You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÁO CÁO THẢO LUẬN


BỘ MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: Làm rõ ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa nhân loại
tới sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?

Nhóm nghiên cứu: 6


Giảng viên hướng dẫn: Đặng Anh Dũng
Lớp học phần: POL1001
Hà Nội 3/2023.
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC

Phần
Lập kế trăm
hoạch bắt Ngày bắt hoàn
STT Tên công việc đầu đầu thực tế thành Người làm

Xác định và lựa Giảng viên cung cấp chủ


chọn vấn đề đề
1 nghiên cứu 16/3/2023 16/3/2023 100%

Xây dựng mục Hoàng Phương Thảo


tiêu, mục đích
2 nghiên cứu 22/3/2023 22/3/2023 100%

Tìm tài liệu và Các thành viên nhóm 6


3 tổng hợp 22/3/2023 21/3/2023 100%

Viết biên bản Hoàng Phương Thảo


thảo luận và biên
4 bản đánh giá 27/3/2023 26/3/2023 100% Nguyễn Giáp Mỹ Huyền

Nguyễn Giáp Mỹ Huyền

Tổng hợp thông


5 tin và làm word 27/3/2023 27/3/2023 100%
Hoàng Phương Thảo,

Phạm Hồng Ngọc,

Phạm Hoàng Như Ngà,

Long Thanh Chúc,

Ngọ Tùng Lâm,

Lê Thị Thu Hiền,

Quách Đình Khang,


Kết quả thảo
6 luận 22/3/2023 24/3/2023 100% Hoàng Thị Khánh Thương

7 Kết luận 27/3/2023 28/3/2023 100% Nguyễn Quỳnh Hương


BẢNG ĐÁNH GIÁ ĐIỂM TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 6

STT Mã sinh Họ và tên Đánh giá Điểm


viên

1 21030573 Hoàng Phương Luôn hoàn thành công việc được


Thảo đề ra, nhiệt tình đóng góp ý kiến
8.5
phát triển bài làm. Tích cực trong
các buổi thảo luận

2 21030567 Phạm Hồng Ngọc Khá tích cực trong các buổi thảo
luận và làm việc, có ý thức, hiệu
8.5
quả xử lí công việc ổn.

3 21030548 Nguyễn Giáp Mỹ Tích cực trong các công việc của
Huyền nhóm, xử lý công việc khá hiệu
8.5
quả và đúng hạn.

4 21030551 Nguyễn Quỳnh Làm đầy đủ nội dung được giao


Hương tuy nhiên nộp bài không đúng
8.0
thời hạn

5 21031276 Phạm Hoàng Như Có ý thức tham gia thảo luận, làm
Ngà bài đầy đủ nội dung và nộp bài
8.0
đúng hạn tuy nhiên còn trầm và
chưa sôi nổi khi thảo luận

6 21031266 Ngọ Tùng Lâm Không chú ý phần nội dung được
giao nên kết quả bài làm lạc đề
7.5
tuy nhiên đã có sự khắc phục sau
đó, nộp bài đúng thời hạn được
giao.

7 21031263 Quách Đình Khang Còn trầm trong quá trình thảo
luận, hiệu quả xử lý công việc khá
8.0
tốt, nội dung chuẩn bị ổn và nộp
đúng hạn.
8 21031186 Long Thanh Chúc Tích cực trao đổi trong nhóm
trong quá trình thảo luận, tuy
7.5
nhiên phần nội dung chuẩn bị còn
thiếu sót, chưa chủ động tham gia
nhóm chat thảo luận.

9 21031231 Hoàng Thị Khánh Tích cực trao đổi và thảo luận
Thương nhóm, nộp bài đúng hạn tuy nhiên
8.0
không chú ý nội dung được giao
nên bài làm lạc đề nhưng đã có
khắc phục sau đó, chưa chủ động
tham gia nhóm chat thảo luận.

