Professional Documents
Culture Documents
1. Mục đích
Các xét nghiệm huyết học được bác sỹ chỉ định trên lâm sàng với các mục đích cơ bản
sau:
- Đánh giá sức khỏe tổng thể:
- Chẩn đoán bệnh: Những rối loạn
- Theo dõi tình trạng bệnh lý
- Theo dõi quá trình điều trị
2. Các xét nghiệm cơ bản
Máu được chia thành 2 thành phần chính đó là tế bào máu và huyết tương (hoặc huyết
thanh)
Tế bào máu bao gồm:
Hồng cầu: Chiếm số lượng nhiều nhất, chứa huyết sắc tố, giúp máu có màu đỏ.
Hồng cầu làm nhiệm vụ vận chuyển oxy từ phổi tới các mô và nhận CO2 từ các mô lên
đào thải ở phổi. Thời gian sống trung bình của hồng cầu khoảng 90 - 120 ngày. Mỗi ngày
có trung bình khoảng 200 - 400 tỷ hồng cầu chết đi, được thay thế từ hồng cầu mới sinh
ra từ tủy xương;
Bạch cầu: Có chức năng bảo vệ cơ thể bằng cách phát hiện và tiêu diệt các tác
nhân lạ gây bệnh. Có nhiều loại bạch cầu khác nhau, thời gian sống trung bình từ 1 tuần
tới vài tháng;
Tiểu cầu: Là những mảnh tế bào rất nhỏ, tham gia vào chức năng cầm máu, tạo các
cục máu đông để bịt các vết thương ở thành mạch. Tiểu cầu có thời gian sống trung bình
khoảng 5 -7 ngày.
Huyết tương là thành phần vô hình, có màu vàng, thành phần chính là nước. Ngoài ra,
huyết tương có chứa nhiều chất quan trọng trong việc phát triển và chuyển hóa của cơ thể như:
albumin, các yếu tố đông máu, đường, vitamin, muối khoáng, các kháng thể, hormone và các
enzyme.
2.1 Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi
Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi hay còn được gọi là xét nghiệm công thức
máu là một xét nghiệm thường quy. Là một xét nghiệm cơ bản, được thực hiện đơn giản, thời
gian xét nghiệm nhanh chóng và chung cấp các thông số rất hữu ích trong việc đánh giá một
cách tổng thể về tình trạng sức khỏe.
Mẫu máu bệnh nhân sau khi được lấy sẽ được cho vào các ống nghiệm có chứa các chất
chống đông để ngăn máu đông lại, sau đó được cho vào máy phân tích huyết học nhằm:
• Đếm số lượng các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu
• Tính thể tích khối hồng cầu
• Đo kích thước và tính kích thước trung bình của tế bào hồng cầu
• Định lượng hemoglobin có trong các tế bào hồng cầu;
• Xác định tỷ lệ của từng loại tế bào bạch cầu trong mẫu máu
…
Từ những thông số trên, kết quả của xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi dùng
để đánh giá:
- Chất lượng và số lượng các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu
- Phát hiện các rối loạn của cơ thể như nhiễm trùng, thiếu máu hay các bệnh lý về máu.
2.2 Xét nghiệm đông máu
Đông máu là sự thay đổi tình trạng vật lý của máu, là quá trình sinh lý quan trọng diễn ra
trong cơ thể. Kết quả đông máu tạo thành nút cầm máu, ngăn ngừa mất máu ngoài mạch, hàn vết
thương, trả lại sự lưu thông cho mạch máu. Nếu không có quá trình đông máu cơ thể người sẽ tử
vong do mất máu, xét nghiệm đông máu vô cùng quan trọng trọng phát hiên, chẩn đoán và điều
trị rối loạn đông máu cho bệnh nhân.
Quá trình đông máu gồm 3 giai đoạn chính: giai đoạn cầm máu ban đầu, giai đoạn đông
máu, giai đoạn tiêu sợi huyết.
Xét nghiệm động máu là toàn bộ các xét nghiệm tương ứng với từng giai đoạn của quá
trình trên. Hiện nay, hầu như những xét nghiệm máu đông đều được tiến hành bằng máy móc tự
động dưới sự giám sát của bác sỹ chuyên môn.
Bộ xét nghiệm đông máu cơ bản là:
Đếm số lượng tiểu cầu
TS: Thời gian máu chảy
TCK (APPT, TCA): Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa Thăm dò
con đường nội sinh
TQ (PT, INR): Thời gian prothrombin hay còn gọi thời gian Quick Thăm dò
con đường đông máu ngoại sinh.
TT: Thời gian thrombin đánh giá con đường đông máu chung.
….
2.3 Nhóm máu
Hệ thống nhóm máu ABO được sử dụng để xác định các loại kháng nguyên trên bề mặt
hồng cầu và kháng thể trong huyết tương.
Ứng dụng của hệ thống nhóm màu nhắm xác định loại máu, từ đó người bệnh cần truyền
máu sẽ được truyền loại máu phù hợp và an toàn.
