You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ


---------***--------

TIỂU LUẬN

Môn: Kinh tế tuần hoàn


MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN ĐỐI VỚI SẢN
PHẨM MÍA

Lớp: CH K29A-KTQT
Khóa: 29
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền

Hà Nội, tháng 12 năm 2022


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ.........................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.............................................................................6
1.1. Khái niệm R&D và tăng trưởng kinh tế............................................................6
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế.........................................................................................6
1.1.2. Nghiên cứu và phát triển (R&D)...................................................................12
1.2. Mô hình tăng trưởng xét tới vai trò của nghiên cứu và phát triển...............14
1.2.1. Mô hình Solow..............................................................................................14
1.2.2. Mô hình phá hủy sáng tạo của Schumpeter...................................................19
1.2.3. Mô hình tăng trưởng biến nội sinh................................................................20
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN R&D Ở CÁC NƯỚC CHÂU Á VÀ
HOẠT ĐỘNG R&D Ở VIỆT NAM...........................................................................23
2.1. Kinh nghiệm R&D ở các nước Châu Á...........................................................23
2.1.1. Các nước phát triển.......................................................................................23
2.1.2. Các nước đang phát triển...............................................................................27
2.2. Hoạt động R&D tại Việt Nam...........................................................................30
2.2.1. Thực trạng R&D tại Việt Nam......................................................................30
2.2.2. Các chính sách phát triển R&D của chính phủ Việt Nam.............................33
2.2.3. Đóng góp của R&D cho tăng trưởng ở Việt Nam.........................................34
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam....................................................................36
CHƯƠNG 3: ÐỀ XUẤT VÀ PHÂN TÍCH GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY R&D TẠI
VIỆT NAM ..................................................................................................................39
3.1. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam......................................39
3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam đến năm 2030.............39
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam trong dài hạn...............41
3.2. Ðề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D ở Việt Nam...................42
3.2.1. Giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D trong các doanh nghiệp........................42
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D của nhà nước........................................44
KẾT LUẬN...................................................................................................................47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................48

1
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Hình 1.1. Mối quan hệ giữa mức thu nhập và mức sống của người dân các nước..............
Hình 1.2. Hàm sản xuất mô hình Solow..........................................................................15
Hình 1.3. Trạng thái ổn định dài hạn theo mô hình Solow..............................................16
Hình 1.4. Tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường vốn đầu tư...................................17
Hình 1.5. Tiến bộ công nghệ dẫn đến làm tăng năng suất...............................................17
Hình 2.1. Biểu đồ tỷ lệ đầu tư cho R&D trên GDP và số lượng nhà nghiên cứu trên 1
triệu dân ở các nước trên thế giới....................................................................................22
Hình 2.2. Biểu đồ chi phí R&D tại một số quốc gia và thế giới trong giai đoạn 1996 -
2020.................................................................................................................................30
Hình 2.3. Đơn sáng chế từ các đơn vị Việt Nam và nước ngoài 2009-2019...................31
Hình 2.4. Tốc độ tăng năng suất lao động, TFP giai đoạn 2011-2021 (%).....................34
Hình 2.5. Mức tăng tiềm năng của GDP thực tế tại Việt Nam tăng 1% về ngân sách cho
R&D.................................................................................................................................35

2
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu


Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền kinh tế
thế giới, đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu
hoá, hoạt động kinh doanh quốc tế và các hình thức kinh doanh quốc tế ngày càng đa
dạng, đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học -
công nghệ (KH-CN).
Nghiên cứu và phát triển (R&D) là một hoạt động chức năng đang dần được quan
tâm và đầu tư nhiều hơn trong các doanh nghiệp nhằm sáng tạo các sản phẩm mới hoặc
cải tiến khả năng công nghệ của doanh nghiệp, cải thiện vị thế cạnh tranh, và làm gia
tăng một cách bền vững doanh lợi của doanh nghiệp.
Vậy thực trạng của hoạt động R&D của Việt Nam diễn ra như thế nào? Đầu tư cho
hoạt động R&D ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam? Các
định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam như thế nào để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam? Nhận thấy đây là vấn đề có mang tính thực tiễn cao và có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, nhóm đã quyết định chọn đề tài:
“Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Về lý luận:(i) Cung cấp một số lý thuyết về tăng trưởng kinh tế (ii) Cung cấp khái
niệm và vai trò của nghiên cứu và phát triển (iii) Phân tích một số mô hình tăng trưởng
xét tới vai trò của nghiên cứu và phát triển;
- Về thực tiễn: (i) Phân tích thực trạng hoạt động R&D ở các nước Châu Á và Việt
Nam; (ii) Phân tích và đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ hoạt động
R&D của các nước; (iii) Đưa ra định hướng phát triển hoạt động R&D tạo Việt Nam và
đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động R&D tại
Việt Nam.

3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: R&D và ảnh hưởng của R&D đến tăng trưởng kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động R&D của Việt Nam và các nước Châu
Á đến năm 2022.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện đồng thời hai phương pháp: phương pháp phân tích
– tổng hợp và phương pháp so sánh.
5. Cấu trúc của tiểu luận:
Nội dung chính của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Kinh nghiệm phát triển R&D ở một số nước Châu Á và hoạt động
R&D tại Việt Nam
Chương 3: Đề xuất và phân tích giải pháp thúc đẩy R&D tại Việt Nam

4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm R&D và tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Kinh tế là hoạt động phân bổ nguồn lực đầu vào (có hạn) để sản xuất ra các loại
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đa dạng (vô hạn) của con
người. Do vậy, thành tựu của nền kinh tế cuối cùng là hướng tới tạo ra càng nhiều sản
phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu cầu sống ngày một gia tăng của con người.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
phẩm quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân đầu người (PCI)
trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế còn được định nghĩa là sự gia tăng
mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Khác với phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế xét về sự gia tăng quy mô tập trung vào sự thay đổi về lượng.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm
và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một khoảng thời
gian nhất định thường là một năm tài chính. Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) là giá trị
tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một
nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc
dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. Tổng sản phẩm bình quân
đầu người (PCI) là tổng sản phẩm quốc nội chi cho dân số. tổng thu nhập bình quân
đầu người là tổng sản phẩm quốc dân chi cho dân số.
1.1.1.2. Đo lường sự tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có thể được biểu thị bằng số tuyệt đối hoặc số tương đối.
Tuy nhiên chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng phổ biến hơn. Tăng
trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo
thời gian. Do đó, tốc độ tăng trường kinh tế thường được tính bằng phần trăm thay
5
đổi của tổng sản lượng quốc nội GDP thực tế.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối:
t t−1
∆ Y =Y −Y
Tốc độ tăng trưởng tương đối:
t t−1
t Y −Y
g= t−1
.100 %
Y
với Yt là GDP thực tế bình quân đầu người năm t.

Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ: ga =



n Yn
Y0
−1.

1.1.1.3. Ý nghĩa tăng trưởng kinh tế


Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và
chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển. Hình
1 dưới đây đã cho thấy có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập bình quân đầu người
với tỷ lệ % dân số sống nghèo khổ (mức chi tiêu dưới 2USD/ngày). Hàn Quốc có mức
thu nhập thực tế bình quân đầu người là rất cao (gần 15.000USD) nên tỷ lệ dân số sống
dưới mức nghèo khổ của họ gần như không có. Trong khi đó, các nước như Ấn Độ,
Nepal, Bangladesh thì thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng xấp xỉ 1000USD,
nhưng tỷ lệ dân số sống nghèo khổ rất cao (trên 75%).
Hình 1.1. Mối quan hệ giữa mức thu nhập và mức sống của người dân các nước

6
Nguồn: World Bank (2007)

Tuy nhiên, vấn đề đói nghèo trên của các nước đang phát triển sẽ được giải quyết
theo khuyến nghị của các chuyên gia kinh tế. Các nghiên cứu được thực hiện với các số
liệu thống kê thực tế trong một khoảng thời gian dài cho thấy, một sự gia tăng nhỏ
trong tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến một sự cải thiện đáng kể trong mức sống
của người dân ở các nước, thông qua cơ chế lãi gộp với công thức:
n
X t +n =X t (1+ r )
với ban đầu gửi khoản tiền Xt trong n năm, mức lãi suất r%/năm.
Cơ chế lãi gộp này có thể được vận dụng đối với sự tăng trưởng của một nền kinh
tế. Xt chính là GDP của một nền kinh tế tại thời điểm t, nếu toàn bộ GDP này được tái
đầu tư, với mức tăng trưởng r% thì sau n năm, GDP của nền kinh tế là Xt+n.
Trên cơ sở lý thuyết về cơ chế lãi gộp, các nhà kinh tế đã tìm ra một quy tắc mang tính
kinh nghiệm, gọi là quy tắc 70, rất hữu ích trong việc tìm hiểu cũng như dự đoán và lên
kế hoạch cho vấn đề tăng trưởng của nền kinh tế các nước. Theo quy tắc 70, nếu một
70
biến số nào đó tăng với tỷ lệ r%/ năm, thì nó sẽ tăng gấp đôi trong vòng năm.
x
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan
trọng được cho là nền kinh tế đó đã sử dụng tốt lực lượng lao động của nó. Vì vậy, có
thể đi đến kết luận rằng tăng trưởng kinh tế nhanh thì việc làm tăng, thất nghiệp có xu
hướng giảm. Rõ ràng, giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp thực tế có
mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Nhà kinh tế học Okun (1962) đã nghiên cứu và đưa ra một
giả thuyết về mối quan hệ tương ứng giữa 2 đại lượng này qua Quy luật Okun:
Y P −Y t
U t =U n + .50 %
YP
với Ut là tỷ lệ thất nghiệp thực tế, Un là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,
Yp là GDP tiềm năng thực tế, Yt là GDP thực tế.
Quy luật này xác định, nếu nền kinh tế của một quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng
trung bình 3%/năm thì tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế nước này ổn định. Và ngược
lại nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng 2% thì GDP thực tế giảm đi 1%. Cũng chính từ sự phát

7
hiện ra quy tắc này nên đôi khi người ta còn gọi quy luật Okun là quy luật 2–1.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố
chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. Điều này đã
được minh chứng với thực tế của các nước lớn trên thế giới như Mỹ và Nga. Đây là hai
quốc gia có nền kinh tế lớn mạnh trên thế giới, đồng thời cũng là 2 quốc gia có sức
mạnh quân sự, vị thế lớn trên trường quốc tế với ngân sách dành cho quốc phòng hàng
năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, tăng
trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước đang phát triển.
1.1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
a. Các yếu tố kinh tế:
Vốn tư bản: Vốn tư bản bao gồm cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị đầu tư cho sản
xuất. Nguồn vốn vừa là một cơ sở, vừa là một đầu vào của quá trình sản xuất; do đó
những nước có nguồn vốn lớn, người lao động có trong tay nhiều máy móc hơn thường
có mức sản lượng và tốc động tăng sản lượng lớn hơn so với những quốc gia có nguồn
vốn ít. Vốn sản xuất không chỉ đơn giản là máy móc và nhà xưởng; một phần rất quan
trọng khác của vốn sản xuất chính là cơ sở hạ tầng hay còn gọi là vốn cố định xã hội.
Nguồn vốn này bao gồm các dự án có quy mô lớn nhằm mở đường cho các hoạt động
thương mại và đầu tư. Chính vì ảnh hưởng ngoại tác tích cực và tính không thể chia
nhỏ của nó; các dự án này thường do chính phủ thực hiện. Đây chính là lý do mà các
mô hình tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh tới vai trò của chính phủ trong tăng trưởng
kinh tế.
Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng
trưởng kinh tế. Nguồn nhân lực có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không chỉ
phụ thuộc vào dân số, tỷ lệ lao động trên tổng số dân mà còn phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn và kỹ năng của người lao động. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, hầu hết
các yếu tố khác của sản xuất như nguồn vốn, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể
mua hoặc vay được trong nền kinh tế thế giới. Nhưng những yếu tố kể trên chỉ có thể
được sử dụng hiệu quả khi có nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng nguồn nhân