10 21032063 Lê Thị Thu Hiền Chuẩn bị đầy đủ nhiệm vụ được 8.0


giao, có tham gia trong quá trình
thảo luận tuy nhiên chưa chủ
động tham gia nhóm chat thảo
luận.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


BIÊN BẢN THẢO LUẬN

Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

I.Thành phần tham dự:

Các thành viên nhóm:

1. Hoàng Phương Thảo


2. Phạm Hồng Ngọc
3. Nguyễn Quỳnh Hương
4. Nguyễn Giáp Mỹ Huyền
5. Phạm Hoàng Như Ngà
6. Ngọ Tùng Lâm
7. Quách Đình Khang
8. Long Thanh Chúc
9. Hoàng Thị Khánh Thương
10. Lê Thị Thu Hiền

II. Mục đích họp nhóm buổi 1:

- Tìm hiểu về đề tài nghiên cứu “Làm rõ ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa
nhân loại tới sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?”
- Phân công công việc, nhiệm vụ cho từng thành viên
- Lên kế hoạch chi tiết để hoàn thành đúng thời hạn và có kết quả tốt nhất.

III. Nội dung công việc:

1. Nội dung cụ thể:

BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

STT Nhiệm vụ Họ và tên Thời gian


hoàn thành
nhiệm vụ

1 Xác định vấn đề và xây dựng Hoàng Phương Thảo 22/3


mục tiêu nghiên cứu

2 Tìm tài liệu Các thành viên nhóm 6 21/3

3 Làm word Nguyễn Giáp Mỹ Huyền 29/3

4 Tổng hợp lại tất cả Nguyễn Giáp Mỹ Huyền 28/3

5 Kết quả thảo luận 26/3


Hoàng Phương Thảo,

Phạm Hồng Ngọc,

Phạm Hoàng Như Ngà,

Long Thanh Chúc,

Ngọ Tùng Lâm,

Lê Thị Thu Hiền,

Quách Đình Khang,

Hoàng Thị Khánh Thương

6 Kết luận Nguyễn Quỳnh Hương 26/3

7 Viết biên bản thảo luận Nguyễn Giáp Mỹ Huyền 28/3

8 Viết báo cáo thảo luận Hoàng Phương Thảo 28/3

Nguyễn Giáp Mỹ Huyền

2. Đánh giá chung quá trình:


- Các thành viên rất tự ý thức được công việc và hoàn thành bài tương
đối đúng thời gian được giao
- Bên cạnh đó, vẫn còn một vài điểm cần khắc phục chẳng hạn như các
thành viên chưa thực sự hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, kỹ năng làm
tiểu luận còn hạn chế, cần tích cực xây dựng bài và tham gia đóng góp
hơn trong quá trình làm việc.

Nhóm trưởng

(Ký và ghi rõ họ tên)

Thảo

Hoàng Phương Thảo

CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU

I. Lý do lựa chọn đề tài


Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, Người chính là
tấm gương sáng ngời về đạo đức lẫn cả phong cách sống giản dị cho đồng bào dân
tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển dựa trên cơ sở kế thừa
những giá trị truyền thống và nó hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thực tiễn lịch sử
Việt Nam. Trong đó có sự vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: Văn hóa
phương Đông, phương Tây và đặc biệt là chủ nghĩa Mác Lênin.
Có thể nói rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận, định hướng vững
chắc cho Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ
chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong các trận
chiến. Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy rằng văn hóa giữ một vai trò quan trọng
trong việc phát triển đất nước. Muốn xã hội phát triển vững mạnh thì đồng nghĩa
với việc đời sống tinh thần văn hóa cũng phải phát triển theo. Và trên hành trình
tìm đường cứu nước của mình, vị lãnh tụ vĩ đại ấy đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa
nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng nó vào tình hình xã hội cụ thể. Bởi
vậy mà việc làm rõ ảnh hưởng tinh hoa văn hóa nhân loại tới sự hình thành tư
tưởng của Hồ Chí Minh là rất quan trọng và đó cũng chính là lý do mà chúng em
lựa chọn đề tài này.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm rõ sự ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa nhân loại đến sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, ta thấy được quá trình tiếp thu và vận
dụng sáng tạo của Người vào công cuộc dựng xây đất nước. Bên cạnh đó, những
nhiệm vụ cần tập trung để phân tích như là: sự ảnh hưởng của vai trò tinh hoa
phương Tây, văn hóa phương Đông đã tác động như thế nào đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, ý nghĩa của sự hình
thành tư tưởng đó,... Nhóm chúng em tập trung chủ yếu cho việc phân tích và làm
rõ quá trình tiếp thu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những nền văn hóa ấy.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu qua các di sản của Hồ Chí Minh như
các bài nói, bài viết, quá trình hoạt động, lãnh đạo. .. gắn liền với quá trình tìm
đường cứu nước của Người.
IV. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện tại, nhóm chúng em chưa tìm được một tác phẩm
nào tập trung nghiên cứu về đề tài nói trên, tuy nhiên chúng em tìm hiểu và tiến
hành tham khảo nhiều bài báo có liên quan đến chủ đề, gồm những bài báo sau:
- TS. Hồ Văn Chiểu, “Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân
tộc và nhân loại”, Hệ thống tư liệu văn kiện đảng (2015).
- Vũ Thị Kim Yến “Nguyễn Ái Quốc và hành trình tiếp thu tư tưởng, văn
hóa phương tây”, Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang (2021).
- GS. Song Thành “Con đường tiếp biến văn hoá nhân loại của Hồ Chí Minh

