You are on page 1of 30

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
🙠✵🙢

BÁO CÁO MÔN HỌC


CÁC QUÁ TRÌNH SINH HỌC TRONG KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG

Đề tài:
BỂ PHẢN ỨNG QUANG SINH HỌC MÀNG
MEMBRANE PHOTOBIOREACTOR (MPBR)

GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN THÀNH


NHÓM: 6 - LỚP: L02

TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
🙠✵🙢

BÁO CÁO MÔN HỌC


CÁC QUÁ TRÌNH SINH HỌC TRONG KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG

Đề tài:
BỂ PHẢN ỨNG QUANG SINH HỌC MÀNG
MEMBRANE PHOTOBIOREACTOR (MPBR)

GVHD: PGS.TS BÙI XUÂN THÀNH


NHÓM: 6 - LỚP: L02

TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023


DANH SÁCH THÀNH VIÊN
Nhóm 6 -Lớp L06

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Tỉ lệ hoàn thành


1 Bùi Phạm Mỹ Huyền 2111372 3.6 và 4 100%
2114907
2 Trần Thị Kim Tho 2.1 và 2.2 100%

Nguyễn Hoàng Trà My


3 2111783 PPT và Word 100%

Bùi Thị Trúc Linh 2013615


4 3.2 và 3.3 100%

Phan Võ Thiện Nhân 1914453


5 3.4 100%

Nguyễn Huỳnh Ngọc Nữ 2111967


6 1 và 3.1 100%

Nguyễn Huỳnh Trúc Nhã 2114252


7 2.6 và 2.7 100%

Hồ Thiên Tú 2115214
8 2.4 và 2.5 100%

Hồ Thị Thanh Thúy 2112397


9 2.3 và 2.8 100%

Lê Đình Thao 2114757


10 3.5 100%
MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TÓM TẮT ...................................................................................5


PHẦN NỘI DUNG .....................................................................................................6
1. Introduction: Giới thiệu ....................................................................................6
2. Materials and methods: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu ............................8
2.1. Microorganism and domestic wastewater: Vi sinh vật và nước thải sinh
hoạt .......................................................................................................................8
2.2. Experimental system: Hệ thí nghiệm ............................................................9
2.3. Phương pháp phân tích ................................................................................10
2.4. Phân tích sinh khối ......................................................................................11
2.5. EPS Extraction: Chiết xuất EPS ..................................................................12
2.6. Nitrogen mass balance: Cân bằng Nitơ .......................................................14
2.7. Determination of membrane resistance: Xác định điện trở màng ...............14
2.8. Statistical analysis: Phân tích thống kê .......................................................15
3. Results and discussion: Kết quả và thảo luận ....................................................16
3.1. Effect of biomass retention times on biomass growth: Ảnh hưởng của thời
gian lưu sinh khối đến tăng trưởng sinh khối .....................................................16
3.2 Variation of dissolved oxygen, pH, and alkalinity: Sự thay đổi của oxy hoà
tan, pH và độ kiềm .............................................................................................19
3.3 Organic matter removal: Loại bỏ chất hữu cơ..............................................21
3.4. Nutrient removal: Loại bỏ chất dinh dưỡng ................................................22
3.5. Effect of biomass retention time on fouling behavior: Ảnh hưởng của thời
gian lưu sinh khối đến việc tắc nghẽn màng ......................................................24
3.6. Implication and future application: Ý nghĩa và ứng dụng trong tương lai..27
4. Conclusion: Kết luận .........................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................30
ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TÓM TẮT

Hệ đồng nuôi cấy bùn hoạt tính vi tảo có tiềm năng trong việc làm sạch nước
thải đồng thời giảm nhu cầu năng lượng từ sục khí. Nghiên cứu này sử dụng bể phản
ứng quang sinh học màng khuấy cơ học (MPBR có khuấy) để đánh giá tác động của
thời gian lưu sinh khối (BRT) đối với hiệu suất xử lý và sự tắc nghẽn của màng. Kết
quả cho thấy MPBR có khuấy bị ảnh hưởng bởi BRT trong quá trình xử lý nước thải
sinh hoạt ở thông lượng 16,5 L/m2.h. Năng suất cao nhất đạt được ở BRT 7d (102 mg
L-1 d-1), tiếp theo là BRT 10d (86 mg L-1 d-1), BRT 5d (85 mg L-1 d-1) và BRT 3d (83
mg L-1 d-1). Kết quả phân tích thống kê cho thấy BRT 7d có tỷ lệ loại bỏ COD cao
hơn BRT 10d, tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỷ lệ loại bỏ nitơ tổng. Việc loại
bỏ TP cao nhất xảy ra khi sinh khối hoạt động ở BRT trong thời gian ngắn nhất là 3d.
Việc giảm BRTs dẫn đến sự thay đổi đến tỷ lệ sinh khối bùn hoạt tính và vi tảo, thúc
đẩy hoạt động nitrat hóa đồng thời góp phần làm tăng tỷ lệ tắc nghẽn màng. Nồng độ
protein liên kết giảm từ 31,35 mg L-1 (BRT 10d) xuống 10,67 mg L-1 (BRT 3d), trong
khi polysacarit hòa tan tăng tương ứng từ 0,99 lên 1,82 mg L-1. Nồng độ của các thành
phần polyme ngoại bào đã bị thay đổi đáng kể, làm giảm kích thước hạt và làm cho
tỷ lệ tắc nghẽn màng có xu hướng xảy ra cao hơn. Ở BRT tối ưu là 7 ngày, MPBR có
khuấy cho thấy khả năng cung cấp đủ ánh sáng và trao đổi chất dinh dưỡng cần thiết
cho sự tương tác lẫn nhau của vi tảo và bùn hoạt tính.

5
PHẦN NỘI DUNG
1. Introduction: Giới thiệu
Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy tiềm năng tận dụng sự bổ sung giữa vi tảo và
bùn hoạt tính để xử lý nước thải (Aditya et al., 2022).

Lợi ích mà cộng hợp tảo – bùn hoạt tính mang lại trong xử lý nước thải:

Oxy được tạo ra từ quá trình quang hợp của vi tảo có thể được vi khuẩn sử
dụng để hô hấp nhằm làm giảm việc tiêu thụ năng lượng.

Vi khuẩn rất thích hợp để phân hủy chất hữu cơ dư thừa trong nước thải, trong
khi vi tảo có thể sử dụng các chất dinh dưỡng (nitơ và phốt pho) để tạo ra sinh khối.

Sinh khối vi tảo có thể được tiếp tục chế biến thành các chế phẩm sinh học có
giá trị như nhiên liệu sinh học (Kumar et al, 2022), nhựa sinh học (Dang et al., 2 022a,
2022b) và các chất hoá sinh (Nguyen et al., 2022a, 2022b).