Nhóm A: Bề mặt của tế bào hồng cầu chứa kháng nguyên A và huyết tương có kháng
thể chống B sẽ tạo kết tủa với bất kỳ nhóm máu nào có KN B
Nhóm B: Bề mặt tế bào hồng cầu chứa kháng nguyên B và huyết tương có kháng thể
chống A sẽ tạo kết tủa với bất kỳ nhóm máu nào có kháng nguyên A
Nhóm AB: tế bào hồng cầu nhóm máu này có cả kháng nguyên A và B, nhưng huyết
tương không chứa kháng thể chống và chống B. Các cá nhân nhóm máu AB có thể nhận
được bất kỳ nhóm máu nào.
Nhóm O: trong huyết tương chứa cả hai loại kháng thể chống A và chống B, nhưng
bề mặt tế bào hồng cầu không chứa kháng nguyên A hay B nào. Không có kháng nguyên
nghĩa là nhóm máu này có thể được truyền máu cho người có bất kỳ nhóm máu nào.
Một số tế bào hồng cầu có yếu tố Rh, còn được gọi là kháng nguyên D. Tế bào hồng cuầ
chứa kháng nguyên D là Rh (+), nếu không thì Rh (-).
Hiện nay, người ta xác định nhóm máu bệnh nhân dựa vào: Kháng nguyên trên bề mặt
hồng cầu hoặc kháng thể trong huyết thanh.
Gồm có 2 phương pháp chính: Thủ công và tự động
Phương pháp thủ công: Phương pháp này thực hiện định nhóm máu trên phiến hoặc trong
ống nghiệm. Ưu điểm là đơn giản, dễ làm, giá thành xét nghiệm rẻ nên được áp dụng phổ
biến. Tuy nhiên kỹ thuật xét nghiệm này dễ gặp sai sót, tỷ lệ sai sót phụ thuộc nhiều vào tay nghề
và trình độ của người thực hiện, vì thế rất có khả năng nhầm lẫn.
Phương pháp tự động: Đây là kỹ thuật xét nghiệm mới, có thể định nhóm máu bằng
Gelcard bán tự động hoặc bằng Gelcard trên máy tự động hoàn toàn. Do là kỹ thuật xét nghiệm
tự động nên độ nhạy và độ đặc hiệu cao, kết quả chính xác và độ tin cậy cao. Bên cạnh đó, định
nhóm máu bằng Gelcard tự động hoàn toàn chỉ cần lượng mẫu ít (1 ống chống đông EDTA), có
thể phân tích cùng lúc nhiều mẫu nên có thể xét nghiệm hàng loạt, thời gian xét nghiệm và trả
kết quả nhanh.
KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM CƠ BẢN TRONG SINH HÓA
Xét nghiệm sinh hóa nhằm định lượng nồng độ các chất hóa học nhất định trong mẫu máu,
nước tiểu, dịch não tủy, … nhờ đó cung cấp các thông tin quan trọng về mức độ hoạt động của
thận, gan và các cơ quan khác của người bệnh. Những bất thường các chất trong mẫu bệnh phẩm
chính là dấu hiệu của bệnh hoặc tác dụng phụ của việc điều trị bệnh.
Các xét nghiệm sinh hóa được sử dụng trong đánh giá khám sức khỏe tổng quát, chẩn đoán
và theo dõi nhiều tình trạng bệnh lý trước, trong và sau điều trị. Theo thống kê, có tới 220 kỹ
thuật xét nghiệm sinh hóa cơ bản từ các loại bệnh phẩm khác nhau như máu, nước tiểu, dịch não
tủy, thủy dịch mắt, dịch chọc dò, …
Hiện nay, hầu như những xét nghiệm sinh hóa đều được tiến hành bằng máy móc tự động
dưới sự chỉ định của bác sỹ lâm sàng.
1. Sinh hóa máu
1.1 Chức năng gan
Gan là nội tạng lớn nhất của cơ thể, giữ nhiều vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
hóa các chất (điều hòa đường huyết, tổng hợp và thoái hóa lipid, trao đổi và khử amin, tạo và bài
tiết mật, khử độc nội sinh ..).
Những xét nghiệm sinh hóa dùng trong đánh giá chức năng gan đo lường khả năng của gan
đang hoạt động tốt như thế nào – trong đó các thông số chủ yếu về men gan – các enzyme giúp
gan trao đổi và khử amin - là alanine transaminase (ALT), aspartate transaminase (AST),
Gamma glutamyl transferase (GGT) và phosphatase kiềm (ALP). Nồng độ men gan cao có thể
là dấu hiệu của viêm gan hay tổn thương tế bào gan.
Các xét nghiệm chức năng gan khác là đo nồng độ của bilirubin – sản phẩm của quá trình
phân hủy huyết sắc tố từ hồng cầu. Nồng độ cao của bilirubin có thể chỉ ra các vấn đề về gan (do
80% bilirubin trong máu được tế bào gan giữ lại, chuyển hóa và bài xuất vào trong đường mật),
do đó rối loạn chuyển hóa bilirubin (nồng độ bilirubin tăng cao trong các tế bào gan) sẽ dẫn đến
quá trình trào ngược bilirubin vào dòng tuần hoàn và gây vàng da. Ngoài ra xét nghiệm ure máu,
NH3 máu, Albumin máu cũng giúp bác sỹ đánh giá chức năng gan.
1.2 Chức năng thận
Thận là nơi đào thải chủ yếu các chất điện giải và các sản phẩm thoái hóa của protiein và
acid nucleic (ure, creatinine, acid uric ..) do đó những xét nghiệm sinh hóa chức năng thận được
sử dụng để đánh giá các rối loạn chức năng thận và chẩn đoán, theo dõi điều trị các bệnh thận .
