiện Đại
hội VIII của Đảng (1996): ''Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu
vực và thế giới''; Đến Đại hội IX của Đảng, thuật ngữ này được nhấn mạnh:
''Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy t ối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa...'' và được sử dụng phổ biến trong các văn kiện khác
về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây cũng là quan điểm, chủ trương lớn trong
chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay, nhất là sau hai năm COVID-19, Việt Nam đang là
điểm đến lý tưởng mới đối với các nhà đầu tư quốc tế. Nhưng làm sao để vừa
hội nhập tốt mà lại đảm bảo được quyền lợi chủ quyền? Việc đặt vấn đề xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập là hoàn toàn đúng đắn.
Hai vấn đề này có mối liên hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ nhau nhằm phát

1
triển kinh tế Việt Nam theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trên cơ sở đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Phép biện chứng về mối liên hệ
phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu.
Vậy phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến là gì, vi ệc xây d ựng n ền kinh t ế
độc lập tự chủ có mối quan hệ biện chứng với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế như thế nào, tôi xin được trình bày vấn đề này theo các khía cạnh dưới đây.
Đề tài nghiên cứu này đặt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế từ
những thập niên cuối của thế kỉ XX đến nay, những cơ hội và thách thức trong
quá trình toàn cầu hóa từ đó đề ra những giải pháp phù hợp thúc đẩy tư duy
kinh tế độc lập tự chủ trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để
xác định đúng đắn các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, để hội nhập là
quá trình “hòa nhập chứ không hòa tan”.

Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì tiểu luận có
kết cấu hai phần: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và mối liên hệ giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

2
NỘI DUNG

1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến

1.1 Khái quát về phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ th ống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với ngh ĩa nh ư v ậy,
phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập v ới
phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của th ế gi ới trong
trạng thái cô lập và bất biến.

Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình th ức c ơ b ản, trong đó
giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sang tạo nên phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác –Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem
là khoa học nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị, sâu sắc
nhất và không phiến diện. Phép biện chứng duy vật được xây d ựng trên c ơ s ở
một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ
biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên
hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nh ất. Vì th ế
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa h ọc
về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, c ủa
xã hội loài người và của tư duy.

1.2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

1.2.1 Khái niệm

3
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, tác động, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một
sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Trong
đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế
giới. Ví dụ: Mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là
mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có
tính chất đặc thù tuỳ theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm.
Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị trường hàng hoá, không thể không nghiên
cứu những tính chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì
chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối quan hệ cung cầu.

1.2.2 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ gồm ba tính
chất cơ bản là tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

Các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng của thế giới có tính khách quan, Sự quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng là cái vốn có, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chỉ con người,
con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt
động thực tiễn của mình.

Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ: không có bất cứ sự vật, hiện
tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng
hay quá trình khác; đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào
không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với
những mối liên hệ bên trong của nó, tức là, ngay trong cùng một sự vật, hiện
4
tượng thì bất kì một thành phần, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với
những thành phần, yếu tố khác.

Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin còn nhấn mạnh tính đa
dạng, phong phú của các mối liên hệ, biểu hiện như sau: sự vật, hiện tượng,
quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai
trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối
liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở
những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì
cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Mối liên hệ có thể chia thành
nhiều loại: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ
yếu, mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp,....

1.3 Ý nghĩa phương pháp luận

Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa phương
pháp luận như sau:

a. Quan điểm toàn diện

Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, tính phổ biến
nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn
trọng quan điểm toàn diện, tránh cách xem xét phiến diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện tượng trong
mối liên hệ phổ biến qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt
của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với những sự vật
khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó
mới có thể nhận thức đúng sự vật. Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn

5
nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp
phù hợp, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.

b. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tốn trọng
quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi nhận thức và
xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính
chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau
trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ
cụ thể trong từng tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng
đắn và có hiệu quả trong việc xử lí các vấn đề thực tiễn.

2. Mối liên hệ giữa về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế

2.1 Lý luận chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1 Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là
một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu
mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản
xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng
cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn
tại trong một quốc gia toàn diện về mọi mặt, không cần trao đổi với nước
khác.