Tuy nhiên, việc tối ưu hóa hệ thống đồng nuôi cấy vi tảo và bùn hoạt tính đồng
thời thu hồi sinh khối và xử lý nước thải vẫn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực (Sun et al, 2018;
Li et al, 2019), có các thông số cần phải kiểm soát như: tỷ lệ COD: N (Zheng et al,
2018; Zhu et al, 2019a; Dang et al, 2022a, 2022b), tỷ lệ N: P (Beuckels et al, 2015),
chủng vi tảo / vi khuẩn (Higgins et al, 2018), tỷ lệ nuôi cấy (Viruela et al, 2018), điều
kiện vận hành như: thời gian lưu sinh khối (BRT) (Katam và Bhattacharyya, 2020);
thời gian lưu nước (HRT) (Honda et al, 2017); chu kỳ sáng-tối (Zhi et al, 2019); cường
độ ánh sáng (González-Camejo et al, 2020; Kwon et al, 2020)trộn / sục khí (Foladori
et al, 2018).

Nghiên cứu trước đây đã chứng minh tiềm năng tối đa hóa sản xuất sinh khối
và loại bỏ chất dinh dưỡng bằng cách điều chỉnh tỷ lệ nuôi cấy M:AS trong khoảng
từ 3 đến 5 (Nguyễn et al, 2020; Đăng et al, 2022a, 2022b).

Tỷ lệ nuôi cấy vi tảo phải cao hơn so với bùn hoạt tính. Tuy nhiên, vẫn cần
một nồng độ bùn hoạt tính thích hợp để phân hủy chất hữu cơ dư thừa vì việc tăng
chất hữu cơ trong nước thải gây hại cho sự phát triển của vi tảo. Việc cân bằng nồng

6
độ vi khuẩn và vi tảo thông qua kiểm soát BRT là điều cần thiết để đạt được hiệu suất
tối ưu.

Do hạn chế về thời gian lưu sinh khối và một số tính năng lắng ở chế độ liên
tục, rất khó để điều chỉnh BRT trong các bể phản ứng thông thường, và khi mục tiêu
chính của photobioreactor là nuôi cấy sinh khối thay vì giải quyết vấn đề nước thải,
chất lượng nước thải đầu ra thấp là có thể dự đoán được (Sun et al, 2018).

Nhờ những tiến bộ gần đây trong công nghệ màng, Có thể tách các thông số
quy trình như BRT và HRT.

Bằng cách kết hợp mô đun màng lọc loại đặt bên ngoài bể hoặc loại chìm trong
bể với bể phản ứng quang hóa, bể phản ứng quang hóa có màng có thể ngăn chặn
hiện tượng rửa trôi sinh khối hiệu quả hơn (Vũ et al, 2022, 2020; Zhang et al, 2022).

Do đó, công nghệ màng lọc PBR có thể được sử dụng cho hai mục đích:

a) nghiên cứu sự ảnh hưởng của BRT và sự nghẹt màng

b) chạy ở chế độ liên tục với BRT và HRT tách rời, một cách hiệu quả
để kết hợp xử lý nước thải với sản xuất sinh khối.

Màng lọc thường có nguy cơ bị nghẹt cao do sự hiện diện của các tế bào vi
sinh vật (Matsumoto et al., 2014; Qu et al, 2015), trong đó có các Polyme ngoại bào
(EPS). Tuy nhiên, EPS được tạo ra bởi hệ đồng nuôi cấy bùn hoạt tính và vi tảo trong
PBR thường có nồng độ thấp hơn so với nồng độ EPS được thải ra từ hệ thống chỉ có
bùn hoạt tính (Huang et al., 2015).

Do đó, việc sử dụng công nghệ màng lọc photobioreactor có thể cung cấp một
phương pháp hiệu quả hơn cho việc xử lý (loại bỏ các chất dinh dưỡng và chất hữu
cơ và làm giảm tắc nghẽn màng.

Trước đây dùng cả sục khí và chạy BRT trong thời gian dài nhưng hiệu quả
của sục khí lại không được chú ý đến. Do đó, nghiên cứu cách sinh khối nhân lên và
loại bỏ các chất gây ô nhiễm dựa trên sự tự nuôi cấy lẫn nhau như một hệ nuôi đồng
cộng sinh mà không cần phải sục thêm khí từ bên ngoài là việc đáng để thử.

7
Trước những khoảng trống trong nghiên cứu nói trên, hệ thống đồng nuôi cấy
bùn hoạt tính và vi tảo sử dụng MPBR có cánh khuấy đã được thiết kế để xử lý nước
thải sinh hoạt với thông lượng cao.

Vai trò của BRT sau đó được định lượng theo thống kê để hiểu các BRT khác
nhau sẽ làm thay đổi sự tắc nghẽn màng và loại bỏ chất ô nhiễm như thế nào.

Ý nghĩa của nghiên cứu: đánh giá toàn diện cơ chế và khắc phục ô nhiễm với
các BRT khác nhau, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của đồng nuôi cấy trong
MPBR.

2. Materials and methods: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu


2.1. Microorganism and domestic wastewater: Vi sinh vật và nước thải sinh hoạt
Vi tảo

Loại vi tảo được sử dụng trong nghiên cứu này là Chlorella sp. được cung cấp
từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn). Chủng này được nuôi cấy và duy trì trong môi trường Bold’s Basal Medium
(BBM) đã được khử trùng.Trước khi đồng nuôi cấy trong hệ thống MPBR có khuấy,
Chlorella sp được ủ trong bẻ phản ứng quang sinh học (đường kính 20 cm và cao 60
cm) dưới cường độ ánh sáng 100 µmol m-2 s-1 ở nhiệt độ phòng và được sục khí. Các
tế bào tiền nuối cây được lấy trong giai đoạn tăng trường theo cấp số nhân sau khi
lắng trong 12 giờ để loại bỏ phần môi trường còn lại trong quá trình nuôi tảo, tế bào
tảo được ly tâm với tốc độ 3600 vòng/phút trong 10 phút và rửa hai lần bằng nước
khử ion trước khi tiến hành các thử nghiệm tiếp theo.

Bùn hoạt tính

Bùn hoạt tính được thu thập từ một nhà máy xử lý nước thải ở TP HCM (Việt
Nam). Nồng độ chất rắn có trong bùn hoạt tính (MLSS) khoảng 4000 mg/L. Trước
khi tiến hành thí nghiệm, bùn hoạt tính được để lắng trọng lực trong 3 giờ để loại bỏ
phần nổi phía trên, sau đó ly tâm trong 10 phút với tốc độ 3600 vòng/phút. Dung dịch
hỗn hợp đặc được rửa bằng nước cất, ly tâm lại và được sử dụng làm nguồn vi khuẩn

8
tổng hợp. Cuối cùng thiết lập thí nghiệm với tỉ lệ nuôi cấy vi tảo: bùn hoạt tính là 3:1
(wt/wt) trong hệ thống MPBR có khuấy (Nguyen et al., 2020).

Nước thải sinh hoạt

Nước thải sinh hoạt được đưa vào bể phản ứng quang sinh học dạng màng sau
khi xử lý sơ bộ (sàng lọc, loại bỏ sạn/dầu và lắng sơ cấp). Các đặc tính của nước thải
được sử dụng (được biểu thị bằng các giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn) chứa COD
185±42 mg/L, TKN 35,2±7,3 mg/L, , 𝑁𝐻4 + − 𝑁 19,4±4,2 mg/L, TP 4,9±1,3 mg/L,
𝑁𝑂3 − − 𝑁 0,2±0,2 mg/L, 𝑁𝑂2 − − 𝑁 0,1±0,1 mg/L và pH 7,6±0,3. Tỷ lệ COD/N duy
trì khoảng 5,2±1,5, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sinh khối trong hệ thống.