Một trong những sản phẩm chuyển hóa quan trọng để đánh giá chức năng thận, đó là nitơ
urê máu (BUN) và creatinin. Từ các chỉ số này, bác sỹ sinh hóa tính ra chỉ số mức lọc của cầu
thận cũng như hệ số thanh thải (clearance) - đây là thước đo mức độ thận lọc máu như thế nào.
Nếu có bất kỳ nguyên nhân nào tác động lên chức năng lọc của thận, các sản phẩm này sẽ
ứ lại trong máu và biểu hiện là tăng nồng độ trong máu, biểu thị trên kết quả xét nghiệm (vượt
mức bình thường).
1.3 Điện giải
Vai trò của các chất điện giải:
Điện học trên màng tế bào, dây thần kinh
Duy trì cân bằng nội mô
Điều hòa chức năng tim và thần kinh
Cân bằng chất lỏng, phân phối oxy
Cân bằng acid – base
Các chất điện giải chủ yếu: HCO3-, Cl-, K+, Na+, Ca2+
Sự mất cân bằng điện giải có thể là do ăn quá nhiều hoặc giảm uống hay loại bỏ quá nhiều
các chất điện giải cần thiết hoặc nước hoặc do các vấn đề về thận hay rối loạn chức năng chuyển
hóa của các cơ quan khác
1.4 Đường huyết
Glucose là nguồn năng lượng chính của cơ thể, các tế bào trong cơ thể sử dụng glucose
làm năng lượng trong quá trình chuyển hóa hiếu khí. Nguồn glucose được lấy từ thực phẩm ăn
vào (các carbonhdrate – glucose ngoại sinh) và quá trình chuyển hóa glycogen thành glucose tại
gan (chuyển hóa nội sinh). Dưới sự tác động và điều hòa của các hormone điều hòa nồng độ
glucose trong cơ thể, nồng độ glucose trong máu sẽ tăng lên sau bữa ăn và giảm thấp vào
khoảng giữa các bữa ăn nhưng luôn đảm bảo lượng Glucose trong máu luôn giữ ở một khoảng
nồng độ nhất định. Vì vậy, để đánh giá chỉ số đường huyết được chính xác, người bệnh cần được
dặn dò nhịn ăn ít nhất 8 đến 12 giờ trước khi lấy máu làm xét nghiệm.
Nếu lượng đường trong máu cao, đây có thể là dấu hiệu của bệnh đái tháo đường hoặc
kháng insulin. Tuy nhiên, việc xác định và chẩn đoán những bệnh lý này cần dựa trên ít nhất hai
thông số cũng như đánh giá lặp lại, bởi lẽ việc điều trị đái tháo đường cần theo dõi và tuân thủ
suốt đời
1.5 Lipid máu
Lipid máu hay mỡ máu (là tên gọi chung cho các loại mỡ trong huyết thanh, bao gồm rất
nhiều loại khác nhau) là một yếu tố nguy cơ chính gây xơ vữa động mạch, là nguyên nhân của
các biến cố quan trọng trong các bệnh lý tim mạch như nhồi máu cơ tim hay đột quỵ. Chính vì
vậy, phát hiện sớm chứng rối loạn lipid máu thông qua sự tăng nồng độ các thành phần và điều
trị là các phòng ngừa tiên phát hiệu quả đã được chứng minh.
Đồng thời, vì quá trình chuyển hóa chất béo trong cơ thể có sự tham gia của các thành
phần trung gian khác nhau, các loại cholesterol thường được chỉ định trong lâm sàng
là cholesterol toàn phần (thành phần quan trọng nhất, có trong hầu hết các mô và tổ chức của
cơ thể, tham gia xây dựng cấu trúc tế bào, sản xuất hormone, vận hành chức năng não bộ, dự trữ
vitamin), Lipoprotein cholesterol tỷ trọng thấp (LDL), Lipoprotein cholesterol tỷ trọng cao
((HDL) và triglyceride (vì không hòa tan trong nước nên cholesterol và các chất mỡ như
triglyceride cần kết hợp với protein trở thành chất dễ tan trong nước là lipoprotein để dễ dàng di
chuyển trong máu) do đó đây là 4 xét nghiệm chính để đánh giá nồng độ mỡ máu trong cơ thể.
1.6 Protein máu
Protein là một thành phần quan trọng có vai trò trong nhiều hoạt động chức năng của cơ
thể, cung cấp thông tin về các vấn đề dinh dưỡng và giúp chẩn đoán bệnh lý tại gan, thận, đông
máu ...
Bất cứ sự thay đổi bất thường nào về hàm lượng protein máu đều có ý nghĩa phản ánh tình
trạng sức khỏe đang gặp vấn đề. Theo đó, kết quả protein máu quá cao hay quá thấp đều cần
được tìm kiếm nguyên nhân, giúp cho bác sĩ phát hiện từ giai đoạn sớm của bệnh và có gợi ý
chẩn đoán chính xác bệnh.