8
lực lại phụ thuộc vào trình độ giáo dục, sử dụng lao động đúng chuyên môn và tạo việc
làm ổn định cho người lao động. Cho nên ở các nước phát triển, người ta thường tách
giáo dục ra thành một nhân tố riêng để xem xét tác động của nó đối với quá trình tăng
trưởng.
Tài nguyên thiên nhiên: Nguồn tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia bao gồm
tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu,…Tài nguyên thiên
nhiên là một lợi thế đặc thù và là lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia. Một quốc gia có
điều kiện tự nhiên thuận lợi, có nguồn tài nguyên dồi dào sẽ tạo điều kiện tăng trưởng
kinh tế dễ dàng hơn. Ngoài ra, nguồn tài nguyên phong phú còn là nguyên nhân dẫn tới
những cuộc chiến tranh để tranh giành nguồn tài nguyên đó mà Iraq là một ví dụ điển
hình. Do đó, những nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú cần xem đây là một lợi
thế cạnh tranh ban đầu; là điều kiện để phát triển các lợi thế cạnh tranh khác trong
tương lai. Nguồn tài nguyên khai thác không hợp lý sẽ mau chóng cạn kiệt; việc khai
thác tài nguyên một cách bừa bãi có khả năng phá hủy môi trường, làm thiệt hại lợi ích
chung mà rất có thể kết quả tăng trưởng không bù đắp được.
Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ thể hiện ở các phát minh và cải tiến
trong sản xuất. Tiến bộ công nghệ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giúp các
nguồn tài nguyên được khai thác tốt và sử dụng hợp lý, tăng năng suất lao động. Tiến
bộ công nghệ còn góp phần nâng cao chất lượng và hạ thấp chi phí sản xuất. Từ nghiên
cứu của Solow năm 1957 và các nhà kinh tế sau Solow gần như đi đến một kết luận
khá thống nhất là “tiến bộ công nghệ là nguồn gốc chủ yếu tạo ra tăng trưởng kinh tế”
của các quốc gia. Tăng trưởng kinh tế không thể duy trì mãi nhờ vốn và lao động, mà
cần phải nhờ vào sự phát triển của công nghệ trong sản xuất và kinh doanh. Những
bước tiến lớn của công nghệ thường tạo ra những cuộc cách mạng trong sản xuất như
động cơ hơi nước ở thế kỷ XVII, Internet ở cuối thế kỷ XX và công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới trong thế kỷ XXI này.
b. Các yếu tố phi kinh tế:
Văn hóa - xã hội: Đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát
triển của đất nước. Nhân tố văn hóa xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ

9
thông đến các tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, văn
học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong tục tập quán…
Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của
mỗi quốc gia. Để tạo dựng quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững thì đầu tư cho
sự nghiệp phát triển văn hóa phái được coi là những đầu tư cần thiết và đi trước với
đầu tư sản xuất.
Các thể chế chính trị: Thể chế được biểu hiện hiện như một lực lượng đại diện
cho ý chí của cộng đồng nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị xã hội theo
lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thể hiện thông qua các dự kiến mục tiêu
phát triển, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật, các chế độ
chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức từ thiện.
Dân tộc và tôn giáo: Trong một quốc gia, các tộc người có thể khác nhau về
chủng tộc, về khu vực sinh sống và với quy mô khác nhau so với tổng dân số quốc gia.
Do đó sẽ có những điều kiện sống khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức
sống vật chất, về mức sống vật chất, về vị trí địa lý và địa vị chính trị - xã hội trong
cộng đồng. Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi cho
dân tộc này, nhưng bất lợi cho những dân tộc kia. Đó chính là những nguyên nhân nảy
sinh xung đột giữa các dân tộc, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế
đất nước. Vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, trong một quốc gia có thể có
nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo còn chia ra làm nhiều giáo phái. Mỗi đạo giáo có những
quan niệm, triết lí tư tưởng riêng, bám sâu vào cuộc sống của dân tộc. Những ý thức
tôn giáo thường là cô hữu, ít thay đổi theo sự phát triển kinh tế xã hội. những thiên kiến
của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ của xã hội tùy theo mức độ, song có
thể là sự hòa hợp, nếu có chính sách đúng đắn của Chính phủ.
Sự tham gia của cộng đồng: Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương
trợ lẫn nhau. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân
chủ của cộng đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại, về phía mình sự tham gia của cộng
đồng là nhân tố đảm bảo tính chất bền vững và tính dộng lực nội tại cho phát triển kinh
tế, xã hội. Các nhóm cộng đồng dân cư tham gia trong việc xác định các mực tiêu của

10
chương trình, dự án phát triển quốc gia, nhất là mục tiêu phát triển các địa phương của
họ, tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát các hoạt động phát
triển tại cộng đồng và tự quản lý các thành quả của quá trình phát triển.
Nhà nước và khung phổ pháp lý: Với đặc điểm riêng biệt của mình, pháp luật là
phương tiện quan trọng nhất để nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình.
Pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách
thống nhất, nhanh chóng và có hiệu quả trên quy mô rộng lớn nhất. Nhờ vào pháp luật,
nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình. Trong tổ chức và quản lý kinh tế,
pháp luật lại càng có vai trò to lớn. Nó góp phần tích cực vào việc tổ chức, quản lý và
điều tiết nền kinh tế.
1.1.2. Nghiên cứu và phát triển (R&D)
1.1.2.1. Khái niệm
Nghiên cứu và phát triển (R&D) đề cập đến các hoạt động mà các công ty thực
hiện để đổi mới và ra mắt các sản phẩm và dịch vụ mới. Mục tiêu của nghiên cứu và
phát triển thường là đưa các sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường và làm tăng lợi
nhuận của công ty. Các hoạt động R&D được thực hiện bởi các công ty trong mọi lĩnh
vực và ngành công nghiệp. Doanh nghiệp tăng trưởng thông qua những cải tiến và sự
phát triển của hàng hóa và dịch vụ mới.
1.1.2.2. Vai trò
Hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp có 4 vai trò cơ bản sau:
Tăng cường năng lực công nghệ cho doanh nghiệp; Tăng vị thế của doanh nghiệp;
Tăng cường hoạt động xuất khẩu cho doanh nghiệp; Tăng trưởng và phát triển cho
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường luôn có tỷ lệ đầu tư vào R&D cao
nhất. Tuy nhiên, nghiên cứu và phát triển là đầu tư mạo hiểm và khó kiểm soát hiệu
quả hơn so với các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường vì doanh nghiệp khó
có thể tính toán trước giá thành và hiệu quả. Nhưng, nếu không đầu tư vào R&D,
doanh nghiệp lại khó giữ được vị trí cạnh tranh. Vì vậy, hoạt động nghiên cứu và phát
triển sản phẩm mới cũng như cải tiến/ đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất là hoạt

11
động quan trọng và đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, như: tạo ra lợi thế cạnh
tranh so với đối thủ, tăng thị phần và lợi nhuận độc quyền.
1.1.2.3. Phân loại
Nghiên cứu cơ bản: Mục đích của nghiên cứu này đó chính là nhằm để hiểu vấn
đề một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Ghi chép và xây dựng các kiến thức đầy đủ về
vấn đề đã nghiên cứu. Nghiên cứu này thực chất thông thường không có nhiều ứng
dụng thực tế hoặc thương mại. Nhưng những phát hiện của nghiên cứu như vậy sẽ có
ích và là mối quan tâm tiềm năng đối với một số công ty khác.
Nghiên cứu ứng dụng: Nghiên cứu ứng dụng sẽ là hoạt động có mục tiêu cụ thể
cần phải đạt được. Loại nghiên cứu này nhằm mục đích chính đó chính là xác định các
phương pháp để giải quyết một nhu cầu hoặc yêu cầu cụ thể của khách hàng/ ngành.
Các hoạt động nghiên cứu này đều tập trung vào các mục tiêu thương mại cụ thể liên
quan đến sản phẩm hoặc quy trình.
Phát triển: Phát triển được hiểu chính là khi các kết quả của quá trình nghiên cứu
được áp dụng vào sản xuất ra các sản phẩm cụ thể như vật liệu, hệ thống. Thiết kế và
phát triển các nguyên mẫu và quy trình cũng là một phần của lĩnh vực này. Phát triển là
nghiên cứu tạo ra kiến thức và thiết kế cần thiết cho sản xuất và áp dụng chúng để tạo
ra các sản phẩm cụ thể.
Ngoài ra còn có cách phân loại hoạt động R&D như sau:
Nghiên cứu và phát triển sản phẩm: là hoạt động nhằm tạo ra những sản phẩm
mới cả về thiết kế, công dụng, tính năng, chế tác, vật liệu… hoặc cải thiện và nâng cao
hiệu năng, chất lượng sản phẩm.
Nghiên cứu và phát triển công nghệ: là hoạt động tạo ra những công nghệ mới
giúp cải tiến sản phẩm cũ, đồng thời áp dụng vào sản phẩm mới để cho ra thành phẩm
chất lượng, giá thành hạ. Đó có thể là tự nghiên cứu công nghệ mới, nhưng cũng có thể
là “tham khảo” công nghệ của đối thủ rồi tự phát triển theo hướng của mình.
Nghiên cứu và phát triển bao bì: là hoạt động dành thường dành cho các doanh
nghiệp tiêu dùng, như mì ăn liền, nước uống, sữa… nhưng như Apple bán iPhone cũng
cần, vì bao bì đóng gói smartphone cũng rất quan trọng. Nghiên cứu và phát triển bao

12
bì có nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển bao bì mới, cả về chất liệu, kiểu dáng để tối ưu
việc đóng gói sản phẩm, từ giúp tăng lượng sản phẩm tiêu thụ.
Nghiên cứu và phát triển quy trình: là hoạt động giúp cải tiến, phát triển quy trình
vận hành máy móc, quy trình sản xuất sản phẩm, quy trình phục vụ cho dịch vụ hay bất
kỳ quy trình nào có trong công ty. Việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển quy trình
mang lại hiệu quả cao hơn cho doanh nghiệp, tối ưu chi phí.
1.2. Mô hình tăng trưởng xét tới vai trò của nghiên cứu và phát triển
1.2.1. Mô hình Solow
Mô hình tăng trưởng kinh tế của Solow được xây dựng nhằm cho thấy sự gia tăng
về vốn tư bản, sự gia tăng về lực lượng lao động và tiến bộ khoa học công nghệ đã tác
động đến nhau như thế nào cũng như việc chúng ảnh hưởng đến tổng sản lượng quốc
gia về hàng hóa và dịch vụ. Ban đầu, giả định rằng lực lượng lao động và khoa học
công nghệ là cố định, từ đó dần đi vào giả định có sự thay đổi tiếp theo của lực lượng
lao động và sự thay đổi của khoa học công nghệ ở phần sau.
Cung về hàng hóa dịch vụ và hàm sản xuất: Mô hình tăng trưởng tân cổ điển mô
tả một nền kinh tế trong đó một đầu ra đồng nhất duy nhất được sản xuất bằng hai loại
đầu vào đó là: vốn tư bản (K) và lao động (L). Đường cung về hàng hóa theo mô hình
của Solow cũng tuân theo nguyên lý hàm sản xuất, là hàm số cho biết mức sản lượng
đầu ra hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô nguồn lực vốn cũng như lực lượng lao động
của nền kinh tế đó:
Y = f(K,L)
Mô hình tăng trưởng của Solow giả định rằng, hàm sản xuất này là phản ánh một
hàm số có hiệu suất không đổi theo quy mô. Điều này có nghĩa là đầu vào tăng lên bao
nhiêu lần thì đầu ra cũng tăng lên bấy nhiêu lần. Hàm số trên sẽ được viết lại dưới
dạng:
Y
y= =f
L (
K L
)
, =f (k )
L L
y = Y/L là sản lượng trên một công nhân, k = K/L là lượng tư bản trang bị cho
một công nhân

13
Hệ số góc của hàm sản xuất này cho biết khi tăng lượng tư bản trang bị cho một
công nhân lên 1 đơn vị thì sản lượng bình quân trên một lao động tăng lên bao nhiêu
đơn vị. Và lượng đơn vị sản lượng bình quân tăng thêm này chính là MPK – sản phẩm
cận biên trên một đơn vị vốn.
MPK = f(k+1) – f(k)
Hình 1.2. Hàm sản xuất mô hình Solow