2.2. Experimental system: Hệ thí nghiệm


Hệ thống MPBR có khuấy đã được dùng trong nghiên cứu này (Fig.S1, See E-
Supplementary). Hệ thống MPBR có khuấy bao gồm bể phản ứng quang sinh học
được làm bằng nhựa acrylic trong suốt (chiều cao 60 cm x đường kính trong 10 cm)
và một màng lọc dạng sợi rỗng bên ngoài . Thể tích làm việc của bể là 4 L và được
vận hành liên tục. Đèn LED cuộn xung quanh bể cung cấp ánh sáng với cường độ
100 µmol/m-2s-1 (được đo ở bề mặt chất lỏng). Chu kỳ sáng – tối của bể phản ứng
quang sinh học là 12 giờ sáng - 12 giờ tối. Việc trộn liên tục được duy trì bằng máy
khuấy cơ học (100 vòng/phút) để tránh lắng cặn. Màng lọc MBR dạng sợi rỗng được
sử dụng để thiết lập bể phản ứng quang sinh học được chế tạo bằng cách chèn một
chuỗi 18 màng sợi rỗng polypropylene (UF 06-12 S2 F, Polymem, France) vào vỏ U-
PVC và dán kín hai đầu vỏ. Kích thước lỗ của màng là 0,02µm và diện tích bề mặt
bên ngoài là 0,0102 m2 (với đường kính trong là 0,39 mm và đường kính ngoài là
0,74 mm). Nguồn cấp và đầu ra của bể phản ứng quang sinh học được bơm với tốc
độ như nhau bằng cách sử dụng bơm nhu động đa kênh. Trong mô hình modun màng,
đầu ra bao gồm vài kênh khác nhau có các dòng thấm và dòng cô đặc. Cảm biến TMP
được lắp đặt trên một đường ống nối với máy bơm và dòng cô đặc. Đặc biệt, đối với
các điều kiện vận hành, MPBR được khuấy duy trì 24 giờ đối với thời gian lưu nước

9
(HRT) và thay đổi 10,7,5,3 ngày đối với thời gian lưu sinh khối (BRT). Để kiểm soát
BRT, BRT tương ứng là 10,7,5,3 ngày, lưu lượng dòng ra lần lượt là 0,40 0,57 0,80
1,33 L/ngày. Hệ thống MPBR có khuấy được vận hành với thông lượng 16,5 L/m2h
dưới vận tốc dòng chảy chéo (CFV) là 1m/s. Sau khi áp xuất chuyển màng (TMP)
của hệ thống MPBR đạt 40 kPa, quá tình làm sạch vật lý được áp dụng để làm sạch
màng MBR bằng nước máy. Qúa trình làm sạch hóa học cho màng được tiến hành
khi BRT thay đổi để khôi phục tính thấm của màng. Trước tiên màng được rửa bằng
nước máy để loại bỏ lớp cặn bẩn bám trên bề mặt màng trước khi ngâm trong dung
dịch natri hypoclorit (NaOCl 0,5% v/v) và natri hydroxit (NaOH 4% v/v) trong 8 giờ.

Hỗn hợp vi tảo và bùn hoạt tính được sử dụng trong thí nghiệm có tổng chất rắn lơ
lửng (TSS) của vi tảo là 1000 mg/L và TSS của bùn hoạt tính là 400 mg/L. Tổng thể
tích trong 4 bể lần lượt là: 56, 4,2, 2,8 0 1 và 0, 0,35 0,7 1,4 1. Sau đó, các bể được
làm đẩy bằng nước thải tổng hợp để đạt được thể tích 14 1 để có (tỷ lệ khối lương).
Nồng độ tổng ban đầu là 1:0, 3:1,1:1, và 0,1( tỷ lệ khối lượng ). Nồng độ tổng ban
đầu của vi tảo và bùn hoạt tính trong bể PBR là 400 mg/L.

2.3. Phương pháp phân tích


Cường độ ánh sáng được đo trực tiếp bằng cảm biến ánh sáng hình cầu chìm
(US-SQS/L, ULM-500, FA Walz, Đức). Áp suất chuyển màng (TMP) được bằng
đồng hồ đo áp điện tử, được coi như là một chỉ thị chỉ xu hướng tắc nghẽn màng.

Mỗi 250 ml mẫu được thu thập mỗi ngày tại cùng một thời điểm (thời gian tối)
qua van lấy mẫu ở giữa bể phản ứng quang sinh học. Các thông số COD, TP, TKN,
𝑁𝐻4 + , 𝑁𝑂3 − − 𝑁, 𝑁𝑂2 − − 𝑁, MLVSS được phân tích theo Phương pháp Tiêu chuẩn
(APHA, 1999). Nồng độ oxy hòa tan (DO) được đo bằng máy đo DO và độ pH được
đo bằng máy đo pH. Ngoài ra, để xác định kích thước bông cặn của sinh khối, phân
tích sự phân bố kích thước hạt (PSD) được thực hiện bằng thiết bị phân tích kích
thước hạt tán xạ laser (Horiba LA-950, Nhật Bản) với dải từ 0,01 đến 3000 μm.

10
2.4. Phân tích sinh khối
Hàm lượng sinh khối được xác định bằng cách sử dụng phương pháp đã được
đề cập ở báo cáo khác (Dang et al., 2022a, 2022b). Tổng sinh khối trong bể phản ứng
được xác định thông qua việc đo trọng lượng khô. Cụ thể, 10 mL mẫu hỗn hợp lỏng
được lấy ra từ tất cả các bể phản ứng mỗi ngày để phân tích. Tất cả các mẫu được lọc
qua giấy lọc có kích thước lỗ 0,45 μm (Fisher Whatman puradisc-25 mm), sau đó sấy
khô ở 105°C trong 2 giờ và đem cân. Trọng lượng sinh khối khô được xác định dựa
trên sự thay đổi về trọng lượng giữa các mẫu trước và sau khi lọc. Đối với hệ đồng
nuôi cấy, sinh khối khô bao gồm vi tảo và bùn hoạt tính (C = Cm + Ca). Trong đó C là
tổng nồng độ sinh khối (g L−1 ), Cm là nồng độ sinh khối vi tảo (g L−1 ), Ca là nồng độ
bùn hoạt tính.

Đối với sinh khối vi tảo (Cm), nó được đo thông qua hàm lượng Chlorophyll-
a được chiết xuất từ tế bào vi tảo (Tang et al., 2018). Nồng độ này sau đó được chuyển
đổi thành trọng lượng khô dựa trên đường chuẩn có phương trình: y = 4216,4 x –
302,43. Phương trình này biểu diễn mối tương quan giữa nồng độ Chlorophyll-a và
trọng lượng khô của vi tảo. Trong đó y là nồng độ của Chlorophyll-a và x là trọng
lượng khô của vi tảo.