6
Độc lập, tự chủ về kinh tế trước hết và quan trọng nhất là về đường lối, chính
sách, luật pháp kinh tế được xây dựng thành hệ thống hoàn chỉnh đặt trên căn
bản lợi ích dân tộc hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”; trên cơ sở đó xây dựng nền kinh tế ngày càng hiện
đại thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có năng lực cạnh
tranh cao, đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng lớn.
Độc lập, tự chủ về chính trị là điều kiện tiền đề xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ. Ngược lại, độc lập, tự chủ về kinh tế là điều kiện bảo đảm độc lập, tự
chủ về chính trị, bởi một quốc gia đói nghèo, thường xuyên phải dựa vào viện
trợ quốc tế, thì khó có thể giữ vững được độc lập, tự chủ về chính trị.
2.1.2 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế những thập niên qua là thuật ngữ xuất hiện khá nhiều trong
đời sống kinh tế - chính trị ở nước ta. Hội nhập quốc tế được hiểu như quá
trình
mở cửa tham gia đời sống kinh tế - chính trị quốc tế, cũng như quá trình thế
giới
đến với Việt Nam, nghĩa là chúng ta vươn ra gắn bó sâu, rộng với thế giới và
ngược lại.
Hội nhập được triển khai trên nhiều lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là lĩnh
vực có sự phát triển sôi động hơn cả. Hội nhập kinh tế quốc tế được xem là sự
phát triển cao của phân công lao động quốc tế; là quá trình phối hợp mang tính
chất liên quốc gia giữa các nước độc lập, có chủ quyền trong một hay nhiều
hiệp định kinh tế - thương mại.
Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp
tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo
các nguyên tắc, quy định chung.

7
Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay là không chỉ đơn
thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng cho tất
cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế-thương mại, nhằm mục tiêu
mở rộng thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và
vô hình đối với trao đổi thương mại quốc tế.

2.1.3 Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế
hiệu quả
Từ thực tiễn quá trình phát triển nền kinh tế đất nước đã cho thấy xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là
hoàn toàn đúng đắn và kịp thời. Khi xem xét việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, không thể tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế quốc tế. Có như vậy,
mới có thể nắm được thực chất của vấn đề, tránh được những cách nghĩ phiến
diện một chiều. Về cơ bản, độc lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hoá, hoạt động liên doanh, liên kết rất đa dạng như
hiện nay, thì lại càng phải giữ vững tính độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ cần bảo đảm độc lập tựchủ vững chắc về chính trị, bảo đảm
phát triển bền vững và có hiệu quả ngay cho chính nền kinh tế, cho việc mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là để
không bị lệ thuộc vào nước khác, hoặc một nền kinh tế nào đó để áp đặt,
khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích của dân tộc. Có nền kinh
tế độc lập tự chủ, trước những biến động của thị trường, trước sự khủng hoảng
tài chính ở bên ngoài, một nền kinh tế mới có thể duy trì được sự ổn định và
phát triển.
Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc với tính cách
là một chủ thể chính trị - pháp lý. Bởi vậy, nó trở thành một trong những
nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, cả trên bình
diện đối nội và đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự tham gia của quốc gia,
8
dân tộc vào quá trình toàn cầu hóa với tính cách là một xu thế lịch sử trong thế
giới hiện đại. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều mang tính khách quan,
phản ánh những tất yếu của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Mặt
khác, giữ vững
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế lại là các hoạt động của nhà nước, cho nên,
sự thành bại của chúng lại phụ thuộc trước hết vào chế độ xã hội, đảng cầm
quyền và chính quyền ở mỗi nước. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự chủ và tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế là phương thức hành động đúng đắn, được
đảm bảo bởi tính khách quan của độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên, kết quả của phương thức hành động sẽ được quyết định bởi tư duy,
đường lối, chiến lược, giải pháp của giai cấp lãnh đạo, nhà nước và toàn xã
hội.
2.2 Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay
2.2.1 Thực trạng
Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập, đã và luôn chú ý sự độc lập, tự
chủ. Tính độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện trước hết trong việc xác định
đường lối hội nhập nhất quán.
Trước khi Nhà nước Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nay là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, việc tham gia tiến trình kinh tế thế giới
của chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, đó thực chất là quá trình
bị động. Sau năm 1945, do bối cảnh chính trị chi phối, việc hội nhập c ủa Vi ệt
Nam còn rất hạn chế, chủ yếu quan hệ với các nước trong khối xã hội chủ
nghĩa, mà đáng chú ý là việc tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV).
Từ khi đổi mới, việc hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta ngày càng rộng mở
và sâu sắc hơn, gắn với tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường

9
định hướng xã hội chủ nghĩa. Và trong quá trình này, Đảng ta đã luôn chủ
động và độc lập trong đường lối hội nhập.
Trước hết, Việt Nam chủ động đổi mới, từng bước mở cửa, thực hiện tự do
hóa thị trường, cùng với đó là xây dựng hệ thống các quy định làm c ơ sở cho
thúc đẩy hội nhập. Thứ hai, thực hiện mở rộng các hoạt động hợp tác giao lưu
kinh tế - thương mại với các đối tác, ký kết các hiệp định thương mại và hợp
tác đầu tư song phương với các quốc gia. Tính đến năm 2013, Việt Nam đã có
quan hệ
ngoại giao với trên 180 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong
lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Thứ ba, thúc đẩy và tham gia hội
nhập đa phương. Việt Nam đã chủ động tham gia đàm phán gia nhập ASEAN
vào năm 1995, tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996.
Việt Nam cũng đã độc lập, tự chủ lần lượt tham gia hai di ễn đàn h ợp tác kinh
tế liên khu vực quan trọng là Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) (n ăm 1996) và
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (năm 1998). Sau
hơn 10 năm đàm phán, ngày 11-01-2007, Việt Nam chính thức là thành viên
của WTO. Việt Nam cũng đã nối lại quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB). Đối với diễn đàn APEC, Việt Nam đã tích cực
tham gia và đóng góp thúc đẩy hợp tác APEC. Nổi bật là nước ta đảm nhiệm
thành công vai trò chủ tịch APEC năm 2006, với việc đăng cai tổ chức Hội
nghị cấp cao 14, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC 18 và hơn
100 sự kiện, đưa ra triển vọng dài hạn về hướng tới mục tiêu hình thành Khu
vực thương mại tự do của
toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP).
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã chủ động trong các quan hệ song phương và
đa
phương, tham gia hoạt động của các định chế kinh tế - tài chính quốc tế. Tuy
10
nhiên, cũng cần thấy rằng trong thời gian qua, việc chính trong quá trình hội
nhập quốc tế của nước ta là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó ch ủ y ếu là
các cam kết về thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã ch ấp nh ận khi gia
nhập. Song song với quá trình này là các hoạt động cùng các n ước thành viên
xây dựng các chuẩn mực mới. Nhưng do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế
về thế và lực, mức độ tham gia của nước ta trong các hoạt động này còn thấp.
Với đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã đưa nền kinh t ế
dân tộc từng bước hòa nhập nền kinh tế thế giới. Thực tế, chúng ta đã tận dụng
được những cơ hội do mở cửa hội nhập đưa lại, góp phần vào sự tăng trưởng
kinh tế trong những năm đổi mới vừa qua, đưa nước ta trở thành quốc gia có
mức thu nhập trung bình. Tuy nhiên, cũng cần thấy là sau 35 năm đổi mới, mở
cửa hội nhập kinh tế để tăng trưởng, song mức độ mở cửa, mức độ hội nhập
gắn kết thực sự vào chuỗi giá trị tăng trưởng của nền kinh tế thế giới đối với
nền kinh tế Việt Nam còn yếu.
Tỷ lệ nội địa hóa quá thấp, không đáp ứng được mục tiêu đặt ra khi xây d ựng
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp. Về nội địa hóa, một ví dụ đáng
chú ý là trong 20 dự án nhiệt điện đã đầu tư thì tỷ lệ nội địa hóa g ần nh ư b ằng
0 tại 15 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu. Về trình độ công ngh ệ
của phần lớn các doanh nghiệp nước ta (chủ yếu là các doanh nghiệp dân
doanh) đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình c ủa th ế gi ới t ừ
2 - 3 thế hệ). Nhóm ngành sử dụng công nghệ cao mới đạt khoảng 20% (tiêu
chí để đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trên 60%) . Tình tr ạng này
hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong b ối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
2.2.2 Một số giải pháp, kiến nghị
Với tư cách thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam cần
đặc biệt quan tâm đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô trong điều kiện mở cửa,
hội nhập về tài chính đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, trong đó đảm bảo
11
ổn định tiền tệ trở thành khâu then chốt. Trong ngắn hạn, nền kinh tế toàn cầu
đang lâm vào hàng loạt cuộc khủng hoảng đan xen về tài chính, năng lượng,
lương thực, môi trường. Do đó, giữ vững ổn định vĩ mô và duy trì đà tăng
trưởng hợp lý trở thành ưu tiên số một. Về dài hạn, bảo đảm tính độc lập, tự
chủ về đường lối kinh tế không có nghĩa là chủ quan, duy ý chí, mà phải nắm
bắt xu thế phát triển chung của thế giới, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết, mô
hình, kinh nghiệm phát triển quốc tế; nhưng không giáo điều, rập khuôn máy
móc. Chiến lược kinh tế phải được xây dựng đồng bộ với chiến lược phát triển
xã hội và chiến lược hội nhập quốc tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam trong từng giai đoạn phát triển.
