You are on page 1of 10

ĐỊNH NGỮ CỦA DANH TỪ ĐƠN VỊ

Như đã biết, danh từ có hai loại là danh từ đơn vị (trước đây thường gọi là “loại từ”
hoặc “danh từ chỉ loại”) và danh từ khối (thường được gọi là “danh từ”, trong thế đối lập với
loại từ).
Theo “truyền thống”, người ta thường xem danh từ khối (cá, mèo, chó, sách, thịt,
v.v.) là trung tâm của danh ngữ. Từ đó, tất cả các yếu tố đứng trước và sau nó nhất loạt trở
thành định ngữ cho nó. Chẳng hạn những từ được gạch dưới sau đây đều là định ngữ của
danh từ bàn, vịt:

 Tất cả những cái bàn gỗ nâu đó


 Tất cả những con vịt xiêm lông đen mập mạp này

Do đã xác quyết danh từ (bàn, vịt) là trung tâm danh ngữ, người ta thường dùng
những từ nghi vấn “gì?”, “nào?” để kiểm tra các định ngữ của danh từ đó. “Bàn gì?” – “bàn
gỗ”, “bàn nào” – “bàn nâu”, “bàn nào” – “bàn đó”. “Vịt gì?” – “vịt xiêm”, “vịt nào?” – “vịt
lông đen”, “vịt nào” – “vịt mập mạp”, “vịt nào?” – “vịt này”. Nghĩa từ vựng “hiển nhiên”(?)
của bàn, vịt, mèo, sách, thịt, v.v. tạo ra cảm giác những tổ hợp trên là thỏa đáng, “có nghĩa”.

Thực tế, nếu đối tượng được đưa ra để đặt câu hỏi là danh từ khối (như các ví dụ
trên), cách làm này chỉ có thể phát hiện được hai thứ định ngữ: (i) định ngữ (chỉ) loại hay
chất liệu (vịt xiêm, cá trê, mèo mướp, chó săn, thịt bò, bàn gỗ, nồi đất: yếu tố đi sau thu hẹp
ngoại diên của yếu tố đi trước), (ii) định ngữ trực chỉ (cá này, rau đó, gạch này: những ngữ
đoạn này biểu thị chủng loại chứ không biểu thị thực thể); còn lại các định ngữ khác, nếu có,
bao giờ cũng là định ngữ của danh từ đơn vị (phải đặt câu hỏi trên danh từ đơn vị
“cái gì/nào?” hay “con gì/nào?”).
Tức là, danh từ khối có định ngữ là (i) các yếu tố đứng sau nó, thu hẹp ngoại diên của nó
(chẳng hạn: trê, mướp, xiêm, săn trong cá trê, mèo mướp, vịt xiêm, chó săn; thậm chí, có thể
nhiều lớp: tiêu, da bò, Vĩnh Long trong nhãn tiêu da bò Vĩnh Long – vd của Hoàng Dũng và
Nguyễn Thị Ly Kha); (ii) các yếu tố trực chỉ (này, kia, ấy, đó) đứng sau nó, với điều kiện trong
ngữ đoạn không có mặt danh từ đơn vị.
Và hệ quả tất yếu là ngay cả danh từ khối cũng là định ngữ (chỉ) chủng loại hay chất liệu của
một danh từ đơn vị đứng trước nó.
Quả thật, về mặt nhận thức, những gì liên quan đến thuộc tính, trạng thái cụ thể, liên
quan đến vị trí trong không gian và thời gian (được định vị), nói chung phải được thiết lập
trên một thực thể (cá thể hay tập hợp) phân lập (con, cái, tấm, tờ, cây, sợi, quyển, bức, bầy,
đàn, v.v.) chứ không thiết lập trên một chủng loại hay chất liệu.
Một, hai, năm, mỗi, những, từng, hai, ba con/cái... chứ không phải là một, hai, năm,
mỗi, những, từng, hai, ba gà/bò/tủ/bàn...
Đang bay, vừa gáy, mập mạp, xanh tươi, đầu tiên, cuối cùng, đằng kia... là những ngữ
vị từ để nói về một/những thực thể (con/cái/cây, ...) nào đó chứ không phải nói về một
chủng loại (chim/gà/chó/chuối, ...).
Nghĩa là trong một danh ngữ có cả hai loại danh từ trên thì danh từ đơn vị là trung
tâm của danh ngữ. Đây chính là một trong những quan điểm mà GS Cao Xuân Hạo lập ngôn
rất thuyết phục.
Như vậy, trong các danh ngữ sau đây, các ngữ đoạn gạch dưới là định ngữ của danh
từ đơn vị đứng đầu ngữ đoạn.
 · con mèo lông đen ở đằng kia...
Thao tác: con gì? – con mèo; con nào? – con lông đen; con nào? – con ở đằng kia
 · con mèo mướp (mà) anh cho tôi...
Thao tác: con gì? – con mèo; con nào? – con (mà) anh cho tôi;
mèo gì? – mèo mướp
 · quả bưởi Năm Roi nhỏ nhỏ đó...
Thao tác: quả gì? – quả bưởi; quả nào? – quả nhỏ nhỏ; quả nào? – quả đó
bưởi gì? – bưởi năm roi
 · quả bưởi da xanh đầu mùa em mới mua...
Thao tác: quả gì? – quả bưởi; quả nào? – quả đầu mùa; quả nào? – quả em mới
mua
bưởi gì? – bưởi da xanh
 · con chó Bắc Kinh dữ nhất của ông ấy
Thao tác: con gì? – con chó; con nào? – con dữ nhất; con nào? – con của ông
ấy
chó gì? – chó Bắc Kinh

