Professional Documents
Culture Documents
KHOA KINH TẾ
TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU THẾ GIỚI ĐẾN CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ
TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Lớp : DH46IE001
1
PHẦN TRĂM
STT TÊN THÀNH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
ĐÓNG GÓP
2
MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN..........................................................................................................7
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.............................................................................................8
2.2. Lý thuyết sự tác động của giá dầu đến một số biến kinh tế vĩ mô................8
2.2.1. Sự biến động giá dầu ảnh hưởng đến lạm phát........................................8
2.2.2. Biến động giá dầu và giá trị sản lượng công nghiệp (IIP)........................9
2.2.4. Giá dầu tác động đến tỷ giá hối đoái (ER)...............................................10
2.3.1 Các nghiên cứu về tác động của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế.............12
2.3.2. Các nghiên cứu về độ mạnh của cú sắc giá dầu đến các biến kinh tế vĩ
mô....................................................................................................................... 13
2.3.3. Các nghiên cứu về tác động bất đối xứng của cú sốc giá dầu................14
3.2. Mối quan hệ giữa biến động giá dầu với nền kinh tế Việt Nam..................18
3.2.1. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên lạm phát.....................................18
3.2.2. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên giá trị sản lượng công nghiệp. . .19
3.2.3. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên xuất nhập khẩu hàng hóa.........19
3
3.2.4. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên tỷ giá hối đoái............................20
3.2.5. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên chính sách tiền tệ (cung tiền)....21
3.5. Kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen................................23
PHỤ LỤC...................................................................................................................40
4
Danh mục sơ đồ, bảng biểu
5
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng mô hình VECM để đánh giá tác động của cú sốc giá dầu đến các
biến vĩ mô trong nền kinh tế Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn sự
biến động của giá dầu có tác động đến các biến lạm phát, tỷ giá hối đoái, giá trị sản
lượng công nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa, tỉ giá hối đoái và cung tiền. Đồng thời
kết quả cũng chỉ ra rằng phản ứng của các biến phụ thuộc trước cú sốc giá dầu mang
tính tạm thời.
6
I. TỔNG QUAN
1.1. Lý do chọn đề tài
Dầu mỏ là nguồn nhiên liệu quan trọng trong hầu hết các ngành công nghiệp.
Do đó, trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, sự biến động của giá dầu sẽ tác
động gián tiếp và trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là trong giai đoạn hậu
Covid vừa qua, khi tình hình xã hội vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, kèm với đó là sự bất
ổn về chính trị ở các nước xuất khẩu dầu chủ lực trên thế giới điển hình là xung đột
giữa Nga và Ukraine đã khiến cho giá dầu bất chợt tăng mạnh. Chính điều này đã làm
ảnh hưởng đáng kể đến tất cả các hoạt động kinh tế ngắn hạn của các nước trên toàn
thế giới. Theo Bernanke (1983), sự tăng cao đột biến của giá dầu sẽ làm gián đoạn
quyết định mua sắm các hàng hóa lâu bền và hàng hoá đầu tư. Một sự gián đoạn lớn
trong nguồn cung dầu làm cho người ta không chắc chắn về tương lai, do dó chi tiêu
của người tiêu dùng cho xe hơi, nhà ở, đồ gia dụng, hàng hoá đầu tư tạm thời sụt giảm
(Hamilton, 2003).
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng chịu không ít ảnh hưởng. Do đặc thù là
quốc gia xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu dầu tinh, việc giá nguyên liệu biến động như
vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới thu ngân sách và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Bởi lẽ dầu mỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc xác định tác động của giá dầu đến nền kinh tế là hết sức quan trọng và cấp
thiết để cho các nhà hoạch định chính sách có những hoạt động kịp thời nhằm ổn định
nền kinh tế. Vì vậy, nhóm tác giả đã cho ra đời đề tài nghiên cứu “Tác động của giá
dầu thế giới đến các yếu tố vĩ mô trong nền kinh tế Việt Nam” nhằm đánh giá sự tác
động qua lại giữa giá dầu và các yếu tố trong nền kinh tế, tìm hiểu xem sự biến động
giá dầu có phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự thay đổi của các yếu tố khác hay
không.
7
(OIL) và các yếu tố bao gồm lạm phát (CPI), giá trị sản lượng công nghiệp (IIP), cung
tiền (M2), xuất nhập khẩu hàng hóa (EM, IM) và tỷ giá đối hoái (ER).
Đầu tiên là sử dụng SPSS để thống kê đơn giản, xem xét sự biến động của
các biến trong mô hình trong 10 năm.
Tiếp theo là thông qua đồ thị đơn giản để trước tiên có một cái nhìn tổng
quan về mối quan hệ giữa biến động giá dầu đến nền kinh tế Việt Nam.
Kiểm định đồng liên kết, tính dừng của các biến và độ trễ tối ưu của mô
hình.
Mô hình VECM được sử dụng để định lượng mối quan hệ giữa giá dầu và
các biến còn lại trong dài hạn. Sau đó kiểm định nhân quả Granger dựa trên
kết quả ước lượng mô hình VECM để xác định các mối quan hệ trong ngắn
hạn.
Phân tích hàm phản ứng đẩy để xem phản ứng của các biến phụ thuộc trước
cú sốc giá dầu diễn ra trong bao lâu.
Phân tích phân rã phương sai.
Cuối cùng là kiểm định sự phù hợp của mô hình bằng cách ước lượng các
hệ số hồi quy, kiểm định WALD và kiểm định hiện tượng tự tương quan.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.2. Lý thuyết sự tác động của giá dầu đến một số biến kinh tế vĩ mô
2.2.1. Sự biến động giá dầu ảnh hưởng đến lạm phát
Thứ nhất, giá dầu ảnh hưởng đến lạm phát thông qua hai cách chính: trực tiếp
và gián tiếp.
8
Về tác động trực tiếp, giá dầu tăng đồng nghĩa với việc nhóm hàng hóa trong
thành phần của CPI cũng tăng theo, đặc biệt là nhóm xăng, dầu nhiên liệu. Về tác
động gián tiếp, tăng giá dầu khiến cho chi phí sản xuất cũng tăng theo và do đó các
thành phẩm của sản xuất công nghiệp bị tác động bởi "lạm phát chi phí đẩy".
Kế đến, giá dầu tác động đến lạm phát thông qua sự chênh lệch cung và cầu
trong nền kinh tế. Theo lý thuyết, khi tổng cầu và tổng cung của một quốc gia cùng
gia tăng một lượng như nhau, khi đó cung vẫn bằng cầu nên sẽ không tạo nên tình
trạng lạm phát. Tuy nhiên, nếu mức gia tăng của tổng cầu lớn hơn tổng cung, khi đó
sẽ tạo ra áp lực lạm phát còn ngược lại là giảm phát. Xét trên khía cạnh thực tế thì khi
giá dầu tăng cao, đồng nghĩa với đó là chi phí sản xuất cũng tăng lên theo, do vậy sản
xuất sẽ suy giảm và kéo theo tổng cung cũng suy giảm theo. Ngoài ra, khi chi phí sản
xuất tăng sẽ làm lợi nhuận và chi tiêu của các mặt hàng ngoài dầu sẽ bị giảm xuống
đáng kể, kéo theo tổng cầu của nền kinh tế cũng giảm xuống. Vậy nên có thể nói, tổng
cung và tổng cầu đều suy giảm trước sự tăng lên của giá dầu. Thế nhưng, điều này lại
có tác động ngược chiều đến lạm phát. Bởi lẽ, rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng
sự tăng giá dầu tương tự với sự gia tăng lạm phát.
Cuối cùng, giá dầu tăng sẽ làm "lạm phát kỳ vọng" tăng lên. Bởi lẽ khi giá dầu
tăng lên, rất nhanh chúng sẽ lan đến các chỉ số giá khác trong nền kinh tế. Mức độ lan
tỏa đó phụ thuộc vào việc thực hiện các chính sách tiền tệ của Chính phủ. Vậy nên
trong thực tế, rất khó để đo lường tác động của việc tăng giá dầu đến phát triển kinh
tế, bởi vì loại hàng hóa và dịch vụ mà nhu cầu về dầu trong nguyên liệu dầu vào lại
khác nhau. Do đó mà có nhiều cuộc tranh cãi xảy ra về việc giá dầu có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp lên chỉ số giá tiêu dùng CPI hay không.
2.2.2. Biến động giá dầu và giá trị sản lượng công nghiệp (IIP)
Theo Barro (1984) cùng với Brown và Yucel (1999), giá đầu là nguồn nguyên
liệu đầu vào quan trọng của sản xuất, thế nên giá dầu tăng sẽ kéo theo sự sụt giảm
đáng kể của sản lượng cung cấp ra thị trường bởi thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào
cho tất cả các ngành công nghiệp. Điều này đã được Lee và Ni (2002) khẳng định lại
một lần nữa trong các nghiên cứu của nhóm tác giả.
