Professional Documents
Culture Documents
(Nhóm 17) Đề Xuất Nghiên Cứu
(Nhóm 17) Đề Xuất Nghiên Cứu
Nhóm : 17
Lớp tín chỉ : KET206(HK1 – 2324)2.2
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Minh Phúc
Môn học : Phương pháp nghiên cứu trong kinh tế và kinh doanh
Nhóm sinh viên thực hiện :
Họ và tên MSV
Tăng Phạm Hoài Phương 2215330062
Nguyễn Phan Thùy Linh 2211810036
Trần Tuấn Hà 2214330302
Vũ Tuấn Thái 2214330069
Vũ Huy Đức 2214330026
Vũ Đức Anh 2214330009
Trần Khánh Hiệp 2211330030
2
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
3
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Một trong những mục tiêu chính của nghiên cứu là đào sâu vào việc hiểu rõ hơn về hành
vi mua sắm của người tiêu dùng khi họ quyết định mua các sản phẩm bốc đồng trên các sàn
thương mại điện tử.
Nghiên cứu cũng nhằm mục đích phân tích cụ thể và chi tiết về cách các chiến lược
marketing ảnh hưởng đến quyết định mua hàng bốc đồng trên các nền tảng thương mại điện tử.
Bằng cách tập trung vào các phương pháp quảng cáo, tương tác trên mạng xã hội, thông điệp
thương hiệu, và các yếu tố khác, chúng ta có thể đánh giá xem chiến lược nào hoạt động tốt
nhất và có ảnh hưởng lớn nhất đối với quyết định mua hàng.
Mục tiêu khác là xác định những chiến lược kinh doanh thông qua marketing có thể
được tối ưu hóa để nâng cao hiệu suất bán hàng bốc đồng trên các sàn thương mại điện tử. Bằng
cách hiểu rõ hơn về tương tác giữa khách hàng và chiến lược marketing, nghiên cứu có thể đề
xuất những cải tiến và chiến lược mới để tăng cường doanh số bán hàng và tạo ra trải nghiệm
tốt hơn cho người mua.
Cuối cùng là đóng góp vào tri thức ngành và hỗ trợ doanh nghiệp. Bằng cách cung cấp
thông tin sâu rộng về ảnh hưởng của marketing đối với quyết định mua hàng bốc đồng, nghiên
cứu có thể giúp cải thiện và phát triển các phương pháp kinh doanh và tiếp thị hiệu quả hơn
trong lĩnh vực này, đồng thời cung cấp hướng dẫn cho các doanh nghiệp về cách tối ưu hóa
chiến lược kinh doanh của họ.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Làm thế nào các thông điệp thương hiệu và chiến lược tương tác trên mạng
xã hội tác động đến quyết định mua sản phẩm bốc đồng?
Câu hỏi 2: Chiến lược quảng cáo nào có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với quyết định
mua hàng bốc đồng trên các sàn thương mại điện tử?
Câu hỏi 3: Các chiến lược tiếp thị cần được điều chỉnh như thế nào để tối ưu hóa kết
quả bán hàng đồng thời nâng cao sự hài lòng của khách hàng khi mua sản phẩm mà không đưa
ra các quyết định bốc đồng?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của marketing đến các hành vi mua hàng bốc đồng của thế
hệ gen Z trên các sàn thương mại điện tử ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện ở 5 tỉnh thành dựa theo Chỉ số Thương mại
điện tử của các địa phương. Cụ thể là 5 tỉnh thành có Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam cao
nhất năm 2023 bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh (89,2 điểm), Hà Nội (85,7 điểm), Đà Nẵng
(39,5 điểm), Bình Dương (35,7 điểm), Hải Phòng (25,9 điểm).
Về thời gian: Nghiên сứu lấу dữ liệu năm 2023, sаu thời điểm Nghị định số
85/2021/NĐ-СР сủа Сhính рhủ về thương mа̣i điện tử сhính thứс сó hiệu lưс.
1.5 Tổng quan nghiên cứu
1.5.1 Tình hình nghiên cứu thế giới
Trong những năm 1960-1970, các giao dịch điện tử ban đầu mở ra hướng đi mới cho
việc truyền thông và giao dịch thông qua máy tính. Đó là thời kỳ khởi đầu, khi ý tưởng về
thương mại điện tử bắt đầu hình thành. Sự xuất hiện của Internet trong thập kỷ 1980-1990 mở
4
ra một cánh cửa lớn. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các trang web thương
mại điện tử đầu tiên, và từ đó mở ra cơ hội mua bán trực tuyến.
Nhưng sự thay đổi thực sự lớn đã đến từ thập kỷ 2000. Đây là thời kỳ của sự bùng nổ
của thương mại điện tử. Cùng với sự sụp đổ của bong bóng internet (dot-com bubble), cũng là
thời điểm mà các nền tảng thương mại điện tử lớn như Amazon, eBay đã ra đời và phát triển
mạnh mẽ.
Sự bùng nổ của thương mại điện tử đã mở ra một cánh cửa mới đầy tiềm năng và
thách thức trong việc mua sắm và kinh doanh trên toàn cầu. Trên sàn thương mại điện tử ngày
nay, việc mua sắm không chỉ là một hoạt động đơn thuần, mà còn là một trải nghiệm tương
tác, đa dạng và đầy tiện ích. Tính tiện lợi và phổ biến của thương mại điện tử đã đưa mọi thứ,
từ sản phẩm hàng ngày đến các dịch vụ đặc biệt, đến gần hơn với người tiêu dùng.
Các nền tảng lớn như Amazon, Alibaba, eBay đã trở thành nơi mọi người đổ dồn để
tìm kiếm và mua sắm, mở ra một thế giới không giới hạn của sự lựa chọn. Vì vậy mà việc
mua hàng bốc đồng ở trên các sàn thương mại điện tử trở thành một hành vi phổ biến hiện
nay.
Trong bối cảnh trực tuyến, người tiêu dùng rất dễ có những hành động mua sắm không
hợp lý, chẳng hạn như mua sắm bốc đồng (Chen & Zhang, 2015) . Piron (1991) đã cố gắng
xác định hành vi mua hàng bốc đồng bằng cách xem xét các công trình nghiên cứu trước đây
và phát hiện ra rằng các nghiên cứu trước đó cho thấy việc mua sắm bốc đồng rất giống với
hành vi mua hàng không có kế hoạch.
Nghiên cứu trước đây cho thấy rằng khả năng mua hàng bốc đồng trực tuyến cao hơn
5% so với mua hàng ngoại tuyến (Nielsen, 2017) và số tiền chi cho việc mua sắm bốc đồng
trực tuyến chiếm khoảng 40% chi tiêu trực tuyến của người tiêu dùng (Liu và cộng sự, 2013).
Sự khác biệt chính giữa mua sắm trực tuyến và ngoại tuyến là cách thu thập thông tin sản
phẩm, nhận thức rủi ro và khả năng người tiêu dùng tiếp cận các sản phẩm tương tự dựa trên
sở thích (Sarkar & Das, 2017).
Theo nghiên cứu định lượng của Nurul Ittaqullah, Rahmat Madjid và Nursaban
Rommy Suleman (2020), sử dụng mô hình hồi quy đa biến đã chỉ ra rằng việc Tiếp thị trên
thiết bị di động, Giảm giá không có tác động lớn tới hành vi mua hàng bốc đồng. Tuy nhiên
yếu tố Lối sống có tác động tích cực và đáng kể đến hành vi mua hàng và yếu tố Sự quan tâm
của người tiêu dùng có ảnh hưởng nhiếu nhất. Hiệu quả của tiếp thị trên thiết bị di động, giảm
giá và phong cách sống cùng nhau (đồng thời) đối với việc mua hàng bốc đồng là 20,9%.
Trong khi 79,1% còn lại bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác.