Hệ quả là khi có mặt các định ngữ chỉ lượng, định ngữ hạn định (giúp xác định thực thể
trong không gian-thời gian), và định ngữ trang trí thì buộc phải có một danh từ đơn vị đứng
làm trung tâm.

 Nó mua ba bó rau muống.


 Tôi muốn bắt con chó dữ nhất.
 Tôi thích con chó đang sủa.
 Tôi sợ con chó hôm qua quá!
 Tôi thấy con chó mập mập đó dễ thương hơn.
 Chiếc xe xanh xanh đằng kia hiệu gì vậy?
 Tôi thích nhất (là) cái đồng hồ bố tôi tặng.

Ở người bản ngữ, theo nhận xét của tôi, đôi khi có nhầm lẫn khi sử dụng danh từ Hán Việt
như những danh từ đơn vị. Chẳng hạn:
 ??Hổ là động vật ăn thịt dữ nhất ở rừng nhiệt đới.
 ??Ông tìm đến bác sĩ giỏi nhất của Khoa này để hỏi về bệnh tình của con.
(Có lẽ lý do là danh từ Hán Việt có thể hoạt động như những danh từ [±đếm được]: bốn bác
sĩ, ba quân nhân, năm sinh viên, hai cán bộ. Thực tế, tính “đơn vị” và tính “đếm được”
không đồng nhất với nhau. Về vấn đề này có lẽ cần nghiên cứu nhiều hơn nữa.)

Về tư cách của những yếu tố đứng trước thì phức tạp hơn.
Cao Xuân Hạo (trong Tiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa) đưa ra
“cách giải quyết có cơ may đúng hơn cả: nếu không có lý do gì buộc ta giải quyết cách khác,
ta tạm coi cái gì đi trước trong ngữ đoạn là trung tâm.” (sic.) (tr.390)
Nghĩa là, tất cả, cả, những, các, từng, mỗi, hai, ba, bảy, v.v., đều có thể đóng vai trò
trung tâm của danh ngữ, sau nó là một ngữ đoạn định ngữ có danh từ đơn vị làm trung tâm
(trừ tất cả: tất cả có thể độc lập làm thành ngữ đoạn).
Cách xử lý này có lẽ xa lạ với đa số nhà nghiên cứu Việt ngữ, nhưng nó tỏ ra nhất
quán hơn.
Sau đây là sơ đồ cấu trúc một ngữ đoạn theo quan điểm của Cao Xuân Hạo:

Tuy nhiên, theo sơ đồ trên, khó thấy rõ quan hệ tầng bậc giữa trung tâm và thành phần phụ
thuộc. Vì vậy, tôi xin thử phân tích ngữ đoạn trên theo sơ đồ hình hộp (dựa theo Ngữ pháp
chức năng: Q2: Ngữ đoạn và từ loại, do CXHạo chủ biên)
Theo đó, sợi có 4 định ngữ: “bấc đèn dầu hạt bông”, “mỏng manh”, “nhặt ngoài
rừng”, “ấy”. Theo suy nghĩ của tôi, sơ đồ dạng này cho thấy 4 định ngữ này là “đồng cấp”.
Trong khi đó, nếu căn cứ theo sơ đồ chúc đài ở trên thì dễ nghĩ rằng “mỏng manh” là định
ngữ của cả ngữ đoạn “những sợi bấc đèn dầu hạt bông”; rồi “nhặt ngoài rừng” là định ngữ
của cả ngữ đoạn “những sợi bấc đèn dầu hạt bông mỏng manh”, v.v..
Mỗi dòng trong sơ đồ là một bậc. Như vậy ngữ đoạn trên có tất cả 9 bậc.
Một trong những hiện tượng ngữ pháp phức tạp của Tiếng Việt là hiện tượng chuyển loại
từ. Chuyển loại từ là hiện tượng một từ vốn hoạt động với chức năng của từ loại này lâm
thời chuyển sang hoạt động bằng chức năng của một từ loại khác. Chuyển loại từ không chỉ
diễn ra đối với thực từ mà còn đối với cả hư từ. Nhận biết tính chất từ loại của các thực từ
chuyển loại đã khó, nhận biết các hư từ chuyển loại càng khó hơn. Trong số các hư từ, trợ từ
là từ loại ít có sự cố định về "quân số". Rất nhiều trợ từ có tính chất lâm thời và là do các từ
loại khác chuyển loại sang. Theo (Phạm Hùng Việt, 2003, tr. 100), trong Từ điển tiếng
Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1994), "có đến 66 trường hợp được ghi nhận là có sự chuyển loại
giữa những từ thuộc các từ loại khác với trợ từ". Cũng vì thế mà việc xác định số lượng
chính xác trợ từ của tiếng Việt là một công việc rất khó.
Trong thực tế, sự chuyển loại giữa trợ từ với phó từ là rất khó phát hiện. Trong bài viết này,
chúng tôi tập trung miêu tả sự khác biệt về đặc trưng ngữ pháp giữa hai từ loại này và nêu
một số trường hợp cụ thể nhằm đưa ra khả năng phân biệt tính chất từ loại trong những
trường hợp ấy.
1. Chính vì trợ từ rất gần với phó từ, hay nói khác đi là phó từ luôn tiềm tàng một khả năng
biểu đạt ý nghĩa tình thái cao, cho nên một số nhà nghiên cứu gọi trợ từ bằng những tên gọi
có liên quan đến phó từ như: phụ từ (Hồ Lê, 1992); phụ từ tận cùng (Lẽ Văn Lý, 1972). Ngoài
ra, trợ từ còn được gọi bằng nhiều cách khác: tiểu từ (Thompson, 1965; Hoàng Tuệ,
1962;), ngữ khí từ (Bùi Đức Tịnh, 1952), từ đệm (Hữu Quỳnh, 1980; Đái Xuân Ninh, 1978), hư
từ giao tiếp (Panfilov, 1993). Dùng chính xác tên gọi trợ từ có các tác giả: Nguyễn Tài cẩn
(1975), Ủy ban khoa học xã hội (1983), Đinh Văn Đức, 1986; Nguyễn Anh Quế, 1988, Hoàng
Phê (1994), Phạm Hùng Việt (2003), v.v...
2. Trợ từ được chia thành hai loại sau:
(1) Những từ "thường đứng ở cuối phát ngôn và thôm vào cho nội đung chính của phát
ngôn một hoặc một số ý nghĩa tình thái nhất định" [11, tr. 11]. Chẳng hạn, à, ư, hả trong câu
nghi vấn; đi, thôi, mà trong câu mệnh lệnh; mà đấy trong câu trần thuật.
(2) Những từ "chuyện được dùng để nhấn mạnh vào ý nghĩa của một bộ phận nào đó trong
phát ngôn (bộ phận này có thể là một từ hay một cụm từ)". Ví dụ: Chính tôi cũng không biết
việc này. Bài toán đó đến học sinh giỏi nhất lớp cũng chịu. Chị ta may những ba chiếc áo
một lúc. v.v... (Phạm Hùng Việt, 2003, tr. 11).
Loại trự từ thứ hai "chuyên dược dùng để nhấn mạnh" sự kiện, "biểu đạt những mối quan
hệ có tính chất bộ phận giữa người nói với nội dung phát ngôn được xác lập với từng bộ
phận của phát ngôn" (Đinh Văn Đức, 1986, tr. 190). Trợ từ cho biết thái dộ chủ quan của
người nói dối với sự tình. Các trợ từ điển hình như: chính, đích, cả, những, ngay, quả nhiên,
tất nhiên, đương nhiên, bất dắc dĩ, kì thực, hẳn là, chắc là, có lẽ, v.v... Loại trợ từ này được
không ít tác giả coi là phó từ. Nguyễn Kim Thản gọi đây là "phó từ phụ cho cả câu" [8, tr.
