You are on page 1of 5

TÂY TIẾN

TÁO XANH
1. Tây Tiến
+ MB1: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
Nhà văn Shelly đã từng nói rằng: “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử”. Thật vậy, có những
bài ca không bao giờ quên trong lòng người đọc. Có những năm tháng chiến tranh đã in hằn lên những tác phẩm văn
học chân chính, mà bụi thời gian có dày bao nhiêu vẫn không thể làm phai mờ. Có lẽ vậy mà hình ảnh người lính
trong chiến tranh đã ngã xuống vì đất nước vẫn vĩnh hằng trong trái tim của mỗi con người. Vì thế, hình ảnh ấy đi
vào thơ Quang Dũng một cách nhẹ nhàng, sâu lắng. Ông là một nhà thơ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu
mà lãng mạn. Tiêu biểu trong đó là bài thơ Tây Tiến. (Sau đó trích đoạn thơ cần phân tích hoặc dẫn dắt đến nội dung
mà đề bai yêu cầu)
+ MB2: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
“Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Chiến tranh qua đi đã để lại những hòa niệm về năm tháng không thể nào quên, những năm tháng mà bụi thời gian
có dày đến đâu cũng không thể làm phai mờ. Đó là khi con người ta nhận ra chẳng còn gì hơn Tổ quốc, họ gác lại tất
cả để đi theo tiếng gọi của đất nước thân yêu. Những con người ấy đã đi qua thơ ca, nghệ thuật như những huyền
thoại của thế kỉ XX. Và đặc biệt, hình tượng ấy đã được nhà thơ Quang Dũng thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng
kính lãng mạn những vẫn đậm chất hiện thực qâu bài thơ Tây tiến. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính đã được thi nhân
khắc họa một cách độc đáo, mới lạ, oai hùng qua đoạn thơ sau: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm
lên khúc độc hành”.
+ MB3: (Bài làm của Lê Đức)
Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ Bằng Việt từng viết:
“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng! Có những tác phẩm ra đời để
rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng
sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm
khảm ta những gì đẹp nhất để “suốt đời đi vẫn nhớ”. Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua mọi băng hoại”
của thời gian trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ những dư vang không
thể nào quên. Một trong số bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến” của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Trong bài thơ có
những vần thơ thật lắng đọng, đặc biệt là…
+ MB4: (Bài làm của Lê Đức)
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ
Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ
kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh
hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ
đẹp hào hoa, lãng mạn.
+ MB5: (Bài làm của Bích Trâm)
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy......"
Đất nước - Nguyễn Đình Thi
Nếu như ở đoạn thơ trên, Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của những chàng trai Hà
Thành thì ở bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng sẽ là người tái hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất
vả đó của họ. Nếu như chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho
đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản
đơn. Độc giả biết đến tên tuổi Quang Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có
thể, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc hẳn là bài thơ Tây Tiến. Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến lũy”, Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong suốt mấy thập kỉ. “Tây Tiến” đã đưa
tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kì chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài
hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa
lãng mạn vô cùng.
VIỆT BẮC-ĐẤT NƯỚC
TÁO XANH ✏2. Việt Bắc
+MB1: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, Tố Hữu đã từng viết:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, quê hương của những
anh hùng, đây là mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đã đặt chân đến đây cũng
phải bồi hồi, xuyến xao. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ cho những ai đã từng đến rồi
lại phải đi. Chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấyđã tạo ra những rung động mãnh liệt trong
cảm xúc để rồi nhà thơ Tố Hữu – Một người lính đã từng gắn bó với mảnh đất này viết nên tác phẩm
“Việt Bắc” – tuyệt tác của đời mình. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến. Cũng như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu
luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc.
MB2: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
Tố Hữu đã từng tâm sự: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết
về người đàn bà tôi yêu”. Thật vậy mỗi trang thơ của Tố Hữu là một bản tình ca về quê hương Tổ quốc
và người dân đất Việt. Đặc biệt hơn, đó chính là vùng đất Việt Bắc, nơi “đậm đà tình son” đối với người
chiến sĩ cách mạng- Tố Hữu. Vùng đất ấy đi vào thơ ca của ông một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng biết
bao. Thi phẩm được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người
kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và
ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân.
✏3. Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm
+ MB1: (Bài làm của Thanh Loan)
" Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"
Câu thơ của Chế Lan Viên là sự đúc kết một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu của tâm hồn: Sự gắn bó
với mỗi miền đất sẽ trở thành chính ta, một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và
phải chăng vì lí do này mà những vần thơ viết về quê hương đất nước luôn lấy đi được những rung
động thường trực? Đi ra từ "Đất nước" cơn nắng cơn mưa đời mình, Nguyễn Khoa Điềm chắp bút nên
trường ca "Mặt trường khát vọng" mà chương V "Đất nước" là tiêu biểu. Đoạn trích đã định nghĩa, cảm
nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước trong ý nghĩa "Đất đã hóa tâm hồn" kì diệu và đẹp đẽ như
thế!
+ MB2: (Bài làm của Lê Đức)
Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ…
Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng
mỗi người dân Việt Nam. Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết
những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết về hào
khí của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ
đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó là
Nguyễn Khoa Điềm. (Dẫn dắt nội dung đề bài yêu cầu vào đây)
✏4. Đất nước – Nguyễn Đình Thi
+ MB1: (Bài làm của Ngọc Anh)
Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi
hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp
ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến
ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được
tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!
+ MB2: (Bài làm của Ngọc Anh)
Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ:
"Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể - người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một
bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều
tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không
biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta
nữa."
(Thư trả lời bạn đọc, ngày 14.12.1983)
(Sau đó dẫn dắt nội dung đề bài yêu cầu vào đây)
+ MB3: (Bài làm của Ngọc Anh)
Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn
nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991). Thật vậy! Thơ ca luôn mang đến cho
độc giả những đắm say, khi cảm xúc mà tác giả đặt vào trong thơ, khiến người ta thấy mình như ở trong đó. Không chỉ thế, tác giả còn
mang như nét đặc sắc của hiện thực, của thời đại vào trong thơ, tạo nên những giá trị trường tồn cùng thời gian. Tác phẩm … của … là một
bài thơ như thế. Đặc biệt, khổ thơ … vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ này. (Rồi trích thơ vào đây nhé!)
✏ 5. Sóng
+ MB1: (Bài làm của Khánh Linh)
Không biết tự bao giờ những con sóng ào ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn, vỗ về trái tim người nghệ sỹ.Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào “Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí” của một mùa thu trong veo nơi đồng bằng Bắc Bộ, Huy Cận vẽ sóng “Tràng Giang” bằng bằng những dòng thơ hiu
hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời đại trong nỗi sầu vạn kỉ thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã nhuộm lên những con sóng bạc đầu màu yêu nồng
nàn, vĩnh cửu bằng một hòn thơ tha thiết, nóng bỏng, đầy nữ tính.Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp
dịu dàng, thủy chung trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong “Sóng” ngời sáng như “nốt nhạc xanh của thời kỳ
lửa cháy”, như hòn ngọc quý của văn chương. “Sóng” để lại cho người đọc cảm nhận xanh non, tươi mới về tâm hồn rạo rực của người phụ
nữ đang yêu, một trái tim nồng nà, đong đầy xúc cảm qua đoạn thơ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
MB2: (Bài làm của Lê Đức)
(Đề: Cảm nhận vẻ đẹp tâp hồn người phụ nữ đang yêu qua bài thơ “sóng của thi sĩ Xuân Quỳnh.)
Không biết từ bao giờ những con sóng áo ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn chạm vào trái tim của người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi
vào gợn sóng biếc hơi thở của một mùa thu trong veo, Huy Cận vẽ sóng “Tràng giang” bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực
trước thời cuộc thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên những con sóng bạc đầu tấm áo tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hồn thơ đắm
say, cháy bỏng. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tình yêu của người con
gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” ngời sáng như một hòn ngọc báu của Văn chương.
+ MB3: (Sưu tầm)
Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình yêu, chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh
cũng thế, cũng từng thấp thỏm, lo âu, đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ ra táo bạo, quá mạnh dạn
như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng
đây chỉ là những chất liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết bao là ẩn tình mà Xuân
Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với Sóng của Xuân Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu.
Người ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như thế, tình yêu chưa bao giờ đi theo một hướng xác định.
Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn
ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài thơ này, tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!