9
Bên cạnh đó, không ít nghiên cứu của các nhóm tác giả đã nhấn mạnh tác động
của cú sốc giá dầu lên các chỉ số công nghiệp. Điển hình là nghiên cứu của Bohi
(1989), Kilian và Park (2007) và Lee và Ni (2002) hay là nghiên cứu của Jimenes và
Rodrigues (2008) tại các nước thuộc EU như Đức, Ý, Tây Ban Nha và Pháp. Kết quả
nghiên cứu cho thấy cú sốc dầu rất khác nhau tại các nước EU là Pháp, Đức, Ý và Tây
Ban Nha, tuy nhiên chúng lại có nét tương đồng giữa Anh và Mỹ. Chính các nghiên
cứu của nhóm tác giả này đã phần nào khẳng định sự khác nhau trong tác động của cú
sốc giá dầu đối với các ngành công nghiệp hoặc các quốc gia trên khác nhau.
Có thể kể đến đó chính là một kết quả thú vị tại các nước ở Iran và Ả Rập
Saudi. Theo Mehrara và Sarem (2009), giá dầu tăng không làm tăng trưởng GDP các
nước này chậm lại, tuy nhiên giá dầu thấp hơn lại dẫn đến tăng trưởng GDP thấp hơn.
Tuy nhiên, trong trường hợp của Indonesia, không có phương pháp nào có thể tính
toán được rằng giá dầu biến đổi lại có tác động đến sản xuất cả trong ngắn hạn và dài
hạn. Điều đó đã cho thấy một sự kiểm soát rất thành công của Indonesia trong việc đa
dạng hóa các lĩnh vực kinh tế nhằm hạn chế các tác hại của sự bùng nổ giá dầu thế
giới.
Đối với các chỉ số xuất nhập khẩu, cú sốc về giá dầu gây ra áp lực lạm phát
khiến cho giá cả ở các nước đối tác bị đẩy lên cao đáng kể. Tuy nhiên, điều này được
xem là tin vui đối với các nước xuất khẩu dầu bởi lẽ, tác động trực tiếp của việc tăng
giá dầu được cho là hoạt động tích cực vì họ tạo ra nhiều thu nhập hơn so với thời
điểm ban đầu. Chính điều này lại mang đến những cú sốc tiêu cực cho các nước nhập
khẩu dầu vì khi đó, giá dầu thô nhập khẩu tăng lên kéo theo sự ảnh hưởng tiêu cực đến
cán cân thương mại, theo Kim và Loungani (1992), Backus và Crucini (2000). Bởi lẽ,
giá đầu vào tăng khiến cho chi phí đầu vào cao hơn, điều này khiến cho các nước nhập
khẩu dầu sản xuất và xuất khẩu ít hơn trước đó. Mặt khác, giá dầu tăng cao khiến chi
phí nhập khẩu dầu tăng cao, như vậy sẽ tạo nên sự ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến
nhập khẩu hàng hóa. Khi đó, các quốc gia xuất khẩu dầu cũng bị ảnh hưởng về sản
lượng nhu cầu sử dụng dầu trở nên ít hơn. Vậy nên không thể phủ nhận rằng, giá dầu
tăng không hoàn toàn mang lại lợi ích đối với nền kinh tế xuất khẩu dầu. Vì vậy, trước
10
sự biến động lớn của giá dầu, các nhà hoạch định chính sách cũng phải rất đắn đo
trước quyết định nên áp dụng chính sách nào để khắc phục tình hình biến động
2.2.4. Giá dầu tác động đến tỷ giá hối đoái (ER)
Biến động giá dầu tác động đáng kể đến tình trạng xuất nhập khẩu, thế nên
cung cầu ngoại tệ sẽ thay đổi theo và do đó, tỷ giá hối đoái cũng sẽ bị tác động đáng
kể.
Cụ thể là khi xuất khẩu hàng hoá, các quốc gia sẽ thu được ngoại tệ. Nhằm duy
trì hoạt động kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ để mua hàng hóa dịch
vụ trong nước nhằm mang mang chúng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Khi đó, thị
trường cung ngoại tệ sẽ lên tăng lên và làm cho tỷ giá hối đoái giảm xuống.
Mặt khác, khi nhập khẩu hàng hoá, các quốc gia cần ngoại tệ để thanh toán
khiến cho cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái tăng lên. Sự khác biệt của hai hiện tượng trên
đã hình thành nên tỷ giá hối đoái. Nếu một quốc gia có cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ, khi đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống và đồng thời, đồng nội tệ cũng trở nên
tăng giá. Ngược lại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên khiến cho đồng nội tệ lại giảm giá.
Không thể phủ nhận rằng, khi giá dầu lên cao thì lạm phát cũng có xu hướng
tăng lên khiến cho tăng trưởng kinh tế chậm lại. Điều này lại tạo nên sự khó khăn
đáng kể trong chính sách tiền tệ của các quốc gia. Khi đó, các ngân hàng trung ương
trên thế giới sẽ phải đau đầu trong việc đưa ra các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo
được cân bằng vĩ mô cơ bản. Đối với các quốc gia ưu tiên kiểm soát giá, tức là các
quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu, cần tính đến hai bước thắt chặt hoặc nới lỏng
chính sách tiền tệ mỗi khi giá xăng dầu tăng.
Khi tăng trưởng kinh tế và lạm phát biến động ngược chiều nhau như cú sốc về
giá dầu thì các Ngân hàng Trung ương khó có thể duy trì sự cân bằng của tăng trưởng
kinh tế và lạm phát cùng một lúc. Nếu lựa chọn cách thắt chặt chính sách tiền tệ để
giảm lạm phát, khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục chậm lại. Thay vào đó,
Ngân hàng Trung ương đang xem xét tăng nhu cầu ở một mức độ nào đó để hạn chế
11
sự suy giảm tăng trưởng kinh tế trước khi giá dầu tăng do nới lỏng tiền tệ. Nếu không
kiểm soát kỹ, điều đó sẽ gây nên rất nhiều ảnh hưởng xấu đến các quốc gia.
Có thể nói, một chính sách tiền tệ linh hoạt là điều vô cùng cần thiết khi giá
dầu bị đẩy lên cao. Điều đó sẽ giúp hạn chế lan tỏa lạm phát đến các chỉ số giá khác
trong ngành kinh tế. Tuy nhiên, chính sách nào được cho là thích hợp nhất lại tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, mối quan tâm của các nhà nghiên
cứu về tác động kinh tế vĩ mô của cú sốc giá dầu được tăng một cách đáng kể. Nổi bật
nhất trong số đó là nghiên cứu của Hamilton (1983) với dữ liệu của Hoa Kỳ từ năm
1948 đến năm 1973. Nghiên cứu này đã nhận thấy rằng giá dầu và tăng trưởng GNP
của Hoa Kỳ tỷ lệ nghịch với bảy trong tám cuộc suy thoái về giá dầu thô. Còn đối với
Gisser và Goodwin (1986), các tác giả đã nghiên cứu để tìm ra mối quan hệ giữa cú
sốc giá dầu và tình trạng thất nghiệp, thế nhưng họ không tìm được cơ sở củng cố cho
giả thiết này và kết quả của họ cũng tương tự với Hamilton (1983).
Riêng đối với Hooker (1996) - người đã nghiên cứu về dữ liệu về tăng trưởng
của Mỹ trong giai đoạn từ năm 1949 đến năm 1980, cho thấy nếu giá dầu thế giới tăng
10% thì sẽ có một sự sụt giảm về tăng trưởng GDP xuống khoảng 0.6%.
Về tác động của giá dầu đối với tiền lương lao động, Keane và Prasad (1996)
đã nghiên cứu ra rằng, giá dầu tăng sẽ làm giảm tiền lương tuyệt đối của 2 đối tượng
lao động là lao động phổ thông và lao động có kỹ năng cao. Trong đó, mức lương của
tất cả người lao động phổ thông lại sụt giảm, trong khi lại tăng đáng kể đối với mức
12
lương của những người lao động có kỹ năng cao. Do vậy, chúng ta không thể phủ
nhận rằng chất lượng của đội ngũ nhân viên có thể bù đắp đáng kể trước những cú sốc
về dầu đối với các ngành công nghiệp.
Đối với các ngành công nghiệp, Lee và Ni (2002) và gần đây nhất là Lippi và
Nobili (2010) cũng đã nghiên cứu đã khẳng định rằng cú sốc giá dầu đặc biệt ảnh
hưởng đến cung và cầu của các ngành công nghiệp, cụ thể là làm giảm sản xuất công
nghiệp của các sử dụng dầu mỏ nguyên liệu đầu vào, ví dụ như: công nghiệp ô tô
v.v…
Về phần tác động của giá dầu đối với chỉ số giá cả, Cunado và Gracia (2005)
lại không tìm thấy mối quan hệ đồng liên kết lâu dài giữa 2 biến số này. Nghiên cứu
tại các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan, các tác giả đã khẳng định rằng,
trong giai đoạn ngắn hạn, giá dầu sẽ có mối quan hệ nhân quả Granger với tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, tác động tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào đặc điểm của quốc
gia là xuất khẩu hay nhập khẩu dầu. Đối với các nước nhập khẩu dầu như Nhật Bản và
Trung Quốc, cú sốc giá dầu lại có tác động tiêu cực trong khi kết quả hoàn toàn ngược
lại đối với quốc gia xuất khẩu dầu như Nga.
Riêng đối với chỉ số GDP, hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định cú sốc giá
dầu đều tác động tiêu cực đến các quốc gia, điển hình là Hoa Kỳ, Vương quốc Anh,
Đức và Thụy Điển. Cụ thể hơn, Cunado và Gracia (2003) sử dụng phương pháp VAR
để cho ra kết quả rằng giá dầu đang tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế vĩ mô
tổng thể.