Hàm sản xuất dốc lên từ trái sang phải: y và k có mối quan hệ đồng biến, nghĩa là
gia tăng tư bản theo chiều sâu thì sản lượng bình quân tăng. Độ dốc của hàm sản xuất
giảm dần cho thấy k tăng thì y tăng nhưng tốc độ tăng chậm dần và đến một lúc nào đó
k tăng y sẽ không tăng nữa, đây chính là điểm dừng của nền kinh tế. Đây chính là Quy
luật lợi tức cận biên giảm dần. Quy luật này cho thấy khối lượng đầu ra có thêm sẽ
ngày càng giảm, khi liên tiếp tăng thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến
đổi với điều kiện số lượng đầu vào khác giữ cố định. Điều này được lý giải vì mọi
nguồn lực đều khan hiếm nên các đơn vị nguồn lực thêm vào sau có chi phí cơ hội tăng
dần, nghĩa là năng suất của các nguồn lực này giảm so với các đơn vị ban đầu và với
một yếu tố ban đầu không đổi càng càng nhiều nguồn lực tăng thêm sử dụng yếu tố này
đến một lúc nào đó sẽ dẫn tới tình trạng sử dụng chồng chéo, phi hiệu quả.
Cầu về hàng hóa dịch vụ và hàm tiêu dùng: Cầu về hàng hóa trong mô hình của
Solow bao gồm tổng cầu trong nền kinh tế giản đơn, tức là chỉ bao gồm cầu về hàng
tiêu dùng (C) và cầu về đầu tư (I). Như vậy tổng sản lượng hàng hóa sản xuất ra nhằm
phục vụ đủ cho mức tổng cầu này: Y = C + I hay y = c + I, với y = Y/L là sản lượng

14
bình quân trên một lao động, c = C/L là mức tiêu dùng của mỗi lao động, I = I/L là
mức đầu tư trên mỗi lao động.
Mỗi năm, người dân không tiêu dùng hết thu nhập kiếm được mà thường dành
một tỷ lệ nhất định cho tiết kiệm s = S/Y (S là mức tiết kiệm, s là tỷ lệ tiết kiệm). Phần
còn lại của thu nhập mới dành cho tiêu dùng C = Y- S = Y – s.Y= (1 - s).Y. Chia cả 2
vế cho số lao động L, ta sẽ được: c = (1 - s).y. Từ đây ta có: i = s.y, đầu tư bằng với tiết
kiệm. Tỷ lệ tiết kiệm còn phản ánh mức độ tái đầu tư của nền kinh tế hay là tỷ lệ tổng
thu nhập dành cho tái đầu tư.
Đầu tư là hoạt động mua sắm hàng hóa đầu tư của các doanh nghiệp nhằm làm
gia tăng vốn hiện vật để đưa vào quy trình sản xuất ra một loại đầu vào mới. Tuy
nhiên, vốn hiện vật này lại có giá trị thay đổi theo thời gian, mức độ thay đổi đó được
gọi là tỷ lệ khấu hao (A). Giả sử chúng ta có khối lượng vốn đầu tư là K với tỷ lệ khấu
hao A% thì sau 1 năm giá trị lượng vốn giảm đi A.K. Tương tự vốn bình quân trên một
lao động là k thì sau 1 năm lượng vốn này giảm đi A.k. Hàng năm, chúng ta luôn dành
một lượng vốn nhất định đầu tư thay thế cho những loại vốn tư bản bị suy giảm giá trị
do hao mòn, mất giá, lạc hậu với tỷ lệ là A%.
Khi đó tổng đầu tư (I) được chia thành đầu tư mới (Ir) để đem lại tăng trưởng
kinh tế và đầu tư thay thế (A): I = Ir + A hay i = ir +Ak hoặc sy = ir + Ak.
Nền kinh tế sẽ đạt trạng thái ổn định nếu không có sự gia tăng đầu tư mới (ir = 0)
mà đầu tư chỉ nhằm thay thế cho những vốn tư bản bị khấu hao: sy = Ak hay s.f(k) =
A.k. Từ phương trình này có thể rút ra giá trị k* thỏa mãn điều kiện đem lại trạng thái
ổn định cho nền kinh tế như hình dưới đây.
Hình 1.3. Trạng thái ổn định dài hạn theo mô hình Solow

15
Như vậy, khi không có sự thay đổi công nghệ, đầu tư làm tăng vốn tư bản bình
quân sẽ làm tăng sản lượng trên mỗi công nhân, làm tăng sản phẩm biên của người lao
động và tăng tiền lương; nó cũng đồng thời dẫn đến lợi nhuận của các chủ đầu tư giảm
dần, tăng trưởng giảm dần. Nhưng cân bằng dài hạn của mô hình tăng trưởng tân cổ
điển cũng cho thấy rằng, nếu tăng trưởng kinh tế chỉ bao gồm tích lũy tư bản thông qua
việc tái sản xuất những nhà máy và phương thức sản xuất như hiện có thì mức sống
cuối cùng sẽ không được cải thiện.
Hình 1.4. Tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường vốn đầu tư

Khi vốn đầu tư trên một lao động tiếp tục gia tăng thì sản lượng bình quân trên
một lao động cũng gia tăng theo chiều mũi tên từ E’ đến E” đến E’” cho tới khi cuối
cùng không tăng nữa tại trạng thái ổn định dài hạn V (tại mức vốn bình quân trên 1 lao
động k*). Tại điểm V sản lượng trên mỗi công nhân (Y/L) là không đổi và tiền lương
thực tế không tăng.

16
Tiến bộ công nghệ sẽ làm cho hàm sản xuất dịch chuyển lên trên, như minh họa
dưới đây. Trong đồ thị này, chúng ta đã xây dựng hàm tổng sản lượng cho năm t và
t+h. Do có thay đổi công nghệ dẫn đến hàm tổng sản lượng đã dịch chuyển lên trên từ
APFt lên APFt+h. Sự dịch chuyển lên trên này cho thấy những bước tiến trong năng suất
do rất nhiều quá trình sản xuất và sản phẩm mới.
Hình 1.5. Tiến bộ công nghệ dẫn đến làm tăng năng suất

Như vậy với những cải tiến về công nghệ, hàm tổng sản lượng dịch chuyển lên
trên theo thời gian chống lại quy luật năng suất cận biên giảm dần. Do đó, những cải
tiến công nghệ kết hợp với tăng cường đầu tư vốn tư bản mới theo chiều sâu làm tăng
sản lượng trên mỗi công nhân từ điểm E t lên điểm Et+h. Từ đó góp phần làm tăng tiền
lương thực tế và mức sống của người dân được cải thiện.
Giả định tiến bộ công nghệ tăng với tốc độ g A, và lực lượng lao động tăng với tốc độ n,
như vậy, lượng công nhân hiệu quả LA tăng với tốc độ n + g A. Khi đó lượng tư bản
thay đổi trong năm bằng: Dk = I – (d + n + gA).k, trong đó I = s.f(k), k = K/LA, y =
Y/(LA) và hàm khấu hao mới (d + n + g A).k. Hàm sản xuất khi có tiến bộ khoa học
công nghệ A sẽ là: y = Akα với mức giá trị mới:
1 α
¿ sA ¿ sA
k =( ) 1−α y =( ) 1−α
δ+ g A + n δ+ g A + n
Ngoài ra mô hình Solow còn dự đoán một hiện tượng thú vị khác đó là hiệu ứng
đuổi kịp giữa các nền kinh tế. Hiệu ứng đuổi kịp: hai nền kinh tế có xuất phát điểm
khác nhau nhưng nếu có chung tỷ lệ tiết kiệm và tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật thì
sau một thời gian hai nền kinh tế sẽ có quy mô tương đương (giống như cuộc chạy đua

17
giữa thỏ và rùa). Khi k thấp thì y tăng nhiều (tăng trưởng cao); k lớn thì y tăng ít (tăng
trưởng thấp) và quy tắc 70 cho biết chênh lệch vài % tăng trưởng sẽ dẫn tới chênh lệch
lớn về quy mô nền kinh tế trong dài hạn.
1.2.2. Mô hình phá hủy sáng tạo của Schumpeter
Joseph Schumpeter đặt ra cụm từ “Phá hủy mang tính sáng tạo”, đây là tiền đồ mà
qua đó những cách tân mới phá hủy các doanh nghiệp đã thành lập và tạo ra các thị
trường mới. Schumpeter mô tả sự phá hủy sáng tạo là những đổi mới trong quy trình
sản xuất nhằm tăng năng suất, mô tả nó là “quá trình đột biến công nghiệp không
ngừng cách mạng hóa cấu trúc kinh tế từ bên trong, không ngừng phá hủy cái cũ,
không ngừng tạo cái mới”.
Về cơ bản, lý thuyết hủy diệt sáng tạo cho rằng các sắp xếp và giả định lâu đời
phải bị phá hủy để giải phóng nguồn lực và năng lượng triển khai cho đổi mới. Đối với
Schumpeter, phát triển kinh tế là kết quả tự nhiên của các lực bên trong thị trường và
được tạo ra bởi cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận mô tả lợi ích tài chính được thực
hiện khi doanh thu tạo ra từ một hoạt động kinh doanh vượt quá chi phí, chi phí và thuế
liên quan đến việc duy trì hoạt động được đề cập. Bất kỳ khoản lợi nhuận nào kiếm
được sẽ được trả lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp, những người chọn bỏ túi tiền mặt
hoặc tái đầu tư trở lại doanh nghiệp. Lợi nhuận được tính bằng tổng doanh thu trừ tổng
chi phí.
Thuyết hủy diệt sáng tạo coi kinh tế học như một quá trình hữu cơ và năng động.
Điều này hoàn toàn trái ngược với các mô hình toán học tĩnh của kinh tế học truyền
thống. Cân bằng không còn là mục tiêu cuối cùng của các quá trình thị trường. Thay
vào đó, nhiều động lực biến động liên tục được định hình lại hoặc thay thế bằng sự đổi
mới và cạnh tranh. Bốn khái niệm kinh tế chính - khan hiếm, cung và cầu, chi phí và
lợi ích, và các ưu đãi – có thể giúp giải thích nhiều quyết định mà con người đưa ra. Sự
khan hiếm giải thích vấn đề kinh tế cơ bản mà thế giới có hạn - hoặc khan hiếm -
nguồn lực để đáp ứng những mong muốn dường như không giới hạn, và thực tế này
buộc mọi người phải đưa ra quyết định về cách phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả
nhất. Do nguồn lực khan hiếm, con người không ngừng đưa ra các lựa chọn được xác

18
định bởi chi phí và lợi ích của họ và các động lực được cung cấp bởi các phương thức
hành động khác nhau.
Trên thực tế, đổi mới thành công thường là một nguồn sức mạnh thị trường tạm
thời, làm xói mòn lợi nhuận và vị thế của các công ty cũ, nhưng cuối cùng vẫn chịu
khuất phục trước áp lực của các phát minh mới được thương mại hóa bởi những người
tham gia cạnh tranh. Phá hủy sáng tạo là một khái niệm kinh tế mạnh mẽ vì nó là động
lực của thay đổi công nghiệp: sự chuyển đổi từ một thị trường cạnh tranh sang độc
quyền và trở lại.
1.2.3. Mô hình tăng trưởng biến nội sinh
Trong các mô hình tăng trưởng trình bày ở trên, yếu tố lao động hay rộng hơn là
yếu tố con người và tiến bộ công nghệ được xem là ngoại sinh. Tuy nhiên, nhiều nhà
kinh tế lại cho rằng các yếu tố này trong thực tế có thể là nội sinh. Vì vậy trong phần
này ta sẽ đề cập tới các mô hình trong đó một số yếu tố ngoại sinh sẽ được nội sinh
hoá.
* Mô hình R&D:
Mô hình giả định: một khu vực sản xuất hàng hoá, một khu vực sản xuất tri thức.
Một tỷ lệ ∅ 1trong lực lượng lao động được sử dụng trong khu vực sản xuất tri thức,
phần còn lại (chiếm (1-∅ 1)) lực lượng lao động được sử dụng trong khu vực sản xuất
hàng hoá. Tương tự như vậy, một tỷ lệ ∅ k trong lượng vốn đựơc sử dụng trong khu vực
sản xuất tri thức, phần còn lại (chiếm (1-∅ k )) lượng vốn được sử dụng trong khu vực
sản xuất hàng hoá. Cả ∅ 1 và ∅ k đều là ngoại sinh và cố định.
Sản lượng trong khu vực sản xuất hàng hoá được cho bởi hàm Cobb-Douglas
truyền thống (với giả thiết hiệu suất không đổi theo quy mô):