Hàm lượng Chlorophyll-a trong tảo được chiết xuất bằng dung dịch acetone
(Lee et al., 2015). Đầu tiên, 40 mL mẫu được lấy từ hệ thống nuôi cấy thuần túy hoặc
đồng nuôi cấy được ly tâm ở tốc độ 4000 rpm (vòng/phút) trong 10 phút. Sau khi loại
bỏ phần nổi phía trên, phần cặn còn lại được trộn với dung dịch axeton 90 % và 0,05
g CaCO3, sau đó được lắc bằng máy lắc ống nghiệm vortex trong 1 phút. Tiếp theo
đó, chất huyền phù này được lưu trữ ở 4 ° C trong 24 giờ trong bóng tối trước khi
được ly tâm ở tốc độ 4000 rpm (vòng/phút) trong 10 phút để thu hồi phần nổi phía
trên.

Những chất nổi trên bề mặt này được sử dụng để xác định hàm lượng
Chlorophyll-a. Cụ thể, nồng độ Chlorophyll-a được đo bằng phương pháp quang phổ
tử ngoại với sáu bước sóng: 630, 645, 663, 750, 772 và 850 nm. Dung dịch Acetone

11
90 % được sử dụng làm mẫu trắng. Nồng độ Chlorophyll-a của vi tảo trong hệ đồng
nuôi cấy được xác định bằng công thức (1):

Cholorophyll − a =
[11.64(OD663 −OD750 )−2.16(OD645 −OD750 )+0.10(OD630 −OD750 )−(OD663 −OD750 )−25.2(OD772 −OD850 )]V1
V.σ

(1)

Trong đó V là thể tích mẫu (L), V1 là thể tích dịch chiết gốc axeton (mL), OD
(Mật độ quang học) là độ hấp thụ ở độ dài sóng tương ứng và σ là quang lộ của cuvet
(cm). Ngoài ra, các tham số như tổng năng suất sinh khối được biểu thị bằng biểu
thức (2). Năng suất sinh khối được tính bằng cách sử dụng sinh khối bị lãng phí để
kiểm soát BRT từ bể phản ứng quang sinh học và sinh khối trong hệ thống MPBR
được khuấy.

X
Tổng năng suất sinh khối (β; mg L−1 ngày−1) : β = (2)
BRT

Trong đó X là trọng lượng khô trung bình của tổng sinh khối.

2.5. EPS Extraction: Chiết xuất EPS


Mạng lưới các chất ngoại bào (EPS) bao quanh các tế bào, tạo nên cấu trúc đặc
trưng cho biofilm. Mạng lưới ngoại bào thường có độ dày từ 0,2 đến 1 µm. Ở một vài
loài vi khuẩn độ dày của lớp EPS mỏng hơn nằm trong khoảng từ 10 đến 30 nm.

EPS có vai trò quy định sự sắp xếp tế bào đồng thời tạo nên những kênh dẫn
truyền nước bên trong biofilm nhờ đó mà các chất dinh dưỡng cũng như nước có thể
lưu thông trong biofilm tạo điều kiện cho việc khuếch tán, phân phối chất dinh dưỡng
đến khắp các tế bào vi sinh vật trong biofilm cũng như loại bỏ đi những chất thải
không cần thiết.

12
Nồng độ của EPS được đo bằng EPS hòa tan và EPS liên kết (Sun et al., 2018).
Trước khi chiết xuất, 50 mL dung dịch sinh khối đã được lấy mẫu từ MPBR khuấy
và các chế phẩm vi sinh vật được tách ra bằng máy ly tâm tốc độ cao (4000 vòng /
phút) trong 20 phút; phần nổi phía trên được sử dụng để xác định lượng EPS hòa tan.
Tiếp theo, viên nén sinh khối được tạo huyền phù với 50 mL dung dịch NaCl 0,9%
và đun nóng ở 80°C trong 1 giờ. Cuối cùng, để nguội và ly tâm (4000 vòng/phút)
trong 20 phút để tách dung dịch EPS liên kết.

EPS có thể thay đổi một vài tính chất hóa học và vật lý, nhưng thành phần chính
của nó chủ yếu vẫn gồm các polysacarit (PS) và protein (PN) trên mỗi miligam VSS.
Quy trình xác định PS quốc gia thực hiện như sau: Dùng pipet lấy mẫu và điều chỉnh
thể tích bằng nước cất đến 2 mL dung dịch cho vào ống nghiệm; sau đó, thêm 1 mL
dung dịch phenol 5 % và 5 mL axit sunfuric; để yên các ống trong 10 phút; Lắc, đặt
trong nồi cách thủy trong 15 phút; Nồng độ PS được đo bằng phương pháp đo quang
phổ tử ngoại ở bước sóng 490 nm.

Quy trình xác định PN như sau: Định mức dung dịch mẫu tới 0,5 mL bằng
nước cất; thêm 2,5 mL dung dịch C (*); Vortex và để yên ở nhiệt độ phòng trong 5–
10 phút; Thêm 0,25 mL dung dịch D (*) và vortex; Sau 20-30 phút, nồng độ PN được
đo bằng phương pháp đo quang phổ tử ngoại ở bước sóng 750nm.

Trong đó:

Dung dịch A: 100 mL (0,5 g CuSO4.5H2O + 1 g Na3C6H5O7.2H2O)

Dung dịch B: 1000 mL (20 g Na2CO3 + 4 g NaOH)

Dung dịch C: 1 mL dung dịch A + 50 mL dung dịch B

Dung dịch D: 10 mL thuốc thử Folin-Ciocalteu +10 mL nước cất.

Cách tính:

mg PS(mg)
PS ( )= ∗ 1000 (3)
gVSS MLVSS(mg)

13
mg PN(mg)
PN ( )= ∗ 1000 (4)
gVSS MLVSS(mg)

2.6. Nitrogen mass balance: Cân bằng Nitơ


Cơ chế loại bỏ Nito được xác định theo cân bằng khối lượng. Khối lượng Nito
bao gồm TN hấp thu bởi sinh khối, TN-stripping (loại bỏ), TN-denitrification (khử
nitrat) và TN-residual (dư) (B. Dang et al., 2022b). Bởi vì tất cả các bể phản ứng theo
dạng mẻ được vận hành trong điều kiện khuấy trộn và pH được duy trì ở mức 7.5-
9.0, nên TN-stripping có đóng góp không đáng kể. Do đó, tổng cân bằng Nito có thể
xác định như sau (Eq (5)):

TNInitial = TNResidual + TNDenitrification + TNUptake by biomass (5)

Trong khi TN hấp thu bởi sinh khối có thể là từ sự đóng góp của quá trình
đồng hóa sinh học của vi tảo hoặc vi khuẩn, thì TN-denitrification thu được từ quá
trình trao đổi chất của vi khuẩn. Hàm lượng Nito trong sinh khối được tham khảo từ
một báo cáo trước đây. Theo đó, hàm lượng nitơ là 8,25% đối với hệ thống đồng nuôi
cấy (Zhu et al., 2019b). Các giá trị đó đã được sử dụng để tính toán TN hấp thụ bởi
sinh khối.