350]. Diệp Quang Ban gọi đây là "phó từ tình thái" và đối lập với phó từ thông thường ("phó
từ phi tình thái") (Diệp Quang Ban, 2004, tr. 540-546). Một số tác giả khác cũng nhận xét về
đặc trưng tình thái của phó từ. Trong Từ diển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, 2003), những
trợ từ này cũng được chú thích từ loại là "p." (phụ từ). Ví dụ:
- Việc ấy quyết nhiên không thành (Viện Ngôn ngữ học, 2003, tr. 816)
- Anh ấy dễ thường chưa biết (Viộn Ngôn ngữ học, 2003, tr. 253)
3. Như trên đã trình bày, hiện nay trong giới Việt ngữ học, khuynh hướng quan niệm phó từ
là những từ phụ cho vị từ được khá đông các nhà nghiên cứu hưởng ứng (Nguyễn Kim Thản,
1963; Ủy ban Khoa học xã hội, 1983; Diệp Quang Ban, 2004; Đào Thanh Lan, 2010; Nguyễn
Hồng Cổn, 2003). Theo quan điểm này, phó từ không thể kết hợp dược với danh từ, đại từ
mà chỉ có thể kết hợp với động từ, tính từ. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng, phó từ
có thể kết hợp với các đơn vị khác như chủ từ (danh từ, đại từ); kết hợp trực tiếp với đơn vị
ở bậc mệnh đề, câu.
Nguyễn Tài Cẩn đã nêu một số ví dụ về khả năng dùng ở trước danh từ của phó từ đã, cũng,
đều:
(Ngày mai) đã chủ nhật rói;
(Anh ta) cũng tổ trưởng như tôi;
(Hai cụ) đều 69 tuổi cả. (Nguyễn Tài Cẩn, 1975, tr. 260)
Ông cho rằng, các phó từ trên "có thể đi kèm với bất kì từ loại nào (danh từ, danh ngữ cũng
như động từ, động ngữ, tính từ, tính ngữ) để dạng thức hóa từ loại đó, giúp từ loại đó có
khả năng giữ một chức vụ cú pháp nào đấy (Nguyễn Tài Cẩn, 1975, tr. 263) nhưng rất khó
mà gọi tên cái chức vụ cú pháp mà đã, cũng, đều đảm nhiệm là gì, chủ tố, vị tố, bổ tố, trạng
tố hay định tố? (Diệp Quang Ban (2008) gọi thành phần này là biệt ngữ, về thực chất cũng
chính là trợ từ: bộ phận từ ngữ đặc biệt chêm xen vào câu nói).
Theo chúng tôi, trong các phát ngôn mà Nguyễn Tài Cẩn dẫn, các từ đã, cũng, đều không còn
hoạt động với tư cách là phó từ mà đã chuyển loại thành trợ từ. Đây là hiện tượng một số
phó từ chuyên dụng (đã, cũng, đều, chỉ, vẫn, v.v.) lâm thời đảm nhiệm vai trò tình thái của
trợ từ. Chúng như một thành phần biệt lập gán thêm vào, chêm xen vào phát ngôn. Việc loại
bỏ các trợ từ này không làm ảnh hưởng đến nội dung thông báo của câu mà chỉ ảnh hưởng
đến ý nghĩa tình thái của phát ngôn. Ý nghĩa của chúng là ý nghĩa tình thái: nhấn mạnh sự
nhận định và thái độ của người nói.
Trong tất cả các phát ngôn trên, vị từ "là" đều đã bị tỉnh lược. Sở dĩ vị từ có thể tỉnh lược mà
người nghe không cảm thấy thiếu chính bởi sự có mặt của các trợ từ có ý nghĩa tình thái
này.
4. Một số phó từ hạn định về số lượng, đã hàm chứa sẵn sác thái đánh giá nhận định trong
nội hàm ý nghĩa của từ nên trong quá trình sử dụng đã chuyển loại thành các trợ từ. Tuy
nhiên, do từ không thay đổi về hình thái nên tính chất từ loại của từ ở đa số các trường hợp
là khó xác định. Hư từ mỗi là một ví dụ điển hình. Mỗi vốn là phó từ "chỉ một phần tử bất kì
của một tập hợp những cái cùng loại được xét riêng lẻ, nhưng nhằm để qua đó nói chung
cho mọi phần tử của tập hợp" (Viện Ngôn ngữ học, 2003, tr. 640). Ví dụ:
- Làng nào cũng có nhiều cánh (danh từ tập hợp), mỗi cánh (danh từ phần tử) kết bè kết
đảng chung quanh một nguời... (Nam Cao)
Nhưng khi biểu thị ý nghĩa đánh giá ít về số lượng, ý nghĩa duy nhất, không còn gì
khác, mỗi lại đóng vai trò của trợ từ. Ở trong những trường hợp này, mỗi thường kết hợp
với số từ một đi kèm (mỗi một.. ) Ví dụ:
- Bà có mỗi một mống con thôi. Ai chả tưởng: quí hơn vàng. (Nam Cao)
Trong trường hợp này, mỗi không thể hiện ý nghĩa phần tử rút ra từ bộ phận (như "mỗi
người trong chúng ta"), mà diễn đạt ý nghĩa hạn định về mặt số lượng, trong đó luôn bao
hàm sắc thái biểu cảm. Mỗi có thể kết hợp với các số từ, hoặc các từ chỉ đơn vị, như: mỗi