Việc sản xuất ra kiến thức mới phụ thuộc vào vốn và lao động được sử dụng
trong R&D và mức công nghệ hiện có. Dạng hàm Cobb-Douglas tổng quát trong khu

vực sản xuất kiến thức:

19
Trong đó, λ là một tham số dịch chuyển. Tham số θ phản ánh ảnh hưởng của kiến
thức đối với thành công của R&D. Để đơn giản hoá, khấu hao được đặt bằng không.
Do đó: K’ = sY và L’ = nL, 0 ≤ n.
Biến đổi mô hình, ta có:

Trường hợp 1: β+θ<1, thì ta có tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế là nội
sinh và là một hàm tăng trưởng theo tốc độ tăng dân số. Tỷ lệ lực lượng lao động và
mức vốn tham gia khu vực R&D (∅ 1,∅ k ) không ảnh hưởng tới tăng trưởng dài hạn và tỷ
lệ tiết kiệm cũng như vậy.
Trường hợp 2: β+θ>1. Trong trường hợp này, người ta có thể chứng minh được:
khi s và n tăng, thì sản lượng bình quân lao động sẽ tăng vượt qua quỹ đạo ban đầu với
một khoảng cách ngày càng mở rộng.
Trường hợp 3: β+θ=1. người ta chứng minh được rằng: nền kinh tế có duy nhất
một đường tăng trưởng cân đối, khi tỷ lệ tiết kiệm và quy mô dân số tăng lên thì tốc độ
tăng trưởng sẽ tăng.
* Mô hình AK:
Một mô hình đơn giản xem xét sản xuất có lợi tức không đổi theo quy mô đối với
cả tổ hợp vốn vật chất và vốn con người chính là mô hình AK do Romer (1986), Barro
(1990), Robelo (1991), và nhiều người khác đề xuất. Mọi đầu vào của mô hình này đều
được coi là vốn có thể tái sản xuất, không chỉ là vốn vật chất mà cả vốn con người. Cụ
thể đặt K là thước đo tổng hợp của vốn, hàm sản xuất có dạng tuyến tính như sau:
Y=AK, với A là tham số thể hiện mọi nhân tố tác động tới trình độ công nghệ.
Tốc độ tăng lượng vốn bình quân lao động ở trạng thái bền vững:
g K =sA−(n+δ)
L

Tốc độ tăng trưởng của sản lượng bình quân lao động ở trạng thái bền vững:
g Y =g A + g K
L L

20
Nếu không có tiến bộ công nghệ thì ở trạng thái bền vững tốc độ tăng trưởng sản
lượng bình quân chính là tốc độ tăng trưởng của vốn bình quân:
g Y =sA−(n+δ)
L

Khác với các mô hình Solow - Swan và Mankiw – Romer - Weil, ý nghĩa quan
trọng của mô hình AK là: tỷ lệ tiết kiệm sẽ quyết định tăng trưởng. Tỷ lệ tiết kiệm tăng
sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người một cách liên tục.
Ngoài ra khác với mô hình Tân cổ điển (cho rằng các nước nghèo tăng trưởng nhanh
hơn các nước giàu trong quá trình chuyển dịch tới trạng thái bền vững), mô hình AK
cho thấy các nước nghèo có cùng trình độ công nghệ sản xuất như các nước giàu sẽ
tăng trưởng cùng tốc độ với các nước giàu, bất kể mức thu nhập ban đầu là bao nhiêu.
Vì vậy, mô hình AK không dự báo có sự hội tụ thu nhập bình quân đầu người cho dù
các nước có cùng công nghệ và cùng tỷ lệ tiết kiệm. Tuy nhiên, những kiểm định chuỗi
thời gian gần đây lại không ủng hộ các kết luận của mô hình AK.
Trên cơ sở những phân tích trên đây có thể đi đến kết luận là các nước có nguồn
vốn con người lớn, đầu tư vào vốn tư bản sẽ tạo ra mức vốn đầu tư thực gồm vốn tư
bản và vốn con người cao. Điều này cho thấy, chính tốc độ tích lũy nguồn vốn con
người của các nước khác nhau quyết định sự khác nhau về phát triển kinh tế giữa các
nước.

21
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN R&D Ở CÁC
NƯỚC CHÂU Á VÀ HOẠT ĐỘNG R&D Ở VIỆT NAM
2.1. Kinh nghiệm R&D ở các nước Châu Á
2.1.1. Các nước phát triển
Các mô hình kinh tế đã chứng minh tầm quan trọng của khoa học công nghệ nói
chung và R&D nói riêng đối với tăng trưởng kinh tế. Sức ảnh hưởng của R&D ngày
càng lớn bởi sự gắn bó mật thiết trong việc tạo ra những sản phẩm mới và những công
nghệ sản xuất mới, có tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của quốc gia và sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp. Với tiềm lực kinh tế sẵn có cùng với những chính
sách hiệu quả, các quốc gia phát triển trên thế giới đã và đang đi đầu trong hoạt động
R&D trên thế giới.
Hình 2.1. Biểu đồ tỷ lệ đầu tư cho R&D trên GDP và số lượng nhà nghiên cứu
trên 1 triệu dân ở các nước trên thế giới

Nguồn: R&D Online

Hàn Quốc

22
Năm 2021, Mỹ vẫn là quốc gia đứng đầu trong tổng vốn đầu tư cho hoạt động
R&D, tuy nhiên Hàn Quốc đã vượt lên với tỷ trọng đầu tư cho R&D trên GDP cao nhất
và số lượng nhà nghiên cứu đạt gần 6000 người trên 1 triệu dân. Cách đây 40 năm, Hàn
Quốc cũng đã “vật lộn” để tìm cho mình hướng đi trong hoạt động R&D và do có sự
đầu tư đúng hướng của Chính phủ, ý thức của chính các doanh nghiệp nên hiện nay
Hàn Quốc được đáng giá là một trong những nước tốp đầu của thế giới về hoạt động
R&D. Hiện tại, ngân sách dành cho hoạt động nghiên cứu của Hàn Quốc đứng thứ 4
trên thế giới sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức. Nếu như năm 2012, Mỹ chi cho
hoạt động R&D là 3.892 trăm triệu USD, chiếm 2,79% GDP thì Hàn Quốc cũng đã
chi 379,3 trăm triệu USD, bằng 10% của Mỹ nhưng tỷ lệ đầu tư cho R&D lại chiếm tới
3,74% GDP của cả nước. Đặc biệt, năm 2021 mức chi này lên đến 4,4% GDP đạt
100,4 tỷ USD.
Thời kì đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều vào việc phát triển nghiên
cứu tại các trường đại học. Chính phủ đã ban hành luật Khuyến khích Nghiên cứu Cơ
bản vào năm 1998 để nâng cao năng lực nghiên cứu trong các trường đại học trọng
điểm. Số lượng các nhà nghiên cứu đã tăng gấp đôi từ khoảng 21.300 lên 51.600 trong
giai đoạn này. Chính phủ cũng ban hành chính sách hồi hương các nhà khoa học Hàn
Quốc từ nước ngoài. Các nhà khoa học này trở thành nguồn nhân lực quan trọng của
mạng lưới kỹ thuật và kiến thức để phát triển công nghệ mới ở Hàn Quốc. Trong chính
sách tập trung cho hoạt động R&D, Hàn Quốc đã có sự linh hoạt chuyển hướng tỷ tệ
đối tượng nghiên cứu từ các viện, các trường đại học sang các doanh nghiệp (DN), đối
tượng trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ của xã hội. Nếu như ở những năm
1980-1990, tỷ lệ hoạt động R&D tại các viện của Nhà nước là 75% thì hiện nay tỷ lệ
này lại dành cho nghiên cứu của các Doanh nghiệp.
Một thành công nữa trong hoạt động R&D của Hàn Quốc là chuyển hướng mục
tiêu nghiên cứu từ khoa học cơ bản những năm trước đây sang nghiên cứu ứng dụng
trong những năm gần đây để phục vụ sự phát triển kinh tế. Điển hình, Viện KIST với
đạo luật riêng được Chính phủ Hàn Quốc thông qua vào năm 1966 cho phép KIST có
cơ chế tự chủ về tài chính và nghiên cứu. Chính vì vậy, KIST nói riêng và hoạt động

23
R&D nói chung đã thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao ở nhiều nước trên thế giới
bằng việc trả thu nhập cao, tạo ra môi trường nghiên cứu làm việc tốt, thuận lợi, đầu tư
về nguồn tài chính cho các nhà khoa học để phát triển các dự án nghiên cứu.
Nhật Bản
Chính phủ Nhật Bản đã có rất nhiều các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp
như ưu đãi về tín dụng, thuế và tài trợ trực tiếp. Trong năm 2018, Nhật Bản đã dành
khoản kinh phí 170,5 tỷ USD để đầu tư vào R&D, chỉ sau hai quốc gia là Hoa Kỳ và
Trung Quốc và tương đương khoảng 3,4% GDP của quốc gia này. Chính phủ Nhật Bản
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho R&D bằng chính sách ưu đãi thuế đối với phần
chi phí tăng thêm cho nghiên cứu ở doanh nghiệp. Số ưu đãi thuế bằng 20% giá trị của
phần chi phí tăng thêm so với tổng chi phí cho hoạt động R&D của năm cao nhất trong
3 năm liền kề với năm tính toán, nhưng tổng giá trị phần tín dụng này không được phép
vượt quá 10% tổng giá trị của thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với các DNVVN
(doanh nghiệp có tổng vốn nhỏ hơn 100 triệu Yên, hoặc có số lao động ít hơn 1.000
người), Chính phủ cho phép để lại 6% thu nhập thuế để chi cho hoạt động R&D,
khuyến khích hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức R&D với doanh nghiệp. Ngoài chính
sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Nhật Bản còn dành nguồn ngân sách
lớn hàng năm để hỗ trợ cho các dự án công nghệ cao của doanh nghiệp. Chính phủ
thực hiện việc tài trợ tài chính và hỗ trợ mua các công nghệ của nước ngoài và bảo vệ
thị trường trong nước cho tới khi các doanh nghiệp này có thể cạnh tranh với bên
ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chú trọng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho khoa
học và công nghệ bằng cách mở các khóa đào tạo tại các trường đại học, có sự tham gia
của các chuyên gia nhằm đưa tri thức, thông tin đến gần với doanh nghiệp, khuyến
khích doanh nghiệp vận dụng để nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ được hiệu
quả.
Singapore
Singapore tập trung vào đầu tư R&D thông qua việc thu hút doanh nghiệp FDI
trong đó sử dụng chính sách tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ trong thu hút doanh
nghiệp FDI có đầu tư cho R&D. Chương trình thực hiện với 4 giai đoạn:

24
 Giai đoạn đầu: sử dụng ưu đãi thuế về chi tiêu bao gồm các hoạt động tiên
phong, hoạt động R&D, trung tâm R&D, thiết kế, mua lại quyền sở hữu trí tuệ
(IP) và thiết bị tự động hóa.
 Giai đoạn 2: khuyến khích các công ty đa quốc gia chuyển giao bí quyết công
nghệ và chuyên môn về nhân sự cho các doanh nghiệp địa phương. Chính sách
trợ cấp cho các công ty đa quốc gia này được sử dụng nhiều trong thời gian
chuyển giao như trợ cấp một tỷ lệ phần trăm của mức lương của một người
quản lý của công ty đa quốc gia khi làm việc trong doanh nghiệp địa phương
trong vòng 2 năm và mức trợ cấp được xác định theo từng trường hợp cụ thể.
 Giai đoạn 3: mở rộng R&D có khả năng ứng dụng, khuyến khích các doanh
nghiệp thành lập trung tâm R&D ở Singapore và phát triển các năng lực R&D
trong khu vực chiến lược về công nghệ. Những dự án nhận được hỗ trợ thường
là một cam kết tương đối dài hạn của công ty, mang lại những lợi ích đáng kể
cho nền kinh tế Singapore và tăng chi tiêu R&D đáng kể. Các công ty khi tham
gia vào kế hoạch này sẽ được hỗ trợ 30 - 50% chi phí và các khoản vay sẽ được
giải ngân theo phương thức hoàn trả.
 Giai đoạn 4 là chuyển đổi sang doanh nghiệp công nghệ cao và nghiên cứu phát
triển cơ bản, mục tiêu hỗ trợ của Singapore là các khía cạnh khác nhau cần thiết
để hỗ trợ các công ty thực hiện đổi mới. Singapore đã có các chương trình tiêu
biểu như chương trình Đổi mới Công nghệ (TIP) với các dự án trong chương
trình được hỗ trợ 50 - 100% chi phí cho các dự án đổi mới sáng tạo của các
công ty và liên doanh. Cũng trong chương trình này, đề án cung cấp chuyên gia
và vốn cho đổi mới sáng tạo (Innovation Voucher Scheme - IVS) mà gần đây
(2012) được thay thế bằng đề án cung cấp vốn cho đổi mới sáng tạo và năng lực
(Innovation &Capability Voucher - ICV), giúp tăng cường tiếp cận của các
DNVVN đến các chuyên gia trong trường đại học và các viện nghiên cứu công.
Để thúc đẩy đổi mới, Chính phủ đưa ra một khung khuyến khích bao gồm các
ưu đãi thuế. Năm 2016, tổng thuế suất của Singapore bằng 18,4% lợi nhuận,

25
thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước OECD thu nhập cao ở mức
là ở mức 41,2% (WB).
Chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ: Singapore đã đưa ra các biện pháp để kích thích
các nhà nghiên cứu thương mại hoá thành quả của họ bằng cách cho phép họ chia sẻ lợi
ích về tài chính. Điều này thừa nhận rằng các nhà nghiên cứu đóng vai trò quan trọng
trong việc quyết định đường hướng thương mại hoá và có thể không phải luôn quan
tâm đến việc thành lập các công ty mới. Một trong những mô hình quan trọng của Mỹ
đã được A*STAR áp dụng là phân bổ 1/3 lợi nhuận cho nhà nghiên cứu, 1/3 cho khoa
và 1/3 cho nhà trường hoặc bộ phận thương mại hoá.
Chính phủ Singapore đã có những hỗ trợ về tài chính cho các giai đoạn thử nghiệm
trước khi ra thị trường và để đảm bảo tính duy nhất của mỗi nghiên cứu cũng như lợi
nhuận có thể mang lại cho doanh nghiệp sau khi thương mại hoá sản phẩm, Singapre
đã đồng thời triển khai hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ xuất sắc và chính những bảo đảm
về sở hữu trí tuệ lại thúc đẩy các công ty trong nước và nước ngoài yên tâm nghiên cứu
để đưa ra những kết quả mới tại Singapore.
2.1.2. Các nước đang phát triển
Ấn Độ
Hiện tại, Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Đức và Vương quốc Anh với tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2021 cao nhất
thế giới ở mức 8,4%. Hoạt động R&D đã đóng góp một phần không nhỏ trong thành
tựu phát triển này. Chính sách của Chính phủ Ấn Độ là tập trung đẩy mạnh hợp tác
khoa học và công nghệ, liên kết trong R&D công nghệ cao với các công ty đa quốc gia
để cải thiện và nâng cao trình độ khoa học công nghệ của quốc gia. Và thực tế, Ấn Độ
đã trở thành một trung tâm R&D toàn cầu với hàng loạt “ông lớn” trên thế giới đã xây
dựng cở sở R&D của mình tại đây, chỉ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và phần
mềm, có thể điểm ra những “người khổng lồ” như Microsoft, IBM, Intel, Google,
Yahoo, Adobe…

Ngoài công nghệ thông tin, những trung tâm R&D trong lĩnh vực dược phẩm và công
nghệ sinh học đang phát triển và mở rộng đặc biệt nhanh chóng. Rất nhiều công ty
dược phẩm hàng đầu đã thiết lập các hoạt động nghiên cứu ở đây như Eli Lilly&Co,
26
Merck&Co, GlaxoSmithKline, Novartis, Pfizer… Những công ty này nhận ra rằng, Ấn
Độ không chỉ là nơi tiến hành những thử nghiệm lâm sàng, mà còn là nơi thực hiện
những nghiên cứu cơ bản. Các hoạt động R&D ở đây vẫn còn mới và cần có thời gian
để khai thác triệt để những lợi thế cũng như thúc đẩy thương mại hóa R&D trong lĩnh
vực y tế. Các công ty dược phẩm của Ấn Độ gần đây cũng nhận thấy cần phải tập trung
vào R&D, trong đó nhiều công ty sử dụng hơn 8% tổng thu nhập cho nghiên cứu. Tuy
nhiên, đầu tư ngân sách của Ấn Độ cho các công ty dược phẩm trong nước còn thấp
hơn nhiều so với những công ty dược phẩm nước ngoài. Những công ty dược phẩm lớn
của Ấn Độ đang hướng tới trở thành nhà đầu tư R&D chính trong lĩnh vực dược phẩm
trong nước. Trong 2005-2006, chi phí cho R&D của 50 công ty dược phẩm lớn trong
nước lên đến 495.19 triệu USD. Chính phủ Ấn Độ cũng đang huy động phát triển
những nghiên cứu về sinh học y tế bằng việc tăng cường hệ thống pháp lý như bảo vệ
quyền phát minh sáng chế và điều chỉnh cho hài hòa với những tiêu chuẩn quốc tế, hỗ
trợ tài chính cho phát triển R&D trong công nghệ sinh học đồng thời tạo ra những
khuyến khích về thuế trong các hoạt động R&D.

Ấn Độ có một nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ hùng hậu, thạo chuyên
môn giỏi tay nghề, sử dụng tiếng Anh tốt. Hơn nữa, giá thuê nhân công ở đây tương
đối rẻ. Chính điều này làm cho nhiều người Ấn Độ dễ dàng nhận được các chương
trình đào tạo từ những công ty đa quốc gia này và có cơ hội lũy kinh nghiệm ở nước
ngoài. Những người này sẽ trở về Ấn Độ, làm việc cho chính những công ty đó, và đây
chính là một sự “hồi hương chất xám” thầm lặng. Điều kiện nghiên cứu trong những
trung tâm R&D được đầu tư không thua kém những phòng thí nghiệm hàng đều thế
giới, đó cũng là lý do thu hút nhiều tài năng của Ấn Độ trở về đóng góp cho khoa học
và công nghệ của nước nhà. Sự phát triển R&D của Ấn Độ thực sự là những kinh
nghiệm quý báu cho nhiều nước đang phát triển học hỏi, trong đó có Việt Nam.

Malaysia
Malaysia là quốc gia thứ hai trong khu vực Đông Nam Á (sau Singapore) vượt
qua bẫy thu nhập trung bình, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa (Lai and

27
S. Yap, 2004). Học tập kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Đài Loan, năm 1997, Chính phủ
Malaysia quyết định thành lập Quỹ công nghệ Malaysia (Malaysia Technology Fund)
nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và hỗ trợ các trường đại học, viện
nghiên cứu thương mại hóa các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao. Quỹ được cấp vốn
điều lệ tương đương 100 triệu USD, dùng để tài trợ cho các dự án đổi mới công nghệ
và dự án thương mại hóa công nghệ. Hằng năm, Quỹ được cấp bổ sung kinh phí đảm
bảo mức vốn điều lệ để hoạt động. Toàn bộ kinh phí hoạt động của Quỹ được ngân
sách nhà nước cấp. Trong kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ IX của Malaysia (2006 -
2010), Chính phủ Malaysia đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ tài trợ cạnh tranh
nhằm thực hiện các vấn đề tiền thương mại hóa sản phẩm của các công nghệ mới, công
nghệ mũi nhọn. Những công nghệ này phải có tiềm năng thương mại để hình thành nên
các doanh nghiệp mới và xây dựng nền kinh tế thịnh vượng cho Malaysia. Quỹ là tổ
chức trung gian khắc phục khoảng cách giữa giai đoạn nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng và giai đoạn thương mại hóa. Mục tiêu của Quỹ đổi mới công nghệ Malaysia
là: Kích thích sự tăng trưởng và đổi mới thành công của doanh nghiệp dựa trên công
nghệ của Malaysia bằng cách nâng cao trình độ R&D được gắn liền với thương mại
hóa; nâng cao năng lực của Viện nghiên cứu quốc gia Malaysia và các cơ sở đào tạo
sau cấp 3 để thực hiện R&D có định hướng thị trường và thương mại hóa các kết quả
R&D thông qua các sản phẩm phụ/việc cấp phép; nâng cao năng lực cạnh tranh toàn
cầu và nền văn hóa R&D giữa các doanh nghiệp dựa trên công nghệ Malaysia; góp
phần tăng GDP của Malaysia thông qua việc tạo ra của cải kinh tế và xuất khẩu. Năm
2007, Chính phủ Malaysia tăng vốn điều lệ cho Quỹ công nghệ lên mức 300 triệu USD
và năm 2010 thành lập Quỹ đổi mới sáng tạo (Malaysia Innovation Fund - Innofund)
để thực hiện chức năng bảo lãnh vay vốn bằng công nghệ. Từ năm 2016 đến nay,
Malaysia đang nghiên cứu phương án thành lập Tập đoàn tài chính công nghệ hoạt
động trên cả 02 phương thức tài trợ và bảo lãnh công nghệ để kịp thời hỗ trợ các doanh
nghiệp cũng như các trường đại học, viện nghiên cứu tham gia sâu và mạnh hơn nữa
vào CMCN 4.0, đưa Malaysia thành nước công nghiệp phát triển (nước công nghiệp có
thu nhập cao) (Government of Malaysia, 2015).

28
Thái Lan
Trong 2 thập kỷ qua, Tổng chi nghiên cứu và phát triển (R&D) của Thái Lan nằm
trong khoảng 0,25 - 0,6% GDP (tăng từ 0,36% GDP năm 2011 lên 0,63% năm 2015).
Trong Kế hoạch phát triển KT - XH quốc gia mới, Chính phủ đặt ra các mục tiêu tham
vọng trong chi NC&PT lần lượt ở mức 1,0% và 1,5% GDP vào các năm 2018 và 2021.
Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch cơ bản quốc gia 10 năm về khoa học và công
nghệ (2012 - 2021). Kế hoạch này được thiết kế để cung cấp cơ chế làm phong phú
thêm hệ thống đổi mới ở tất cả các cấp từ cấp quốc gia, khu vực và địa phương trong cả
nước. Kế hoạch tổng thế quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới 2012 - 2021
nhằm mục tiêu thống nhất các cam kết khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong
các cơ quan công và tăng cường hợp tác với và giữa khu vực tư nhân, các viện nghiên
cứu và hàn lâm. Kế hoạch được thiết kế để liên kết tri thức từ cấp cộng đồng cơ sở đến
hợp tác quốc tế.
Để tạo ra một hệ thống đổi mới phát triển mạnh, các văn phòng khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo hiện tại tập trung vào hợp tác giữa các tổ chức và quốc tế dựa
trên nguồn nhân lực tri thức, cơ sở hạ tầng KH&CN đầy đủ và các yếu tố hỗ trợ khác.
Kế hoạch Tổng thể tuyên bố rằng nguồn nhân lực tri thức và có kỹ năng cùng với cơ sở
hạ tầng KH&CN đầy đủ và các yếu tố hỗ trợ rất quan trọng cho việc tạo ra một hệ
thống đổi mới phát triển mạnh. Do đó, các chiến lược và biện pháp sau đây được vạch
ra để phát triển những yếu tố quan trọng, dẫn đến các chương trình phát triển nguồn
nhân lực: (1) Cải thiện giáo dục khoa học thông qua việc học theo vấn đề cần thiết; (2)
Cải thiện kỹ năng nghề thông qua việc học kết hợp với làm; (3) Tăng cường hợp tác
giữa các trường đại học - công nghiệp - viện nghiên cứu thông qua giáo dục hợp tác và
nâng cao tính cơ động của các cá nhân đào tạo/nghiên cứu (4) Chương trình phát triển
các yếu tố cơ sở hạ tầng/hỗ trợ như công viên khoa học vùng, hỗ trợ công nghệ công
nghiệp, ưu đãi về thuế và cung cấp tài chính cho đổi mới.