Theo nghiên cứu của Abdul Ghafoor Kazi và cộng sự (2019) cho rằng: Trong nền kinh
tế đương đại bị chi phối bởi chủ nghĩa tiêu dùng, việc mua sắm bốc đồng là một thói quen phổ
biến. Do đó đề xuất nhà tiếp thị và nhà quảng cáo nên cải thiện hoạt động tiếp thị trên mạng
xã hội của mình để thúc đẩy hành vi mua sắm bốc đồng của người tiêu dùng. Đồng thời việc
truyền miêng điện tử (Phản hồi, đánh giá, khuyến nghị của người dùng) đóng vai trò quan
trọng trong gia tăng hành vi mua sắm bốc đồng.
Bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến đặc điểm người tiêu dùng, công cụ tiếp thị
trực tuyến trong hành vi mua bốc đồng của các cửa hàng thời trang trực tuyến, Bangkok Thái
Lan”, Matee Sritanakorn và Chompu Nuangjamnon (2021) đã sử dụng phương pháp thống kê
mô tả và suy luận số liệu thống kê để phân tích dữ liệu như tần suất, tỷ lệ phần trăm, giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn (S.D.) và hồi quy tuyến tính bội (MLR) để mô tả hồ sơ nhân khẩu
học và mối quan hệ nhân quả giữa các biến. Trong nghiên cứu bài này, nhóm tác giả đã cho
5
thấy thấy sự phù hợp lý tưởng, ý thức thời trang, chủ nghĩa vật chất, thuộc tính sản phẩm, chất
lượng nền tảng trực tuyến và khuyến mãi bán hàng trực tuyến có tác động tích cực đáng kể
đến việc mua sắm bốc đồng ở giá trị p nhỏ hơn 0,05, trong khi đó, tác động tích cực cảm xúc
đã không hỗ trợ được giả thuyết.
Ở một khía cạnh khác, trong bài nghiên cứu của Satinder Kumar và Arshveer Kaur
(2018) phân tích các yếu tổ về : Hành vi cá nhân; Các yếu tố tình huống; Khuyến mãi và Các
vấn đề đạo đức nhận thấy rằng cả 4 yếu tố đều có tác động lớn hành vi mua hàng bốc đồng ở
sinh viên từ đó đề xuất cho các nhá bán lẻ điện tử xây dựng các chiến lựợc cụ thể nhằm nhằm
tiếp thị và chào bán các mặt hàng phù hợp với từng đối tượng nhất định
Thêm vào đó, bài nghiên cứu “Phân tích tổng hợp về hành vi mua sắm bốc đồng trực
tuyến và tác động điều tiết của đòn bẩy phát triển kinh tế” của Yang Zhao và cộng sự (2021)
tập trung vào 13 yếu tố chính. Cụ thể, các yếu tố được phân thành 3 loại sau: kích thích trang
web (bảo mật trang web, khả năng điều hướng trang web, trang web hấp dẫn trực quan, tính
tương tác và dễ sử dụng), kích thích tiếp thị (sự khan hiếm, tính mới, giá cả và khuyến mãi)
và kích thích tình cảm (kích thích, niềm vui, tích cực, cảm xúc và cảm xúc tiêu cực). theo như
kết quả của nghiên cứu, những yếu tố này có ý nghĩa quan trọng và tích cực liên quan đến
mua hàng bốc đồng trực tuyến ngoại trừ bảo mật trang web, giá cả, tính mới và cảm xúc tiêu
cực. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xác minh khả năng ứng dụng và hiệu quả của các phương
pháp phân tích tổng hợp trong lĩnh vực này của hệ thống thông tin, cung cấp những ý tưởng
và phương pháp mới cho nghiên cứu liên quan
Bài nghiên cứu định lượng về “ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng
ngẫu hứng đối với các trang web bán hàng” của nhóm tác giả Mohammad Abdul Matin
Chowdhury (2021) đã sử dụng mô hình S-O-R để tìm cách xác định rõ ràng các yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi mua hàng ngẫu hứng đối với các trang web bán lẻ điện tử. Dữ liệu khảo sát
được phân tích bằng cách sử dụng mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng
phần (PLS-SEM). Kết quả chỉ ra rằng kích thích trang web không có mối quan hệ tích cực
đáng kể với hành vi mua sắm bốc đồng trực tuyến, nhưng mối quan hệ gián tiếp được tìm thấy
có liên quan đến hành vi mua sắm bốc đồng. Kết quả cũng nhấn mạnh rằng kích thích trang
web, kích thích tiếp thị và sự đa dạng của sản phẩm có ảnh hưởng tích cực đến sự thích thú
nhận thức, trong đó sự thích thú nhận thức là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về hành vi mua sắm
bốc đồng trực tuyến.
1.5.2 Bối cảnh nghiên cứu Việt Nam
Việt Nam, như nhiều quốc gia khác trên thế giới, đã trải qua một cuộc cách mạng
trong hành vi mua sắm từ việc đến các cửa hàng truyền thống sang việc sử dụng sàn thương
mại điện tử. Hành trình này không chỉ là sự thay đổi về cách tiếp cận hàng hóa mà còn là một
bước tiến lớn trong cách mà người tiêu dùng tương tác và thực hiện giao dịch mua bán. Xuất
phát từ những ngày đầu non trẻ, thị trường thương mại điện tử ở Việt Nam chỉ là một điểm
sáng nhỏ trong lòng người tiêu dùng. Những trang web đầu tiên xuất hiện nhưng chưa tạo nên
được sức ảnh hưởng lớn đối với đám đông. Tuy nhiên, những nỗ lực ban đầu này đã làm nên
nền tảng quan trọng cho sự phát triển đáng kể sau này.
Những năm tiếp theo, từ 2010 đến 2015, là giai đoạn quan trọng khi thị trường bắt đầu
thể hiện sự phổ biến của internet và smartphone. Điều này đã đánh thức nhu cầu mua sắm trực
tuyến ở người tiêu dùng. Các sàn thương mại điện tử lớn như Lazada, Tiki, Shopee... đã
nhanh chóng thu hút người dùng bằng chiến lược tiếp thị sáng tạo và chính sách giá cạnh
tranh. Sự tin cậy vào môi trường mua sắm trực tuyến và chất lượng dịch vụ cũng trở nên quan
6
trọng hơn, tạo đà để người tiêu dùng chuyển từ môi trường mua sắm truyền thống sang môi
trường trực tuyến.
Từ năm 2015 trở đi, thị trường thương mại điện tử ở Việt Nam bước vào giai đoạn
bùng nổ. Số lượng người dùng và doanh số bán hàng trực tuyến tăng vọt, tạo nên một sức hút
mạnh mẽ. Sự cạnh tranh giữa các sàn thương mại điện tử lớn và các đối thủ mới đã tạo ra một
môi trường đa dạng, đầy ưu đãi cho người tiêu dùng. Vì vậy mà ngày các nhiều mặt hàng đa
dạn, giá cả ưu đãi tăng lên. Sự tiện lợi, giá rẻ ấy tạo ra cho tâm lí người tiêu dùng Việt Nam
những hành vi mua hàng bốc đồng trên các sàn thương mại điện tử.
Bài nghiên cứu “Tác động của so sánh xã hội đến lòng tự trọng, sự đố kị và hành vi
mua sắm bốc đồng của khách hàng trên các trang mạng xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh”,
Trần Văn Đạt (2021) đã kết luận răng hiện tượng so sánh xã hội xuất hiện ở những người mua
hàng trực tuyến và nó đã tạo ra 2 tâm lý tiêu cực đó là suy giảm lòng tự trọng và sự đố kị.
