You are on page 1of 4

Tình huống 18:

Chiều ngày 11/6/2001 Phạm Văn D đi lang thang thấy một người đang sửa xe Cub 70
đời 82-89 ở ven đường nên đứng lại xem. Người chủ xe máy chữa xe mãi không được
nên nhờ D chữa giúp. D nhận lời. Sau khi chữa xe xong, D ngồi lên xe khởi động máy,
máy nổ. Lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi
thẳng. Ngày hôm sau D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Công an hình
sự bắt giữ. Chiếc xe máy được Cơ quan công an giao trả cho người chủ xe tên là Trần
Quang B.

Qua đấu tranh khai thác, Cơ quan công an còn được biết đêm ngày 14/7/1995, lợi dụng
mọi người trong gia đình nhà ông Lê Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, D đã dùng kìm
cộng lực cắt khoá cửa vào nhà lấy chiếc xe Dream II ông L mới mua với giá 5 lượng
vàng mang lên thành phố Hồ Chí Minh bán tiêu sài. Nhưng trong quá trình điều tra, Cơ
quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi bị
bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.

Hỏi: Hãy xác định trách nhiệm hình sự của D?


Lời giải

1. Tóm tắt và phân tích hành vi phạm tội của D

– Đêm ngày 14/7/1995 lợi dụng gia đình ông L đi vắng D đã dùng kìm cộng lực cắt
khoá vào nhà lấy chiếc xe Dream II giá trị 5 cây vàng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan
điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi bị bắt về
vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.

– 11/6/2001 B nhờ D chữa xe. Sau khi chữa xe xong D ngồi lên xe khởi động máy nổ.
Lợi dụng B đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi thẳng. Ngày
hôm sau khi D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Công an hình sự bắt
giữ.

2. Hướng xâm hại của hành vi và lựa chọn quy phạm pháp luật cần kiểm tra

– Hành vi D thực hiện đêm ngày 14/7/1995 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của
công dân. Các quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1, 2 Điều 155, khoản 2
Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự 1985 và khoản 1 Điều 138; khoản 3 Điều 7;
khoản 2, 3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.

– Hành vi D thực hiện ngày 11/6/2001 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của công
dân. Quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình sự năm
1999.

3. Kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn
* Khoản 1, 2 Điều 155 khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985
liên quan tới hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy

* Khoản 1, 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985

Khoản 1 Điều 155 quy định cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản của công dân.

– Khách thể bị tội phạm xâm hại là quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Đối tượng tác
động của nó là tài sản của công dân.

Hành vi lấy chiếc xe máy Dream II của D đã trực tiếp xâm hại tới quan hệ sở hữu tài
sản của anh L. Ông L đã mất quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt chiếc xe máy của
mình

– Mặt khách quan của tội phạm

Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản của công dân gồm có hành
vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút, bí mật; hậu quả nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả phạm tội xảy ra.

Các tình tiết của vụ án cho thấy D lợi dụng mọi người trong gia đình nhà Ông Lê Quốc
L (ở làng lân cận) đi vắng, đã dùng kìm cộng lực cắt khoá cửa vào nhà lấy chiếc xe
Dream II. Như vậy, D đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc xe Dream II của ông L
bằng thủ đoạn lén lút, bí mật che giấu tính chất phạm pháp của hành vi của mình đối
với ông L- chủ sở hữu tài sản. Tội phạm hoàn thành kể từ khi D chiếm đoạt được chiếc
xe Dream II trị giá 5 lượng vàng.

– Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, động cơ tư lợi.

Các tình tiết của vụ án cho thấy D đã nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình, biết được việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của
ông L là hành vi bị pháp luật cấm. Tuy nhận thức được rất rõ như vậy nhưng D vẫn
thực hiện hành vi phạm tội với động cơ tư lợi.

Chủ thể của tội phạm đòi hỏi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ đủ 16
tuổi trở lên ở khoản 1 và từ đủ 14 tuổi trở lên ở khoản 2 và 3 Điều 155 Bộ luật hình sự
năm 1985. D đã thoả mãn các điều kiện của chủ thể của tội phạm này.

Tóm lại: Đối chiếu với các dấu hiệu đặc trưng pháp lý của tội trộm cắp tài sản của công
dân theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hành vi của D đã thoả mãn
các dấu hiệu của tội phạm này. Tuy nhiên, tài sản của ông L là chiếc xe Dream II với
giá trị 5 lượng vàng. Theo Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì “khoảng 5 tấn gạo, 5 tấn xăng dầu, phân đạm,
5 tạ mỳ chính, 2 tấn đường trắng loại 1, hai lượng vàng, đối với tiền hoặc các loại tài
sản hàng hoá, vật tư khác quy ra trị giá tương đương với 5 tấn gạo- được coi là số
lượng tài sản, hàng hoá, vật tư có giá trị lớn hoặc thu lợi bất chính lớn. Khi trị giá gấp 3
lần các mức nêu trên thì được coi là giá trị rất lớn hoặc có số lượng rất lớn, thu lợi bất
chính rất lớn”.