29
2.2. Hoạt động R&D tại Việt Nam
2.2.1. Thực trạng R&D tại Việt Nam
Trong giai đoạn tử năm 2002 đến năm 2020, mặc dù đã có sự cải thiện trong việc
phân bổ nguồn lực cho R&D tại Việt Nam nhưng so với mức đầu tư trung bình của các
nước khu vực và quốc tế thì mức đầu tư cho R&D của Việt Nam còn khá thấp . Năm
2019, ngân sách cho R&D tại Việt Nam bằng 0,53% tổng GDP, thấp hơn nhiều so với
các nước láng giềng (chỉ có Indonesia và Philippines là có cường độ R&D thấp hơn).
Hình 2.2. Biểu đồ chi phí R&D tại một số quốc gia và thế giới trong giai đoạn
1996-2020

Nguồn: Worldbankdata

Thực trạng và những hạn chế


Mặc dù tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng nhưng Việt Nam vẫn là quốc gia có
mức thu nhập trung bình thấp. Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế và sức ép nhu cầu
đầu tư ở các lĩnh vực khác thì hiển nhiên sẽ khó khăn khi cân nhắc phân bổ nguồn lực
vào nghiên cứu phát triển các công nghệ mang tính mới so với thế giới. Sự hạn chế của
nguồn lực R&D thể hiện qua số lượng các nhà nghiên cứu tính trên một triệu dân. Tỉ lệ
nhân lực làm R&D trên dân số của Việt Nam tương đối thấp so với các quốc gia khác,
tỉ lệ này chỉ tương đương 20% so với tỷ lệ trung bình của khu vực EU, tương đương

30
7,6% của Hàn Quốc, tương đương 29,8% của Malaysia, tương đương 58% của Thái
Lan. Nguồn nhân lực R&D của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực nhà nước (84,13%),
trong khi khu vực ngoài nhà nước chiếm 13,8%.
Năm 2019, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam ghi nhận sự gia tăng mạnh về số
lượng đơn đăng ký sở hữu trí tuệ (75.742 đơn đăng ký, tăng 26,7% so với năm 2018),
xử lý 65.029 đăng ký (tăng 51,7% so với năm 2018) và cấp 40.715 bảo hộ quyền
SHTT (tăng 40,6% so với năm 2018). Tuy nhiên, số lượng bằng sáng chế được cấp ở
Việt Nam vẫn còn tương đối thấp, đặc biệt là các bằng sáng chế do các đơn vị trong
nước đăng ký. Lý do có ít bằng sáng chế trong nước không nhất thiết là do có ít hoạt
động sáng chế. Thay vào đó, một số lượng lớn các công nghệ hữu ích không đủ điều
kiện cấp bằng sáng chế chủ yếu do các yêu cầu nghiêm ngặt về khả năng cấp bằng:
Tính đổi mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Tương tự như các
nước đang phát triển khác, hầu hết các đơn đăng ký sáng chế ở Việt Nam chủ yếu do
người nước ngoài nộp. Bằng sáng chế của người nước ngoài đăng ký chủ yếu nhằm
bảo vệ sáng chế của họ không bị bắt chước và sản xuất tại Việt Nam. Sự cải thiện về số
lượng sáng chế được cấp phản ánh sự cải thiện năng lực đổi mới và hấp thụ công nghệ
tại Việt Nam, hơn nữa, cũng có mối tương quan cao giữa số công nghệ được cấp phép
và số đơn đăng ký của nước ngoài với quá trình chuyển giao công nghệ.
Hình 2.3. Đơn sáng chế từ các đơn vị Việt Nam và nước ngoài 2009-2019

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam

31
Một số vướng mắc trong nguồn cung nhân lực được xác định là vấn đề then chốt
của Việt Nam theo nhận định của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) trong
báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á. Những khó khăn vướng mắc bao gồm,
nhưng không giới hạn, là sự tham gia thấp, không đồng đều và sự chênh lệch giữa giáo
dục và thị trường lao động. Ví dụ, tỷ trọng dân số từ 18 đến 29 tuổi đang theo học các
trường đại học là 28,3%, thuộc nhóm thấp nhất trên thế giới. Việt Nam có thể sẽ cần
phải tiếp tục phấn đấu để phát triển nhân lực R&D.
R&D tại các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam đóng góp khoảng 64% vào R&D quốc gia, tỉ lệ này
có thể so sánh với Singapore (52%), Hàn Quốc (77%) và Trung Quốc (77%). Đây là
một dấu hiệu cho thấy các doanh nghiệp chủ động tham gia R&D để nội địa hoá công
nghệ nước ngoài và tăng cường đổi mới sáng tạo.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam có nhiều hơn các doanh nghiệp mở rộng
hoạt động R&D. Ví dụ, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã thành lập viên
nghiên cứu riêng vào năm 2010 theo mô hình của các tập đoàn lớn trên thế giới. Từ
năm 2014, Viettel đã trích 10% lợi nhuận trước thuế, tương đương 2.500 tỉ đồng đầu tư
vào Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ. Tập đoàn Dầu khí quốc gia cũng đã hợp tác
với Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) chế tạo giàn khoan thế hệ mới phục vụ hoạt
động khai thác dầu khí. Với nỗ lực của các nhà khoa học trong nước, doanh nghiệp này
đã thiết kế và làm chủ được công nghệ sản xuất giàn khoan, đưa Việt Nam lên top 10
thế giới và Top 3 các nước châu Á có năng lực chế tạo giàn khoan tự nâng 90 mét và
120 mét vào năm 2009. Về phía khối doanh nghiệp tư nhân, Vingroup đã chi 1.732 tỷ
đồng (gần 76 triệu USD) cho hoạt động nghiên cứu tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm
2021, con số này gấp 6,5 lần so sở hữu cùng kỳ. Chi phí cho R&D hầu hết đến từ dự án
VinFast, lúc nhà sản xuất ô tô Việt Nam đang đẩy mạnh cho ra mắt những mẫu xe
điện/xe hybrid mang mục đích bán trên toàn cầu từ năm 2022. Kế hoạch của tỷ phú
Phạm Nhật Vượng là biến ô tô VinFast trở thành công cụ cạch tranh trực tiếp sở hữu xe
xăng, đi cùng sở hữu xu thế lớn mạnh tàu điện trên toàn cầu nhằm giảm thiểu phát thải.
Trong nửa đầu năm, Vingroup ghi nhận doanh thu 9.334 tỷ đồng từ hoạt động cung cấp

32
công nghiệp, doanh thu này cốt yếu đến từ dự án VinFast, chi phí tổn R&D trên doanh
thu ở mức xấp xỉ 21%.
2.2.2. Các chính sách phát triển R&D của chính phủ Việt Nam
Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, phát triển
doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ. Tiêu biểu như Nghị quyết số
52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ
động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 02/NQ-CP, ngày
01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định
hướng đến năm 2021, trong đó đặt mục tiêu đổi mới sáng tạo, đầu tư, nghiên cứu, phát
triển công nghệ mới…
Để nâng cao tiềm lực thúc đẩy hoạt động R&D, Việt Nam đã thu hút đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực này bằng những thể chế vượt trội. Theo quy định tại Luật Đầu tư
sửa đổi, hoạt động R&D được xác định là ngành nghề ưu đãi đầu tư. Thậm chí, Điều
20, Luật Đầu tư còn quy định, các dự án thành lập trung tâm R&D có tổng vốn đầu tư
từ 3.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong thời hạn 3
năm kể từ khi nhận giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, sẽ được áp dụng cơ chế ưu đãi
đặc biệt, cao hơn quy định hiện hành của Luật và do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Để thu hút đầu tư vào R&D, vào đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã quyết định xây
dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) ở Hòa Lạc, dự kiến khởi công vào
cuối năm nay. “NIC là trung tâm đổi mới sáng tạo duy nhất mà Chính phủ có một nghị
định riêng để trao cho các thể chế vượt trội, tạo điều kiện phát triển và hoạt động hiệu
quả”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết. Đó chính là Nghị
định 94/2020/NĐ-CP, được Chính phủ đã ban hành vào cuối tháng 8/2020. Theo đó,
các cá nhân, các tập đoàn công nghệ lớn trong và ngoài nước khi đầu tư vào NIC sẽ
được hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi ở mức cao nhất, không chỉ về thuế, thủ tục
đầu tư, mà còn trong cả vấn đề thị thực, tín dụng, đất đai…

33
2.2.3. Đóng góp của R&D cho tăng trưởng ở Việt Nam
Trong những thập niên gần đây, Việt Nam chứng kiến sự phát triển nhanh của
hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhất là trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động, góp phần gia tăng hiệu quả sản xuất.
Nhìn lại chặng đường vừa qua, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đóng
góp quan trọng, toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế dần
dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế tăng lên. Trong giai đoạn 2016- 2020, đóng
góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,42%, cao hơn nhiều so với mức
bình quân 32,77% của giai đoạn 2011-2015. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình
trong giai đoạn 2016-2020 đạt 6,28%, tăng cao so với giai đoạn 2011-2015 với tốc độ
tăng trung bình là 4,92%.
Hình 2.4. Tốc độ tăng năng suất lao động, TFP giai đoạn 2011-2021 (%)

Nguồn: Tổng cục thống kê


Theo báo cáo “Đổi mới công nghệ (ĐMCN) ở Việt Nam - Đánh giá tác động của
công nghệ đến tăng trưởng kinh tế” do Bộ Khoa học và Công nghệ, chương trình
Aus4Innovation và tổ chức CSIRO phối hợp thực hiện, các nhà phân tích đã đưa ra mô
hình thể hiện mối quan kệ giữ thúc đẩy R&D và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Qua

34
phân tích cho thấy, tác động của đầu tư cho R&D sau 10 năm đầu tư là rất đáng kể.
Đến năm 2030, tăng 1% của tốc độ tăng ngân sách cho R&D có thể mang lại khoảng
106 nghìn tỷ đồng cho GDP thực của Việt Nam (theo giá năm 2010). Con số này xấp
xỉ 1,0% tổng GDP vào năm 2030. Tuy nhiên, đến năm 2045, tăng 1% tốc độ tăng đầu
tư cho R&D sẽ tạo thêm khoảng 600 nghìn tỷ đồng, khoảng 3,7% tổng GDP thực năm
2045.

Hình 2.5. Mức tăng tiềm năng của GDP thực tế tại Việt Nam tăng 1% về ngân
sách cho R&D

Nguồn: Nhóm nghiên cứu CSIRO


Đổi mới và sáng tạo công nghệ là chìa khóa để Việt Nam duy trì tốc độ tăng
trưởng nhanh, bền vững và đi tắt đón đầu trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Việt Nam
cần sự lãnh đạo quyết liệt cùng thể chế mạnh để nắm bắt những cơ hội này và tháo gỡ
những nút thắt để tiếp tục phát triển kinh tế. Về dài hạn, đầu tư cho R&D sẽ dẫn đến
việc tích lũy các phát minh sẵn sàng ứng dụng và đưa vào sản xuất, dẫn đến việc tăng
năng suất, hay tăng TFP nói riêng. Số lượng các công nghệ chưa được áp dụng ngày
càng tăng cũng kích thích sự gia tăng của các hoạt động ứng dụng, đổi mới công nghệ,
nâng cao hiệu quả sản xuất và từ đó kích thích các hoạt động sản xuất mới.