- giá trị và bài học”, Hệ thống tư liệu văn kiện Đảng ( 3/2023).
- “Nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”, Báo điện tử
Đảng Cộng Sản Việt Nam ( 2015).
- Trần Duy, “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Chắt lọc từ tinh hoa văn hóa
phương Đông,” Báo Khánh Hòa (2015).
Ngoài ra còn có các bài tiểu luận trước đó:
“Phân tích những giá trị của tinh hoa văn hoa nhân loại đã được Hồ Chí
Minh kế thừa và phát triển để hình thành nên tư tưởng của mình”, Khoa lý luận
chính trị, Đại học Tài chính Marketing (2021).

CHƯƠNG II. NỘI DUNG

I. Giới thiệu tổng quát về cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy
tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh
ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã
Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa
phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất
nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của
mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào
đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập
cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
1. Quá trình hoạt động cách mạng ở nước ngoài
Hoạt động cách mạng ở nước ngoài của Hồ Chí Minh kéo dài từ năm 1911
đến năm 1941 khi người quay lại Việt Nam. Cụ thể có thể nhắc đến một số hoạt
động nổi bật sau:

 Ngày 5/6/1911, với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
 Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ.
Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917
Người mới trở lại nước Pháp.
 Năm 1919, Hồ Chí Minh ra nhập Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong phong trào
công nhân tại Pháp.
 Tháng 6/1919, người thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại quốc
gia này, gửi bản yêu sách của Nhân dân An Nam đến hội nghị Versailles.
 Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa.
 Tháng 12/1920, người bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc Tế Cộng Sản,
đồng thời tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
 Năm 1921, người tham gia vào quá trình thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc
thuộc địa tại Pháp. Người viết nhiều bài đăng trên các trang báo, tiêu biểu như
“Người cùng khổ” hay “Bản án chế độ thực dân Pháp.
 Tháng 6/1923, người đến Liên Xô và bắt đầu giai đoạn hoạt động cách mạng tại
quốc gia này theo chủ nghĩa Mác Lênin.
 Tháng 10/1923, người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân tại Đại
hội lần thứ I Quốc tế Nông dân.
 Năm 1925, tại Quảng Châu, người đã tham gia thành lập nên Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức Á Đông đồng thời sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên.
 Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó
đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng
Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.
 Ngày 3/2/1930, trước sự chia rẽ của các phe phái, người đã triệu tập hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước tại Cửu Long (Hồng Kông), từ đó
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
 Trong giai đoạn từ 1930 đến 1940, người vẫn duy trì tham gia các hoạt động
của Quốc tế Cộng sản tại nước ngoài và theo dõi phong trào cộng sản trong
nước, đồng thời đưa ra những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ta.

2. Quá trình hoạt động cách mạng tại Việt Nam


Sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, vào năm 1941, người đã chính thức vượt
qua biên giới Trung Quốc để về Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo đường lối kháng chiến
chống Pháp, thành lập mặt trận Việt Minh.

 Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Hội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân đã chính thức được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm
chỉ huy.
 Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
 Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam).
 Ngày 02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch.
 Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành
lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ
tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
 Tháng 7/1954, hiệp định Giơnevơ được ký kết sau thắng lợi của chiến dịch Điện
Biên Phủ.
 Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III
bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 Ngày 2/9/1969, sau những nỗ lực của đội ngũ giáo sư, bác sĩ nhưng vì lý do tuổi
cao sức yếu, Người đã từ trần và hưởng thọ 79 tuổi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới.
Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao
thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế
hệ người Việt Nam học tập và noi theo.

II. Ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa phương Đông tới sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập ở Trung Quốc cuối thế kỷ VI trước công
nguyên. Đối với Việt Nam, Nho giáo giữ vai trò của một học thuyết chính trị - đạo
đức giúp nhà vua trị nước, yên dân và xây dựng một trật tự xã hội phù hợp với
cương thường lễ nghĩa. Nho giáo tồn tại song song với hai mặt là hạn chế và tích
cực. Điểm hạn chế về thế giới quan và nhân sinh quan của Nho giáo là chủ nghĩa duy
tâm khách quan hữu thần, coi thường nhân dân lao động và phụ nữ. Tuy nhiê, trong Nho
giáo cũng chưa đựng nhiều yếu tố tích cực Đặc biệt là triết lý tu thân đề cao việc tu
dưỡng đạo đức cá nhân: “Có tu dưỡng đạo đức cá nhân mới tề được gia; có tề đuợc gia
mới trị được quốc; có trị được quốc mới bình được thiên hạ”. Hồ Chí Minh phân tích
rằng : “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều
không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Mặt tích cực của Nho
giáo mà Người muốn chúng ta làm theo chính là đề cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra truyền
thống hiếu học. Hồ Chí Minh cho rằng những quan điểm và triết lý của Khổng Tử trong
Nho giáo đối với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ là vô cùng thích hợp. Thế nhưng kể đến
thời địa cách amngj bây giờ thì những quan điểm ấy không còn phù hợp nữa. Người cũng
phê phán Khổng Tử rằng “là người phát ngôn bên vực những người bóc lột chống lại
những người bị áp bức”. Vì vậy Người đã đưa ra lời khuyên cho người An Nam rằng
“chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của
Khổng Tử, và về cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin”.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu sắc đến
cuộc đời của Người. Đặc biệt triết lý có ảnh hưởng sâu sắc nhất chính là tu thân: đề
cao tu dưỡng đạo đức cá nhân: đạo đức với minh thì phải nghiêm khắc, đạo đức
với người thì phải khoan dung, độ lượng, đạo đức với công việc thì phải tận tâm
tận lực. Những tác phẩm viết về Nho giáo của Hồ Chí Minh không nhiều, nhưng
cuộc đời và sự nghiệp của Người có nhiều biểu hiện của sự vận dụng uyên thâm
Nho giáo vào cách mạng Việt Nam theo hướng tích cực. Ở Hồ Chí Minh, trong
phong cách tư tưởng và đạo đức của người có nhiều nét của quân tử đại trượng phu
. Nếu Nho giáo khuyên người quân tử là “bần bất hoặc nhi hoặc bất quân”, thì
Người dạy rằng “không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”. Hồ Chí Minh đã kế
thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lí xã hội. Kế thừa và phát
triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó công
bằng bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để xây dựng một thế
giới hòa bình không có chiến tranh. Nếu Nho giáo đã quan niệm “Nước lấy dân
làm gốc” thì Hồ Chí Minh nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về chân lý ấy “ Gốc có
vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Người cũng từng dạy
rằng : Mọi quyền lực là ở nhân dân. Mọi quyền lợi đều là của nhân dân.
Phạm trù “trung – hiếu” trong Nho giáo đã được Hồ Chí Minh cách mạng
thành một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của con người mới và
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “Trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước
tức là trung thành, tận tụy với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong quan điểm
của Người thì nước là do dân làm chủ nên đó là đối tượng cần phải phục vụ hết
lòng , gần dân, gắn bó với dân, lấy dân làm gốc. Những triết lý, tư tưởng của Nho
giáo có ảnh hưởng rất lớn đến quá rình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong giáo lý Phật giáo, “Từ bi” là ước vọng loại bỏ mọi khổ đau, giải thoát
cho con người khỏi những đau khổ mà họ phải chịu trong cuộc sống, không chỉ
con người mà cả thế giới đều được an vui. “Bác ái” được hiểu là lòng yêu thương
cả con người lẫn mọi loài. “Vị tha” không chỉ được hiểu là “vì người khác”, mà
còn là vì tình yêu to lớn với nhân loại mà phụng sự nhân sinh. Từ những triết lí đó,
những lời giáo huấn từ gia đình, nỗi đau của dân tộc dưới ách đô hộ, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, trải qua bao năm