Như vậy, Phạm Văn D đã phạm tội trộm cắp tài sản của công dân trong trường hợp
chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn theo điểm c khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm
1985.

* Khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985

Do hành vi trộm cắp tài sản của công dân xảy ra từ ngày 14/7/1995, nhưng cho đến
ngày 11/6/2001 Cơ quan công an mới phát hiện ra nên cần phải kiểm tra để xác định
hành vi phạm tội này đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chưa và D có được
hưởng thời hiệu không.

Theo khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985, tội trộm cắp tài sản của công dân theo
khoản 2 Điều 155 là tội nghiêm trọng (khung hình phạt từ 2 đến 10 năm tù). Điểm c
khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với tội này là 15 năm. Kể từ khi D phạm tội trộm cắp tài sản của công dân
(14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) chưa đến 6 năm cho nên D vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Nhưng do hành vi phạm tội này lại được phát hiện và xử lý sau khi Bộ luật hình sự năm
1999 có hiệu lực pháp luật, nên cần phải vận dụng những điều luật có lợi cho D theo
quy định khoản 3 Điều 7 Bộ luật này.

Hai tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 132 và Điều 155 Bộ luật hình sự năm
1985 được Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sáp nhập thành một tội.

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào trộm cắp tài sản của
người khác có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng… thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Như vậy, so với quy
định về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985 cho thấy nhà làm luật
không chỉ phi tội phạm hoá mà còn phi hình sự hoá một phần loại tội phạm này.

Đối chiếu với hành vi trộm cắp chiếc xe máy Dream II (giá trị 5 lượng vàng – dưới 50
triệu đồng) của D chúng ta thấy nó chỉ thoả mãn các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội
trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138. Theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm
1999 thì khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng với hành vi phạm tội trên của
D (áp dụng theo hướng có lợi cho D). Cũng theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm
1999, tội trộm cắp tài sản do D thực hiện là tội ít nghiêm trọng và căn cứ vào điểm a
khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm đối với
loại tội này là 5 năm.

Theo các tình tiết của vụ án thì từ khi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân
(14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) đã qua gần 6 năm. Trong thời gian này
D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà, không trốn tránh và cũng không có lệnh
truy nã của Cơ quan công an. Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 và 3 Điều 23 Bộ
luật hình sự năm 1999 thì D không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài
sản nữa.

* Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình sự năm 1999 liên quan tới hành vi D thực hiện
ngày 11/6/2001

Khoản 1 Điều 136 quy định cấu thành tội cướp giật tài sản

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này thể hiện ở chỗ tội phạm xâm phạm tới quan
hệ sở hữu tài sản. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi nhanh chóng chiếm
đoạt tài sản của nạn nhân rồi nhanh chóng tẩu thoát. Tội phạm hoàn thành khi chiếm
đoạt được tài sản. Tội cướp giật tài sản được người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt đủ tuỏi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp với động cơ tư
lợi

So sánh, đối chiếu các dấu hiệu cấu thành của tội cướp giật tài sản quy định tại khoản
1 Điều 136 như đã trình bày ở trên với các tình tiết khách quan và chủ quan của vụ án
cho thấy hành vi của D đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của công dân
được pháp luật hình sự bảo vệ. D đã có hành vi lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành
lý vào sau xe đã nhanh chóng nổ máy cài số phóng xe đi thẳng. Sau đó mang xe đến
hiệu cầm đồ để bán. Hành vi này rõ ràng là hành vi cố ý chiếm đoạt tài sản của công
dân bằng thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt rồi tẩu thoát. Đây là dấu hiệu của tội
cưopứp giật chứ không phải là dấu hiệu đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản được quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự. D có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của rmình là nguy hiểm cho
xã hội nhận thực được hậu quả của hành vi đó những vẫn có ý thức chiếm đoạt bằng
được tài sản của nạn nhân để thoả mãn động cơ tư lợi.

Dựa vào những phân tích trên đây cho thấy hành vi của D đã thoả mãn đầy đủ các dấu
hiệu của tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.

4. Kết luận:

Phạm Văn D chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản của công dân. Tội
danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.

You might also like