6. Đàn ghi ta của Lor-ca
(Bài làm của Ngọc Anh)
Là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, Thanh Thảo luôn tìm tòi khám phá, sáng tạo
tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và
ngôn từ mới mẻ. Đàn ghita của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy. Đồng cảm với Ph.G.Lor-
ca, một trong những tài năng sáng chói của nền văn học hiện đại Tây Ban Nha thế kỉ XX, Thanh Thảo đã viết
bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" để ca ngợi tài năng, nhân cách và bản lĩnh của Lor-ca và bày tỏ thái độ ngưỡng
mộ, kính yêu của mình đối với người nghệ sĩ thiên tài đã hi sinh trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít để bảo vệ nền văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

7. Người lái đò sông Đà
+ MB1: (Bài làm của Thùy Dương)
Pauxtopki từng tâm niệm “nhà văn chân chính là người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp”. Mỗi một trang viết
của người nghệ sĩ chân chính phải là từ hoa với sắc biếc mây trời, ngạt ngào hương hoa, lấp lánh tình người
trên tài hoa trí tuệ của con người. Có một nhà văn như thế đã đi vào hồn văn Việt Nam với trang hoa nổi tiếng
“Người lái đò sông Đà”. Ấy là Nguyễn Tuân – người đã xây dựng thành công công trình mĩ thuật sông Đà và
hình tượng con người lao động mới. Bước vào xứ sở sông Đà văn ông, người đọc choáng ngợp, hãi hùng bởi sự
hung bạo của Đà giang và say đắm ngất ngây trước nét trữ tình của nó qua hai đoạn văn sau: “Hùng vĩ của
sông Đà... khuỷnh sông dưới” và “Tôi có hay tạt ngang sông Đà... bản đồ lai chữ”.
+ MB2: (Bài làm của Thùy Dương)
Nguyễn Đình Thi từng phán về cụ Nguyễn Tuân là nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”, tự nhận mình là
người “sinh ra để thờ Nghệ thuật với hai chữ viết hoa”. Mỗi trang viết của văn nhân hiện lên là mỗi một tờ hoa
với cái biến ảo kì diệu của ngôn từ. Nguyễn trong bất cứ đề tài nào đều lấy cái tài hoa làm phương diện khám
phá con người và lấy tiêu chí thẩm mỹ đánh giá đối tượng. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho
phong cách này của Nguyễn Tuân. Tùy bút ra đời trong chuyến đi gian khổ mà hào hứng của Nguyễn Tuân lên
miền Tây Bắc xa xôi rộng lớn. Ở đó, văn nhân đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ vàng
mười đã qua thử lửa ở tâm hồn người lao động nơi đây. (Đặt nội dung mà đề bài yêu cầu vào đây)

8. Ai đã đặt tên cho dòng sông
+ MB1: (Bài làm của Ngọc Anh)
Ai đó đã từng nói, tuổi thơ của mỗi người sẽ luôn có “một dòng sông để thương, để nhớ, đặc biệt là các nhà
thơ, nhà văn. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi
ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm
ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người
đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Với sở trường về bút ký và đặc sắc trong sáng tác là ở sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ
vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vẻ đẹp
đa dạng về con sông Hương. (dẫn dắt vào đề tài của bài).
+ MB2: (sưu tầm)
Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương
thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi
thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật
cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là
niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ
ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con
sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn
khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể
hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng
tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng
sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế. (dẫn dắt vào đề tài của bài)
9. ✏ Vợ chồng A Phủ
+MB1:
“Vợ chồng A Phủ” để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ
dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng
lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do. (Dẫn dắt đến những nội dung
liên quan đến nhân vật Mị/sức sống tiềm tàng ở Mị).
+ MB2:
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả
những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo bão của cách mạng Nga”, “nhà văn của những
người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương quan đối lập trong câu
nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn là quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là
nhỏ, là vặt vãnh... (Dẫn dắt đến CHI TIẾT mà đề bài yêu cầu phân tích/cảm nhận)
+ MB3:
Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những nét riêng về phong tục văn hóa của những con người nơi cao
nguyên đá mờ sương ấy, Tô Hoài đã khắc họa được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm và góp thêm
nét vẽ riêng vào bức tranh Tây Bắc. (Dẫn dắt đến CHI TIẾT mà đề bài yêu cầu phân tích/cảm nhận)