1.7 Chỉ dấu ung thư
Những chất do các tế bào ung thư hoặc các tế bào khác của cơ thể sản sinh ra đáp ứng với
ung thư hoặc một số bệnh lành tính. Bình thường các chất chỉ dấu ung thư vẫn được các tế bào
bình thường của cơ thể tiết ra nhưng lượng các chất này sẽ tăng lên rất nhiều đối với các bệnh
nhân mắc bệnh lý ung thư.
Ngoài ra chẩn đoán ung dựa vào xét nghiệm tumor marker còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố cơ
địa, nghĩa là không phải ai bị ung thư cũng có lượng chất chỉ dấu ung thư liên quan đến loại ung
thư này cũng tăng cao. Do vậy để chẩn đoán chính xác các loại ung thư này, bên cạnh việc sử
dụng kết quả xét nghiệm tumor marker, các bác sĩ cần phải kết hợp thêm các kết quả lâm sàng
và cận lâm sàng khác như sinh thiết, chẩn đoán hình ảnh...
2. Sinh hóa nước tiểu
Các xét nghiệm sinh hóa nước tiểu thường được chỉ định khi:
Kiểm tra sức khỏe định kỳ
Kiểm tra khi có triệu chứng ở thận
Chẩn đoán các bệnh
Theo dõi diễn tiến bệnh
Khám thai định kỳ
2.1 Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu
Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu là quá trình kiểm tra sự hiện diện, nồng độ các chất
trong nước tiêu bao gồm: quan sát đại thể, 10 thông số nước tiểu (xét nghiệm nước tiểu bằng que
nhúng sau đó so sánh màu sắc biến đổi trên que với bảng màu chuẩn, phân tích các thông số
trong nước tiểu)
Bình thường tỷ trọng và pH nước tiểu có giá trị cụ thể. Còn các chất bất thường trong nước
tiểu có nồng độ rất thấp, không thể phát hiện được bằng các xét nghiệm thông thường. Nhưng
khi phát hiện được, chúng là những chất bất thường trong nước tiểu, đây cso thể là biểu hiện vấn
đề bệnh lý.
2.2 Soi cặn nước tiểu
Các thành phần hữu hình trong nước tiểu được tạo thành trong quá trình chuyển hóa hay
bệnh lý và được đào thải qua thận ra nước tiểu.
Xét nghiệm soi cặn nước tiểu để tìm các thành phần hữu hình trong nước tiểu như: hồng
cầu, bạch cầu, tế bào biểu mô, các loại trụ hình, tinh thể.
Sau khi quan sát đại thể, nước tiểu được ly tâm, những thành phần hữu hình sẽ tập trung
lại, có thể phát hiện bằng xét nghiệm cặn lắng nước tiểu dưới kính hiển vi.
Xét nghiệm soi cặn lắng nước tiểu, được thực hiển để:
- Kiểm tra sức khỏe định kỳ
- Phát hiện, chẩn đoán cũng như điều trị, theo dõi bệnh lý Ngăn chặn biến chứng
2.3 Định lượng, định tính một số chất trong nước tiểu
Nước tiểu là dịch tiết sinh lý quan trọng, chứa hầu hết cặn bã trong cơ thể, liên quan thành
phần hóa học cơ thể
Trong trường hợp bệnh lý hay rối loạn chuyển hóa Một số chất trong nước tiểu bị thay
đổi. Trong nước tiểu có chứa hàm lượng các chất vô cơ, hữu cơ nhất định. Nếu nước tiểu bình
thường chỉ số các chất này sẽ ở mức cân bằng. Nếu có sự xuất hiện bất thường của một hoặc
nhiều chất hay tăng nồng độ chất bất thường thì rất có thể do vấn đề ở cơ quan nào đó. Định tính
và định lượng nồng độ các chất, trong nước tiểu từ đó định hướng được bệnh lý, theo dõi và
đánh giá hiệu quả điều trị.
Định lượng một số chất: Điện giải, Microalbumin, Ure, Creatinin, Glucose, Protein, …
Glucose: Nước tiểu bình thường có lượng nhỏ glucose. Glucose niệu gặp trong đái tháo
đường tụy, do thiếu insulin nên glucose không thoái hóa được, nồng độ glucose trong máu tăng
cao quá ngưỡng thận nên bị đào thải ra nước tiểu. Cũng có trường hợp có glucose niệu nhưng
nồng độ không cao, đó là do khả năng tái hấp thu của ống thận giảm.
Protein: Các xét nghiệm thông thường không phát hiện được protein, do vậy coi như nước
tiểu bình thường không có protein. Lượng protein đào thải hàng ngày phụ thuộc vào tuổi, giới, tư
thế đứng lâu, phụ thuộc vào hoạt động các cơ. Trong một số trường hợp lao động nặng, phụ nữ
có thai, lượng protein trong nước tiểu cũng tăng nhưng chủ yếu là albumin. Bằng các xét nghiệm
thông thường phát hiện có protein trong nước tiểu đó là protein niệu bệnh lý.
Hồng cầu và hemoglobin: Nước tiểu có hồng cầu trong viêm thận cấp, lao thận, ung thư
thận. Nước tiểu có hemoglobin trong trường hợp sốt rét ác tính, tan huyết, bỏng nặng.