Đối với các chỉ số vĩ mô khác, Tang và cộng sự (2010) đã nhận thấy rằng có
mối quan hệ thuận chiều giữa giá dầu, lãi suất, CPI, PPI và mối quan hệ nghịch chiều
giữa giá dầu với sản xuất, đầu tư và tiêu dùng ở Trung Quốc.
2.3.2. Các nghiên cứu về độ mạnh của cú sắc giá dầu đến các biến kinh tế vĩ
mô
Có thể nói rằng, ở bất cứ giai đoạn nào thì cú sốc giá dầu đều có tác động đến
các biến kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, tác động mạnh hay yếu lại phụ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử. Điều này đã được Cologoni và Manera (2009) phát hiện khi sử dụng các
13
mô hình chuyển đổi chế độ khác nhau cho các nước G7 nhằm nghiên cứu về đề tài
này.
Đối với giai đoạn từ năm 1973 đến năm1974, Burbidge và Harrison (1984) đã
nhận định tác động của giá dầu đối với các biến số kinh tế vĩ mô là rất lớn.
Tuy nhiên, đến giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1980, Blanchard và Gali (2007)
cùng với các tác giả khác lại nhận định cú sốc giá dầu trong những năm 2000 nhỏ hơn
một chút so với những năm 1970.
Xét về khía cạnh tình trạng thất nghiệp, các nghiên cứu của Carruth và cộng sự
(1998) và Davis và Haltiwanger (2001) phát hiện ra rằng, cú sốc giá dầu khuếch đại
tác động đến tăng trưởng việc làm gấp đôi so với cú sốc chính sách tiền tệ đã làm.
Đáng chú ý là tăng trưởng việc làm trong ngành sản xuất đã giảm 8% trong vòng hai
năm kể từ cú sốc giá dầu năm 1973. Cùng với đó, các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng
sự suy giảm trong tăng trưởng việc làm khi giá dầu tăng cao hơn gấp mười lần so với
khi giá dầu giảm.
2.3.3. Các nghiên cứu về tác động bất đối xứng của cú sốc giá dầu
Hamilton (1996) đã nghiên cứu và cho ra kết quả rằng giá đầu cao hơn thường
liên quan đến sản lượng sẽ sụt giảm hơn, nhưng điều đó không có nghĩa rằng giá dầu
thấp hơn sẽ dẫn đến việc sản lượng sẽ tăng trưởng cao hơn. Sự bất đối xứng này chủ
yếu là do 2 hiệu ứng là phân phối lại và chi phí điều chỉnh. Đầu tiên phải kể đến đó là
giá dầu tăng dẫn đến tổng cung của cả nước giảm do chi phí đầu vào tăng. Chính vì
vậy mà tổng cầu cũng sẽ trở nên thấp hơn do số tiền họ phải chi ra cao hơn số tiền họ
sẵn lòng trả. Bên cạnh đó, giá dầu tăng cao cũng đã khiến nền kinh tế chuyển dần từ
lĩnh vực năng lượng nhạy cảm sang năng lượng hiệu quả.
Tất cả các yếu tố này đều có tác động tổng hợp làm tăng trưởng kinh tế chậm
lại. Ngoài ra, do sự cứng nhắc của tiền lương danh nghĩa (sẽ tăng sau khi giá dầu thế
giới tăng cao), vậy nên cần có những chính sách điều chỉnh chi phí hợp lý trên thị
trường lao động.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đối với các nền kinh tế khác nhau, khi giá dầu
tăng hay giảm thì tác động bất cân xứng của giá dầu cũng sẽ khác nhau. Hamilton
14
(1988) nhận định rằng nguồn gốc của sự bất cân xứng đó được quyết định bởi chi phí
điều chỉnh theo những thay đổi của giá dầu. Điều này đã được chứng minh thông qua
nghiên cứu của Lian Anetal (2014) với mục đích xem xét tác động bất đối xứng giữa
cú sốc giá dầu đối và hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ. Tác giả đã khẳng định rằng tác
động tiêu cực của giá dầu tăng lớn hơn tác động tích cực của việc giá dầu giảm, và tác
động bất cân xứng của các cú sốc giá dầu lớn rõ ràng hơn. Nhiều nghiên cứu khác
cũng có cùng kết luận tương tự như Hooker (2002) và Hamilton (2003).
Ngoài nguyên nhân là do chi phí điều chỉnh theo những thay đổi của giá dầu,
nhiều tác giả cũng đã khẳng định rằng, việc thay đổi trong chính sách tiền tệ chính là
lý do lớn nhất dẫn đến sự bất cân xứng này. Chẳng hạn như đối với Bohi (1989, 1991)
cùng với Bernanke và cộng sự. (1997), các tác giả đã nhận định rằng giá dầu cao ảnh
hưởng đến lạm phát, vì vậy các ngân hàng trung ương sẽ phản ứng với sự tăng cao bất
thường này bằng việc thắt chặt tiền tệ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Davis (1987),
Mork và cộng sự (1989, 1994) hay Cunado và Gracia (2005) cũng đã chỉ ra rằng, sản
lượng cũng sẽ phản ứng bất đối xứng với các cú sốc giá dầu. Nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng này là do sự lựa chọn sử dụng các nguồn nguyên liệu thay thế hay áp
dụng các công nghệ tiết kiệm dầu mới. Tuy nhiên, khi giá dầu giảm, các công ty lại
ngay lập tức từ bỏ việc đầu tư vào các khoản này nhằm mục đích giảm bớt chi phí
chìm, vậy nên ảnh hưởng của giá dầu giảm sẽ ít hơn đối với các ngành kinh tế so với
khi giá dầu tăng.
Không những vậy, nhiều kết quả thử nghiệm đã ủng hộ rằng tác động bất đối
xứng của các cú sốc giá dầu cũng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng và tỷ giá hối
đoái thực. Farzanegan và Markwardt (2009), người đã kiểm tra tác động bất đối xứng
của việc giá dầu tăng cao đối với nền kinh tế Iran, đã phát hiện ra mối tương quan
thuận chặt chẽ giữa giá dầu tăng và tăng trưởng sản xuất công nghiệp. Nghiên cứu về
tác động của cú sốc giá dầu đối với GDP của Raguindin và Reyes (2005) đã khẳng
định điều đó sẽ làm giảm GDP thực tế ở Philippines về lâu dài.
Vậy nên có thể kết luận rằng, cú sốc giá dầu tác động khá rộng rãi đối với các
biến số kinh tế vĩ mô nói chung, thông qua các chỉ số như tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát,
GDP, thâm hụt ngân sách và đầu tư. Đồng thời, tác động kinh tế của biến động giá dầu
15
là không cân xứng, bởi lẽ tác động tiêu cực của giá dầu tăng dường như lớn hơn nhiều
so với tác động tích cực của việc giá dầu giảm.
Tại Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các
nhận định. Chẳng hạn như đối với nghiên cứ của Nguyễn Đức Thành và cộng sự
(2009), các tác giả đã phân tích sự ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và mức sống
của các hộ gia đình trước tác động của việc tăng giá xăng dầu. Đồng thời, nghiên cứu
cũng đã xem xét tác động của chính sách tăng giá xăng dầu đến cơ cấu sản xuất kinh
tế bằng kỹ thuật phân tích bảng cân đối liên ngành (đầu vào và đầu ra). Từ đó nhóm
tác giả đã nhận định rằng, giá xăng dầu tăng sẽ ảnh hưởng đến tổng sản phẩm trong
nước (GDP) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Về phần tác động của giá dầu đến chỉ số sản xuất công nghiệp, Nguyễn Thị
Liên Hoa và Trần Thu Giang (2012) sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM) để
điều tra về bộ dữ liệu của Việt Nam từ năm 2002 đến 2010, từ đó cho thấy có mối
tương quan tích cực trong dài hạn giữa giá dầu và chỉ số sản xuất công nghiệp. Còn
trong ngắn hạn, cú sốc giá dầu sẽ làm tăng mạnh chi tiêu sản xuất công nghiệp trong
tháng đầu tiên, tuy nhiên sẽ giảm dần sau một khoảng thời gian nhất định.
Riêng về chủ đề cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ Việt Nam khi giá dầu
tăng, Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013) cũng đã sử dụng mô hình SVAR để nghiên
cứu và cho ra kết quả rằng phản ứng là tương tự nhau trong giai đoạn đầu đối lạm phát
và sản lượng. Tuy nhiên, trong các giai đoạn sau đó, phản ứng đối với lạm phát khá
nhất quán, mặc dù phản ứng đối với sản xuất là khác nhau. Tỷ lệ lạm phát trước cuộc
khủng hoảng dầu mỏ luôn gia tăng, nhưng sản lượng lại lên xuống thất thường sau
mỗi thời kỳ. Trong thời kỳ hậu WTO, dù mức độ của cú sốc giá dầu là nhỏ, thế nhưng
chúng lại tác động lớn hơn rất nhiều đến lạm phát so với thời kỳ trước đó.