35
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích chính sách của một số nước phát triển trên thế
giới như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Singapore với nhiều thập kỷ nghiên cứu, đổi
mới công nghệ đã gặt hái được những thành tựu vượt trội hay các quốc gia láng giềng
đang “vươn lên” với tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ trong
những năm gần đây như Thái Lan, Malaysia, một số bài học kinh nghiệm dành cho
Việt Nam có thể được kể đến như sau:
Thứ nhất, tại hầu hết các quốc gia, quỹ đổi mới và phát triển công nghệ được
thành lập trong giai đoạn công nghiệp hóa (Hàn Quốc, Singapore, Malaysia...) hoặc
hiện đại hóa (Đức, Phần Lan...). Nhờ làm chủ được các công nghệ mới, doanh nghiệp
có khả năng thường xuyên đưa ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ mới. Với một số
vốn được cấp từ ngân sách (kể cả được bổ sung hằng năm) các quỹ đã huy động được
lượng vốn lớn hơn nhiều lần từ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng
sản xuất, qua đó tạo ra giá trị hàng hóa gấp vài chục lần đến vài trăm lần số vốn ban
đầu được cấp. Đây là một trong những đóng góp quan trọng và quyết định sự thành
công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước các quốc gia kể trên.
Thứ hai, các quỹ đổi mới công nghệ của các nước cũng hoạt động theo hai giai
đoạn: Ở giai đoạn đầu, các quỹ chủ yếu thực hiện các hoạt động tài trợ (tài trợ một
phần hoặc toàn phần) kinh phí để các doanh nghiệp thực hiện đổi mới và phát triển
công nghệ. Tiếp đó, các quỹ sẽ mở rộng hình thức hỗ trợ tín dụng như cho vay ưu đãi,
hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh tín dụng để doanh nghiệp nghiên cứu hoàn thiện công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn được giao, song song với hoạt
động tài trợ, tín dụng, các quỹ cần thực hiện một số hoạt động đa dạng về nội dung và
rất lớn về mặt khối lượng công việc, đó là xây dựng: (1) Hệ thống cơ sở dữ liệu về
công nghệ (Hồ sơ công nghệ); (2) Hệ thống dữ liệu thông tin về doanh nghiệp (Hồ sơ
doanh nghiệp); (3) Phương thức phân loại, đánh giá, định giá công nghệ thông qua hệ
thống tiêu chí và chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật; (4) Mạng lưới các tổ chức tư vấn cùng các
chuyên gia về chuyển giao công nghệ và khai thác sáng chế. Thực chất đây là hoạt

36
động tìm kiếm, giải mã, làm chủ công nghệ từ hàng triệu, chục triệu các sáng chế - tài
sản trí tuệ của nhân loại trên toàn thế giới đòi hỏi sự tham gia, hợp tác của hàng trăm,
hàng nghìn các nhà khoa học và doanh nghiệp.
Thứ tư, cùng với các doanh nghiệp, các quỹ nhận được sự quan tâm và hỗ trợ
thường xuyên, kịp thời của chính phủ. Các quỹ này được bảo đảm ngân sách chi
thường xuyên và chi đầu tư, do khoản kinh phí này rất nhỏ so với lượng kinh phí tài trợ
cho các doanh nghiệp, lại càng nhỏ hơn so với giá trị kinh tế đem lại được nhờ đổi mới
công nghệ, mặt khác tạo điều kiện cho các quỹ chủ động thực hiện các hoạt động được
giao. Thực chất, đây là các nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà nước tại thời điểm chưa có
khả năng, điều kiện xã hội hóa khi chưa hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Thứ năm, lực lương lao động chất lượng cao là một điều kiện tiên quyết để thúc
đẩy phát triển R&D của một quốc gia. Các chính sách từ giáo dục-đào tạo hay chế độ
đãi ngộ và đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu và phát triển của chính phủ và
doanh nghiệp để hạn chế chảy máu chất xám, thu hút các nhà khoa học trở về đóng góp
cho nước nhà luôn được các nhà hoạch định chính sách quan tâm và chú trọng. Để trở
thành một nền kinh tế tri thức như Hàn Quốc, Nhật Bản ngày nay, khi mà máy móc hay
trí tuệ nhân tạo vẫn chưa thay thế được trí tuệ của con người, con đường tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam cần phải có sự đóng góp to lớn từ nguồn vốn con người.

37
CHƯƠNG 3: ÐỀ XUẤT VÀ PHÂN TÍCH GIẢI PHÁP THÚC
ĐẨY R&D TẠI VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam
Từ thực trạng hoạt động R&D ở nước ta và kinh nghiệm phát triển R&D ở các
nước Châu Á, nước ta đã đưa ra những định hướng phát triển cụ thể đến năm 2030 và
tầm nhìn dài hạn đến năm 2045.
3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam đến năm 2030
3.1.1.1. Định hướng phát triển kinh tế đến năm 2030
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và đất nước, nhất là tác động
của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, Đại hội XIII xác định cần phải “đổi mới
mạnh mẽ mô hình tăng trưởng”, “chuyển mạnh” nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng
mới, “tạo bứt phá” trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Định hướng phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2025 trở thành một nước đang
phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng góp của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao
động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hoá khoảng 45%; tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% (GDP).
Định hướng phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2030 trở thành nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm. Đến năm 2030, GDP bình
quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; đóng góp
của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 50%; Tốc độ tăng năng suất
lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; giảm tiêu
hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1 - 1,5%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế
biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.
38
3.1.1.2. Định hướng phát triển hoạt động R&D
Đến năm 2030, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển vững
chắc, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở
nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình
cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên
trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đạt trình độ quốc tế.
Mục tiêu cụ thể như sau:
 Nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng
trưởng kinh tế, nâng cao tỉ lệ đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%.
 Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng phát triển
công nghiệp mũi nhọn, trọng tâm là công nghiệp chế biến, chế tạo. Đến năm
2030, tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế
biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.
 Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng góp vào chỉ số phát triển con
người (HDI) duy trì trên 0,7.
 Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm
40 quốc gia hàng đầu thế giới.
 Đến năm 2025, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 1,2% -1,5% GDP, trong
đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 0,8%
- 1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ chiếm 60% - 65%. Đến năm 2030, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt
1,5% - 2% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ đạt 1 % -1,2% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ chiếm 65% - 70%.
 Đến năm 2025, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi
toàn thời gian) đạt 10 người trên một vạn dân, đến năm 2030 đạt 12 người trên
một vạn dân; trong đó chú trọng phát triên nhân lực trong khu vực doanh
nghiệp.
39
 Đến năm 2025, có 25 - 30 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu
vực và thế giới, đến năm 2030 có 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được
xếp hạng khu vực và thế giới.
 Đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công
nghệ và số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm
2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số
doanh nghiệp.
 Số lượng công bố quốc tế tăng trung bình 10%/năm. số lượng đơn đăng ký sáng
chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16% - 18%/năm; số lượng đơn
đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12% - 14%/nãm, 10% - 12%
trong sô đó được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài; tỷ lệ sáng chế được khai thác
thương mại đạt 8% - 10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ. Phát triển
được hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh
mẽ về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, thuộc nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế
giới.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động R&D ở Việt Nam trong dài hạn
Mô hình tăng trưởng kinh tế mới tiếp tục được đổi mới và đẩy mạnh phát triển.
Định hướng đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển thu nhập cao. Để thực
hiện được mục tiêu phát triển trở thành nước phát triển thu nhập cao, nước ta tiếp tục
nhấn mạnh định hướng nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo, định hướng phát triển nghiên cứu khoa học, định hướng phát triển, ứng dụng
công nghệ và định hướng hoạt động đổi mới sáng tạo.
Một là, định hướng nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo. Đảng và Nhà nước tập trung thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện quản lý
nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển lực khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo và thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo trong doanh nghiệp và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Hai là, định hướng phát triển nghiên cứu khoa học. Về nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn, tập trung nghiên cứu chính sách và giải pháp để phát triển, đảm bảo
40
an ninh và nâng cao vị thế của Việt Nam; hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách
phát triển để trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, phát triển, thu
nhập cao vào năm 2045; xây dựng xã hội Việt Nam phát triển, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, văn minh vào năm 2045 và lộ trình, bước đi cụ thể cho 10 năm tới; nghiên
cứu giáo dục, đào tạo, hình thành nguồn nhân lực có năng lực, tư duy sáng tạo đổi mới
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
trong bối cảnh hội nhập quốc tế; nghiên cứu về chính sách đổi mới xanh, tập trung về
các khía cạnh môi trường kết hợp với sinh thái, xã hội phù hợp với bối cảnh toàn cầu
hoá. Về nghiên cứu khoa học công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu liên ngành giữa khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội, nhân văn và công nghệ về biển, đại dương nhằm ứng
phó với biển đổi khí hậu, phục vụ phát triển kinh tế biển bền vững; tập trung nghiên
cứu cơ bản định hướng ứng dụng nhằm tiếp thu, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ
nguồn để đưa vào ứng dụng nhanh, sáng tạo, có hiệu quả và phổ biến rộng rãi các công
nghệ tiên tiến trong các hoạt động sản xuất, dịch vụ, kinh doanh, đời sống và quản lý
xã hội nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp,
các ngành và nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh
của đất nước.
Ba là, định hướng phát triển, ứng dụng công nghệ. Tập trung phát triển ứng dụng
công nghệ thông tin truyền thông; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công
nghệ chế tạo – tự động hóa; công nghệ biển; công nghệ phòng tránh thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu; công nghệ năng lượng; công nghệ môi trường; công nghệ vũ trụ;
công nghệ xây dựng, giao thông và hạ tầng tiên tiến, thông minh.
Bốn là, định hướng hoạt động đổi mới sáng tạo. Tập trung thúc đẩy hoạt động đổi
mới sáng tạo trong các ngành nông nghiệp, các ngành công nghiệp, xây dựng, giao
thông, các ngành dịch vụ và đổi mới sáng tạo trong các vùng kinh tế.

41
3.2. Ðề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D trong các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức. Theo đó, cần
nhận thức rõ ràng vai trò quan trọng của hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo trong bối
cảnh phát triển kinh tế - xã hội.
3.2.1.1. Tăng cường đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cũng cần tư duy và mạnh mẽ hơn nữa trong đầu tư cho hoạt
động R&D cả về nhân lực và vật lực. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần xây dựng
chiến lược hỗ trợ đổi mới công nghệ theo ngành kinh tế; chủ động tìm kiếm, giải mã và
cải tiến các công nghệ của riêng mình, có thể nghiên cứu trong nước, kết hợp với các
nhà khoa học hoặc nhập khẩu công nghệ. Cụ thể, các doanh nghiệp cần lựa chọn định
hướng phù hợp để tăng cường chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất
kinh doanh. Với các doanh nghiệp có năng lực mua và vận hành công nghệ nhập khẩu
dạng “đóng gói”, các hoạt động tập chung chủ yếu hướng đến việc số hóa các quy trình
hiện có hoặc với những quy trình dễ thay đổi, có độ phức tạp thấp, ít ảnh hưởng lớn
đến con người và văn hóa của tổ chức. Với các doanh nghiệp có năng lực thực hiện,
chuyển giao công nghệ: cần chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp với chuyên gia, tư vấn kỹ
thuật nhằm chuyển giao những quy trình phức tạp đòi hỏi phải có hướng dẫn, đào tạo,
hấp thu công nghệ. Với các doanh nghiệp có năng lực đổi mới và phát triển công nghệ:
tập trung vào việc thay đổi quy trình hiện có dựa trên việc điều chỉnh, bổ sung hoặc
thay thế các thiết bị vào hệ thống. Đây là mức yêu cầu có sự thay đổi về chất và lượng,
dẫn đến thay đổi quy trình và phương pháp thực hiện. Yếu tố đo lường cho tính hiệu
quả của mức này phải nhìn thấy được sự cải thiện rõ rệt về năng suất, chất lượng, hiệu
quả của tổ chức. Với các doanh nghiệp ở mức độ này, các chính sách khuyến khích chủ
yếu dành cho việc đầu tư để làm chủ công nghệ, trong đó đặc biệt là công nghệ lõi,
công nghệ nguồn…nhằm tạo ra các nền tảng để ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau.
3.2.1.2. Nâng cao hiệu quả kỹ thuậy của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả kỹ thuật, tối ưu hóa việc áp dụng các
công nghệ đang được đổi mới. Các doanh nghiệp thúc đẩy các hoạt động nhằm tăng