2.7. Determination of membrane resistance: Xác định điện trở màng


Thông lượng thấm (J) và TMP (ΔP) đã được sử dụng để xác định điện trở dựa
trên Eq(6) và Eq(7). Sau khi TMP đạt 40 kPa, mô-đun màng được lấy ra để lọc bằng
nước tinh khiết, nước này được dùng để xác định tổng điện trở (Rt). Điện trở của cặn
(Rc) là sự lắng đọng của lớp cặn trên bề mặt màng mà có thể rửa sạch hoàn toàn bằng
nước máy. Do đó, tổng (Rf + Rm) có thể được xác định bằng cách loại bỏ lớp cặn lọc
bằng nước tinh khiết. Sau đó, Rc có thể được tính bằng cách trừ tổng điện trở (Rt) và
tổng của (Rf + Rm). Sau đó, ngâm màng trong dung dịch tẩy rửa NaOCl 0,5 % và

14
NaOH 4 % trong 8 giờ để xác định điện trở của màng. Cuối cùng, Rf được xác định
bằng Eq(7).

P
J =
.Rt (6)

Rt= Rm + Rc + Rf (7)

Trong đó J là thông lượng thấm; ΔP là áp suất chuyển màng (TMP); μ là độ


nhớt của chất thấm; Rt là tổng điện trở; Rm là điện trở màng trong của màng; Rc là
điện trở của lớp cặn, và Rf là khả năng chống bám bẩn gây ra bởi sự hấp phụ của các
chất hòa tan và sự bít tắc các lỗ rỗng.

2.8. Statistical analysis: Phân tích thống kê


R studio được sử dụng để tiến hành tất cả các phân tích thống kê. Mối quan hệ
giữa các biến được giải thích thông qua tương quan Pearson. Độ lớn của hệ số tương
quan (ρ) được coi là rất thấp (ρ < 0,1), thấp (0,1 < ρ < 0,3), trung bình (0,3 < ρ < 0,5),
cao (0,5 < ρ < 0,7), rất cao (0,7 < ρ < 0,9), gần tuyệt đối (ρ > 0,9) và tuyệt đối (ρ =
1).

Phân tích phương sai một nhân tố của Welch (kiểm định ANOVA của Welch)
kiểm định giá trị trung bình của nhiều hơn hai nhóm để xem chúng có bằng nhau
không. Về mặt định lượng, bình phương một phần omega (ωp 2) được sử dụng để
báo cáo mức độ ảnh hưởng (Albers và Lakens, 2018). Độ lớn như vậy được giải thích
bằng cách sử dụng ωp 2 như sau: > 0,01 nhỏ; > 0,06 vừa phải và > 0,14 lớn (Cohen,
1988). Ngoài ra, so sánh theo cặp giữa BRT với hiệu chỉnh được sử dụng cho nhiều
kiểm định và giá trị p cho nhiều so sánh được điều chỉnh bằng phương pháp điều
chỉnh của Holm (Holm, 1979). Các kết quả (tức là Hình 2) chỉ hiển thị các phép so
sánh theo cặp có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Hơn nữa, nếu không thể bác bỏ giả thuyết H0 bằng cách tiếp cận kiểm định ý
nghĩa thống kê (NHST), thì phân tích Bayesian được sử dụng để định lượng khả năng
dữ liệu theo giả thuyết không (H0) cao hơn bao nhiêu so với giả thuyết thay thế (H1)
( Rouder và cộng sự, 2012). Tóm lại, bằng cách sử dụng phân phối Cauchy trước,

15
phân tích Bayes đã trả lại hệ số Bayes theo thang logarit cho kiểm định trong đó bằng
chứng ủng hộ giả thuyết không (tức là BF01) so sánh bằng chứng trong ủng hộ giả
thuyết thay thế (BF10). Tính hợp lý tương đối của các giả thuyết cạnh tranh H0 và
H1 đã được thể hiện trong biểu thức. (Eq 8).

𝑃(𝐻1/𝐷) 𝑃(𝐻1) 𝑃(𝐷/𝐻1)


= × (8)
𝑃(𝐻0/𝐷) 𝑃(𝐻0) 𝑃(𝐷/𝐻0)

Trường hợp thay đổi từ tiền nghiệm sang hậu nghiệm mà dữ liệu (D) mang lại là hệ
𝑃(𝐷/𝐻1)
số Bayes (BF10) (i.e, ) đưa ra bằng chứng cho H1 hơn H0. Ngược lại, (BF10)
𝑃(𝐷/𝐻0)
𝑃(𝐷/𝐻0)
(i.e, ) là bằng chứng cho H0 hơn H1. Ví dụ: nếu BF10 = 10 hoặc BF01 = 0,1
𝑃(𝐷/𝐻1)

(BF10 = 1/BF01) có nghĩa là có nhiều bằng chứng cho H1 hơn 10 lần so với H0.

Do đó, tỷ lệ loại bỏ COD, TN và TP trong MPBR có khuấy đã được báo cáo thông
qua cả suy luận frequentist và suy luận Bayes , với các chi tiết về thống kê mô tả,
thống kê suy luận, ước tính kích thước hiệu ứng và độ không đảm bảo của nó, so sánh
theo cặp, định lý kiểm định Bayes , ước tính hậu nghiệm Bayesian và độ không đảm
bảo của nó.

3. Results and discussion: Kết quả và thảo luận


3.1. Effect of biomass retention times on biomass growth: Ảnh hưởng của thời
gian lưu sinh khối đến tăng trưởng sinh khối
Việc xử lý nước thải có dòng liên tục là rất quan trọng để đánh giá mức độ
hoạt động của MPBR. MPBR khuấy được vận hành liên tục trong ít nhất 30 ngày ở
mỗi giá trị BRT sau khi hoàn thành giai đoạn thích nghi:

Hình (1a) Mức độ lớn nhất của vi tảo (0,692 ± 0,044 g L-1) và bùn hoạt tính
(0,166 ± 0,030 g L-1) đã được tìm thấy tại BRT 10.

Hình (b) Giảm BRT gây ra sự suy giảm tổng sinh khối như sau: BRT 10d
(0,858 ±0,045 g L-1) > BRT 7d (0,716 ± 0,043 g L-1) > BRT 5d (0,451 ± 0,09 g L-1) >

16
BRT 3d (0,250 ± 0,04 g L-1). Sự suy giảm như vậy trong tổng sinh khối thoả mãn một
hàm tuyến tính:

Tổng sinh khối = 0,0889* BRT + 0,0131 (R2 = 0,9576).

Sự mất mát sinh khối này được cho là do sự giảm nồng độ vi tảo, mặc dù trong
tất cả BRT, sinh khối vi tảo chiếm ưu thế hơn bùn hoạt tính.

Tỷ lệ bùn hoạt tính trên tổng sinh khối tăng dần, tức là BRT 10d (20%) < BRT
7d (22%) < BRT 5d (32%) < BRT 3d (34%) (Hình 6b)

Hình (c) Năng suất sinh khối đạt được ở BRT 7d (102 ± 6 mg L-1 d-1), tiếp
theo là BRT 10d (86 ± 4 mg L-1 d-1); BRT 5d (85 ± 8 mg L-1 d-1) và BRT 3d (83 ±
12 mg L-1 d-1)

Mặc dù MPBR khuấy đạt được năng suất sinh khối một cách đáng kể bằng
cách tránh rửa trôi sinh khối nhờ kiểm soát chính xác BRT, kiểm soát BRT không
đúng cách có thể thay đổi cường độ ánh sáng cần thiết của vi tảo do sự tự che nắng
của tảo và tế bào vi sinh vật . Các báo cáo của chúng tôi ở đây cho thấy BRT của 7d
đạt được năng suất sinh khối lớn hơn nhiều so với các BRT khác trong MPBR khuấy
(ANOVA một nhân tố , p < 0,05). Nếu không có sục khí bên ngoài, tổng năng suất
sinh khối trong MPBR khuấy là kết quả của mối quan hệ cộng sinh giữa vi tảo và vi
khuẩn, được thúc đẩy bởi ba tương tác cơ bản, bao gồm chủ nghĩa tương hỗ, chủ
nghĩa cộng sinh và ký sinh trùng (Fuentes et al., 2016; Lutzu và Dunford, 2018).