Bên cạnh các nghiên cứu trên, nhóm tác giả Đinh Thị Thu Hồng và cộng sự
(2016) cũng đã áp dụng mô hình TVAR và kết hợp phân tích Chức năng đáp ứng
xung có điều kiện (CIF) và Chức năng đáp ứng xung tổng quát (GIFT) để nghiên cứu
về chủ đề này. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giá của mỗi thùng dầu dao động
khoảng 26,7 USD thì sẽ có ý nghĩa thống kê đối với các biến kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
16
khi giá dầu vượt ngưỡng, điều đó sẽ ảnh hưởng đến lạm phát, thất nghiệp và thâm hụt
ngân sách.
Chính những nghiên cứu trên đã giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách tại các
nước phát triển như Việt Nam có cơ sở để đưa ra các chính sách phù hợp, giúp ngăn
ngừa các rủi ro biến động. Bởi lẽ, khi một nền kinh tế còn nhạy cảm hơn với các cú
sốc bên ngoài, đặc biệt khi lạm phát vẫn ở mức khá cao, đồng thời tăng trưởng tương
đối cao nhưng không chắc chắn, thị trường tài chính kém phát triển, điều này sẽ gây
nên ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến nền kinh tế chung của đất nước.
17
Biến IIP có độ biến động trong khoảng từ giá trị 89 đến giá trị 267.2 với giá trị
trung bình của cỡ mẫu là 141.48, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là 38.05. Dữ liệu dao
động ổn định, giá trị của độ lệch chuẩn không lớn hơn giá trị trung bình.
Biến IM có độ biến động trong khoảng từ giá trị 522 đến giá trị 729,829 với giá
trị trung bình của cỡ mẫu là 377,331.17, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là
142,610.75. Dữ liệu dao động ổn định, giá trị của độ lệch chuẩn không lớn hơn giá trị
trung bình.
Biến EM có độ biến động trong khoảng từ giá trị 148,995 đến giá trị 787,851
với giá trị trung bình của cỡ mẫu là 380,545.79, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là
141,928.88. Dữ liệu dao động ổn định, giá trị của độ lệch chuẩn không lớn hơn giá trị
trung bình.
Biến ER có độ biến động trong khoảng từ giá trị 20,790 đến giá trị 23,616 với
giá trị trung bình của cỡ mẫu là 22,247.7, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là 916.5. Dữ
liệu dao động ổn định, giá trị của độ lệch chuẩn không lớn hơn giá trị trung bình.
Biến M2 có độ biến động trong khoảng từ giá trị 2,667,978 đến giá trị
13,402,097 với giá trị trung bình của cỡ mẫu là 7,425,012.45, ứng với độ lệch chuẩn
của mẫu là 3,035,622.58. Dữ liệu dao động ổn định, giá trị của độ lệch chuẩn không
lớn hơn giá trị trung bình.
Qua kết quả thống kê mô tả theo bảng 1.1 cho thấy, trong mô hình, các biến
quan sát có độ lệch chuẩn đều nhỏ hơn giá trị trung bình mẫu. Dữ liệu nhìn chung
mang tính đồng đều giữa các biến với nhau, cỡ mẫu nghiên cứu gồm 120 quan sát, là
cỡ tương đối trong thống kê.
3.2. Mối quan hệ giữa biến động giá dầu với nền kinh tế Việt Nam
3.2.1. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên lạm phát
Hình 3.2.1 Biến động giá dầu và lạm phát
18
4.5
3.5
2.5
1.5
0.5
0
12 12 12 13 13 13 14 14 14 15 15 15 16 16 16 17 17 17 18 18 18 19 19 19 20 20 20 21 21 21
n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p- n- y- p-
Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se Ja Ma Se
OIL CPI
Hình 3.2.1 cho biết biến động của giá dầu và lạm phát theo từng tháng qua các
năm, nhìn vào biểu đồ có thể thấy lạm phát dường như có sự tương quan mạnh đối với
giá dầu. Biểu hiện như vào giai đoạn cuối năm 2014 đến cuối năm 2015, giá dầu có sự
biến động tăng giảm liên tục trong một năm, đồng thời lạm phát cũng có sự tăng giảm
dựa vào giá dầu. Đặc biệt vào những tháng đầu năm 2020 giá dầu có sự giảm mạnh, từ
đó lạm phát cũng có xu hướng giảm.
3.2.2. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên giá trị sản lượng công nghiệp
Hình 3.2.2 Biến động giá dầu và giá trị sản lượng công nghiệp
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
12 15 18 21
n- n- n- n-
Ja Ja Ja Ja
OIL IIP
Hình 3.2.2 cho biết sự biến động của giá dầu và giá trị sản lượng công nghiệp
theo từng tháng qua các năm, nhìn vào biểu đồ có thể thấy giá trị sản lượng công
nghiệp có tương quan mạnh mẽ với sự biến đổi của giá dầu. Khi giá dầu có sự biến
19
động nhẹ thì giá trị sản lượng phản ứng một cách mạnh mẽ trước sự thay đổi của giá
dầu. Điển hình như giai đoạn những tháng đầu năm 2018, giá dầu chỉ có sự giảm giá
nhẹ nhưng giá trị sản lượng công nghiệp lại có giảm mạnh trước sự thay đổi này.
3.2.3. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên xuất nhập khẩu hàng hóa
Hình 3.2.3 Biến động giá dầu mà xuất nhập khẩu hàng hóa
16
14
12
10
0
12 14 17 20
n- v- p- l-
Ja No S e Ju
OIL IM EM
Hình 3.2.3 cho biết sự biến động của giá dầu và xuất nhập khẩu hàng hóa theo
từng tháng qua các năm, nhìn vào biểu đồ có thể thấy xuất nhập khẩu hàng hóa có sự
tương quan với sự biến đổi của giá dầu. Có thể thấy xuất khẩu và nhập khẩu có xu
hướng vận động tương đối giống nhau. Khi xem xét xuất nhập khẩu hàng hóa trong
mối tương quan với giá dầu trong giai đoạn giá dầu biến động mạnh vào những tháng
đầu năm 2020 thì chúng có xu hướng giảm mạnh, nhưng mức độ biến động của xuất
khẩu thấp hơn nhập khẩu.
3.2.4. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên tỷ giá hối đoái
Hình 3.2.4 Biến động giá dầu và tỷ giá hối đoái
20
5
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
12 15 18 21
n- n- n- n-
Ja Ja Ja Ja
OIL ER
Hình 3.2.4 cho biết biến động của giá dầu và tỷ giá hối đoái theo từng tháng
qua các năm, nhìn vào biểu đồ có thể thấy tỷ giá hối đoái có sự tương quan với sự biến
động của giá dầu. Trong điều kiện bình thường giá dầu ít biến động thì tỷ giá hối đoái
tương đối ổn định, nhưng khi có sự biến động mạnh của giá dầu thì tỷ giá hối đoái
cũng có sự biến động tương tự dựa vào giá dầu.
3.2.5. Ảnh hưởng của biến động giá dầu lên chính sách tiền tệ (cung tiền)
Hình 3.2.5 Biến động giá dầu và cung tiền
10
9
8
7
6
5
4
3
2
1
0
12 14 17 20
a n- ov- ep- Jul-
J N S
OIL M2
Hình 3.2.5 cho biến biến động của giá dầu và chính sách tiền tệ (cụ thể là cung
tiền) theo từng tháng qua các năm, nhìn vào biểu đồ có thể thấy cung tiền có sự tương
quan với sự biến động của giá dầu. Trong điều kiện bình thường khi giá dầu ít có sự
21
thay đổi thì cung tiền tương đối ổn định, khi giá dầu có sự biến động mạnh thì từ đó
chính sách tiền tệ cũng được thay đổi dựa vào giá dầu, từ đó cung tiền và giá dầu có
sự biến đổi cùng chiều.
3.3. Kiểm định tính dừng
Dữ liệu của các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu là dữ liệu chuỗi thời
gian nên để kết quả ước lượng không bị thiên chệch, kiểm định tính dừng cho các biến
được nghiên cứu là cần thiết. Có nhiều phương pháp kiểm định tính dừng của chuỗi
thời gian như kiểm định Dickey – Fuller (DF), kiểm định Phillips – Person (PP), kiểm
định Augmented Dickey – Fuller (ADF), kiểm tra bằng giản đồ sự tương quan,...
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả dử dụng phương pháp Augmented Dickey –
Fuller (ADF) và phương pháp Phillips – Person (PP) để kiểm định tính dừng của
chuỗi dữ liệu cho tất cả các biến của bài nghiên cứu.
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định tính dừng
22
Dựa vào kết quả kiểm định chuỗi dừng của bảng 3.1 thì kết quả kiểm định tính
dừng của các biến ở sai phân bậc nhất I(1). Kết quả cho thấy tất cả các biến đều dừng
ở mức ý nghĩa 1% ở cả hai phương pháp ADF và PP.
Do đó mô hình sẽ được ước lượng với sai phân bậc nhất I(1) của tất cả các
biến, điều này là hoàn toàn phù hợp với kết luận của Asteriou (2007) cho rằng hầu hết
các biến số kinh tế vĩ mô đều dừng I(1).
Tương tự như các nghiên cứu trước đây bài nghiên cứu sẽ lựa chọn độ trễ theo
chuẩn AIC, vì theo chuẩn này độ trễ được đưa ra là cao hơn so với tiêu chuẩn khác.
Từ bảng trên, ta chọn độ trễ tối ưu bằng 2.