…
KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM CƠ BẢN TRONG VI SINH
Người ta chia các kỹ thuật xét nghiệm cơ bản trong vi sinh thành 2 nhóm chính
Xét nghiệm trực tiếp: Tìm thấy được vi sinh vật gây bệnh trong bệnh phẩm
Xét nghiệm gián tiếp: Tìm thấy được dấu ấn sinh học hoặc sản phẩm mà những vi sinh vật
này tạo ra trong quá trình phát triển trong mẫu bệnh phẩm.
Ngoài ra, các kỹ thuật xét nghiệm cơ bản trong vi sinh cũng có thể được chia thành 4 nhóm
chính, được trình bày như sau:
1. Xét nghiệm nhuộm soi trực tiếp
Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện, nhanh có kết quả, bao gồm:
Làm tiêu bản nhuộm soi từ bệnh phẩm để tìm vi khuẩn, nấm dựa vào hình thể, tính
chất bắt màu, kích thước và cách sắp xếp; đánh giá các loại tế bào.
Làm tiêu bản soi tươi từ bệnh phẩm để tìm một số loại vi khuẩn, nấm dựa vào hình
thể, tính chất di động.
Do sự ổn định tương đối, hình thể và kích thước là một tiêu chuẩn để phân loại vi khuẩn.,
định hướng chẩn đoán. Đối với một số bệnh như lậu, giang mai có thể chẩn đoán xác định bằng
cách nhuôm, soi hình thể vi khuẩn từ bệnh phẩm. Một số bệnh khác như lao, bạch hầu, dịch
hạch, việc xác định hình thể vi khuẩn trực tiếp từ bệnh phẩm cũng có giá trị chẩn đoán cao.
Tùy theo triệu chứng bệnh nhân có thể mắc loại vi khuẩn nào mà bác sỹ sẽ lựa chọn
phương pháp nhuộm thích hợp, bởi vì các loại vi khuẩn có tính chất bắt màu với các thuốc
nhuộm khác nhau là khác nhau.
Có nhiều phương pháp nhuộm như nhuộm Gram, nhuộm xanh methylene, nhuộm Ziehl –
Neelsen, … Trong đó có 2 phương pháp nhuộm thường được sử dụng nhiều nhất là nhuộm Gram
và nhuộm Zeihl – Neelsen.
Nhuộm Gram: Dựa vào sự khác nhau về cấu tạo vách tế bào vi khuẩn Gram dương và
gram âm. Trong quá trình nhuộm, vi khuẩn Gram dương vẫn giữ được màu tím của thuốc nhuộm
tím gentian, còn vi khuẩn Gram âm không giữ được màu tím của gentian và sẽ bắt màu hồng
fuchsin.
Nhuộm Ziehl – Neelsen: sử dụng 2 hóa chất nhuộm màu carbon fuchsin và xanh
methylene kết hợp với chất cồn tẩy màu, để phát hiện trực khuẩn kháng cồn kháng acid (Thường
gặp là Mycobacteria hay còn gọi là trực khuẩn lao).
2. Xét nghiệm nuôi cấy
Xét nghiệm này nhằm định danh chính xác vi sinh vật gây bệnh từ các loại bệnh phẩm lấy
từ các vị trí bị nhiễm trùng trên cơ thể.
Nuôi cấy là đưa bệnh phẩm nghi ngờ chứa vi khuẩn vào môi trường thích hợp nhằm tạo
điều kiện cho vi khuẩn phát triển. Tùy theo mục đích mà có các môi trường nuôi cấy có các chất
dinh dưỡng cơ bản hay thêm các yếu tố đặc biệt để nhận biết các đặc tính sinh vật hóa học của vi
khuẩn.
Sau khi nuôi cấy, phân lập, định danh sẽ thu thập được chủng vi sinh vật gây bệnh từ các vị
trí nhiễm trùng để tiến hành làm kháng sinh đồ. Kết quả kháng sinh đồ sẽ cho thấy vi sinh vật
gây bệnh còn nhạy cảm hay đề kháng với mỗi loại kháng sinh, từ đó giúp các bác sỹ lâm sàng
lựa chọn được kháng sinh phù hợp để điều trị.
Vì vậy, kết quả xét nghiệm nuôi cấy, phân lập, định danh vi sinh vật gây bệnh đang được
coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán các bệnh nhiễm trùng.
Xét nghiệm nuôi cấy có độ đặc hiệu cao, được sử dụng để chẩn đoán nhiều bệnh lý nhiễm
trùng. Nhược điểm của phương pháp xét nghiệm vi sinh này là đòi hỏi trang bị hiện đại; cách
lấy, bảo quản và vận chuyển bệnh phẩm đúng quy định; kỹ thuật viên có trình độ cao; độ nhạy bị
ảnh hưởng lớn nếu bệnh nhân đã dùng thuốc kháng sinh; các loại bệnh phẩm có thể thay đổi theo
giai đoạn bệnh và không thể chẩn đoán được những vi sinh vật không phát triển được trong môi
trường nuôi cấy
3. Xét nghiệm miễn dịch
Phương pháp xét nghiệm này rất hữu hiệu đối với các vi sinh vật nội bào, các ký sinh trùng
gây bệnh ở mô hoặc lạc chỗ. Phương pháp này giúp xác định gián tiếp các vi sinh vật, thông qua
các bằng chứng quá trình nhiễm trùng. Xét nghiệm miễn dịch dựa vào tình trạng miễn dịch của
cơ thể để tìm ra các căn nguyên nhiễm khuẩn, từ đó giúp chẩn đoán các bệnh khác nhau dựa vào
kết quả phản ứng kháng nguyên - kháng thể.