Chính hai tâm lý tiêu cực này đã kích thích việc mua sắm bốc đồng gia tăng. Đa phần khi
khách hàng thực hiện hành vi mua sắm bốc đồng này chủ yếu là giải quyết việc xoa dịu và bù
đắp cho tâm lý tiêu cực. Ngoài ra, việc mua sắm này giúp khách hàng thấy mình không thua
thiệt với những người khác mà bản thân họ so sánh trên mạng xã hội chứ hoàn toàn họ không
tập trung vào sự hữu ích thật sự của sản phẩm này mang lại dẫn tới tình trạng lãng phí tiền,
vay mượn để mua sắm và lạm dụng thẻ tín dụng
Trong bài viết “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng bốc đồng
của người tiêu dùng Việt Nam trong bối cảnh Covid-19”, Đặng Kim Thoa và Nguyễn Ngọc
Diệp (2023). Kết quả nghiên cứu cho thấy sự quá tải thông tin về Covid-19 và nhận thức về
COVID-19 là có ảnh hưởng đến nỗi sợ COVID-19 và từ đó dẫn tới hành vi mua sắm bốc
đồng của người Việt Nam. Các yếu tố khác như sự khan hiếm các sản phẩm thiết yếu và mua
sắm tích trữ cũng đóng một vai trò quan trọng trong hành vi mua sắm bốc đồng của người dân
Việt Nam. Những phát hiện này góp phần hiểu rõ hơn về cách COVID-19 kích hoạt hành vi
mua hàng bốc đồng của người tiêu dùng thông qua cảm xúc sợ hãi và đề xuất nhiều hàm ý
quản lý cho Chính phủ, doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách về cách kiểm soát nỗi
sợ hãi của người tiêu dùng và thúc đẩy tiêu dùng lành mạnh trong bối cảnh bất ổn như
COVID-19.
Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Nguyễn Minh Trường- Võ Thị Ngọc Thúy
(2018) về chủ đề “Nghiên cứu các yếu tố tác động tới thúc giục mua sắm ngẫu hứng của
khách hành ở siêu thị” tìm hiểu về các tác động của yếu tố cá nhân (tiền sẵn có, thời gian sẵn
có, gia đình, hưởng thụ mua sắm) và yếu tố môi trường (Khuyễn mãi, nhân viên, không gian
dịch vụ, trưng bày) tới việc thục giục mua hàng ngẫu hững của người tiêu dùng tại siêu thị.
Từ đó đề xuất một số hàm ý giúp cho các nhà quản trị hoạch định chiến lược kinh doanh Siêu
thị tại Việt Nam như cần chú trong tới trạng thái cảm xúc khách hàng, liên kết các tổ chức tín
dụng, ngân hàng trong khuyến khích chi tiêu tín dụng hay đa dạng chượng trình, hình thức
khuyến mãi để kích thích việc mua hàng nhiều hơn
1.6 Khoảng trống nghiên cứu
Những nghiên cứu trên đã phân tích rất sâu về cơ sở lý luận yếu tố ảnh hưởng tới việc
mua hàng bốc đồng trên các sàn thương mại điện tử, sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau và ở nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một số hạn chế
nhất định. Thông qua lịch sử nghiên cứu, nhóm đưa ra một số hạn chế của các bài nghiên cứu
như sau: Phạm vi nghiên cứu chưa đủ lớn dẫn tới thiếu khách quan khi đưa kết luận, các bài
viết nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ các nước châu Âu và châu Mỹ - nơi mà trình độ phát
7
triển và văn hóa kinh tế khác với Việt Nam dẫn tới việc không phù hợp và ứng dụng vào nước
mình. Вên сạnh đó, Shаrmа, Sivаkumаrаn và Маrshаll (2011) đã đưa ra quan điểm rằng tiêu
dùng ở những nền văn hóa tập thể ở các nước Châu Á như Việt Nam hay Trung Quốc thường
có xu hướng tập trung vào các mục tiêu xã hội hơn là cá nhân vì vậy mà việc mua hàng bốc
đồng trên các sàn thương mại điện tử thường có tỉ lệ thấp hơn các nước khác. Thêm vào đó,
các bài nghiên cứu chỉ chú trọng phân tích các yếu tố nội sinh (như tính cách, tâm
trạng ,...v..vv) và các yếu tố ngoại sinh đơn lẻ mà chưa có sự bao quát về tổ này. Nhận thấy
điều đó, nhóm nghiên cứu đề xuất tiến hành nghiên cứu 5 đối tượng sau : Truyền thông mạng
xã hội (Social Media Marketing), Truyền miệng (Word-of-mouth Marketing), Người có ảnh
hưởng (Influencer Marketing), Truyền thông thông qua video (Video Marketing) và Nội dung
tiếp thị (Content Marketing). Dưới đây là một số hạn chế của các nghiên cứu mà nhóm tìm
hiểu :
Phương
Tên đề tài Hạn chế
pháp
Tác động của so sánh xã hội đến lòng - Phạm vi nghiên cứu chỉ nằm ở Tp.Hồ
Nghiên cứu
tự trọng, sự đố kị và hành vi mua sắm Chí Minh
định lượng
bốc đồng của khách hành trên các - Chỉ tập trung vào yếu tổ chủ quan của
và định tính
trang mạng xã hội tại Thành phố Hồ khách hàng, dẫn dễ tới tình trạng bias
Chí Minh
8
- Thời gian tiến hành nghiên cứu là tháng
10 năm 2020 đưa ra những kết quả khác
do sự thay đổi thị trường hiện nay
Nghiên cứu các yếu tố tác động tới - Chỉ dừng lại ở nghiên cứu các yếu tố
Nghiên cứu
thúc giục mua sắm ngẫu hứng của con người và môi trường tại siêu thị
định lượng
khách hành ở siêu thi - Phạm vi nghiên cứu chỉ ở Tp. Hồ Chí
Minh nên tính tổng thể chưa cao
- Hạn chế về thời gian nên dữ liệu được
thu thập thông qua các nền tảng trực
tuyến và mạng xã hội và người trả lời
chủ yếu đến từ khu vực Thung lũng
Analysis of FactorsInfluencing Klang.
Nghiên cứu
Impulse Buying Behaviortowardse- - Do lệnh kiểm soát đi lại (MCO) được
định lượng
Tailing Sites áp dụng ở Malaysia nhằm hạn chế sự lây
lan của Covid-19, việc phân phối bảng
câu hỏi trực tiếp đã bị gián đoạn và việc
thu thập dữ liệu thay thế được thực hiện
trực tuyến và qua mạng xã hội.
- Việc thực hiện nghiên cứu cần đến sự
cho phép của trụ sở chính nhà hàng vì thế
A study of the factors influencing Nghiên cứu thời gian phê duyệt khá lâu
customers' implusive buying định lượng - Phỏng vấn và khảo sát khách hành sau
behavior in restaurants khi dùng bữa dễ gây tới sự bất tiện nên
đa số khách hàng đều từ chối
9
CHƯƠNG 2.СƠ SỞ LÝ ТНUYẾТ - GIẢ ТНUYẾТ NGНIÊN СỨU - MÔ
HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lí thuyết
2.1.1 Lý thuyết về mua hàng bốc đồng
Hawkins Stern khi còn đang làm việc tại Viện Nghiên cứu Stanford ở Nam California
vào năm 1962 đã tập trung nghiên cứu về hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Chính học
thuyết của ông đã tạo tiền đề quan trọng cho rất nhiều học thuyết sau này về hành vi mua hàng
bốc đồng. Cũng trong năm đó, Starn đã viết một bài báo nói về “Tầm quan trọng của việc mua
sắm bốc đồng ngày nay” và bài viết đó đã mô tả hành vi thực tế “Mua hàng hấp dẫn gợi ý” của
người tiêu dùng. Nghiên cứu của ông cũng chỉ ra định nghĩa rằng hành vi mua hàng bốc đồng
là hành vi mua hàng mà không theo kế hoạch được lên từ trước.