Trên phương diện xã hội, khâu then chốt là không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, năng lực quản trị xã hội của Nhà nước. Thứ nhất, cần tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện công tác lý luận, tuyên truyền, vận động, giáo dục
của Đảng cả về hình thức lẫn nội dung, bám sát thực tiễn, tránh bệnh hình
thức, thành tích, xa rời quần chúng; đổi mới công tác cán bộ, tăng cường công
tác kiểm tra, chỉnh đốn, kỷ luật Đảng; các chủ trương của Đảng phải được
nhanh chóng triển khai thành các chính sách cụ thể của Nhà nước. Thứ hai,
các chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo phải được coi trọng, tránh để các thế
lực xấu lợi dụng kích động, gây chia rẽ; không ngừng củng cố đồng thuận xã
hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường hiệu lực tư
pháp, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng. Thứ ba, Việt Nam đã trở thành một
xã hội có mức thu nhập trung bình, mà trọng tâm công tác xã hội chuyển dần
từ vấn đề xoá đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh, do đó cần tăng cường
vai trò của Nhà
nước pháp quyền XHCN, từng bước thực hành dân chủ, mở rộng sự tham gia
của nhân dân vào các hoạt động của Nhà nước, xây dựng xã hội thực sự dân
chủ, công bằng, văn minh.
12
Trên phương diện chính trị, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là yêu cầu có
tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập, tự chủ
về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất
nước; hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; xác lập và duy
trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả
kinh tế, văn hoá, xã hội và QP-AN. Quá trình hội nhập và tự do hoá kinh tế có
tác động đến nhiều lĩnh vực đối nội. Thứ nhất, quyền lực Nhà nước phải điều
chỉnh, phạm vi và cách thức can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế-xã
hội có nhiều thay đổi. Việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp của Nhà nước sẽ
chịu sự giám sát, phản biện xã hội ngày càng tăng. Quyền tài phán tối cao của
Nhà nước, Chính phủ, quốc gia đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất
nước vẫn tiếp tục được khẳng định, nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm
ngày càng lớn, ngày càng nặng nề. Thứ hai, sự giao thoa giữa khu vực công
quyền và khu vực thị trường trở nên phức tạp, các lợi ích công, tư đan xen,
chồng chéo, dễ tạo điều kiện cho các hành vi tham nhũng, móc ngoặc; thách
thức nghiêm trọng hiệu lực thực thi luật pháp, làm tổn hại quyền lực của Nhà
nước. Thứ ba, yêu cầu dân chủ hoá xã hội gia tăng mạnh mẽ, bao gồm cả các
hoạt động của Đảng và Nhà nước; người dân ngày càng hiểu biết hơn về chính
trị, nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền con người, cũng như kỹ
năng thực thi các quyền đó và nhấn mạnh cả nhu cầu tham gia vào các
hoạt động chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái
tiếng.
Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về đối ngoại trong bối cảnh đẩy mạnh
hội
nhập quốc tế của Việt Nam là: chính trị, xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng
13
nhanh, bền vững; QP-AN vững mạnh; nguồn nhân lực đối ngoại trung thành
và chuyên nghiệp; quan hệ cân bằng với các nước lớn. Để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ này, cần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, gắn ngoại giao
chính trị với ngoại giao kinh tế; nắm vững mục tiêu, kiên định nguyên tắc,
bám sát tình hình, linh hoạt ứng biến; tích cực tranh thủ và chủ động tạo dựng
thời cơ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đối ngoại
với các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội; tăng cường ngoại giao nhân
dân. Trong bối cảnh thế giới đang có những chuyển biến phức tạp, chúng ta
phải có chiến lược đối ngoại linh hoạt; đồng thời, cần khẩn trương xây dựng
chiến lược và lộ trình hội nhập giai đoạn 2011-2022 phù hợp với thế và lực
của nước ta cũng như
trong môi trường quan hệ quốc tế mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của dân
tộc, phát triển kinh tế đất nước, góp phần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua đã thu được nhiều kết
quả tích cực góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của
nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà chúng ta đã tận dụng được –
thông qua việc tham gia vào xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế nước ta cũng
phải đối mặt với không ít khó khăn do tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu
hóa. Tác động có tính hai mặt của toà cầu hóa thể hiện cả trong quá trình xây
dựng và duy trì nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta.Với nhận thức như trên
về chiều hướng phát triển và tác động lâu dài của toàn cầu hóa, chúng ta cần
có sự đổi mới phù hợp hơn về tư duy kinh tế độc lập tự chủ trong xu thế toàn