42
cường năng lực của các doanh nghiệp liên quan đến việc triển khai và sử dụng hiệu quả
công nghệ, đặc biệt là khả năng quản lý và tổ chức của các doanh nghiệp, giúp các
doanh nghiệp xác định các cơ hội công nghệ mới, phát triển kế hoạch khai thác chúng
và sau đó trau dồi nguồn nhân lực cần thiết để thực hiện kế hoạch đó .Để nâng cao hiệu
quả kỹ thuật của doanh nghiệp, một yếu tố quan trọng chính là tăng cường năng lực
cho các đơn vị hỗ trợ. Đó là các viện về MSTQ (đo lường, tiêu chuẩn, thử nghiệm và
chất lượng), viện R&D (các trường đại học và tổ chức nghiên cứu) và các cơ quan hỗ
trợ DNVVN. Bên cạnh đó, các chương trình hỗ trợ nâng cao nhận thức và nâng cao kỹ
năng của các nhà quản lý và người lao động cũng cần được quan tâm hơn nữa.
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động R&D của nhà nước
3.2.2.1. Thúc đẩy R&D và các ngành công nghiệp mới
Nâng cao vai trò phát triển hoạt động R&D của Nhà nước. Đầu tư cho hoạt động
R&D là đầu tư mang tính chất dài hạn, rủi ro cao, nhưng lợi nhuận mang lại lớn và bền
vững. Ưu tiên đầu tư cho R&D sẽ là chìa khóa để một quốc gia đi tắt đón đầu các giai
đoạn công nghệ và tránh đầu tư vào các hệ thống và công nghệ ngày càng dư thừa.
Với Việt Nam hiện nay, mức chi cho R&D/GDP hiện quá thấp. Cần tăng mạnh
ngay trong năm nay và vài năm tới, trước hết từ ngân sách nhà nước; đồng thời có cơ
chế khuyến khích cao cho đầu tư vào R&D của doanh nghiệp nội và FDI, coi R&D là
lĩnh vực được ưu đãi cao nhất.
Nhà nước cần có những chính sách kinh tế, như: thuế, tín dụng... Hỗ trợ trực tiếp,
thuận lợi trong việc tiếp cận và triển khai cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc kết hợp
cùng với những chính sách khác, như: tạo môi trường thể chế hay chính sách đãi ngộ,
thu hút chuyên gia và nhà khoa học... cũng rất quan trọng để đạt được hiệu quả và toàn
diện.
Với nguồn lực hạn chế, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư cho R&D sẽ cần được xác
định dựa trên các ngành có tiềm năng lớn nhất trong trung và dài hạn. Điều này sẽ bao
gồm cả các ngành hiện có và mới nổi. Nhà nước cần hỗ trợ cho các cụm công nghiệp
vùng địa lý trong cùng một ngành công nghiệp hoặc cụm các tổ chức có thể cung cấp
các hoạt động bổ sung, được tăng cường cơ hội đào tạo, phát triển và nghiên cứu hợp

43
tác. Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về tác động của các hỗ trợ của chính phủ cho các
cụm ngành công nghiệp, tuy nhiên, chính phủ nên phối hợp với doanh nghiệp và các
bên liên quan khác để có tìm hiểu về các lĩnh vực và công nghệ có lợi thế so sánh, và
lựa chọn từ những ngành này một số ít lĩnh vực ưu tiên chính cần tập trung đầu tư để
có tác động tối đa.
Ngoài ra, quản trị và tăng cường các hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng là một
yếu tố không thể thiếu để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào công
tác nghiên cứu và sáng tạo công nghệ. Tuy nhiên, việc thực thi các chính sách bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, do vậy cần có nhiều chính
sách, chương trình nhằm tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của bảo bộ sở hữu trí
tuệ đối với các doanh nghiệp Việt.
3.2.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy hoạt động R&D. Vì vậy,
cần xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn hướng đến cải thiện nguồn
nhân lực khoa học công nghệ. Để có một chương trình đào tạo hiệu quả, Chính phủ cần
hợp tác với các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước, các đơn vị đào tạo, các
doanh nghiệp đầu ngành và các cá nhân thành công trong lĩnh vực khởi nghiệp. Cần
ươm tạo ra thế hệ sáng lập viên có kiến thức nền tảng đủ bao quát, tạo bước đệm cho
một chặng đường dài.
Nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tăng tỷ lệ học đại học và đào tạo nghề,
nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp các ngành khoa học và kỹ sư. Đặt mục tiêu Chỉ số
giáo dục đại học của Việt Nam cải thiện Chỉ số đổi mới toàn cầu GII lên vị trí 75-80.
Tăng đầu tư và trao quyền tự chủ về tài chính và quản lý cho các trường đại học,
phát triển các trung tâm nghiên cứu trong một số trường đại học lớn định hướng nghiên
cứu như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học
Bách Khoa Hà Nội.
Khuyến khích doanh nghiệp tiến hành hoạt động R&D, đặc biệt thông qua mối
liên kết theo ngành dọc và theo ngành ngang với các doanh nghiệp nước ngoài. Thúc
đẩy mối liên kết đổi mới sáng tạo giữa Doanh nghiệp - Trường đại học - Viện nghiên

44
cứu. Tham khảo chính sách gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua nguồn vốn R&D vào
các trường đại học.
3.2.2.3. Tăng cường phát triển các công cụ chính sách để thúc đẩy hoạt động R&D
Chính phủ cần phải gắn các chính sách đổi mới với chiến lược phát triển công
nghiệp, xuất nhập khẩu và năng lực cạnh tranh quốc gia trong trung và dài hạn. Cũng
cần có sự phối hợp giữa các chương trình nghiên cứu và đổi mới quốc gia để tránh sự
trùng lặp giữa các chương trình quốc gia tương tự.
Chuyển dịch trọng tâm phát triển kinh tế sang tập trung vào năng suất và công
nghệ cũng đòi hỏi phải cải cách mạnh các thể chế liên quan, nâng cao chất lượng thiết
kế và thi hành các chính sách cụ thể, tạo tính đồng bộ, nhất quán và trách nhiệm giải
trình trong khu vực nhà nước, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, công bằng cho các
doanh nghiệp. Để tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, chính phủ có thể xem xét
tiến hành một số chương trình ‘tầm nhìn xa về công nghệ’ nhằm xác định vai trò tương
lai của khoa học và công nghệ ở Việt Nam, cũng như các bước cần thiết để đạt được
một NIS vững mạnh.
Nâng cao khả năng thực thi của các cơ quan nhà nước cũng là yếu tố quyết định
tới hiệu quả của các chính sách phát triển công nghệ. Khi nền kinh tế cũng như các
hoạt động đổi mới công nghệ ở cấp doanh nghiệp ngày càng trở nên phức tạp, các cơ
quan chính phủ cần tăng cường năng lực cũng như tiếp cận hơn nữa với các thành phần
khác trong nền kinh tế.
Việc nâng cao năng lực của các cơ quan chính phủ cũng cần được ưu tiên cao.
Các cơ quan này không chỉ ở cấp quốc gia. Các cơ quan cấp địa phương đóng vai trò
khá quan trọng trong việc thực hiện các chính sách ở Việt Nam. Ngân sách nên được
cấp nhiều hơn cho các cơ quan này để nâng cao kỹ năng của nguồn nhân lực, tuyển
dụng thêm nhân viên với nền tảng chuyên môn kỹ thuật mới nhất, cải thiện các biện
pháp khuyến khích hiệu suất và cơ cấu lại các quy trình làm việc đã lỗi thời của tổ
chức.
3.2.2.4. Một số giải pháp khác

45
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo doanh nghiệp từ phía cầu thông qua chi tiêu công. Xây
dựng các chương trình, dự án mua sắm công với những quy định và yêu cầu nhằm thúc
đẩy đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước, đồng thời phù hợp những mục tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mua bán, sử dụng các sản phẩm và
dịch vụ mới của các doanh nghiệp nội địa. Xây dựng cơ chế phản hồi về sản phẩm và
dịch vụ đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hoàn thiện
sản phẩm và tiến hành thương mại hóa trên diện rộng hơn.

46
KẾT LUẬN

1. Kết quả nghiên cứu của tiểu luận


- Nghiên cứu, chọn lọc và sắp xếp một số lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, R&D và
các mô hình tăng trưởng kinh tế xét tới nghiên cứu và phát triển.
- Đánh giá chung về thực trạng phát triển R&D của một số nước Châu Á và Việt
Nam, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Đưa ra định hướng phát triển hoạt động R&D tị Việt Nam đến năm 2030 và trong
dài hạn.
- Đề xuất nhiều giải pháp khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động R&D tại
Việt Nam.
2. Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai
- Những hạn chế như nghiên cứu chưa đi sâu vào quá trình phát triển các hoạt động
R&D cụ thể, thực tế ở Việt Nam; Chỉ đưa ra kết quả và phân tích đánh giá đánh giá
sơ bộ dựa trên các khảo sát được tổng hợp bởi các tài liệu tham khảo; Chỉ nghiên
cứu hoạt động phát triển R&D trên bề nổi của các nước Châu Á, chưa nghiên cứu
theo chiều rộng;
- Trong tương lai, tác giả sẽ tiếp tục thực hiện một số nghiên cứu: (i) Nghiên cứu
khảo sát và đánh giá quá trình R&D tại Việt Nam và các nước phát triển trên thế
giới; (ii) Khảo sát và đánh giá để thiết kế một mô hình R&D mở phù hợp với các
doanh nghiệp Việt Nam; (iii) Mở rộng nghiên cứu hiệu quả R&D tới tăng trưởng
kinh tế với cách tiếp cận hành vi cá nhân và tổ chức.

47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Báo Điện tử Chính phủ (2022), “Định hướng lớn để phát triển kinh tế tập thể trong giai
đoạn mới”, https://baochinhphu.vn/dinh-huong-lon-de-phat-trien-kinh-te-tap-the-trong-
giai-doan-moi-102220721213807532.htm, truy cập ngày 19/12/2022.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
Tập 1, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
Nguyễn Thùy Liên, Hoàng Văn Trung, Đinh Tuấn Minh (2020), “Tổng quan lý thuyết
và kinh nghiệm thực tiễn về vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sang tạo trong
tăng trưởng kinh tế: Một số gợi suy cho Việt Nam”, JSTPM, Tập 9, Số 4.
Nguyễn Tất Thắng (2019), Giáo trình Kinh tế Vĩ mô 2, Nhà xuất bản Học viện Nông
nghiệp, Việt Nam.
Phạm Thu Hiền, Nguyễn Đức Hoàng, Nguyễn Hoàng Giang, Antonio Peyrache, Shino
Takayama, Terence Yeo, Phạm Đức Mạnh, Phan Nhân, Alicia Cameron, Nguyễn
Trường Phi, Trần Sơn Tùng, Jessica Atherton, Vũ Hoàng Đạt (2021), “Đổi mới công
nghệ ở Việt Nam – Đóng góp của công nghệ vào tăng trưởng kinh tế”, CSIRO,
Brisbane.
Sở Thông tin và Truyền thông Tỉnh Bình Phước (2022), “Các giải pháp chủ yếu phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”,
https://binhphuoc.gov.vn/vi/stttt/thong-tin-doi-ngoai/cac-giai-phap-chu-yeu-phat-trien-
ben-vung-kinh-te-bien-viet-nam-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045-1035.html,
truy cập ngày 19/12/2022.
Tạp chí Ngân hàng (2022), “Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng Quỹ đổi mới công nghệ
quốc gia và bài học cho Việt Nam”, https://tapchinganhang.gov.vn/kinh-nghiem-quoc-
te-ve-xay-dung-quy-doi-moi-cong-nghe-quoc-gia-va-bai-hoc-cho-viet-nam.htm, truy
cập ngày 24/12/2022.

48
Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 563/QĐ-TTg ngày 11 tháng 5 năm 2022
về việc “Ban hành chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến
năm 2030”.
Trang thông tin điện tử tổng hợp CafeF (2022), “Kể chuyện ngành dược: Ấn Độ đã
vươn lên trở thành ‘nhà thuốc’ của thế giới như thế nào?”, https://cafef.vn/ke-chuyen-
nganh-duoc-an-do-da-vuon-len-tro-thanh-nha-thuoc-cua-the-gioi-nhu-the-nao-
20221001135951746.chn, truy cập ngày 23/12/2022.
Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng (2022), “Đổi mới công nghệ ở Việt Nam: Giải
pháp có trong tầm tay”, http://irrd.gov.vn/doi-moi-cong-nghe-o-viet-nam-giai-phap-co-
trong-tam-tay, truy cập ngày 19/12/2022.
Vũ Kim Dũng, Nguyễn Văn Công (2018), Giáo trình Kinh tế học (Tập II), Tái bản lần
4, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam.

49

You might also like