Theo D'Antoni và Shenson (1973), có thể phân biệt các loại hành vi của người tiêu dùng
về mức độ mua hàng ngẫu hứng với mua hàng nhanh chóng thông qua các giai đoạn quyết định
mua hàng của người tiêu dùng. Đối với Weinberg và Gottwald (1982) hành vi mua hàng bị chi
phối bởi cảm xúc chủ yếu bị phản ứng bởi các tác động xung quanh, có tính kiểm soát thấp là
hành vi mua hàng ngẫu hứng
Dưới góc nhìn của Rook (1987), hành vi mua hàng ngẫu hứng xuất hiện “khi người tiêu
dùng trải nghiệm cảm giác bất chợt, mang tính thôi thúc mua lập tức. Điều này biểu hiện trạng
thái cảm xúc phức tạp, có thể tạo ra trong suy nghĩ hay tình cảm của người tiêu dùng những
mâu thuẫn nhất định”. Bên cạnh đấy, người tiêu dùng thường ít quan tâm tới việc mua hàng bốc
đồng của chính bản thân mình. Bên cạnh Stern, học thuyết của Rook đã tạo ra bước ngoặt khi
đưa ra định nghĩa hoàn toàn khác về lĩnh vực lý thuyết hành vi mua hàng bốc đồng của người
tiêu dùng.
Beatty và Ferrell (1998) quan niệm: “Mua ngẫu hứng là hành vi mua ngay lập tức không
có ý định trước mua một sản phẩm cụ thể nào đó”. Hành vi này xảy ra sau khi trải qua một cảm
giác thôi thúc mua và nó có xu hướng là tự phát không cần phải trải qua quá trình đánh giá sản
phẩm”
Block và Morwitz (1999) đã khám phá việc sử dụng danh sách mua sắm như một công
cụ hỗ trợ cho việc mua hàng của người tiêu dùng qua các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung danh
sách mua sắm cũng như việc mua hàng có kế hoạch và không có kế hoạch. Nghiên cứu chỉ ra
rằng hành vi mua hàng bốc đồng dễ kích thích và không thể cưỡng lại được nhưng lại có ít sự
cân nhắc hơn khi đặt lên bàn cân với hành vi mua hàng có kế hoạch.
Đối với các nghiên cứu gần đây, Kacen & Lee (2002) hay Sharma, Sivakumaran &
Marshall (2010) cho rằng hành vi mua ngẫu hứng là những đặc trưng của hành động mua hàng
không có kế hoạch được ra quyết định với tốc độ nhanh chóng, cũng như khao khát mong muốn
sở hữu loại hàng hóa đó ngay tức khắc.
Nghiên cứu của Yalin Chen (2013) chỉ ra rằng mua sắm bốc đồng cũng chịu ảnh hưởng
do việc thiếu tự chủ ở một cá nhân cũng như liên quan tới tính cách. Việc say mê đắm chìm vào
mua hàng bốc đồng là do nhu cầu sở hữu sản phẩm tăng đột ngột và tức thời. “Cảm xúc, Các
khuyến nghị, đánh giá, Sự hấp dẫn của sản phẩm, Sự hấp dẫn của cửa hàng trực tuyến, Yếu tố
10
ngẫu hứng của cá nhân” là một trong các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi mua hàng
bốc đồng.
Тhео những định nghĩа được đưa ra ở trên, hành vi mua hàng bốc đồng được hiểu với
khái nhiệm sau: (1) là hành vi muа hàng không có dự định từ trước hay là hành vi mua hàng
đột ngột; (2) xảу rа khi người muа hàng bị kíсh thíсh và thôi thúс để muа hàng; (3) thiên hướng
cảm tính, ít mang tính lý tính.
2.1.2 Lý thuyết về Social Media Marketing
Tracy L. Tuten và Michael R. Solomon đã phát hành cuốn sách Social Media Marketing
(2018) chỉ ra rằng Social Media Marketing là việc sử dụng các kênh mạng xã hội hay social
media để xây dựng các hoạt động nhằm kêu gọi tương tác, truyền tải thông điểm nhằm xây
dựng nên thương hiệu truyền thông. Đặc điểm đã tạo nên sự khác biệt giữa marketing truyền
thống và social media chính là bản chất môi trường social media.
Tiến sĩ Tracy L.Tuten đã phát triển mô hình Social Media thành 4 nhóm chính. Mô hình
này cũng đồng thời được nhắc tới qua cuốn sách “Social Media Marketing: A Practitioner Guide
(2017)” của tiến sĩ Marc Oliver Opresnik, Philip Kotler và Svend Hollensen bao gồm: Social
Publishing, Social Commerce, Social Entertainment và Social Community.
Tóm lại Social Media Marketing (SMM) được hiểu nôm na là kênh tiếp thị truyền thông
trên các mạng xã hội, là một trong những phương thức truyền thông đại chúng trên các nền tảng
dịch vụ trực tuyến và là xu hướng truyền thông theo định hướng khác truyền thông trước đây.
Khoa & Huynh (2022) đã chỉ ra trong bài nghiên cứu rằng người dùng thường có xu
hướng truy cập các dịch vụ truyền thông xã hội qua các sản phẩm công nghệ như web trên máy
tính, điện thoại hoặc các app được tải về trên các thiết bị điện tử. Cũng xuyên suốt thời gian
qua, thế giới đã và đang chứng kiến sự phát triển thần tốc của thế giới ảo nói chung và mạng xã
hội nói riêng, điều này đồng nghĩa đã có những ảnh hướng nhất định tới con người chúng ta.
Social Media Marketing không chỉ đem lại cho người dùng khả năng truy cập thông tin mà còn
chia sẻ tham gia vào các nội dung đa dạng, riêng tư cũng như tạo sự khác biệt lớn đối với Digital
Marketing - theo nghiên cứu của Chen và các cộng sự (2018)
Social Media Marketing đã dần trở thành một trong những phương pháp truyền thông
hiệu quả dựa vào tính phổ biến của mạng truy cập Internet. Đây là hình thức quảng cáo mới
nhất và phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên, điều này lại dấy lên những vấn đề quan ngại trong
việc sử dụng Social Media Marketing, thứ có thể dự đoán hành vi của người tiêu dùng trong
môi trường tương tác theo nghiên cứu Alalwan và cộng sự (2017). Ngày này phương tiện truyền
thông đã dần trở nên ưu tiên số một của nhiều nhãn hàng.
2.1.3 Lý thuyết về Word-of-mouth Marketing
Theo định nghĩa từ Anderson (1998) cho biết rằng word of mouth (WOM) là hình thức
truyền thông giữa các bên có liên quan đến việc đánh giá về sản phẩm/dịch vụ nào đó mà không
có sự can thiệp của quảng cáo. Marketing truyền miệng (Word of mouth marketing) là việc
truyền tải các thông tin từ người này sang người khác về một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó.
Ngoài ra, marketing truyền miệng còn có một hình thức khác nữa khi mà thời đại công nghệ
internet ngày một phát triển đó chính là các hoạt động tương tác trên mạng xã hội như like, bình
luận hay chia sẻ,…
11
Đối với Andy Sernovitz (2006) Marketing truyền miệng là marketing kết hợp với sự
truyền miệng. Đó là một hình thức marketing mới, có thể biến thành hành động, dễ theo dõi và
lập kế hoạch như bất kỳ hình thức marketing nào. Andy cũng đưa ra 05 yếu tố quan trọng trong
WOM:
• Talker: Là người đã mua và sử dụng sản phẩm đóng vai trò quảng bá sản phẩm qua
miệng
• Topics: Chủ đề bàn tán hay đơn giản là sản phẩm của doanh nghiệp
• Tools: Công cụ để quảng bá sản phẩm sắp tới của bạn.
• Taking part: Sự tương tác giữa khách hàng và doanh nghiệp
• Tracking: Sử dụng các công cụ đo lường trực tuyến để biết được.