3.5. Kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen
Bảng 3.5. Kết quả kiểm định đồng liên kết
23
Giá trị tới hạn ở
Giả thuyết Giá trị riêng Thống kê Trace Xác suất **
5%
Không* 0.577225 415.8927 125.6154 0.0000
Tối đa 1* 0.517188 316.0266 95.75366 0.0000
Tối đa 2* 0.432197 231.5637 69.81889 0.0000
Tối đa 3* 0.390220 165.9101 47.85613 0.0000
Tối đa 4* 0.355189 108.5298 29.79707 0.0000
Tối đa 5* 0.241375 57.62932 15.49471 0.0000
Tối đa 6* 0.197928 25.58459 3.841466 0.0000
Kiểm định Trace cho thấy có 7 mối quan hệ liên kết tại mức ý nghĩa 5%
*cho thấy việc bác bỏ giả thuyết H0 tại mức ý nghĩa 5%
**Giá trị xác suất thống kê MacKinnon-Haug-Michelis (1999)
Kết quả kiểm định mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình cho
thấy có mối liên hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình. Với kết quả này, bài
nghiên cứu sẽ tiến hành ước lượng theo phương pháp VECM.
3.6. Ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM
3.6.1. Quan hệ dài hạn
Bảng 3.6.1 Kết quả ước lượng của một số phương trình dài hạn
24
-0.050679 -7.805862 4.235959
EM (0.01289) (1.67845) 1 (1.11655)
[-3.93249] [-4.65049] [3.79380]
0.350727 54.01923 -6.92056 -29.3152
ER (0.15166) (23.3273) (2.93698) (12.6632)
[2.31257] [2.31571] [-2.2522] [-2.3150]
0.115063 17.72210 -2.270429 -9.617442
M2 (0.05057) (7.88430) (1.00812) (4.24838)
[2.27525] [2.24777] [-2.25215] [-2.26379]
Từ bảng cho thấy kết quả ước lượng phương trình đồng liên kết có hệ số ước
lượng được chuẩn hóa theo CPI. Giá dầu có tác động cùng chiều đến CPI, phản ánh
giá dầu tăng làm tăng lạm phát trong nền kinh tế ở mức tăng 1% của giá dầu lạm phát
kinh tế tăng 0.009795%. Ngoài ra, so với việc nghiên cứu giá dầu tại các nền kinh tế
không có kiểm soát giá dầu, tác động của biến biến động giá dầu là mạnh hơn khá
nhiều. Bên cạnh đó, giá dầu có tác động ngược chiều đến cả hai biến xuất khẩu và
nhập khẩu, cụ thể nếu giá dầu tăng 1% thì lượng xuất khẩu giảm 0.193% và nếu giá
dầu tăng 1% thì lượng nhập khẩu giảm 0.8187%. Điều này là phù hợp vì mặt hàng
xăng dầu là mặt hàng chiếm tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2020,
theo số liệu của tổng cục Hải quan thì nhập khẩu xăng dầu chiếm xấp xỉ 6.23% trong
tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy với tỷ trọng đáng kể trong tổng giá trị xuất khẩu
hằng năm thì việc giá dầu thô thế giới biến động gây ảnh hưởng đến kim ngạch xuất
khẩu là một hợp lí. Và từ kết quả bảng trên, cung tiền có tác động cùng chiều đến CPI
và IIP, điều này phản ánh chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng cung tiền làm lạm phát
và sản lượng công nghiệp tăng.
25
3.6.2. Quan hệ ngắn hạn
Bảng 3.6.2 Kiểm định nhân quả Granger dựa trên kết quả ước lượng mô hình
VECM
26
Giá dầu không phải là nguyên nhân ảnh
2 1.696392 0.4282
hưởng đến IIP
6
IIP không phải là nguyên nhân ảnh hưởng
2 0.013407 0.9933
đến giá dầu
Dựa vào kết quả kiểm định nhân quả ở trên, trong 6 cặp giả thuyết thì có 3 cặp
bác bỏ Ho và 3 cặp chấp nhận H0. Trong dài hạn thì giá dầu có ảnh hưởng đến lạm
phát, xuất khẩu và nhập khẩu còn các biến tỷ giá hối đoái và cung tiền thì không bị
chịu tác động. Còn trong ngắn hạn, giá dầu, xuất khẩu, nhập khẩu, CPI có tác động
qua lại với nhau cả về 2 chiều. Điều này cho thấy trong ngắn hạn giá dầu là yếu tố
nguyên nhân của lạm phát, việc xuất khẩu mà không là yếu tố nguyên nhân của các
biến còn lại. Trước tiên, tương tự như trong dài hạn, giá dầu có tác động đến xuất
khẩu và nhập khẩu vì dầu là nguồn nhiên liệu chiếm tỷ trọng tương đối đáng kể trong
kim ngạch nhập khẩu vì thế giá dầu thô nó cũng có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất
khẩu. Mặt khác, cũng có thể vì giá dầu thô thế giới tăng thì khi đó giá trị sản phẩm
tăng dẫn đến giá trị nhập khẩu tăng cùng như thế nhu cầu xuất khẩu cũng tăng.
Bên cạnh đó, giá dầu cũng có tác động đến lạm phát (CPI). Việc giá xăng tăng
tác động trực tiếp làm tăng đến giá thành sản phẩm, làm tăng giá hàng hóa trong khâu
lưu thông nên tạo áp lực lên lạm phát, giảm sức cạnh tranh của những hàng hóa trong
nước, từ đó có thể tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
Kết quả kiểm định Granger cho thấy giá dầu thô thế giới không phải là nguyên
nhân, có tác động đến biến IIP, M2 và tỷ giá hối đoái, điều này cho thấy kinh tế Việt
Nam chưa có ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước khác nói riêng và nền kinh tế
của thế giới nói chung.
Hình 3.7 Phản ứng của các biến đối với sự tăng giá dầu
27
Từ kết quả trên, theo sau cú số giá dầu tăng, thì CPI tăng mạnh với mức cao
nhất vào tháng 2 nhưng vào tháng 3 lại tuột dốc xuống mức thấp nhất còn những
tháng còn lại thì tăng, giảm khá đều nhau. Xuất khẩu, nhập khẩu và biến IIP tăng giảm
theo một chu kì như tăng vào tháng 2, sau đó lại giảm ở tháng 3 và tiếp tục tăng vào
tháng 5. Vì vậy, ta thấy rằng biến lạm phát có sự biến động khá rõ rệt với những cú
sốc tăng giá dầu.
Bên cạnh đó, đối với phản ứng của chính sách tiền tệ, theo sau cú sốc giá dầu
cung tiền giảm mạnh đến tháng 3, điều này cho thấy rằng CSTT có phản ứng với cú
sốc này theo hướng thắt chặt tiền tệ, giảm cung tiền để kiểm soát được lạm phát. Sau
khi thắt chặt đến tháng 3 thì có xu hướng tăng sản lượng để cân bằng lại thị trường
được biểu thị qua biến IIP
Bảng 3.8 Ảnh hưởng của biến giá dầu đến các biến kinh tế vĩ mô
28
(bảng chi tiết thể hiện ở phụ lục)
CPI ER IIP IM M2 EM
1 14.98107 6.299502 0.045955 0.084024 0.255749 0.367103
Kết quả phân tích phân rã phương sai tại bảng 3.8 cho thấy trong 6 tháng đầu
giá dầu (OIL) không giải thích nhiều cho các biến kinh tế vĩ mô, trong đó ngay khi cú
sốc giá dầu thô xảy ra thì nó giải thích rất thấp cho sự biến động của sản lượng công
nghiệp (IIP) chỉ khoảng 0.046%. Trong dài hạn thì OIL lại giải thích cao nhất 26.73%
cho sự thay đổi của chỉ số lạm phát (CPI) khi tăng từ 15% lên đến 26.67% trong 6
tháng đầu tiên, cụ thể:
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê, trong tháng 2 này, chỉ số lạm
phát (CPI) cả nước đã tăng 1% so với tháng trước và cao hơn 1,42% so với cùng kỳ
tháng 2 năm 2021. Cụ thể, ghi nhận mức tăng cao nhất tháng này là nhóm hàng hóa
dịch vụ thuộc ngành giao thông với việc tăng 2,35% so với tháng 1. Tập trung chính
vào mặt hàng xăng dầu tăng 5,8% trong tháng khiến CPI chung tăng 0,21 điểm, do
ảnh hưởng từ các đợt tăng giá xăng dầu gần nhất.
29
Giá xăng dầu tăng cao cũng kéo giá vận tải hành khách đường bộ tăng 3,92%
so với tháng trước khi một số đơn vị kinh doanh vận tải thực hiện kê khai tăng giá phụ
thu theo giá xăng dầu và ảnh hưởng của dịch bệnh đến số lượng hành khách.
Theo số liệu của cơ quan thống kê, so với cùng kỳ tháng 2.2021, CPI cả nước
đã tăng 1,42% với nguyên nhân chính vẫn là nhóm giao thông với mức tăng cao nhất
15,46%, làm CPI chung tăng 1,49 điểm %. Trong đó, giá xăng dầu tăng 47,07% do từ
tháng 2.2021 đến nay xăng A95 tăng 8.200 đồng/lít; xăng E5 tăng 8.500 đồng/lít và
giá dầu diezen tăng 6.960 đồng/lít.