Ưu điểm của các xét nghiệm miễn dịch là:
Chẩn đoán được trong trường hợp vi sinh vật không còn tồn tại hoặc rất ít;
Chẩn đoán được khi vi sinh vật chịu tác động của kháng sinh không thể phát hiện
bằng xét nghiệm nuôi cấy;
Bệnh phẩm có thể bảo quản lâu;
Thời gian cho kết quả nhanh;
Có thể thực hiện hàng loạt;
Độ nhạy của xét nghiệm cao.
Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm vi sinh này cũng tồn tại hạn chế là:
Chẩn đoán ít có giá trị đối với các vi sinh vật chưa tìm ra các kháng nguyên đặc
hiệu, các yếu tố độc lực đặc hiệu như lao, sốt rét;
Độ đặc hiệu của chẩn đoán tùy thuộc vào lớp kháng thể phát hiện, giai đoạn bệnh.
4. Xét nghiệm sinh học phân tử
Xét nghiệm sinh học phân tử hay xét nghiệm PCR (Polymerase Chain Reaction, phản ứng
chuỗi polymerase) được cho là xét nghiệm có giá trị rất cao và được thực hiện từ giai đoạn sớm.
Phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, tuy nhiên kết quả cũng phụ thuộc vào trình
độ kỹ thuật viên, phương tineje máy móc làm viejc và việc quản lý chất lượng
Xét nghiệm PCR là một kỹ thuật nhằm tạo ra một số lượng lớn bản sao DNA mục tiêu
trong ống nghiệm dựa vào các chu kỳ nhiệt.
Hiện nay, xét nghiệm PCR được ứng dụng rộng rãi trong y học, dùng để chẩn đoán một số
bệnh đặc hiệu, liên quan đến các loại virus mà các phương pháp truyền thống không thể làm
được.
Ưu điểm :
• Kỹ thuật cao
• Phát hiện gen đặc trưng của vi khuẩn, virus
• Rút ngắn thời gian
Nhược điểm:
• Tốn chi phí cao
• Không làm được kháng sinh đồ
KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM CƠ BẢN TRONG KÝ SINH
TRÙNG
Ký sinh trùng là những sinh vật sống ký sinh trên cơ thể người. Trong quá trình ký sinh, ký
sinh trùng sẽ gây nhiều tác hại đối với cơ thể như chiếm chất dinh dưỡng làm cơ thể thiếu
chất, suy dinh dưỡng, gây viêm, loét, chèn ép, tạo nhân sỏi, nhiễm độc, rối loạn chức năng
nhiều cơ quan trong cơ thể, ...
Xét nghiệm ký sinh trùng gồm nhiều phương pháp nhằm phát hiện sự có mặt của các loại
ký sinh trùng trên cơ thể. Tùy theo triệu chứng lâm sàng, diễn tiến bệnh, tính chất dịch tễ của dịa
phương mà bác sỹ lâm sàng sẽ có chỉ định phù hợp.
Các kỹ thuật xét nghiệm cơ bản trong ký sinh trùng có thể được chia thành 2 xét nghiệm
chính: Xét nghiệm phân tìm ký sinh trùng, xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng.
1. Xét nghiệm phân
Xét nghiệm phân là xét nghiệm đặc hiệu, được thực hiện thường quy để tìm ký sinh trùng
đường ruột. Mẫu bệnh phẩm phân sau khi được xử lý sẽ dược quan sát dưới kính hiển vi để tìm
trứng, ấu trùng, bào nagn, thể hoạt động của ký sinh trùng.ng ta ghi nhận những đặc tính của
mẫu phân, phân loại bệnh phẩm để xét nghiệm: mẫu phân lỏng, có chất nhày, máu, mủ, phải xét
nghiệm ngay.
Quan sát đại thể có thể ghi nhận được:
Phân có thể ở các trạng thái: Cứng rắn (khó đâm thủng), cứng (đâm thủng được), mềm
(cắt được, nhão (có thể biến dạng), lỏng, lỏng như nước.
Màu sắc: Thay đổi từ đen, nâu đậm, nâu, nâu nhạt, vàng, xanh, màu đất sét hay đôi khi
đỏ, trắng.
Các chất lạ:
- Chất nhày: thường đục, có thể kết thành sợi, hình dáng giống như ký sinh trùng.
Chất này được xem xét cẩn thận để tìm các đơn bào, các trứng Schistosoma.
- Mô liên kết: màu trắng như xà cừ. Xem dưới kính hiển vi sau khi làm trong với
acid acetic sẽ thấy những sợi dài.
- Máu: chỉ cần ghi nhận sự hiện diện máu tươi hoặc đã được tiêu hóa làm phân có
màu đen đều.
- Mủ: gồm có nhiều bạch cầu đã biến dạng.
- Các cặn bã thực vật chưa tiêu hóa, thường dưới hình thức sợi.
Tùy thuộc tính chất của phân ta có thể thực hiện các kỹ thuật như: Kato, Kato Katz,
phương pháp làm nổi trứng, phương pháp ly tâm lắng cặn, phương pháp trực tiếp… để tìm trứng,
ấu trùng, kén (bào nang), thể hoặt động của ký sinh trùng. Để phát hiện được ký sinh trùng, cần
phải dùng kính hiển vi để quan sát.