Trong một cuộc khảo sát từ ReferralCandy về mức độ tin tưởng của khách hàng đối với
các yếu tố truyền miệng (word of mouth), ý kiến trực tuyến (online opinions), quảng cáo
(advertising) đã cho ra kết quả như sau: 92% khách hàng tin vào truyền miệng, 70% khách hàng
tin vào ý kiến trực tuyến và 58% khách hàng tin vào quảng cáo. Điều này đã chỉ ra yếu tố rằng
trải nghiệm của những khách hàng với một thương hiệu cụ thể thường trở thành nguồn thông
tin cho nhiều người tiêu dùng vì chúng dễ liên hệ và đáng tin cậy hơn.
2.1.4 Lý thuyết về Influencer Marketing
Influencer có thể được dịch là “Người có tầm ảnh hưởng” – là những người nổi tiếng ở
một lĩnh vực hay cộng đồng nào đó, được nhiều người biết đến trên diện rộng. Những influencer
là những người tạo ra nội dung, xu hướng mới trên các nền tảng mạng xã hội. Hoặc một số nghệ
sĩ nổi tiếng, Streamer, Beauty Blogger, Vlogger hay YouTuber,…có lượng follow và tương tác
cao nhất định sẽ được xem là một Influencer. Những đối tượng này có sức ảnh hưởng cao đến
quyết định mua hàng của người xem. Vì vậy, họ có thể trở thành gương mặt đại diện để quảng
bá hình ảnh, kích cầu tiêu dùng một loại sản phẩm/dịch vụ cho một nhãn hàng nào đó.
Còn marketing sử dụng người có ảnh hưởng, hay còn gọi là Influencer Marketing, được
Forbes định nghĩa như sau: "Influencer Marketing là hình thức marketing nhằm xác định tiếp
cận từng cá nhân và gây ảnh hưởng lên quyết định mua hàng của những khách hàng tiềm năng".
Taplnfluence - một trong những công ty hàng đầu chuyên về marketing sử dụng người có ảnh
hưởng định nghĩa đây là "một kiểu marketing tập trung vào việc sử dụng những người có ảnh
hưởng để truyền đạt thông điệp của nhãn hiệu đến một thị trường to lớn hơn" (Tapinfluence,
2017). Sudha and Sheena (2017) cho rằng Marketing sử dụng người có ảnh hưởng, sử dụng
những cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến tệp khách hàng mục tiêu của một nhãn hiệu và do
đó, mục tiêu của hình thức marketing này chính là để xây dựng hình ảnh thương hiệu. Chaffey
& Ellis-Chadwick (2012) thì cho rằng “Influencer Marketing có thể là loại hình truyền thông
có tài trợ thông qua những cá nhân có sức ảnh hưởng nhằm gia tăng nhận diện thương hiệu".
Tuy nhiên, tác động của những người có ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng không
phải lúc nào cũng tích cực. Những lo ngại liên quan đến tính minh bạch, tiêu chuẩn không thực
tế và đạo đức có thể nảy sinh, chẳng hạn như tài trợ không được tiết lộ hoặc nội dung gây hiểu
lầm.
2.1.5 Lý thuyết về Video Marketing
Theo Margisto [7], tiếp thị bằng video là khả năng sử dụng video như một cách để giao
tiếp với khách hàng với tần suất phù hợp và mang lại lợi tức đầu tư (Return On Investment -
12
ROI) lớn. Nó là một phương tiện truyền thông kỹ thuật số kết hợp sức mạnh kể chuyện của
truyền hình cùng với sự thuận tiện, tính xác thực của phương tiện truyền thông xã hội. Tiếp thị
bằng video có ảnh hưởng sâu sắc đến phương thức kinh doanh và rộng hơn là cách chia sẻ thông
tin và văn hóa toàn cầu.
Video Marketing có thể hiểu theo một cách đơn giản nhất chính là dùng video để tiếp
thị một sản phẩm hay một dịch vụ nào đó. Sản phẩm có thể là video về một thương hiệu lớn,
dịch vụ hay là thương hiệu cá nhân của riêng bạn. Mục đích là nhằm quảng bá những sản phẩm
của công ty và giới thiệu đến người tiêu dùng. Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh, âm thanh,
thông điệp và cả hiệu ứng để truyền tải một cách nhanh chóng và chính xác đến khán giả, đặc
biệt là nhóm khách hàng mục tiêu. Các thương hiệu có thể sử dụng video trên nhiều kênh và
định dạng kỹ thuật số khác nhau, bao gồm trang web riêng của họ, tiếp thị trên mạng xã hội,
quảng cáo có lập trình, v.v.
Video marketing bắt đầu thực sự vào năm 2005 với sự ra đời của YouTube. Google mua
lại YouTube vào tháng 10 năm 2006, và đến năm 2009 đã có 7 dạng quảng cáo khác nhau trên
nền tảng này.
Theo nghiên cứu của blog nổi tiếng HubSpot, khi công nghệ tạo video chất lượng trở
nên dễ dàng hơn, video đã trở nên phổ biến hơn với các nhà marketing. Nhưng đó không phải
là lý do duy nhất khiến video trở thành hình thức giao tiếp chủ đạo ngày nay. Đầu tiên, sự phát
triển của công nghệ điện thoại thông minh đã khiến việc xem video trở nên dễ dàng và thuận
tiện hơn. Sau đó, đại dịch đã tăng cường tiêu thụ media trực tuyến lên cao hơn 215% ở Mỹ.
Sang năm 2022, người xem dành trung bình 19 giờ mỗi tuần để xem video trực tuyến. Các
thương hiệu muốn trở nên vượt trội không thể bỏ qua video marketing.
2.1.6 Lý thuyết về Content Marketing
Theo Content Marketing Institute, Tiếp thị nội dung (Content Marketing) là một kỹ
thuật tiếp thị tạo và phân phối nội dung có giá trị, phù hợp, nhất quán để thu hút và có được
một đối tượng được xác định rõ ràng với mục tiêu thúc đẩy hành động có lợi của khách hàng
(Content Marketing Institute, 2012). “Content Marketing” là một kỹ thuật tạo và phân phối nội
dung để thu hút, có được và hiểu rõ đối tượng liên quan đến mục tiêu được xác định, với mục
tiêu tạo ra lợi nhuận cho khách hàng và tạo ra sự tương tác, lòng trung thành của khách hàng
với thương hiệu (Lou và Xie, 2021). “Content Marketing” đã được xác định là một phần của
tiếp thị trong nước kỹ thuật số (Opreana và Vinerean, 2015), với nhiệm vụ “thu hút khách hàng
tiềm năng, giữ chân khách hàng hiện tại và chuyển đổi những người tiêu dùng tiềm năng bằng
cách phát triển các hình thức nội dung khác nhau mà khách hàng tiềm năng coi là có giá trị và
sẽ sử dụng nội dung để truy cập vào một trang web để tìm hiểu thêm hoặc tiếp xúc với một ưu
đãi tiếp thị”
Một định nghĩa chính thức về Content Marketing được Joe Pulizii1- là tác giả bán chạy
nhất của bảy cuốn sách Content Marketing bao gồm cuốn sách mới nhất của ông, Content Inc.,
chia sẻ trên trang web Content Marketing Institute như sau: “Content Marketing là một quy
trình tiếp thị trong kinh doanh với trọng tâm là việc sản xuất và phân phối những nội dung phi
thương mại thực sự có giá trị thông tin để thu hút và duy trì được tình cảm, sự trung thành của
một nhóm khách hàng mục tiêu. Mục đích sau cùng của Content Marketing là chuyển hóa người
13
tiêu thụ nội dung thành những khách hàng thực tế, tạo ra doanh thu bằng việc tiêu thu sản
phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp.”