Qua kết quả phân tích, chúng ta cũng thấy rằng mỗi cú sốc giá dầu giải thích rất
ít cho sự biến động của cung tiền (M2) và xuất khẩu (EM), mặc dù dầu thô đóng góp
lớn vào kim ngạch xuất khẩu nhưng theo phân tích này thì dường như giá dầu thô thế
giới không tác động trực tiếp đến xuất khẩu mà sự biến động của giá dầu sẽ ảnh
hưởng đến sản xuất của các ngành khác theo đó tác động đến sản lượng hàng hoá xuất
khẩu theo độ trễ nhất định. Trong tháng đầu tiên sau cú sốc giá dầu, thì giá dầu hầu
như không giải thích cho sự biến động của sản lượng công nghiệp (IIP) và nhập khẩu
(IM) lần lượt là 0.046% và 0.084% sau đó tăng dần lên nhưng cũng không đáng kể và
dừng lại ở mức giải thích 1.07% và 1.20%, kết quả này đồng thuận với quan điểm cho
rằng giá dầu thô thế giới không phải là nguyên nhân Granger của sản lượng công
nghiệp và nhập khẩu. Đối với biến lạm phát thì nó phụ thuộc vào chính giá trị quá khứ
của nó hơn là các biến khác, trong ngắn hạn biến động giá dầu thô giải thích chỉ
khoảng 1% cho sự thay đổi của lạm phát, trong dài hạn lạm phát chỉ phụ thuộc 2.5%
vào sự biến động của giá dầu thô. Ngoài ra, đối với biến tỉ giá hối đoái thì mức độ giải
thích của biến động giá dầu tương đối ổn định trong ngắn hạn và dài hạn dừng lại ở
mức 7.2% trong giai đoạn nghiên cứu.
30
(IIP), nhập khẩu (IM) và cuối cùng là biến cung tiền (M2) thì kết quả chúng ta có
được như sau:
(Giá dầu = -5.19 + 19.36 Lạm phát + 1.12 Xuất khẩu – 7.37 Tỷ giá hối đoái – 0.51
Sản xuất công nghiệp – 0.01 Nhập khẩu – 0.69 Cung tiền)
Kết quả của mô hình cho thấy ngoài các biến khác có ý nghĩa thống kê thì biến
IM lại không có ý nghĩa thống kê (khi P-value > alpha). Bên cạnh đó, những biến có
tác động thuận chiều đến giá dầu là chỉ số lạm phát, xuất khẩu, và các biến có tác
động ngược chiều đến giá dầu là tỷ giá hối đoái, chỉ số sản xuất công nghiệp, cung
tiền.
Vấn đề đặt ra là hàm hồi quy ước lượng được có phù hợp với mô hình mà
chúng ta đang nghiên cứu hay không, mặc dù phương pháp được sử dụng là bình
phương nhỏ nhất (OLS) nhưng để đảm bảo sự phù hợp của mô hình thì chúng ta cần
phải kiểm định các tham số hồi quy.
Kết quả chúng ta thu được là khoảng ước lượng với độ tin cậy lần lượt là 90%,
95% và 99%, dễ thấy rằng khoảng ước lượng của β từ -21.83860 đến 11.43916 với độ
tin cậy 90% và tương tự như vậy cho độ tin cậy 95% và 99%. Với khoảng ước lượng
31
của β, ta thấy nó có chứa giá trị 0, nên chúng ta có thể kết luận rằng β=0 với độ tin cậy
95%. Tương tự đối với biến IM, ta có thể kết luận rằng β5=0 với độ tin cậy 95%, và
nghĩa là các biến trong mô hình các quan hệ nghịch biến đối với biến phụ thuộc
Tiếp theo, chúng ta xét tới hệ số β1 có khoảng ước lượng từ 10.93527 đến
27.77981 với độ tin cậy 95%; vì khoảng ước lượng của hệ số β1 không chứa giá trị 0
nên hệ số β1 khác 0. Tương tự đối với các hệ số còn lại, chúng ta có β2 khác 0, β3
khác 0, β4 khác 0, β6 khác 0 với độ tin cậy là 95%, và nghĩa là các biến trong mô hình
các quan hệ đồng biến đối với biến phụ thuộc.
Giả thiết 1 Giả thiết 2 Giả thiết 3 Giả thiết 4 Giả thiết 5 Giả thiết 6
(CPI) (EM) (ER) (IIP) (IM) (M2)
H0: β1 ≠ 0 H0: β2 ≠ 0 H0: β3 ≠ 0 H0: β4 ≠ 0 H0: β5 = 0 H0: β6 ≠ 0
H1: β1 = 0 H1: β2 = 0 H1: β3 = 0 H1: β4 = 0 H1: β5 ≠ 0 H1: β6 = 0
Từ kết quả phân tích được (xem tại phụ lục phần “kiểm định Wald cho giả thiết
5”), chúng ta có P-value = 0.812 > α nếu chúng ta sử dụng mức tin cậy 95%, nên chấp
nhận giả thiết H0 và bác bỏ giả thiết H1, điều này giúp chúng ta đi đến một khẳng
định là hệ số hồi quy của biến nhập khẩu không có ý nghĩa thống kê và tác động đến
giá dầu.
Ngoài ra, từ kết quả chúng ta có thể nhận thấy được rằng tác động của CPI gấp
19 lần tác động EM đến giá dầu. Vì thế, chúng ta có thể thực hiện kiểm định để xem
nhận định đó có đúng hay không (β2=19β1). Từ kết quả hồi quy (xem phụ lục “kiểm
định mức độ tác động của 2 biến CPI và EM đến biến phụ thuộc”), chúng ta có giá trị
P-value = 0.5442 > α nên giả thiết H0: β2=19β1 được chấp thuận, vì thế, chúng ta có
thể đi đến kết luận là mức độ tác động đến biến phụ thuộc của biến CPI gấp 19 lần
biến EM.
Bên cạnh việc tác động cùng chiều của cặp biến CPI và EM, thì chúng ta có
thể thấy rằng việc tác động ngược chiều của cặp biến EM và ER, và tác động của EM
gấp khoảng 7 lần so với tác động của ER. Vì thế, chúng ta có thể thực hiện kiểm định
32
để xem nhận định đó có đúng hay không. Từ kết quả hồi quy (xem phụ lục “kiểm định
mức độ tác động của 2 biến ER và EM đến biến phụ thuộc”), chúng ta có giá trị P-
value = 0.8172> α nên giả thiết H0: β3= -7 x β2 được chấp thuận, vậy chúng ta có thể
đi đến kết luận là mức độ tác động đến biến phụ thuộc của biến ER gấp 7 lần biến
EM, trong đó biến ER tác động ngược chiều còn biến EM tác động thuận chiều đến
biến phụ thuộc.
33
RESID(-2) 0.041395 0.105561 0.392139 0.6957
Để kiểm định mô hình có hiện tượng tự tương quan hay không thì chúng ta
thực hiện kiểm định xem các hệ số RESID(-1), RESID(-2), RESID(-3) có đồng thời =
0 hay không?
Giả thiết:
Từ đó suy ra biến RESID phụ thuộc ít nhất vào 1 trong 3 biến RESID(-1),
RESID(-2), RESID(-3) (hoặc là có ít nhất 1 trong 3 biến RESID(-1), RESID(-2),
RESID(-3) tương quan với biến RESID).
Kết luận được đưa ra là bác bỏ H0 nên mô hình gốc của chúng ta có hiện tượng
tự tương quan.
34
định Granger cho thấy giá dầu thô chỉ có tác động đến biến IIP, M2 và tỷ giá hối đoái
trong dài hạn mà không có tác động trong ngắn hạn.
Kết quả phân tích hàm phản ứng đẩy cho thấy phản ứng của các biến phụ thuộc
trước sự biến động giá dầu là tạm thời. Bên cạnh đó kết quả phân rã phương sai cũng
cho thấy giá dầu giải thích tương đối ít cho các biến phụ thuộc. Trong đó, biến tỉ giá
hối đoái thì mức độ giải thích của biến động giá dầu tương đối ổn định trong ngắn hạn
và dài hạn dừng lại ở mức 7.2% trong giai đoạn nghiên cứu.
Nhìn chung, bài nghiên cứu đã đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu ban đầu đề ra
là trả lời được câu hỏi về việc sự tăng giảm giá dầu có tác dộng đến các biến vĩ mô
trong nền kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung hay không?
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế nhất định. Vì thời gian thực hiện có
hạn, bài nghiên cứu chỉ được phân tích trên số liệu trong vòng 10 năm từ tháng 1 năm
2012 đến tháng 12 năm 2021. Đồng thời, các biến phụ thuộc vẫn còn tương đối ít để
đánh giá toàn bộ các yếu tố trong nền kinh tế. Chuỗi thời gian của dữ liệu càng dài và
nhiều biến hơn sẽ tăng độ tin cậy và tầm vĩ mô của bài nghiên cứu.
35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đinh Thị Thu Hồng và cộng sự, 2016. Nghiên cứu phản ứng kinh tế vĩ mô của
Việt Nam trước cú sốc của giá dầu. CS-2015-27. Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường
Đại học Kinh tế TP.HCM
[2] Nguyễn, Đ. T., Bùi, T., & Đào, N. T. (2009). Ảnh hưởng của tăng giá xăng
dầu: Một số phân tích định lượng ban đầu. VNU Journal of Science: Economics and
Business, 25(1).