bôn ba, Bác đã tìm ra con đường đứng đắn lãnh đạo nhân dân. Người đã khẳng
định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”, ta có thể thấy được tinh thần vì lòng yêu thương con
n gười, yêu thương dân tộc mà bác đã quên mình vì mọi người. Ta còn có thể cảm
nhận được điều đó sâu sắc hơn qua câu nói của Bác tại chùa Bà Đá (ngày
5/1/1946) : “Trước Phật đài tôn nghiêm, trước quốc dân đồng bào có mặt tại đây;
tôi xin thề hy sinh đem thân phấn đấu để giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Hy
sinh, nếu cần đến hy sinh cả tính mạng, tôi cũng không từ”. Theo giáp lý Phật giáo,
“Tham lam, giận dữ, si mê:”(Tam độc) là nguyên nhân chính gây ra những đau khổ
cho con người. Để giải thoát cho con người khỏi đau khổ, đem lại an vui cho mọi
người, Đức Phật dạy người tu hành phải chống “tam độc” mà gốc của nó chính là
“si mê”. Để chống “tam độc”, người tu hành phải giác ngộ, dùng ý thức, trí tuệ
của mình để diệt trừ “si mê”. Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức là gốc của người
cách mạng; để làm cách mạng, mỗi người cán bộ, đảng viên phải luôn nêu gương
trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo các tiêu chí: Cần , kiệm, liêm ,chính, chí
công vô tư.
Với mục đích: Hành giả trực nhận được bản thể sự vật đạt giác ngộ; Phật
giáo Thiền tông đã đề ra luật “chấp tác”: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”,
khẳng định người tu hành phải đề cao lao động, chống lười biếng. Sau khi du nhập
vào Việt Nam, Thiền tông được Vua Trần Nhân Tông kế thừa, hình thành nên
Thiền phái Trúc Lâm, đã khẳng định: Người tu hành muốn giác ngộ không thể từ
bỏ thế gian này mới giác ngộ được, mà phải sống gắn bó với nhân dân, với đất
nước; phải tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc;
khi thanh bình thì vẫn trở về với cuộc sống tu hành thoát tục. Kế thừa tư tưởng
này, Hồ Chí Minh khẳng định, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng Việt Nam độc
lập, dân chủ, giàu mạnh.
Với mục đích giúp người tu hành chung sống hòa hợp trong chính pháp cao
thượng, Đức Phật đã xây dựng phép “lục hòa” (sáu pháp hòa hợp): Thân hòa đồng
trụ (Cùng hòa đồng khi ở chung), Khẩu hòa vô tránh (Miệng nói cùng hòa hợp
nhau, không gây gổ, không nói lời dữ, lời nặng nề, không tranh hơn thua với nhau),
Ý hòa đồng duyệt (Ý của những thành viên trong cộng đồng hòa hợp, vui vẻ với
nhau), Kiến hòa đồng giải (Những thấy biết của mình đem giải thích huynh đệ
cùng hiểu, thông cảm với nhau), Giới hòa đồng tu (Cùng giữ giới hạnh với nhau để
cùng an vui tu tập); Lợi hòa đồng quân (Có được lợi thì cùng chia đồng đều
nhau). Đó cũng chính là cơ sở để tạo dựng lên một tập thể đại đoàn kết, nhỏ từng
gia đình, lớn từng cộng đồng, quốc gia. Kế thừa phép “lục hòa”, Bác Hồ khẳng
định, Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược, là điều kiện tiên quyết để đi
đến thành công của cách mạng. Bác từng có lời khuyên cho dân: “Dân ta xin nhớ
chữ đồng: Đồng tình, đồng lòng, đồng minh”.
3. Ảnh hưởng của Đạo giáo đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cũng bị ảnh hưởng bởi Đạo
giáo.Đạo giáo là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại song song
với Nho giáo và Phật giáo. Đạo theo Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự
nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: “Người thuận Đất, Đất thuận trời, Trời thuận
Đạo, Đạo thuận Tự nhiên”. Đạo giáo khuyên con ngươi nên sống thuận theo tự
nhiên, không nên quá coi trọng tiền bạc và danh vọng. Dựa theo ảnh hưởng đó của
Lão giáo, trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở tác phẩm “Đời sống mới” (1947),
người có nhắc về “Tức Đức”, có “Liêm” là “trong sạch, không tham lam” và “tham
tiền của, tham địa vị, danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là Bất liêm”. Trong
cuộc đời sáng tác nghệ thuật của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể thấy Người đã sáng
tác rất nhiều những tác phẩm viết về thiên nhiên và việc sống hòa mình vào thiên
nhiên ngay cả khi Người đang phải sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt. Dù