Những tương tác này xảy ra do những thay đổi về môi trường và dinh dưỡng
có lợi cho các loài trong việc chịu đựng nhiều điều kiện khắc nghiệt. Sản lượng do
BRT gây ra giảm đáng kể, dẫn đến tương tác bất lợi và năng suất sinh khối bị suy
giảm (ví dụ: BRT 10 và BRT 3). Ngược lại, năng suất sinh khối cao nhất của BRT 7
ngày có thể được quy cho cường độ ánh sáng thích hợp và chất dinh dưỡng sẵn có
cho các tương tác lẫn nhau. Trong sinh quyển, trao đổi chất dinh dưỡng, truyền tín
hiệu và chuyển gen là ba dạng tương tác lẫn nhau diễn ra giữa vi tảo và vi khuẩn.
Nhìn chung, trao đổi chất dinh dưỡng được coi là phổ biến và quan trọng nhất
(González-González và DeBashan, 2021).

17
18
3.2 Variation of dissolved oxygen, pH, and alkalinity: Sự thay đổi của oxy hoà
tan, pH và độ kiềm
DO chủ yếu được giải phóng từ các tế bào vi tảo trong quá trình quang hợp,
đây cũng được coi là một phần quan trọng trong quá trình hô hấp của vi khuẩn và loại
bỏ COD và nitơ.

Trong pha sáng, DO của BRT 3 ngày là thấp nhất (2,29 ± 1,19 mg L−1) => có
thể là kết quả của một tỷ lệ vi tảo thấp trong đồng nuôi cấy. DO của BRT 10 ngày là
cao nhất và đôi khi đạt tới 7,9 mg L-1. Trong pha tối, nồng độ DO giảm đáng kể, thuận
lợi cho điều kiện thiếu khí (DO < 0,34 ± 0,24 mgL-1)

Những biến đổi DO giữa pha sáng và pha tối này là yếu tố bắt đầu quá trình
nitrat hóa và khử nitrat, theo hai bước để chuyển đổi và loại bỏ nitơ. Những phát hiện
hiện tại chỉ ra rằng bùn hoạt tính đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát mức
DO trong MPBR có khuấy. Vì vi tảo tiếp tục phát triển và tăng mức DO, hiệu ứng
quang hô hấp có thể ngăn chặn sự phát triển của vi tảo nếu hệ thống không thể xử lý
áp suất oxy một phần. Tốc độ tăng trưởng nhanh của vi khuẩn hiếu khí có thể làm
giảm áp lực oxy quang hợp trong các tế bào vi tảo và cung cấp CO2, điều này sẽ tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của chúng.

Sự phát triển của vi tảo tự nhiên có khả năng làm tăng độ pH là do sinh khối
vi tảo hấp thụ carbon dioxide hòa tan (CO2) và bicarbonate (HCO3−) làm thay đổi
trạng thái cân bằng và gây ra sự tích tụ các ion hydroxit (OH−) trong pha sáng. Độ
pH đầu vào ổn định ở mức 7,54 ± 0,0909 (Xem phần bổ sung điện tử, Hình S3b và
S4b).

Ở BRT 10 ngày và 7 ngày, độ pH thấm qua tăng khoảng 0,1–0,3 đơn vị do tiêu
thụ CO2 nhiều do nồng độ vi tảo cao. Khi CO2 được tạo ra từ quá trình hô hấp của vi
khuẩn không đủ cho quá trình quang hợp của vi tảo, CO2 từ không khí và sự hấp thụ
CO2 của vi tảo có xu hướng cân bằng và dẫn đến sự ổn định của pH.

19
Ở BRT 5 ngày và 3 ngày, độ pH giảm nhẹ 0,1–0,2 đơn vị. Quá trình nitrat hóa
có thể giải phóng các ion hydro và làm giảm độ pH cũng như độ kiềm. Nồng độ nitơ
nitrat thấm qua thấm tăng mạnh ở thời gian BRT ngắn (3–5 ngày) cho thấy mức độ
hoạt động nitrat hóa cao (Xem phần bổ sung E, Hình S7d).

Sự hiện diện của một lượng lớn vi tảo ở BRT cao (7-10 ngày) được cho là làm
giảm nồng độ nitơ nitrat, cho thấy rằng vi tảo có thể phần nào ức chế hoạt động nitrat
hóa (Xem phần bổ sung E, Hình S7c).

Vi khuẩn nitrat hóa và vi tảo cuối cùng có thể cạnh tranh CO2 trong điều kiện
hạn chế carbon (García et al., 2017) và vi khuẩn gram dương/âm có thể bị tiêu diệt
bởi một số chất chuyển hóa của vi tảo (Liu et al., 2017). Do đó, một sự thay đổi trong
BRT đã làm thay đổi cả mối quan hệ sinh khối và cộng sinh, dẫn đến sự thay đổi nồng
độ DO, độ kiềm và pH.

20
Hình 2. Tốc độ loại bỏ chất hữu cơ và chất dinh dưỡng (mg L-1 d-1) trong các thời
gian lưu sinh khối khác nhau, (a) Loại bỏ COD, b) Loại bỏ TN, c) Loại bỏ TP.

3.3 Organic matter removal: Loại bỏ chất hữu cơ


Hình 2a nêu bật các tỷ lệ loại bỏ COD khác nhau mà các BRT khác nhau đạt
được. Thử nghiệm Anova của Welch tiết lộ rằng tất cả các điều kiện BRT đều có sự
khác biệt về tỷ lệ loại bỏ, các tác động có ý nghĩa thống kê. Kích thước hiệu ứng (ω2p
= 0,71) là rất lớn, tuân theo quy ước của Cohen (Cohen, 1988). So sánh theo cặp với
phương pháp điều chỉnh của Holm cho thấy: Tỷ lệ loại bỏ COD trong BRT 7 ngày
lớn hơn nhiều so với các BRT khác (p < 0,05) với tỷ lệ loại bỏ đạt 71 ± 12 % (Xem
phần bổ trợ điện tử, Bảng S1). Tỷ lệ loại bỏ COD là: 96,2 ± 21,4 mg L−1 d−1 (BRT 10
ngày); 125,2 ± 25,6 mg L−1 d−1 (BRT 7 ngày); 70,4 ± 29,6 mg L−1 d−1 (BRT 5 ngày);
50,2 ± 20,2 mg L−1 d−1 (BRT 3 ngày). Tỷ lệ loại bỏ COD cao như vậy cho thấy sự
hợp tác tốt giữa vi tảo và bùn hoạt tính trong lò phản ứng.