[3] Nguyễn Thị Liên Hoa & Trần Thu Giang, 2012. Tác động của cú sốc giá mỏ
đến nền kinh tế Việt Nam và những dự báo cho giai đoạn 2012 - 2020. CS-2011-12.
Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
[4] Thơ, T. N., & Tuấn, N. H. (2013). Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt
Nam tiếp cận theo mô hình SVAR. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (10 (20)), 8-16.
Tiếng Anh
[1] Barro, R.J., 1984. Macroeconomics. John Wiley and Sons.
[2] Backus, D. K., & Crucini, M. J. (2000). Oil prices and the terms of trade.
Journal of international Economics, 50(1), 185-213.
[3] Bernanke, B. S., Gertler, M., Watson, M., Sims, C. A., & Friedman, B. M.
(1997). Systematic monetary policy and the effects of oil price shocks. Brookings
papers on economic activity, 1997(1), 91-157.
[4] Bjørnland, H. C. (2000). The dynamic effects of aggregate demand, supply
and oil price shocks—a comparative study. The Manchester School, 68(5), 578-607.
[5] Blanchard, O. J., & Gali, J. (2007). The Macroeconomic Effects of Oil
Shocks: Why are the 2000s so different from the 1970s?.
[6] Bohi. D R , 1989. Energy Price Shocks and Macroeconomic Performance.
Washington, P.C.: Resources for the Huture.
[7] Bohi, D. R. (1991). On the macroeconomic effects of energy price shocks.
Resources and Energy, 13(2), 145-162.
[8] Brown, S.P.A., Yücel, M.K., 1999. Oil prices and U.S. aggregate economic
activity. Federal Reserve Bank of Dallas Economic Review 16–53
36
[9] Brown, S. P., & Yücel, M. K. 2002. Energy prices and aggregate economic
activity: an interpretative survey. The Quarterly Review of Economics and Finance,
42(2), 193-208.
[10] Bruno, M., & Sachs, J. (1982). Input price shocks and the slowdown in
economic growth: the case of UK manufacturing. The Review of Economic Studies,
49(5), 679-705.
[11] Burbidge, J., & Harrison, A. (1984). Testing for the effects of oil-price rises
using vector autoregressions. International economic review, 459-484.
[12] Carruth, A. A., Hooker, M. A., & Oswald, A. J. (1998). Unemployment
equilibria and input prices: Theory and evidence from the United States. Review of
economics and Statistics, 80(4), 621-628.
[13] Cobo-Reyes, R., & Pérez Quirós, G. (2005). The effect of oil price on
industrial production and on stock returns.
[13] Cologni, A., & Manera, M. (2008). Oil prices, inflation and interest rates in a
structural cointegrated VAR model for the G-7 countries. Energy economics, 30(3),
856-888.
[14] Cuñado, J., & de Gracia, F. P. (2003). Do oil price shocks matter? Evidence
for some European countries. Energy economics, 25(2), 137-154.
[15] Cunado, J., & De Gracia, F. P. (2005). Oil prices, economic activity and
inflation: evidence for some Asian countries. The Quarterly Review of Economics and
Finance, 45(1), 65-83.
[16] Darby, M. R. (1982). The price of oil and world inflation and recession. The
American Economic Review, 72(4), 738-751.
[17] Davis, S. J., & Haltiwanger, J. (2001). Sectoral job creation and destruction
responses to oil price changes. Journal of monetary economics, 48(3), 465-512.
[18] Dohner, R. S. (1981). Energy prices, economic activity and inflation: survey
of issues and results. Energy prices, inflation and economic activity. Ballinger,
Cambridge, MA.
[19] Ferderer, J., 1996. Oil price volatility and the mucrocconomx. Journal of
37
Macroeconomics, 18. 1-26.
[20] Finn, G. Mary, 2000. Perfect competition and the effects of energy price
increases on economics activity. Journal of Money, Credit and Banking. 32 (3). 400-
416.
[21] Fried, E. R., & Schultze, C. L. (1975). Overview, Hingher Oil Prices and the
World Economy. Washington, DC: The Brookings Institution.
[22] Gisser, M., & Goodwin, T. H. (1986). Crude oil and the macroeconomy: Tests
of some popular notions: Note. Journal of Money, Credit and Banking, 18(1), 95-103.
[23] Hamilton, J. D. (1983). Oil and the macroeconomy since World War II.
Journal of political economy, 91(2), 228-248.
[24] Hamilton, J. D. (1996). This is what happened to the oil price-macroeconomy
relationship. Journal of monetary economics, 38(2), 215-220.
[25] Herrera, A. M., & Hamilton, J. D. (2001). Oil shocks and aggregate
macroeconomic behavior: the role of monetary policy.
[26] Hooker, M. A. (1996). What happened to the oil price-macroeconomy
relationship?. Journal of monetary Economics, 38(2), 195-213.
[27] Jiménez-Rodríguez*, R., & Sánchez, M. (2005). Oil price shocks and real
GDP growth: empirical evidence for some OECD countries. Applied economics,
37(2), 201-228.
[28] Jiménez-Rodríguez, R. (2008). The impact of oil price shocks: Evidence from
the industries of six OECD countries. Energy Economics, 30(6), 3095-3108.
[29] Joskow, P. L., Bohi, D. R., & Gollop, F. M. (1989). Regulatory failure,
regulatory reform, and structural change in the electrical power industry. Brookings
papers on economic activity. Microeconomics, 1989, 125-208.
[30] Keane, M. P., & Prasad, E. S. (1996). The employment and wage effects of oil
price changes: a sectoral analysis. The Review of Economics and Statistics, 389-400.
[31] Kilian, L., Park, C., 2007. The impact of oil price shocks on the U.S. stock
market. CPER Discussion Paper 6166.
38
[32] Kim, I. M., & Loungani, P. (1992). The role of energy in real business cycle
models. journal of Monetary Economics, 29(2), 173-189.
[33] Korhonen, I., & Ledyaeva, S. (2010). Trade linkages and macroeconomic
effects of the price of oil. Energy Economics, 32(4), 848-856.
[34] Lardic, S., & Mignon, V. (2006). The impact of oil prices on GDP in
European countries: An empirical investigation based on asymmetric cointegration.
Energy policy, 34(18), 3910-3915.
[35] Lee, K., & Ni, S. (2002). On the dynamic effects of oil price shocks: a study
using industry level data. Journal of Monetary economics, 49(4), 823-852.
California: W.R.Hamnrecht.
[36] Lippi, F., & Nobili, A. (2012). Oil and the macroeconomy: a quantitative
structural analysis. Journal of the European Economic Association, 10(5), 1059-1083.
[37] Mehrara, M., & Sarem, M. (2009). Effects of oil price shocks on industrial
production: evidence from some oil‐exporting countries. OPEC Energy review, 33(3‐
4), 170-183.
[38] Mork, K. A. (1989). Oil and the macroeconomy when prices go up and down:
an extension of Hamilton's results. Journal of political Economy, 97(3), 740-744.
[39] Mork, K. A. (1994). Business cycles and the oil market. The Energy Journal,
15(Special Issue).
[40] Mory, J. F. (1993). Oil prices and economic activity: is the relationship
symmetric?. The Energy Journal, 14(4).
[41] Narayan, P. K., & Narayan, S. (2010). Modelling the impact of oil prices on
Vietnam’s stock prices. Applied energy, 87(1), 356-361.
[42] Pierce, J. L., Enzler, J. J., Fand, D. I., & Gordon, R. J. (1974). The effects of
external inflationary shocks. Brookings Papers on Economic Activity, 1974(1), 13-61.
[43] Rasche, R. H., & Tatom, J. A. (1977). Energy resources and potential GNP.
Review
[44] Raymond, J. E., & Rich, R. W. (1997). Oil and the macroeconomy: A Markov
state-switching approach. Journal of Money, Credit, and banking, 193-213.
39
[45] Rogoff, K. (2006). Oil and the global economy. Manuscript, Harvard
University
[46] Rotemberg, J. J., & Woodford, M. (1996). Imperfect competition and the
effects of energy price increases on economic activity.
[47] Tang, W., Wu, L., & Zhang, Z. (2010). Oil price shocks and their short-and
long-term effects on the Chinese economy. Energy Economics, 32, S3-S14.
[48] Weimer, DL (1987). Các cú sốc về giá dầu, phản ứng của thị trường và lập kế
hoạch dự phòng. Sách .