chiếc..., mỗi con..., mỗi cái..., v.v...
- ... tôi thấy anh chui vào, một lát sau chui ra, thấy người khác hắn, trên người buộc đầy
cành lá, mình mặc mỗi chiếc quần đùi. (Nguyễn Huy Thiệp)
Thậm chí, mỗi có thể đứng trước các số từ hoăc danh từ số nhiều. Lúc này, mỗi biểu thị sự
đánh giá chủ quan của người nói về số lượng được đề cập đến là ít, là chỉ có vậy không hơn
nữa, không còn gì khác nữa. Ví dụ:
- Hay các bác về nhà chúng tôi? Nhà chỉ có mỗi hai vợ chồng son, cũng rộng rãi. (Nguyễn Huy
Thiệp)
- Ông Vỹ đông con, nhà nghèo, về mang theo mỗi chục quả tai chua với chai rượu trắng làm
quà. (Nguyễn Huy Thiệp)
- ... trong khu trại tăng gia của huyện đội 67 đã nhiều năm bị bỏ quên trên bờ thác nước ấy
chỉ có mỗi ba cô gái... (Bảo Ninh)
Trong các ví dụ vừa dẫn, mỗi đóng vai trò là trợ từ, làm gia tăng săc thái biểu cảm, ý nghĩa
đánh giá cho nội dung thông báo của câu. Ở đây, mỗi hoàn toàn có thể lược bỏ mà không
ảnh hưởng đến cấu trúc ngữ pháp của câu.
5. Hiện tượng nhầm lẫn giữa trợ từ và phó từ cũng khá phổ biến trong các công trình nghiên
cứu về ngữ pháp.
Có trường hợp trợ từ được coi là phó từ. Chẳng hạn, theo đánh giá của (Đào Thanh Lan,
2010, tr. 49), phó từ còn có thể phụ cho một ngữ đoạn bất kì (ngữ vị từ, ngữ danh từ, giới
ngữ) thậm chí phụ cho một cú (ở đây tương đương với mệnh đề). Cách nhìn này tương tự
với ngữ pháp châu Âu, phó từ (adverbs) có thể kết hợp và bổ sung ý nghĩa cho một phó từ
khác hoặc bổ sung ý nghĩa cho toàn bộ câu. Để chứng minh, tác giả nêu một số trường hợp
các phó từ quả nhiên, đương nhiên, cơ hồ có thể kết hợp với một cú (cụm chủ - vị), như:
(a) Nhậm được thư ấy liền nói: quả nhiên Duệ (CN)//làm phản rồi (VN).
(b) Ngươi (VN)/ oán hận ta, đương nhiên(VN).
(c) Quân bên tả của Chúa (CN)/không chống nói cơ hồ muốn vỡ(VN).
Chúng tôi cho rằng, trong các câu trên (a), (b), (c), quả nhiên, đương nhiên, cơ hồ hoàn
toàn biệt lập với các sự tình được đề cập đến. Các yếu tố này góp phần thể hiện mục đích
phát ngôn chứ không phải thể hiện nội dung phát ngôn. Chúng bao hàm những nhận định,
đánh giá mang tính chủ quan của chủ thể phát ngôn và chúng không nằm trong cấu trúc của
ngữ vị từ. Chúng đều là trợ từ chứ không phải phó từ. Bởi vì chúng mang lại những ý nghĩa
tình thái và những tiền giả định như sau:
(a) Duệ làm phản (như dự đoán của ta)
(b) Ngươi oán hận ta (điều đó ta đã biết)
(c) Quân bên tả của Chúa không chống nổi, muốn vỡ (đoán định)
Ngược lại, có những phó từ đích thực lại được coi là trợ từ. Theo Diệp Quang Ban thì
từ chỉ trong các câu dưới đây đều là trợ từ "nhấn mạnh sự hạn chế về số lượng vật, việc và
đứng trước từ, tổ hợp từ cần nhấn mạnh" (Diệp Quang Ban, tr. 555).
(d) - Nó chỉ biết chừng ấy thôi;
(c) - Nó chỉ lấy hai quyển sách;
(f) - Nó chỉ thích chơi bóng đá.
Điều này hoàn toàn không phải khó hiểu vì có một số nhà nghiên cứu đã phát biểu về tính
tình thái của phó từ. Đinh Văn Đức cho rằng: "các từ phụ của động từ và tính từ trong tiếng
Việt đều đồng thời tham gia diễn đạt tính tình thái" (Đinh Văn Đức, 1986, tr. 189). Chính
Diệp Quang Ban trong khi phân loại phó từ cũng đã chia thành hai loại: phó từ tình
thái và phó từ phi tình thái (tr. 540). Vậy thì tại sao từ "chỉ" trong các ví dụ trên không phải
phó từ tình thái mà lại gọi nó là trợ từ? Đối với câu (d), (e) thì ý nghĩa hạn định về số lượng
được làm rõ bởi: "chừng ấy", "hai". Nhưng đối với câu (f) mà phân tích rằng chỉ là trợ từ
"nhấn mạnh sự hạn chế về số lượng" của hành động "thích chơi bóng đá" thì không có cơ
sở. Thật ra, trong cả 3 câu trên, chỉ có từ "thôi" ở cuối câu (d) là trợ từ mà thôi.
Trong tiếng Việt còn có một số từ kiêm phó từ - trợ từ. Phải căn cứ vào ngữ cảnh mới xác
định được tính chất từ loại của chúng. Chẳng hạn như các từ: chỉ, đã, v.v... trong các ví dụ
sau đây:
Phó từ Trợ từ