2. Xét nghiệm máu
2.1. Xét nghiệm miễn dịch học:
Đây là phương pháp nhanh, không xâm lấn và có thể phát hiện ký sinh trùng đi lạc chỗ, lạc
chủ như giun Gnathostoma spinigerum (giun đầu gai), giun lươn, amip (Entamoeba histolytica),
sán lá lớn, sán lá phổi, đơn bào, … Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được thực hiện dựa trên chỉ
định của bác sĩ chuyên khoa dựa trên thói quen ăn uống, triệu chứng của bệnh nhân.
Ký sinh trùng sau khi xâm nhập sẽ kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể đặc hiệu.
Các xét nghiệm miễn dịch học được sử dụng để tìm kháng thể hoặc kháng nguyên của ký sinh
trùng sinh ra khi cơ thể bị nhiễm ký sinh trùng. Xét nghiệm miễn dịch học trong xét nghiệm ký
sinh trùng gồm nhiều kỹ thuật như: điện di, kết tủa, ngưng kết, miễn dịch huỳnh quang, miễn
dịch men, miễn dịch phóng xạ, ...
Xét nghiệm miễn dịch học được sử dụng trong các trường hợp như: giai đoạn mới nhiễm,
ký sinh trùng còn non, mật độ ký sinh trùng trong cơ thể thấp, ký sinh trùng ở dạng ấu trùng,...
2.2. Phết máu ngoại vi
Phết máu ngoại vi làm tiêu bản: khi nghi ngờ người bệnh mắc các loại ký sinh trùng
trong máu, bác sĩ có thể chỉ định làm kỹ thuật phết máu lên tiêu bản, tiêu bản sau đó được
nhuộm bằng các kỹ thuật thích hợp và soi dưới kính hiển vi tìm ký sinh trùng.
Phết máu được nhuộm càng sớm càng tốt vì việc nhuộm cũng giúp kéo dài thời gian bảo
quản. Có nhiều cách nhuộm như: nhuộm Gram, nhuộm Wright, nhuộm giêm sa, Hematoxilin Fe,
nhuộm HE, nhuộm P.A.S.
CÁCH LẤY MẪU BỆNH PHẨM LÀM XÉT NGHIỆM
Xây dựng tổ chức quản lý phòng xét nghiệm là công việc rất quan trọng của người kỹ thuật
viên cần phải hiểu biết rõ để biết cách xây dựng, bố trí sắp xếp quản lý tốt một phòng xét nghiệm
, phục vụ cho công việc xét nghiệm mang lại hiệu quả cao.
Tốt nhất là hướng nam. Trục của khu nhà theo hướng đông tây, lưng nhà quay về hướng bắc.
Để tận dụng được ánh sáng mặt trời, mát về mùa hè, tránh gió rét về mùa đông.
Để tránh ẩm thấp, nền nhà phải cao. Lát gạch men chống trơn để thường xuyên cọ rửa, khử
khuẩn.
Tường nhà nên làm bằng vật liệu chịu nước, phẳng nhẵn, bền vững.
Tường bên trong các phòng labo nên sử dụng vật liệu chống thấm, chống ăn mòn hóa chất,
dễ cọ rửa
Tận dụng ánh sáng tự nhiên một cách tối đa để tiết kiệm điện hoặc dùng ánh sáng đèn.
Nếu tận dụng ánh sáng tự nhiên nên chú ý tới tỷ lệ giữa diện tích các cửa sổ, cửa ra vào, lỗ
thoáng với diện tích nền nhà bằng 1/4- 1/5.
Ví dụ: Diện tích nền nhà bằng 50 m2 thì diện tích các cửa lỗ thoáng phải bằng 10- 13 m2.
Nên làm cửa 2 lớp: lớp trong là cửa kính, lớp ngoài là cửa gỗ. Cửa ra vào nên làm ở chính
giữa phòng. Cửa đi và cửa sổ phải được làm bằng các vật liệu tổng hợp hoặc kim loại kết hợp
với kính trong, có chốt và khóa an toàn. Cửa phòng xét nghiệm luôn phải đóng khi thực hiện xét
nghiệm
Các khoa Xét nghiệm phải dược cấp điện liên tục 24h/ngày. Hệ thống điện phải đảm bảo
yêu cầu sau:
– Hệ thống điện cấp chiếu sáng phải độc lập với hệ thống điện cấp cho các thiết bị.
– Có nguồn điện thay thế
– Hệ thống dây dẫn và thiết bị kiểm soát, cung cấp điện phải đảm bảo an toàn và phù hợp
các thông số kỹ thuật (công suất, chất lượng…).
– Tuỳ theo yêu cầu các Labo được cung cấp điện 1 chiều hoặc điện 3 pha.
– Tiếp địa toàn bộ hệ thống.
Phải được cung cấp đầy đủ nước cho khu xét nghiệm, phải xây dựng hệ thống bể dự trữ
nước và đường ống dẫn vào các phòng. Nếu không có nước máy phải xây dựng hệ thống bể lọc
nước để đảm bảo nguồn nước trong, sạch rửa các dụng cụ thuỷ tinh.