Một cách đơn giản hơn, Content marketing là một hình thức tiếp thị nội dung trên các
kênh truyền thông trực tuyến, được người kinh doanh thường xuyên sử dụng trong các chiến
lược truyền thông. Các doanh nghiệp ứng dụng content marketing trong việc tạo ra các nội dung
hấp dẫn, thu hút và mang lại giá trị hữu ích với mục đích tăng nhận thức về sản phẩm/dịch vụ.
Tiếp thị nội dung không giống với content thông thường, chỉ tập trung vào giới thiệu và
PR sản phẩm/dịch vụ. Content marketing tập trung chính vào khách hàng, trả lời các câu hỏi
quan trọng của khách hàng và đưa ra giải pháp giúp họ giải quyết vấn đề.
2.2. Giả thuyết nghiên cứu
Dựa theo các lý thuyết trên, nhóm nghiên cứu đưa ra các giả thuyết
Н1: Social Media Marketing táс động tiêu cực (-) đến hành vi muа hàng bốс đồng.
Н2: Word-of-mouth marketing táс động tích cực (+) đến hành vi muа hàng bốс đồng.
Н3: Content marketing сó táс động tíсh сựс (+) đến hành vi muа bốс đồng.
Н4: Influencer marketing сó táс động tiêu сựс (-) đến hành vi muа bốс đồng.
Н5: Video marketing сó táс động tíсh сựс (+) đến hành vi muа hàng bốс đồng.
Content marketing H4 H1
H5
Influencer marketing Hành vi mua hàng bốc
đồng
H6
Video marketing
14
CHƯƠNG 3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài này tập trung nghiên cứu cơ chế tác động đến hành vi mua hàng bốc đồng của
người tiêu dùng trong bối cảnh thương mại điện tử. Để đảm bảo tính xác thực của kết quả
nghiên cứu, những người đã có trải nghiệm mua sắm online là Gen Z ở Việt Nam được chọn
làm nhóm mục tiêu khảo sát, giúp đánh giá khách quan hành vi mua hàng bốc đồng của người
tiêu dùng trên thương mại điện tử.
Nghiên cứu này áp dụng mô hình thực chứng và sử dụng phương pháp định lượng. Dữ
liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát do nhóm tự thiết kế và các phương trình
có cấu trúc được sử dụng để đánh giá mối quan hệ giữa các biến số và kiểm tra các giả thuyết
nghiên cứu.
Phương pháp lấy mẫu mà nhóm nghiên cứu lựa chọn là phương pháp chọn mẫu phi
xác suất (lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi và có thể chọn các đối tượng có thể tiếp cận được) kết
hợp với chọn mẫu phân tầng.
Đối với phân tích nhân tố khám phá EFA: Dựa theo nghiên cứu của Hair, Anderson,
Tatham và Black (1998) cho tham khảo về kích thước mẫu dự kiến. Theo đó kích thước mẫu
tối thiểu là gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Đây là cỡ mẫu phù hợp cho nghiên cứu có sử dụng
phân tích nhân tố (Comrey, 1973; Roger, 2006). n=5*m (m là số lượng câu hỏi trong bài). Đề
tài này có 40 biến quan sát nên cần ít nhất số mẫu là 200 (40 x 5 = 200) quan sát. Do đó,
nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát 300 đối tượng đã từng mua sắm trực tuyến trên các sàn
thương mại điện tử để đảm bảo độ tin cậy cho bài nghiên cứu.
Hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA) là hai công cụ
được sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ. Hệ số tin cậy Cronbach’s alpha được sử
dụng để loại các biến không phù hợp khi chúng có hệ số tương quan biến - tổng (Item – total
correlation) nhỏ hơn 0,3. Theo Hair & cộng sự (2010) tiêu chuẩn chọn thang đo khi nó có hệ
số tin cậy (Cronbach’s alpha) lớn hơn 0,6.
Tiếp theo, phương pháp EFA được sử dụng để loại đi các biến quan sát có trọng số tải
(factor loading) nhỏ hơn 0,5. Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc
lớn hơn 50% và trọng số nhân tố lớn nhất từ 0,5 trở lên. Hệ số KMO nằm trong khoảng 0,5 ≤
KMO ≤ 1 thì có thể xem phân tích nhân tố là thích hợp. Kiểm định Bartlett có mức ý nghĩa
nhỏ hơn 0,05 thì có thể xem các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Hair &
cộng sự, 2010)
Nhóm nghiên cứu chọn mẫu phân tầng ở 5 tỉnh thành dựa theo Chỉ số Thương mại
điện tử của các địa phương. Cụ thể là 5 tỉnh thành có Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam
15
cao nhất năm 20231 bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh (89,2 điểm), Hà Nội (85,7 điểm), Đà
Nẵng (39,5 điểm), Bình Dương (35,7 điểm), Hải Phòng (25,9 điểm). Đồng thời, nhóm nghiên
cứu cũng cùng nhau đến 5 tỉnh thành này và vận dụng các mối quan hệ của cá nhân để thu
thập các mẫu thuận tiện nhằm đạt được số lượng đối tượng quan sát như mong muốn.
Để đánh giá сhính xáс hành vi muа hàng bốс đồng сủа người tiêu dùng Việt Nаm trên
сáс sàn thương mại điện tử; nghiên сứu sử dụng dữ liệu sơ сấр đượс thu thậр bằng cuộc khảо
sát sẽ được thực hiện quа bảng hỏi bằng cả kênh ngoại tuyến và trựс tuуến. Quá trình lựa
chọn sẽ nhằm mục đích đảm bảo sự đa dạng trong quần thể mẫu. Tất cả những người tham gia
sẽ được yêu cầu cung cấp sự đồng ý rõ ràng trước khi tiến hành khảo sát; quyền riêng tư và
bảo mật của họ sẽ được duy trì nghiêm ngặt trong suốt quá trình nghiên cứu. Dữ liệu được thu
thập sẽ sử dụng các kỹ thuật phân tích thống kê định lượng. Những kỹ thuật này sẽ cho phép
nhóm nghiên cứu kiểm tra và giải thích dữ liệu theo cách số học và khách quan, cung cấp
những hiểu biết sâu sắc có giá trị về các mục tiêu nghiên cứu.
Trong trường hợp thu thập dữ liệu trực tuyến, bảng hỏi sử dụng nền tảng Google
Forms và Qualtrics, sau đó gửi đến các đối tượng khảo sát qua Email và mạng xã hội
(Facebook, Zalo, Viber, Telegram, Twitter, …). Mặt khác, để thu thập dữ liệu ngoại tuyến,
nhóm nghiên cứu cũng vận dụng các mối quan hệ cá nhân để đạt được số lượng phản hồi như
ý.
Bảng hỏi khảo sát được thiết kế bao gồm 46 câu hỏi. Тrướс tiên, nhóm nghiên сứu sử
dụng câu hỏi sàng lọc để chọn lọc các đối tượng mục tiêu khа́сh thể сủа nghiе̂n сứu. Tiếp theo
là 3 phần chính: (1) thông tin nhân khẩu học, (2) các chiến dịch marketing ảnh hưởng đến
hành vi muа hàng trên sàn thương mại điện tử và (3) đánh giá hành vi muа hàng bốс đồng
trên sàn thương mại điện tử сủа người thаm giа khảо sát.
Dựa trên cơ sở lý thuyết trên, nhóm nghiên cứu đã áp dụng thang đo phù hợp cho các biến
như sau:
Nhóm nghiên cứu sẽ đo lường hành vi mua hàng của người tham gia khảo sát qua các
hình thức marketing bằng cách thiết kế các câu hỏi khảo sát dựa vào phương pháp thang đo
Likert, một phương pháp đo lường thống kê thường được sử dụng. Bảng hỏi này bao gồm 20
mệnh đề có tính chất tương tự cao, với giả định rằng mức độ quan trọng giữa các câu hỏi này
có thể được coi là bằng nhau. Do đó, các biện pháp đo trọng số bổ sung sẽ không được yêu
cầu trong các giai đoạn phân tích sau này (Batterton & Hale, 2017). Mỗi hình thức marketing
sẽ được đo bởi 5 tình huống hoặc kịch bản, trong đó có 3 mệnh đề thuận và 2 mệnh đề ngược.