Tỷ lệ loại bỏ COD phụ thuộc vào nhiều thông số khác nhau, bao gồm cả hoàn
cảnh vận hành (Hình 3b). COD thấm qua cho thấy mối tương quan nghịch đáng kể
với BRT (ρ = −0,672), pH (ρ = −0,606) và độ kiềm (ρ = −0,414). Tăng BRT, pH và

21
độ kiềm giúp giảm nồng độ COD, điều này liên quan trực tiếp đến khả năng cung cấp
đủ oxy của tảo thông qua quá trình quang hợp để vi khuẩn dị dưỡng phân hủy các
chất hữu cơ. Ngược lại, COD thấm qua cho thấy mối tương quan thuận đáng kể với
TN đầu ra (ρ = 0,726), NH4+-N (ρ = 0,574) và NO3−-N (ρ = 0,560).

Quá trình nitrat hóa làm tăng mạnh nồng độ NO3−-N thấm qua ở BRT thấp,
điều này phù hợp với những phát hiện trong Phần 3.2. NH4+-N thấm qua tăng cao có
thể là do một phần sinh khối tảo giảm đột ngột có sẵn để loại bỏ NH4+-N, gây ra mối
đe dọa đối với hoạt động của bùn hoạt tính. Trong những điều kiện này, mặc dù quá
trình nitrat hóa sẽ có lợi, nhưng nồng độ bùn hoạt tính thấp có thể không đủ để khoáng
hóa các vật liệu hữu cơ, do đó làm giảm tốc độ loại bỏ COD và hậu quả như vậy cho
đến nay đã được dự đoán.

3.4. Nutrient removal: Loại bỏ chất dinh dưỡng


Hình 2b cho thấy tỉ lệ loại bỏ TN ở các giá trị BRT khác nhau. Loại bỏ thấp
được cho là do sự gia tăng đột ngột của TN trong nước thấm ở BRT ngắn (Xem biểu
đồ S2c, E-Supplementary), ngụ ý rằng nitơ đồng hóa tảo là yếu tố chính góp phần
loại bỏ tổng nitơ.

Để hiểu rõ hơn về sự chuyển hóa nitơ, nồng độ của TKN, NH4+-N, NO2--N
và NO3--N đã được kiểm tra (Hình 4). Tại BRT thấp (tại 5d và 3d), thiếu sinh khối
vi tảo dẫn đến nitơ không thể được hấp thụ đúng cách, dẫn đến tăng TKN và NH4+-
N nồng độ trong nước thấm (Hình 4a, b). Đồng thời, NO2--N và Nồng độ NO3--N
trong nước thấm cao hơn đáng kể so với trong đầu vào (p < 0,05) do quá trình nitrat
hóa (Hình 4c và 4d). Các cơ chế loại bỏ nitơ không chỉ liên quan đến sự đồng hóa
của vi tảo mà còn cũng từ quá trình khử nitrat.

Việc giảm TP có thể là do sự hấp phụ và đồng hóa của sinh khối và kết tủa hóa
học, trong đó sự hấp phụ để đồng hóa có thể là cơ chế chính để loại bỏ nitơ và phốt
pho.

Nghiên cứu này đưa ra giả thuyết rằng PAOs và vi tảo có thể tăng tốc độ loại
bỏ phốt pho bằng cách tránh các tương tác bất lợi do các nhóm loài khác tạo ra ở BRT

22
thấp. Ví dụ, có một sự cạnh tranh tự nhiên giữa PAO và chất khử nitơ trong các hệ
thống loại bỏ nitơ sinh học đồng thời quy định bởi sự có sẵn của các nguồn carbon
(Guerrero và đồng sự., 2011; Zhu và đồng sự., 2019b). Hình 5 cho thấy rằng BRT 3
ngày không mang lại lợi ích cho quá trình khử nitơ so với BRT > 5 ngày, ngụ ý rằng
BRT 3 ngày có thể thúc đẩy hoạt động của PAO hơn là chất khử nitơ. Các BRT ngắn
dường như ủng hộ việc loại bỏ TP về mặt này. Tuy nhiên, việc loại bỏ TN đã được hỗ
trợ bởi BRT dài hạn.

Hình 2. Tốc độ loại bỏ chất hữu cơ và chất dinh dưỡng (mg L-1 d-1) trong các thời
gian lưu sinh khối khác nhau, (a) Loại bỏ COD, b) Loại bỏ TN, c) Loại bỏ TP.

23
Hình 3. Tương quan chéo giữa tất cả các biến. Tương quan chéo cục bộ (a) và tương
quan chéo xếp hạng với giá trị p < 0,05. Các cột màu đỏ chỉ ra rằng thời gian lưu
giữ sinh khối tương quan nghịch với các thông số nước thải. (Để giải thích các tham
chiếu đến màu sắc trong chú thích hình này, người đọc nên tham khảo phiên bản web
của bài viết này.)

3.5. Effect of biomass retention time on fouling behavior: Ảnh hưởng của thời
gian lưu sinh khối đến việc tắc nghẽn màng
Hàm lượng các chất polyme ngoại bào (EPS) hòa tan và liên kết, phân bố kích
thước hạt và áp suất xuyên màng (TMP) được sử dụng để đánh giá sự tắc nghẽn của
màng. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng BRT kéo dài tỷ lệ nghịch với sự tắc
nghẽn màng trong MPBR được khuấy.

Hình 4: Chuyển đổi nitơ theo thời gian lưu giữ sinh khối khác nhau.

24
−1
(Hình. 6a). Tỷ lệ tắc nghẽn trung bình (n=3) là 4.41  1.15 kPad (BRT 10d),
−1 −1 −1
5.06  1.14 kPad (BRT 7d), 6.42  1.11 kPad (BRT 5d) và 6.78  0.92 kPad
(BRT 3d). Cụ thể, tỷ lệ vi tảo trong tổng sinh khối được quan sát thấy giảm dần, tức
là BRT 10d (80%) > BRT 7d (78%) > BRT 5d (68%) > BRT 3d (66%) và ngược lại
đối với hoạt hóa khối lượng sinh khối bùn (Hình 6b).

Hình 5: Cân bằng Nito ở các khoảng thời gian lưu giữ sinh khối khác nhau (BRT).

Bên cạnh đó, sự gia tăng PS hòa tan, PN hòa tan và PS liên kết trong khi giảm
PN liên kết có thể liên quan đến xu hướng tăng tỷ lệ tắc nghẽn.

BRT giảm ban đầu làm giảm tỷ lệ bùn hoạt tính vi tảo và sự gia tăng tỷ lệ bùn
hoạt tính có liên quan đến sự gia tăng các thành phần EPS hòa tan.

Nồng độ của PN liên kết và PS liên kết cao hơn đáng kể so với EPS hòa tan
(Hình 7a), trong đó PN liên kết có nồng độ cao hơn so với PS liên kết.

Tỷ lệ PN/PS giới hạn = 0,2586*BRT + 0,3234 (R2 = 0,9947) được cho là phù
hợp tuyến tính với BRT. Theo BRT 10d, tỷ lệ tắc nghẽn thấp nhất có liên quan đến
tỷ lệ PN/PS giới hạn cao nhất (có nghĩa là 2,94). Nồng độ của PN bị ràng buộc giảm

25
đáng kể từ 31,35 ± 3,02 mg/L(BRT 10d) xuống 10,67 ± 1,61 mg/L-¹ (BRT 3d) (Hình
7c).