40
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thống kê mô tả dữ liệu
Statistics
Phụ lục 2: Kiểm định nghiệm đơn vị của chuỗi dữ liệu gốc
t-Statistic Prob.*
41
C 0.128366 0.070493 1.820991 0.0713
@TREND("2012M01") -6.29E-05 0.000165 -0.380407 0.7044
t-Statistic Prob.*
42
F-statistic 24.28904 Durbin-Watson stat 1.920327
Prob(F-statistic) 0.000000
t-Statistic Prob.*
43
t-Statistic Prob.*
t-Statistic Prob.*
44
Augmented Dickey-Fuller Test Equation
Dependent Variable: D(EM)
Method: Least Squares
Date: 04/15/22 Time: 23:09
Sample (adjusted): 2013M01 2021M12
Included observations: 108 after adjustments
t-Statistic Prob.*
45
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
46
Phillips-Perron Test Equation
Dependent Variable: D(OIL)
Method: Least Squares
Date: 04/15/22 Time: 23:11
Sample (adjusted): 2012M02 2021M12
Included observations: 119 after adjustments
47
Sample (adjusted): 2012M02 2021M12
Included observations: 119 after adjustments
48
IIP(-1) -0.162212 0.049728 -3.262009 0.0015
C 0.345826 0.105287 3.284610 0.0014
@TREND("2012M01") 4.53E-05 0.000145 0.311716 0.7558
49
Adjusted R-squared 0.505785 S.D. dependent var 0.395073
S.E. of regression 0.277738 Akaike info criterion 0.300610
Sum squared resid 8.948051 Schwarz criterion 0.370671
Log likelihood -14.88627 Hannan-Quinn criter. 0.329059
F-statistic 61.38130 Durbin-Watson stat 2.001458
Prob(F-statistic) 0.000000
50
Prob(F-statistic) 0.000000
51
Null Hypothesis: M2 has a unit root
Exogenous: Constant, Linear Trend
Bandwidth: 4 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phụ lục 3: Kiểm định nghiệm đơn vị của chuỗi sai phân I(1)
52
t-Statistic Prob.*
t-Statistic Prob.*
53
Augmented Dickey-Fuller Test Equation
Dependent Variable: D(CPI,2)
Method: Least Squares
Date: 04/15/22 Time: 23:21
Sample (adjusted): 2012M09 2021M12
Included observations: 112 after adjustments
t-Statistic Prob.*
54
Date: 04/15/22 Time: 23:21
Sample (adjusted): 2012M03 2021M12
Included observations: 118 after adjustments
t-Statistic Prob.*
55
R-squared 0.803387 Mean dependent var -5.22E-05
Adjusted R-squared 0.796237 S.D. dependent var 0.696494
S.E. of regression 0.314398 Akaike info criterion 0.566190
Sum squared resid 10.87306 Schwarz criterion 0.685535
Log likelihood -27.55593 Hannan-Quinn criter. 0.614632
F-statistic 112.3686 Durbin-Watson stat 2.080756
Prob(F-statistic) 0.000000
t-Statistic Prob.*
56
D(EM(-11),2) -0.678997 0.187758 -3.616342 0.0005
D(EM(-12),2) -0.267434 0.088772 -3.012600 0.0033
C 0.022345 0.006442 3.468411 0.0008
t-Statistic Prob.*
57
Log likelihood 546.9722 Hannan-Quinn criter. -9.323044
F-statistic 52.61908 Durbin-Watson stat 1.918469
Prob(F-statistic) 0.000000
t-Statistic Prob.*
58
Adj. t-Stat Prob.*
59
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
60
Phillips-Perron Test Equation
Dependent Variable: D(IIP,2)
Method: Least Squares
Date: 04/15/22 Time: 23:46
Sample (adjusted): 2012M03 2021M12
Included observations: 118 after adjustments
61
Date: 04/15/22 Time: 23:46
Sample (adjusted): 2012M03 2021M12
Included observations: 118 after adjustments
62
D(EM(-1)) -1.514508 0.079616 -19.02277 0.0000
C 0.008445 0.004654 1.814610 0.0722
63
Sum squared resid 0.000625 Schwarz criterion -9.230238
Log likelihood 549.3547 Hannan-Quinn criter. -9.258131
F-statistic 129.2684 Durbin-Watson stat 2.026998
Prob(F-statistic) 0.000000
64
VAR Lag Order Selection Criteria
Endogenous variables: D(CPI) D(EM) D(ER) D(IM) D(IPI) D(M2) D(OIL)
Exogenous variables: C
Date: 04/16/22 Time: 20:01
Sample: 1 120
Included observations: 111
65
At most 1 * 0.517188 316.0266 95.75366 0.0000
At most 2 * 0.432197 231.5637 69.81889 0.0000
At most 3 * 0.390220 165.9101 47.85613 0.0000
At most 4 * 0.355189 108.5298 29.79707 0.0000
At most 5 * 0.241375 57.62932 15.49471 0.0000
At most 6 * 0.197928 25.58459 3.841466 0.0000
D(CPI(-1)) 1.000000
D(EM(-1)) -0.050679
(0.01289)
[-3.93249]
66
D(ER(-1)) 0.350727
(0.15166)
[ 2.31257]
D(IM(-1)) -0.011964
(0.00135)
[-8.83055]
D(IPI(-1)) 0.006493
(0.00808)
[ 0.80305]
D(M2(-1)) 0.115063
(0.05057)
[ 2.27525]
D(OIL(-1)) 0.009795
(0.00569)
[ 1.72276]
C -0.000450
D(IPI(-1)) 1.000000
D(CPI(-1)) 154.0208
(32.3603)
[ 4.75955]
D(EM(-1)) -7.805618
(1.67845)
[-4.65049]
D(ER(-1)) 54.01923
(23.3273)
[ 2.31571]
67
D(IM(-1)) -1.842704
(0.20875)
[-8.82728]
D(M2(-1)) 17.72210
(7.88430)
[ 2.24777]
D(OIL(-1)) 1.508707
(1.02122)
[ 1.47736]
C -0.069347
D(EM(-1)) 1.000000
D(CPI(-1)) -19.73204
(4.00488)
[-4.92701]
D(ER(-1)) -6.920557
(2.93698)
[-2.35635]
D(IM(-1)) 0.236074
(0.02675)
[ 8.82440]
D(IPI(-1)) -0.128113
(0.13032)
[-0.98309]
D(M2(-1)) -2.270429
(1.00812)
68
[-2.25215]
D(OIL(-1)) -0.193285
(0.12066)
[-1.60184]
C 0.008884
D(IM(-1)) 1.000000
D(CPI(-1)) -83.58412
(17.5724)
[-4.75656]
D(EM(-1)) 4.235959
(1.11655)
[ 3.79380]
D(ER(-1)) -29.31519
(12.6632)
[-2.31500]
D(IPI(-1)) -0.542681
(0.67645)
[-0.80225]
D(M2(-1)) -9.617442
(4.24838)
[-2.26379]
D(OIL(-1)) -0.818746
(0.55812)
[-1.46698]
C 0.037634
69
VEC Granger Causality/Block Exogeneity Wald Tests
Date: 04/16/22 Time: 20:07
Sample: 1 120
Included observations: 116
70
Dependent variable: D(IM,2)
71
D(ER,2) 1.125209 2 0.5697
D(IM,2) 0.471657 2 0.07899
D(IPI,2) 0.013407 2 0.9933
D(M2,2) 0.347245 2 0.8406
Variance
Decompositi
on of
D(OIL):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
Variance
Decompositi
on of
D(CPI):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
72
8 0.002373 26.73055 59.82128 0.725120 3.029826 0.470395 0.252697 8.970132
9 0.002373 26.72689 59.81697 0.725305 3.035216 0.472537 0.254081 8.969003
10 0.002373 26.72847 59.81509 0.725659 3.035710 0.472685 0.254449 8.967937
Variance
Decompositi
on of D(ER):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
Variance
Decompositi
on of D(IIP):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
Variance
Decompositi
on of D(IM):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
73
2 0.412175 0.831981 0.754304 0.243079 0.014173 97.07861 0.000260 1.077588
3 0.416584 0.954865 0.738434 0.238362 0.013876 96.01667 0.001251 2.036542
4 0.420336 1.032085 0.949000 0.282186 0.071120 95.62731 0.009168 2.029128
5 0.423819 1.144992 1.028104 0.300816 0.125177 95.31721 0.014368 2.069330
6 0.424379 1.172324 1.032974 0.301836 0.125353 95.22376 0.015771 2.127978
7 0.424527 1.174409 1.066443 0.302076 0.131909 95.16431 0.019706 2.141151
8 0.424684 1.196505 1.069099 0.303719 0.138253 95.13259 0.020266 2.139570
9 0.424743 1.199685 1.069886 0.304905 0.139863 95.12237 0.020282 2.143008
10 0.424756 1.200535 1.071035 0.304941 0.139976 95.11733 0.020526 2.145662
Variance
Decompositi
on of
D(M2):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
Variance
Decompositi
on of
D(EM):
Period S.E. D(OIL) D(CPI) D(ER) D(IIP) D(IM) D(M2) D(EM)
74
10 0.061728 2.791275 4.550767 1.377922 19.54634 0.518858 2.663904 68.55093
75
EM 1.123792 0.788520 1.459064 0.723277 1.524307 0.594125 1.653458
ER -7.372950 -9.730530 -5.015371 -10.18931 -4.556592 -11.09748 -3.648418
IIP -0.511045 -0.670677 -0.351414 -0.701741 -0.320350 -0.763233 -0.258857
IM -0.007733 -0.061543 0.046078 -0.072015 0.056550 -0.092743 0.077278
M2 -0.697471 -1.072288 -0.322654 -1.145227 -0.249715 -1.289612 -0.105330
Wald Test:
Equation: Untitled
C(6) -0.007733
[kiểm định mức độ tác động của 2 biến CPI và EM đến biến phụ thuộc]
Wald Test:
Equation: Untitled
76
Null Hypothesis Summary:
[kiểm định mức độ tác động của 2 biến CPI và EM đến biến phụ thuộc]
Wald Test:
Equation: Untitled
Test Equation:
Dependent Variable: RESID
Method: Least Squares
Date: 04/19/22 Time: 18:03
Sample: 1 120
77
Included observations: 120
Presample missing value lagged residuals set to zero.
78