Các mệnh đề ngược được đổi điểm trước khi đi vào phân tích dữ liệu. Người tham gia sẽ đánh
1
Theo số liệu của Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2023 – Hiệp hội Thương
mại Điện tử Việt Nam VECOM
16
giá hành vi mua hàng của bản thân theo thang đo Likert 5 mức (từ “1 = Hoàn toàn không
đồng ý” đến “5 = Hoàn toàn đồng ý”) để cho biết câu trả lời của họ. Phương pháp thang đo
Likert được biết đến vì tính đơn giản và dễ thực hiện. Nó được sử dụng rộng rãi trong nhiều
lĩnh vực khác nhau vì nó hỗ trợ hiệu quả cho việc phân tích số liệu tuyến tính và cho phép
tính toán các giá trị trung bình.
Các mệnh đề cụ thể cho các biến được liệt kê trong bảng sau, trong đó các mệnh đề ngược
được đánh dấu (R):
Social media SM1 Quyết định mua hàng của tôi không bị ảnh hưởng bởi
marketing phương tiện truyền thông xã hội (R)
SM2 Tôi giới thiệu cho người khác về nền tảng thương mại
truyền thông xã hội yêu thích của tôi
SM3 Tôi thường e ngại khi kể với người khác về giao dịch
mua hàng của mình trên trang web thương mại truyền
thông xã hội yêu thích của tôi (R)
SM4 Tôi thích mua hàng trên trang thương mại truyền
thông xã hội vì chất lượng dịch vụ mà nó mang lại
SM5 Tôi truyền bá lợi ích của việc mua sản phẩm trên
trang thương mại truyền thông xã hội cho người khác
Word-of- WOM1 Tôi ít khi chia sẻ ý kiến của mình trên mạng xã hội về
mouth sản phẩm (R)
marketing
WOM2 Mọi người thường chia sẻ kinh nghiệm thực tế của họ
trên nền tảng truyền thông xã hội.
WOM4 Tôi thấy nội dung e-WOM không đáng tin cậy (R)
WOM5 e-WOM ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của tôi
trên nền tảng truyền thông xã hội
Content CM1 Tôi ít bị thu hút bởi nội dung trong mô tả sản phẩm
marketing (R)
17
CM2 Tôi thích nội dung trong mô tả sản phẩm
CM3 Tôi đọc thông tin nội dung cho đến cuối
CM4 Tôi nghĩ nội dung phù hợp với sản phẩm
Influencer IM1 Người ảnh hưởng (Influencer) khiến tôi chú ý đến sản
marketing phẩm nhiều hơn
IM2 Tôi nhận thấy các bài đánh giá sản phẩm của Người
ảnh hưởng (Influencer) không đúng với sản phẩm
thực tế (R)
IM4 Tôi nhận thấy những đánh giá mà Người ảnh hưởng
(Influencer) chưa có độ tin cậy cao (R)
Video VM1 Tôi nghĩ video quảng cáo là nguồn cung cấp thông tin
marketing quan trọng liên quan đến sản phẩm.
VM2 Tôi nghĩ rằng đánh giá của người tiêu dùng chưa thể
cho thấy được trải nghiệm thực tế khi sử dụng sản
phẩm (R)
VM3 Tôi nghĩ tình huống sử dụng sản phẩm trong video đã
nâng cao niềm tin của tôi vào tính năng của sản phẩm.
VM4 Tôi nghĩ việc giảm giá hoặc khuyến mại trong đoạn
video sẽ thu hút sự chú ý của tôi.
VM5 Tôi nghĩ những bình luận dưới đoạn video ngắn sẽ
không ảnh hưởng đến nhận thức của tôi về chất lượng
sản phẩm (R)
18
3.2.2 Biến phụ thuộc:
Các nghiên cứu hiện tại xác định mô hình S-O-R (kích thích từ môi trường, chủ thể và
đáp ứng) được phát triển bởi Mehrabian & Russell (1974) là khung lý thuyết để hiểu biết toàn
diện các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua bốc đồng. Theo ba yếu tố của mô hình S-O-R,
kích thích (Stimuli) tương ứng với một kích hoạt trong môi trường nhận thức ảnh hưởng đến
trải nghiệm tình cảm của người tiêu dùng; chủ thể (Organism) tương ứng với đánh giá nội bộ
của người tiêu dùng về kích thích; và phản ứng (Response) tương ứng với hành vi mua của
người tiêu dùng, là phản ứng đối với kích thích và đánh giá nội bộ của họ.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng mô hình SOR và cố gắng giải thích hành vi mua hàng
bốc đồng của người tiêu dùng từ góc độ tâm lý và hành vi dựa trên thang đo “tính bốc đồng
khi mua sắm” của Rook và Fisher (1995) và “khuynh hướng mua hàng bốc đồng” của
Badgaiyan, Verma và Dixit (2016). Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi tự điền trực
tuyến bao gồm 15 mệnh đề, trong đó có 13 mệnh đề thuận và 2 mệnh đề ngược. Các mệnh đề
ngược được đổi điểm trước khi đi vào phân tích dữ liệu. Để đảm bảo độ tin cậy về giá trị của
việc đo lường các biến, nghiên cứu đã xác định các biến này, đồng thời điều chỉnh và sửa đổi
các hạng mục đo lường để phù hợp với bối cảnh và đối tượng nghiên cứu. Tất cả các mục đo
lường được đánh giá theo thang đo Likert 5 mức (từ “1 = Hoàn toàn không đồng ý” đến “5 =
Hoàn toàn đồng ý”).
IPS4 “Tôi thấy, tôi mua” mô tả hành vi mua sắm của tôi
IPS5 “Mua ngay rồi suy nghĩ sau” mô tả hành vi mua sắm của tôi
Hành vi mua hàng
IPS6 Tôi mua mọi thứ theo cảm xúc của tôi ngay lúc này
bốc đồng
IPS7 Đôi khi tôi hơi liều lĩnh với những gì mình mua
IPS8 Tôi lên kế hoạch cẩn thận cho hầu hết các giao dịch mua
hàng của mình (R)
IPS9
Đôi khi tôi mua đồ từ hoạt động mua sắm phát trực tiếp vì tôi
thích mua đồ hơn là vì tôi cần chúng.
19
IPS10 Trước khi tôi mua sắm một cái gì đó, tôi luôn cẩn thận cân
nhắc rằng tôi có thực sự cần nó không (R)
IPS11 Tôi thấy rất sướng khi mua đồ không cần phải suy nghĩ
IPS12 Khi tôi thấy thứ gì đó mới lạ và đẹp mắt, tôi sẽ mua nó
IPS13 Tôi hay mua đồ vì tôi có sở thích sắm đồ hơn là vì tôi thích
chúng
IPS14 Có rất nhiều thứ tôi đã mua từ việc mua sắm trực tiếp nhưng
tôi hiếm khi sử dụng chúng.
IPS15 Tôi thường mua các mặt hàng khác hoặc ngoài mục tiêu mua
sắm cụ thể của mình.
3.2.3 Biến kiểm soát
Độ tuổi: Nhóm nghiên cứu sử dụng câu hỏi : “Anh/Chị thuộc nhóm độ tuổi nào sau đây?” để
thống kê độ tuổi của người tham gia khảo sát
Nơi ở hiện tại: Nhóm nghiên cứu sử dụng câu hỏi: “Anh/Chị đang sinh sống và làm việc tại
thành phố nào?” để thống kê nơi ở hiện tại của người tham gia khảo sát.