Nó chỉ biết chừng ấy thôi (ý nghĩa hạn định) Chỉ nó mới làm như thế (ý nghĩa nhận định)

Tôi đã xa nhà (ý nghĩa thời gian) Ngày mai, tôi đã xa nhà rồi (ý nghĩa tình thái)
6. Để phân biệt hai kiểu từ loại này, chúng tôi xác định những điểm khác biệt cơ bản giữa
phó từ và trợ từ như sau:
Về mặt ngữ pháp:
- Phó từ luôn đi kèm với từ trung tâm, đứng trước hoặc sau liền kề với từ trung tâm; phó từ
kết hợp trực tiếp với từ trung tâm.
- Vị trí của trợ từ khá tự do: đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Ví dụ: Tất nhiên, tôi biết việc
đó; Tôi tất nhiên biết việc đó; Tôi biết việc đó tất nhiên. Trợ từ không quan hệ trực tiếp với
bất kì thành phần nào của câu, là thành phần có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng tới kết
cấu ngữ pháp của câu.
Về mặt ngữ nghĩa:
- Trợ từ mang lại sắc thái ý nghĩa cho toàn bộ câu. Trợ từ giúp biểu lộ thái độ, sự đánh giá,
cảm xúc của người nói trước thực tại được phản ánh.
- Phó từ bổ sung các ý nghĩa về thời gian, mức độ, phạm vi, phủ định, v.v. cho từ trung tâm
(đoản ngữ hay mệnh đề).
Giải quyết rạch ròi vấn đề chuyển loại giữa các hư từ sẽ giúp ích cho việc phân tích ngữ pháp
vốn đã rất phức tạp của tiếng Việt. Trong những bài viết tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm
hiểu sự chuyển loại của phó từ thành liên từ cặp đôi trong các câu ghép có kết từ. Đây cũng
là một vấn đề hết sức lí thú khi nghiên cứu về hư từ tiếng Việt.
Từ loại thực từ và từ loại hư từ
Thực từ