đang bị nhốt ở trong tù, hay đang ở trên vùng núi non hiểm trở thì đối với Bác, chỉ
cần được hòa mình vào thiên nhiên, sống thuận với tự nhiên đã có thể làm cho tâm
hồn mình yên bình và thảnh thơi.
III. Ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa phương Tây tới sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và
cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
1776.
Trước khi ra nước ngoài, Người đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng,
bác ái. Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm chất
cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự
do, bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của Thiên chúa giáo và những
nhà Khai sáng Pháp như Voltaire, Rousso, Montesquieu
1. Ảnh hưởng của Thiên chúa giáo đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh
Với tư duy nhạy bén và tinh thần đấu tranh cho công lý, tự do và hạnh phúc
của con người, Hồ Chí Minh đã nhận thấy một quan điểm tốt đẹp trong đạo Thiên
chúa giáo thay vì coi đó là công cụ xâm lược của thực dân Pháp. Từ quan điểm duy
vật và phương pháp luận biện chứng cơ bản nêu, Người đã lọc ra những yếu tố hợp
lý và có giá trị lâu dài đối với đời sống thực tế của người dân, đặc biệt là những
người theo đạo Thiên chúa giáo, và đã làm phong phú thêm cho tư tưởng của
Người trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí Minh đã góp phần lãnh đạo
thành công cách mạng Việt Nam.
Người đã kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo. Người đã
cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao
động khỏi ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và đức hy sinh cao
cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về lòng thương người,
thương dân, thương các chiến sĩ ngoài mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm
những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi xướng và răn
dạy.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành
vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết
người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác,…Người coi những hành động
đó là sự đi ngược lại và phản bội lòng nhân ái cao cả của Chúa, làm hoen ố tư
tưởng lớn của Ngài là muốn mưu cầu phúc lợi cho xã hội.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây,
những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực dân, tham gia vào
guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền
văn hóa thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, v.v…
Rõ ràng, sự hiểu biết đúng đắn của Hồ Chí Minh về những giá trị tốt đẹp của
Thiên chúa giáo sẽ giúp xây dựng hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về các vấn
đề như tự do tôn giáo, đoàn kết dân tộc và xây dựng văn hóa ở một nước xã hội
chủ nghĩa.
2. Ảnh hưởng của các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn
tới sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong
Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do,
hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ: Tuyên bố được đọc vào ngày 4 tháng 7
năm 1776. Đó là một văn kiện chính trị tuyên bố sự chia cắt Anh ra khỏi 13 bang
thuộc địa Bắc Mỹ. Theo quan điểm của triết gia người Anh - John Locke, con
người có ba quyền cơ bản bất khả xâm phạm: quyền được sống, quyền được tự do
và quyền được sở hữu.
Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson gọi quyền tài sản là "quyền theo đuổi
hạnh phúc" trong tuyên bố của mình. Câu nói nổi tiếng của bản tuyên ngôn là "Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp: Bản
“Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp do Hầu tước Lafayette soạn
thảo.
Trong bản tuyên ngôn này có tất cả 17 điều khoản, điều 1 và điều 2 là nổi
tiếng nhất và được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã
hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung” và “Mục đích của mọi tổ
chức chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con
người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an toàn, và quyền
được chống lại mọi sự áp bức”.
3. Ảnh hưởng của Triết học Khai sáng Pháp tới sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh

IV. Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa phương Đông và phương Tây trong
tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong cuộc gặp gỡ và tiếp xúc với Bác vào năm 1923 - khi Bác đến Liên Xô dự
Đại hội Quốc tế Cộng sản nhà thơ Xô Viết ManganStem chỉ khoảng 10 phút được tiếp
Bác, sau này ông có nói rằng: “Hãy nhìn vào đôi mắt của Nguyễn Ái Quốc, trong đôi mắt
đó tỏa ra cái gì đó rất lạ, hoàn toàn không chỉ phương Đông cũng hoàn toàn không chỉ
phải phương Tây. Không, đôi mắt ấy hài hòa giữa phương Đông – Tây, báo hiệu một nền
văn hóa của tương lai”.
Tinh hoa văn hóa phương Đông của Bác được thể hiện qua ba học thuyết lớn: Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo (Lão giáo). Bác sinh ra trong một gia đình Nho giáo: ông
ngoại Bác là nhà Nho Hoàng Xuân Đường, cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Được
đào tạo về Nho giáo từ rất sớm nên ảnh hưởng Nho giáo đối với Bác là lẽ đương nhiên.
Tuy trong học thuyết này có những điều không đúng nhưng Hồ Chí Minh vẫn chọn lọc
tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Nhu Bác cũng từng nói rằng: “Học thuyết
Khổng Tử có ưu điểm là sự tudưỡng đạo đức, cá nhân. Tôn giáo Jesus có ưu điểm là long
nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Marx, Jesus, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao?
Họ đều muốn “mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”.” Vì vậy dù
cho học thuyết có những cái hạn chế: phân biệt đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, đề cao lao
động trí óc coi thường lao động chân tay, nhưng “những người cách mạng chân chính”
vẫn học hỏi tiếp thu được “những điều hiểu biết quý báu đời trước để lại” Bác chú trọng
tinh thần đạo đức của Nho giáo, đề cao sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Xây dựng một xã
hội công bẳng, bác ái, nhân nghĩa, trí, dũng, tin liêm được coi trọng. Dùng nhân trị, đức
trị để tu dưỡng và rèn luyện đạo đức của con người, để quản lý trong công tác xây dựng
Đảng về đạo đức như Bác đã từng nói:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ
lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim
muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật
bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng.
Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam,
chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất
nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh
thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi
với nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đối với Đạo giáo, Hồ Chí Minh khuyên con người sống hòa đồng với thiên nhiên
hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Điều này có thể nhận thấy rõ từ nơi Bác ở.
Năm 1954, sau Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, Bác Hồ cùng Trung
ương Đảng trở về Thủ đô. Là Chủ tịch nước song Người từ chối ở ngôi nhà sang trọng
trong dinh Toàn quyền Đông Dương với lý do để dành nơi này làm nơi tiếp khách của
Đảng và Nhà nước và Người chỉ ở ngôi nhà được bố trí cho một người thợ điện tại đây.
Sau này “Bác muốn làm một căn nhà sàn ở bên kia bờ ao để ở và làm việc cho thoáng”.
Ngôi nhà của Bác xung quanh đều là cây cối rất gắn bó với thiên nhiên. Hồ Chí Minh chú
ý phát huy kế thừa tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi. Khuyên người
cán bộ Đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất phải chí công vô tư hành động theo đạo
lý, đúng với quy luật tự nhiên và xã hội.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương
Đông như Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau
này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện
nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân
sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai
thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng nước ta.
Về văn hóa phương Tây, trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài,
Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn
hóa phương Tây. Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê và thường đến
thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí
đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với
nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này. Sau này Người
đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong
Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.
Văn hóa phương Đông luôn có tư duy trực cảm, suy nghĩ và cảm xúc từ trực quan;
còn văn hóa phương Tây họ đề cao tư duy khoa học. Và Bác đã kết hợp rất hài hòa giữa 2
văn hóa đó. Đấy là kết quả của sự rèn luyện từ việc Bác bôn ba thế giới, học hỏi văn hóa
phương Tây để kết hợp văn hóa phương Đông mà sau này Bác nói với chúng ta: Muốn
tiến bộ, phát triển phải ra sức học tập, học hỏi kinh nghiệm các nước để làm giàu trí tuệ
của mình. Cho nên phương Đông có gì hay cũng học, phương Tây có gì hay cũng tiếp
thu. Học cốt để làm giàu trí tuệ mình, để suy nghĩ và sáng tạo, để giải quyết công việc
của mình không giáo điều, sao chép, máy móc.

CHƯƠNG III. KẾT LUẬN


Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Hồ Chí Minh vừa hoạt động cách mạng,
vừa không ngừng học hỏi. Người không những thông thạo các ngôn ngữ các nền
văn minh tiêu biểu khác nhau của nhân loại, mà còn am tường các nền văn hóa
Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích
các yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình
bằng tinh thần văn hóa nhân loại.
Nền văn hóa bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý được
hình thành cùng với đất nước Việt Nam ta xuyên suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước. Truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc,
sự gắn bó của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh tình nghĩa ấy
lên mức cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu
bốn biển một nhà. Khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin, Người luôn nhấn mạnh: “Hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
kinh sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin
được…” Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế
thừa tinh thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ
tục, trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc để rồi vận dụng vào
những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc không chỉ với mục đích cao cả
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn cho sự nghiệp của các dân tộc khác
trên thế giới. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và
tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.

You might also like