14
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để xác định đúng đắn các chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội trung hạn và dài hạn cũng như các chính sách kinh tế cụ
thể, đưa đất nước ta tiến nhanh, mạnh và vững chắc trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện
thế giới đang biến đổi nhanh theo xu thế toàn cầu hóa, mỗi quốc gia phải hội
nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình hợp lý nhằm khai thác lợi thế động của từng
nước để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, từng bước nâng cao vị thế của
đất nước trong khu vực và trên thế giới.

Tài liệu tham khảo


1. Đ.H - Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để phát triển bền vững
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-
de-phat-trien-ben-vung-255674.html
2. Hiền Hòa - Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội
nhập quốc tế - https://dangcongsan.vn/tieu-diem/xay-dung-nen-kinh-te-
doc-lap-tu-chu-gan-voi-chu-dong-hoi-nhap-quoc-te-611505.html
3. Lê Anh – Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế
sâu rộng - https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/xay-dung-nen
kinh-te-doc-lap-tu-chu-gan-voi-hoi-nhap-kinh-te-sau-rong-611643.html
4. Nguyễn Mại – Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
https://baodautu.vn/xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-d15430.html
5. Nguyễn Viết Thảo - Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế - http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi

15
quyet/dam-bao-moi-quan-he-giua-doc-lap-tu-chu-va-hoi-nhap-quoc
te/625.html
6. Phạm Văn Sơn – Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế - http://tapchiqptd.vn/vi/chao-mung-thanh-
cong-dai-hoi-xiii-cua-dang/xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-va-
nang-cao-hieu-qua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/16610.html
7. Phạm Quốc Trụ - Bộ Ngoại Giao - Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong bối cảnh toàn cầu hóa
https://phapluatdansu.edu.vn/2009/05/25/21/51/2959-2/
8. Vũ Văn Hà - Độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế
https://ajc.hcma.vn/Pages/nghien-cuu-khoa-hoc.aspx?
CateID=679&ItemID=5139
9. Vũ Văn Hiền – Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ -
https://vov.vn/vov-binh-luan/xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-
153111.vov

16

You might also like