Việc hạ thấp PN bị ràng buộc có thể hạn chế sự kết tụ bông bùn hoạt tính của
vi tảo, dẫn đến các phần kích thước bông cặn nhỏ hơn (Xem phần bổ sung điện tử,
Hình S8) có thể lắng đọng trên bề mặt màng và làm tăng khả năng bám bẩn. Nhìn
chung, các màng được phủ bằng polysacarit thay vì protein đã được chứng minh là
tạo thành một lớp bám bẩn rất khó phục hồi với độ thấm cực thấp và khả năng lọc
cao (Teng và cộng sự, 2022). Tỷ lệ tắc nghẽn cao có thể được dự đoán là kết quả của
sự gia tăng PS hòa tan, PN hòa tan và giảm PN bị ràng buộc.

Trong môi trường nuôi cấy thuần túy, các tế bào vi tảo riêng lẻ có đường kính
từ 2-10 µm, và các giá trị này có thể được chuyển đổi thêm thành các bông vi tảo.
Dưới kính hiển vi ở BRT 10d, nghiên cứu của chúng tôi cũng phát hiện ra lượng vi
khuẩn dạng sợi phong phú, có thể đã tạo ra một cầu nối có thể kéo dài các khối sinh
khối tổng thể (dữ liệu không được hiển thị).

Lực cản bánh (R) của mô-đun màng đóng góp một phần tương đối nhỏ (<30%)
trong tất cả các BRTS và có xu hướng giảm khi BRT giảm, chiếm 29,8 % (BRT 10d)
đến 15,6 % (BRT 3d) (Xem Bổ sung điện tử, Bảng S2). Những kết quả này có thể
liên quan đến nồng độ sinh khối vì nồng độ sinh khối cao hơn cho Rc cao hơn.

Ngược lại, tỷ lệ kháng cặn (R) đã tăng lên đáng kể, được tính toán dựa trên
biểu thức. (7). Rf này được tìm thấy lần lượt là 25,4%, 29,7% và 31,1 % đối với BRT
10d, 7d và 5d. Rf cao nhất được quan sát thấy ở BRT 3d (7,5 × 1011 m-1), chiếm 42,9%
tổng lực cản. Có ý kiến cho rằng sự gia tăng nồng độ PN hòa tan, PS hòa tan và PS
liên kết nêu trên có thể liên quan đến xu hướng leo thang R. Hơn nữa, BRT 5d dường
như cũng là ngưỡng để nâng cao đáng kể tỷ lệ Rf so với BRT 3d.

Tỷ lệ tắc nghẽn giảm khi vận hành ở BRT dài hơn do số lượng nồng độ EPS
hòa tan hạn chế và kích thước khối bông lớn hơn.

26
Đánh giá từ dữ liệu hiện tại, các BRT chạy trong thời gian dài hơn 5 ngày có
thể giúp giảm tắc nghẽn màng ngay cả ở thông lượng cao tới 16,5 L m-2 h-1 trong
nghiên cứu này.

Hình 6: Sơ đồ TMP (a) và những thay đổi trong phân bố sinh khối (b) tại các thời
điểm lưu giữ sinh khối khác nhau.

3.6. Implication and future application: Ý nghĩa và ứng dụng trong tương lai
Các thành phần hữu cơ và nitơ dư thừa dẫn đến hiện tượng phú dưỡng trong các vùng
nước, có thể xử lý bằng bùn hoạt tính và tảo.

Tảo có thể hoạt động như một "air diffuser" hiệu quả về chi phí trong quy trình bùn
hoạt tính và tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng trong quá trình xử lý nước thải.

Sinh khối tảo có thể được sử dụng để sản xuất nhiên liệu sinh học, than sinh học và
phân bón sinh học, có thể cải thiện dinh dưỡng của đất.

27
Điều kiện MPBR được khuấy trộn cao với tỷ lệ bùn hoạt tính và tảo là 3:1 có
thể loại bỏ hiệu quả các chất ô nhiễm hữu cơ và nitơ, đồng thời tăng cường khả năng
hấp thụ sinh học.

Trong thời gian BRT kéo dài 7 ngày, tốc độ loại bỏ tối đa đối với chất hữu cơ
và nitơ đã đạt được, trong khi môi trường nuôi dưỡng bùn hoạt tính vi tảo (tức là tỷ
lệ 3:1) có thể được duy trì trong một thời gian dài (Hình 1b). Năng suất sinh khối cao
nhất cũng thu được trong MPBR có khuấy (100 vòng/phút) chỉ ra sự tồn tại của một
điều kiện lý tưởng cho sự tương tác lẫn nhau.

28
4. Conclusion: Kết luận
Hiệu suất của bể phản ứng quang sinh học màng hỗn hợp cơ học đã được đánh
giá để xác định BRT tối ưu và xác định điều kiện tốt nhất để loại bỏ chất ô nhiễm,
năng suất sinh khối và tắc nghẽn màng phòng ngừa. Kết quả cho thấy rằng các BRT
đã tác động đáng kể đến sự phát triển của sinh khối bùn kích hoạt vi tảo hỗn hợp. Kéo
dài BRT (7-10 ngày) có lợi cho việc loại bỏ các chất gây ô nhiễm nitơ và carbon hữu
cơ. Ngược lại, BRT rút ngắn (3d) dẫn đến tỷ lệ loại bỏ phốt pho tối đa. Tốc độ bám
bẩn tăng lên khi vận hành ở BRT ngắn, chủ yếu là do sự gia tăng polysaccaride và
protein hòa tan, đồng thời nồng độ protein liên kết có liên quan đến khả năng chống
bám bẩn ngày càng tăng. Vi tảo đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đồng hóa
chất dinh dưỡng, trong khi bùn hoạt tính góp phần vào quá trình đồng hóa nitơ tổng
số, khử nitrat và loại bỏ chất hữu cơ. BRT 7 ngày là phù hợp nhất cho các hệ thống
MPBR có khuấy để đạt được hiệu suất xử lý tối ưu và kiểm soát cặn bẩn.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bao Trong Dang, Xuan Thanh Bui , Thanh Tin Nguyen, Huu Hao Ngo, Long D.
Nghiem, Ky Phuong Ha Huynh, Thi Kim Quyen Vo, Thi Dieu Hien Vo, Chitsan Lin,
Shiao-Shing Chen, 2023. Effect of biomass retention time on performance and
fouling of a stirred membrane photobioreactor. Sci. Total Environ. 864 161047.
http://dx.doi.org/10.1016/j.scitotenv.2022.161047

[2] Lý Thị Ái Duyên, Nguyễn Thị Bé Liên, Nguyễn Thị Thùy Dương, Nguyễn
Phương Thảo, Bùi Xuân Thành*, Trần Công Sắc, Đỗ Văn Tiến, & Lê Linh Thy.
(2022). Nghiên cứu ảnh hưởng tỷ lệ vi tảo Chlorella sp. và bùn hoạt tính loại bỏ chất
dinh dưỡng và chất hữu cơ cho nước thải có nồng độ C/N thấp. Bản B của Tạp Chí
Khoa học Và Công nghệ Việt Nam, 64(8). https://doi.org/10.31276/VJST.64(8).58-
64

30

You might also like