Có hệ thống thu gom, xử lý hoặc trang thiết bị nước thải. Đối với cơ sở xét nghiệm đang
hoạt động trước ngày Nghị định 103/2016/NĐ-CP có hiệu lực thi hành phải có kết quả xét
nghiệm nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường trước khi thải vào nơi chứa
nước thải chung.
2.1. Tổ chức, bố trí phòng làm việc: Tuỳ theo điều kiện của cơ sở, quy mô lớn hay nhỏ ta
có thể bố trí như sau:
Phòng hành chính: nên để đầu dãy nhà để cho tiện việc giao nhận, trả phiếu xét nghiệm,
sinh hoạt khoa.
Có các khoa riêng biệt: Vi sinh, Ký sinh trùng, Huyết học, Hoá Sinh, Sinh học phân
tử, Miễn dịch,…. Nếu không có điều kiện có thể ghép huyết học và hoá sinh cùng một
phòng hoặc một phòng xét nghiệm máu, phòng xét nghiệm phân và nước tiểu, phòng
rửa dụng cụ.v.v...
Tùy vào trang thiết bị của phòng xét nghiệm mà có sự sắp xếp cho phù hợp.
Ví dụ, hình ảnh của một phòng xét nghiệm cơ bản nhất:
Ở giữa phòng để bàn làm xét nghiệm. Bàn nên làm bằng sắt lát gạch men để dễ làm
vệ sinh, khử khuẩn. Trên bàn ở giữa có thể kê giá cao, thấp để hoá chất thuốc thử.
Phía sát tường nên có một dãy tủ chiều cao khoảng 0,8 m để đựng dụng cụ hoá
chất, giống như một kho nhỏ của phòng, mặt trên tủ có lát một lớp gạch men trắng
để máy móc hoặc có thể dùng làm bàn xét nghiệm.
Lavabô: để góc nhà.
Bàn nhuộm tiêu bản để cạnh Lavabô.
Bàn để máy ly tâm riêng.
Bàn để cân phân tích hoặc cân điện riêng.
Bàn để kính hiển vi nên đặt sát cửa sổ để tận dụng ánh sáng mặt trời.
Các góc phòng là nơi để các tủ lạnh, tủ ấm, tủ sấy, nồi hấp, máy cất nước
Riêng tủ lạnh, nồi hấp, máy cắt nước nên để gần Lavabô để tiện cho việc vận hành,
vệ sinh hàng ngày, tránh ẩm ướt khắp phòng. Nên bố trí tủ để kính hiển vi riêng,
trong tủ có hệ thống đèn dùng để sấy kính, 1 tủ kín có hệ thống thông hơi ra ngoài
đựng hoá chất độc.
Mỗi trang thiết bị máy móc trong phòng xét nghiệm phải có:
+ Lý lịch máy.
Dụng cụ:
+ Dụng cụ thuỷ tinh xếp hộp kín, trong tủ ấm để tránh bụi bẩn.
Hoá chất: mỗi lọ hoá chất phải có nhãn ghi rõ ràng thời hạn sử dụng. Các Kit hoá chất
để tủ lạnh, hoá chất độc để trong tủ kính có khoá, có ống thông hơi ra ngoài.
Tất cả các máy móc, dụng cụ, hoá chất đều được quản lý bằng thẻ kho sau:
Quản lý theo chức trách của từng đối tượng cán bộ.
- Trưởng khoa XN
- Bác sỹ chuyên khoa XN
- Kỹ thuật viên trưởng
- Cử nhân xét nghiệm
- Kỹ thuật viên XN
- Điều dưỡng viên
- Nhân viên quản lý chất lượng XN
- Nhân viên y tế khác làm việc tại khoa
Qui định thời gian lấy bệnh phẩm: tuỳ theo xét nghiệm đa số lấy bệnh phẩm vào sáng
sớm. Trường hợp đặc biệt phải lấy bệnh phẩm tại giường.
+ Mỗi lọ bệnh phẩm phải có nhãn ghi rõ họ, tên bệnh nhân, khoa phòng điều trị,
số giường, số buồng.
+ Những xét nghiệm cấp cứu phải ghi chữ '' cấp cứu'' để ưu tiên làm trước, trả
kết quả ngay.
+ Căn cứ yêu cầu xét nghiệm sắp xếp công việc hợp lý.
+ Đánh số thứ tự bệnh phẩm phù hợp với phiếu xét nghiệm.
+ Những kết quả xét nghiệm cần được ghi vào sổ sách cụ thể.
+ Những kết quả cho kết quả nghi ngờ phải yêu cầu làm lại và báo cáo trưởng
khoa xem xét.
+ Những xét nghiệm bệnh phẩm dễ lây lan phải thao tác đúng qui tắc phòng dịch.
+ Những xét nghiệm với khí độc phải làm trong tủ có hệ thống thông hơi.
+ Phải tổ chức cấp cứu phòng độc, phòng tai nạn có thể xảy ra.
+ Quản lý chặt chẽ thuốc độc và chất dễ cháy, nổ, các chủng vi khuẩn có tính chất
lây lan mạnh.
QUY ĐỊNH TẠI LABO XÉT NGHIỆM. KỸ THUẬT VÔ KHUẨN, TIỆT KHUẨN
TRONG PHÒNG XÉT NGHIỆM.