10. Vợ nhặt
+ MB1:
Kim Lân, đúng như nhà văn Nguyên Hồng nhận xét, là nhà văn một lòng đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc
sống nông thôn. Nhận xét này dường như rất đúng với Vợ nhặt. Tác phẩm được Kim Lân viết sau khi hòa bình lập lại, dựa vào trí nhớ của
mình từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư đã bị mất bản thảo trước đó, in trong tập "Con chó xấu xí" (1962).
(Dẫn dắt đến nội dung mà đề bài yêu cầu)
+ MB2: (Bài viết của Nguyễn Phạm Thanh Hương)
Nhắc đến cái chết là nhắc đến sự tan thương, nạn đói khiến người ta nghĩ ngay đến những hình ảnh bần cùng, khốn khổ, những con người
vất vưởng sống nay chết mai, một khung cảnh ớn lạnh phảng phất mùi hôi thối của rác rưởi và cả những tiếng thở dài bất lực, thiếu sinh khí
và mất sức sống. Nhưng ở “Vợ Nhặt”, không chỉ đơn thuần là nạn đói mà Kim Lân đã thổi vào đấy hơi thở của sự sống, gieo vào tác phẩm giá
trị nhân đạo sâu sắc. Giữa màn đêm tối đen của “Vợ Nhặt” vẫn nổi lên ánh sáng của tình người, bản chất tốt đẹp, niềm tin hy vọng vào cuộc
sống và tương lai của những người nông dân nghèo.

11. Rừng xà nu
+ MB1:
Tây Nguyên – mảnh đất của núi non hùng vĩ, mang sự bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách
mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vố số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng
tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân
dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
(Dẫn dắt đến nội dung đề bài yêu cầu)
+ MB2:
Trên những trang viết của mình, Nguyễn Trung Thành thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Rừng
xà nu là một tác phẩm như thế.
(Dẫn dắt đến nội dung đề bài yêu cầu)
✏ 12. Những đứa con trong gia đình
Được mệnh danh là “nhà văn của người dân Nam Bộ”, Nguyễn Thi luôn mang đến cho người đọc những trang viết giàu cảm xúc và mang
đậm phẩm chất riêng của con người – mảnh đất anh hùng này. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm vô cùng gẫn gũi với độc giả. Trong những
tác phẩm đặc sắc ấy nổi lên truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (1978). Truyện viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của
chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất
nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi.
✏13. Chiếc thuyền ngoài xa
+ MB1:
Nikulin (Nga) từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã tắm rửa
sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong bầu không khí vô trùng". Thật vậy! Những nét đẹp đẽ, lương thiện trong
phẩm chất nhân vật luôn là giá trị vĩnh hằng mà các tác giả xây dựng được trong tác phẩm của mình. Nhân vật … trong tác phẩm … là người
đã được xây dựng lên bằng những điều đó. (dẫn dắt vào nội dung đề yêu cầu)
+ MB2:
Nghệ thuật và hiện thực luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, một tác phẩm chân chính muốn toả sáng phải có sự hòa quyện với
vẻ đẹp của cuộc sống chân thực. Nhà văn Nam Cao từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Có lẽ, Nguyễn Minh Châu đã rất thấm nhuần tư tưởng đó
khi xây dựng nên cốt truyện và nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. (Dẫn dắt đến nội dung đề bài yêu cầu)
___

You might also like