Ví dụ 1
Hãy nêu ý nghĩa từ vựng khái quát của các từ sau:bàn, ghế, ăn, ngủ, vui, buồn, tốt, xấu...
- Các từ bàn, ghế có ý nghĩa từ vựng khái quát là (gọi tên) sự vật;
- Các từ ăn, ngủ có ý nghĩa từ vựng khái quát là (gọi tên) hoạt động;
- Các từ vui, buồn có ý nghĩa từ vựng khái quát là (gọi tên) trạng thái;
- Các từ tốt, xấu có ý nghĩa từ vựng khái quát là (gọi tên) tính chất.

Ví dụ 2
Các từ được gạch chân trong ví dụ sau đây giữ vai trò gì trong các cụm từ chính phụ:
Những bông sen đẫm sương đêm.
- Từ sen giữ vai trò thành tố trung tâm của cụm từ chính phụ những bông sen.
- Từ sương giữ vai trò thành tố phụ bổ sung ý nghĩa cho từ trung tâm trong cụm từ chính
phụ đẫm sương đêm.

Ví dụ 3
Hãy cho biết các từ được gạch chân trong các ví dụ sau có chức vụ ngữ pháp gì trong câu:
a. Chim hót.
b. Gió thổi.
- Từ chim giữ chức vụ chủ ngữ trong câu Chim hót.
- Từ thổi giữ chức vụ vị ngữ trong câu Gió thổi.

Định nghĩa
Những từ được đề cập đến trong các ví dụ trên được gọi là thực từ. Hãy rút ra những đặc
điểm của thực từ.
Người ta gọi những từ có ý nghĩa chân thực như từ "nhà" là thực từ. Nhưng thực từ có
giá trị đầy đủ và có vị trí độc lập, rõ ràng, không cần bàn cãi. (Nguyễn Văn Tu. "Từ vựng
học tiếng Việt hiện đại". Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1968, tr.31)
Những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể làm thành phần câu gọi là thực
từ. (Nguyễn Kim Thản. "Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt". Tập 1. Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1963. Tr.147)
Từ thực là những từ có khả năng một mình tạo thành câu, một mình làm phần nêu hoặc
phần báo trong phần chính của câu; đồng thời có chức năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật,
thuộc tính sự vật. (Hồng Dân. "Bước đầu tìm hiểu vấn đề từ hư trong tiếng Việt". Tạp chí
Ngôn ngữ, số 1, năm 1970. Tr.68)
Tiếng độc lập, thực, chính là những yếu tố xưa nay ta thường quen gọi là thực
từ. (Nguyễn Tài Cẩn. "Ngữ pháp tiếng Việt". Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà
Nội, 1975. Tr.33)
Trong bản thân ý nghĩa của mỗi từ loại, thực từ bao giờ cũng chứa đựng sự thống nhất
của các nhân tố "từ vựng" và nhân tố "ngữ pháp". (Đinh Văn Đức. "Về một cách hiểu ý
nghĩa các từ loại trong tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, năm 1978. Tr.39)
Thực từ là từ có "nghĩa thực" (hoặc nghĩa từ vựng) về sự vật, hiện tượng, loại nghĩa mà
nhờ nó có thể làm được sự liên hệ giữa các từ với sự vật, hiện tượng nhất định. Ví dụ:
cơm, bánh, ăn, sản xuất, ngon, giỏi, tích cực... Thực từ có thể dùng làm phần đề và phần
thuyết trong một nòng cốt câu. Với hai thực từ đã có thể cấu tạo được một nòng cốt câu
đơn. Ví dụ: Xe // chạy. Lúa // tốt. (UBKHXHVN. "Ngữ pháp tiếng Việt". Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1983. Tr.68)
Hư từ

Ví dụ 1
Nêu nhận xét về ý nghĩa từ vựng của các từ được gạch chân trong các ví dụ sau đây:
a. đang học
b. tôi với anh
Các từ được gạch chân trong các ví dụ trên không có ý nghĩa từ vựng chân thực, không có
khả năng định danh sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất mà chỉ có khả năng làm dấu
hiệu bổ sung một số ý nghĩa ngữ pháp cho thực từ.
Cụ thể:- Từ đang bổ sung ý nghĩa thời gian hiện tại cho động từ học;- Từ với bổ sung ý nghĩa
quan hệ bình đẳng cho các từ tôi - anh.

Ví dụ 2
Các từ được gạch chân trong các ví dụ sau có chức năng ngữ pháp như thế nào trong các
cụm từ chính phụ và trong các câu?
a. đang học bài
b. Có lẽ nó đang học bài.
- Từ đang không thể làm thành tố chính mà chỉ có khả năng làm thành tố phụ của cụm động
từ.- Từ có lẽ là thành phần phụ tình thái trong câu biểu thị sự phỏng đoán, chưa chắc chắn.

Định nghĩa
Những từ được đề cập đến trong các ví dụ trên được gọi là hư từ. Vậy, theo anh, chị, hư từ
là gì?
Hư từ không có chức năng định danh, không có khả năng độc lập làm thành phần câu,
dùng để biểu thị các quan hệ ngữ nghĩa - cú pháp khác nhau giữa các thực từ.(Nguyễn Như
Ý chủ biên. "Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học". Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996. Tr.123)
Hư từ dùng để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp và không có ý nghĩa từ vị.(Nguyễn Văn Tu. "Khái
luận ngôn ngữ học". Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960. Tr.196)
Hư từ không tồn tại độc lập nếu không có những thực từ. Tuy vậy, chúng vẫn khác với các
từ tố ở chỗ không gắn chặt với thực từ, chúng vẫn có đời sống riêng giữa các thực từ,
thậm chí giữa các mệnh đề nữa.Hư từ vẫn biểu thị khái niệm: đó là khái niệm về sự tương
quan giữa các sự vật. Bởi vậy, hư từ - là những từ - quan hệ - tuy không làm thành phần
của câu nhưng rất cần thiết cho việc xây dựng câu.(Đỗ Hữu Châu. "Giáo trình Việt ngữ".
Tập 2 - Từ hội học. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1962. Tr.20)
Theo nghĩa dùng trong ngôn ngữ học, hư từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân
thực, mà chỉ có tác dụng làm công cụ ngữ pháp để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau của
các từ.(Nguyễn Kim Thản. "Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt". Tập 1. Nxb KHXH, Hà Nội,
1963. Tr.35)
Từ hư là những từ không có khả năng một mình tạo thành câu, không có khả năng một
mình làm phần nêu hoặc phần báo trong phần chính của câu; đồng thời không có chức
năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật, thuộc tính của sự vật, nhưng lại có chức năng làm dấu hiệu
của một quan hệ ngữ pháp nào đó, một tình cảm hoặc một thái độ nào đó. (Hồng Dân.
"Bước đầu tìm hiểu vấn đề từ hư trong tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, năm 1970.
Tr.66)
Tiếng độc lập, hư, phần lớn là những yếu tố xưa nay ta thường quen gọi là hư từ (hay từ
công cụ). (Nguyễn Tài Cẩn. "Ngữ pháp tiếng Việt". Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1975. Tr.33)
Hư từ là những từ dùng để biểu thị một số những quan hệ cú pháp nhất
định. (UBKHXHVN. "Ngữ pháp tiếng Việt". Nxb KHXH, Hà Nội, 1983. Tr.29)
Đó là tập hợp không lớn về số lượng các từ, bản chất của ý nghĩa hư từ là tính chất ngữ
pháp, là phương tiện biểu đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy theo cách
thức phản ánh bằng ngôn ngữ của người bản ngữ. (Đinh Văn Đức. "Ngữ pháp tiếng Việt
(từ loại)". Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1986. Tr.43)
Hư từ chân chính thì không thể thay thế bằng từ khác trong một văn cảnh cụ thể được.
Thuộc vào đây có các chỉ tố về số (những, các), các mạo từ (mọi, mỗi, từng, cái), các chỉ tố
thời gian (đã, sẽ, đang, vừa, mới, từng), hệ từ (là), giới từ (cùng, bằng, với), liên từ (nếu,
tuy, nên), liên giới từ (của, vì, bởi). (Nguyễn Minh Thuyết. "Thảo luận về vấn đề xác định
hư từ trong tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, năm 1986. Tr.43).
Lưu ý
- Sự phân loại thực từ - hư từ chỉ mang tính chất tương đối.- Số lượng thực từ nhiều hơn hư
từ nhưng hư từ lại có tần số sử dụng cao hơn. - Trong quá trình sử dụng, có sự chuyển hóa
giữa thực từ sang hư từ và ngược lại.

You might also like