Khi phân tích ảnh hưởng của các chiến dịch Marketing tới việc mua hàng ngẫu hứng,
nhóm nghiên cứu đã tổng hợp thông tin thu nhập được để đánh giá độ tin cậy và giá trị của
thang đo, kiểm định thang đo, kiểm định sự phù hợp của mô hình. Sau khi thu thập và loại bỏ
các câu trả lời không đạt yêu cầu, nhóm tiến hành mã hóa và nhập số liệu. Số liệu của nghiên
cứu được tổng hợp thông qua các bước sau:
• Đầu tiên, tiến hành nghiên cứu phân tích độ tin cậy của thang đo (Churchill, 1979;
Anderson và Gerbing, 1988), nhóm dựa trên Cronbach's alpha (Cronbach, 1970),
xem xét giá trị ngưỡng là 0,7 (Nunnally, 1978) trên phần mềm thống kê SPSS và
AMOS để phân tích dữ liệu. Đồng thời, phân tích nhân tố khẳng định (CFA) được sử
dụng để kiểm tra độ tin cậy của mô hình đo lường, tính hợp lệ của dữ liệu nhằm đánh
giá chất lượng câu hỏi, thiết lập một mô hình tới hạn. Mô hình tới hạn là mô hình mà
trong đó các khái niệm nghiên cứu được tự do quan hệ với nhau (Gerbing &
Anderson, 1988). Sau đó, nhóm đã xác minh bằng mô hình phương trình cấu trúc
(SEM) trong phần mềm AMOS, sử dụng phân tích hồi quy để phân tích mối quan hệ
giữa các biến và khởi động để kiểm tra giả thuyết về tác động trung gian.
• Bước thứ hai của quy trình xác nhận, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp bình
phương nhỏ nhất một phần PLS. Theo các bài báo đã xuất bản trước đây, PLS-SEM
đang được nhấn mạnh nhờ phương pháp hấp dẫn của nó, đặc biệt đối với khoa học
ứng dụng, bằng cách thúc đẩy thử nghiệm các mối quan hệ được đưa ra giả thuyết
thông qua việc nhấn mạnh vào dự báo trong ước tính mô hình (ví dụ: Carrión và
20
cộng sự, 2016; Evermann & Tate, 2016). Cụ thể sau khi sàng lọc dữ liệu thu thập
được, nhóm phân tích mô hình hồi quy PLS trên phần mềm SmartPLS 2.0 (Ringle et
al., 2005). Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn sử dụng phương pháp phương sai trích
trung bình (AVE) để đảm bảo độ tin cậy và giá trị của dữ liệu là phù hợp để phân
tích sâu hơn.
• Kết quả của nghiên cứu sẽ cho biết mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến
hành vi mua hàng bốc đồng, từ đó nhóm đưa ra kết luận cuối cùng về giả thuyết và
khuyến nghị phù hợp.
Giai đoạn 2 (Đầu tháng 2- + Thu thập và phân tích dữ liệu (cả dữ liệu thứ cấp và sơ
Đầu tháng 3) cấp)
+ Tiếp tục đào sâu nghiên cứu và phân tích dữ liệu
Giai đoạn 4 (Đầu tháng 4) Chỉnh sửа са́с bản thảо, nộр xin рhản biện từ giảng viên
hướng dẫn.
Nghiên cứu của nhóm kéo dài khoảng hai tháng liên tục từ tuần thứ 2 của tháng Một đến
tuần thứ 3 của tháng 3 (trong đó có kỳ nghỉ Tết âm). Bắt đầu từ tuần thứ 2 của tháng Một, nhóm
dành thời gian suy nghĩ và chọn lọc ý tưởng nghiên cứu. Sau kỳ nghỉ lễ, nhóm tiếp tục đọc các
nghiên cứu về đề tài đã chọn song song với việc đánh giá sơ bộ ý tưởng cũng như phát triển đề
xuất nghiên cứu trong tuần cuối tháng Một. Quá trình thực hiện khảo sát và thu thập dữ liệu
của nhóm diễn ra từ đầu tháng Hai đến đầu tháng Ba, cùng lúc với việc đào sâu nghiên cứu và
phân tích dữ liệu. Sau đó khi có phần lớn các dữ liệu nghiên cứu được, nhóm sẽ bắt đầu viết
bản nháp cho nghiên cứu và dần hoàn thành các bước cuối cùng để có bản nghiên cứu hoàn
chỉnh nộp cho giảng viên hướng dẫn vào ngày 3/4.
21
4.2 Dự bа́о những thа́сh thứс vа̀ рhương а́n giải quуết
Рhương án giải quуết: Lậр kế hоạсh сẩn thận và quản lý thời gian và nguồn tiền một сáсh
hiệu quả, сó thể xin сhi рhí hỗ trợ nghiên сứu từ Вộ Khоа họс và Сông nghệ, сáс bên сần
kết quả nghiên сứu như сáс dоаnh nghiệр, сáс tổ сhứс рhi сhính рhủ.
22
CHƯƠNG 5. ĐÓNG GÓP CỦA NGHIÊN CỨU, НẠN СНẾ СỦА NGНIÊN
СỨU VÀ GỢI Ý СНО СÁС NGНIÊN СỨU ТRОNG ТƯƠNG LАI
• Số lượng mẫu khảo sát có thể chưa đủ lớn để đại diện cho toàn bộ người tiêu dùng
Việt Nam. Nghiên cứu này chỉ khảo sát 300 người tiêu dùng, trong khi tổng dân số
Việt Nam là hơn 98 triệu người. Do đó, kết quả nghiên cứu có thể chưa phản ánh
chính xác thực tế về hành vi mua hàng bốc đồng của người tiêu dùng Việt Nam.
Chính vì thế các nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng quy mô mẫu khảo sát để
có thể đại diện cho toàn bộ người tiêu dùng Việt Nam, cụ thể hơn là:
o Đảm bảo tính đại diện của mẫu khảo sát. Mẫu khảo sát cần bao gồm đại diện của
tất cả các nhóm người tiêu dùng Việt Nam, bao gồm cả các nhóm thiểu số.
o Sử dụng các biện pháp khuyến khích để tăng tỷ lệ phản hồi khảo sát.
o Cần kiểm soát chất lượng của dữ liệu khảo sát.
• Chưa có sự so sánh với những nghiên cứu trước
23
• Nghiên cứu chỉ tập trung vào hành vi mua hàng bốc đồng của người tiêu dùng trên
sàn thương mại điện tử. Hành vi mua hàng bốc đồng có thể xảy ra ở nhiều bối cảnh
khác nhau, bao gồm cả mua sắm trực tiếp và mua sắm qua các kênh truyền thống. Do
đó, cần có thêm nghiên cứu để đánh giá hành vi mua hàng bốc đồng của người tiêu
dùng trong các bối cảnh khác nhau. Cần xác định rõ bối cảnh nghiên cứu, bối cảnh
nghiên cứu có thể là môi trường bán lẻ trực tuyến, môi trường bán lẻ trực tiếp, hoặc
môi trường bán lẻ truyền thống. Mỗi bối cảnh có những đặc điểm riêng, do đó cần
xác định rõ bối cảnh nghiên cứu để lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp.
• Nghiên cứu phần lớn sử dụng phương pháp định lượng, chủ yếu dựa trên dữ liệu
khảo sát. Để có được bức tranh toàn diện hơn về hành vi mua hàng bốc đồng của
người tiêu dùng, cần có thêm nghiên cứu sử dụng các phương pháp định tính, chẳng
hạn như phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm,...
• Do vấn đề thiếu dữ liệu, nhóm nghiên cứu đã lấy mức độ phát triển kinh tế làm đại
diện cho mức độ tiêu dùng của người tiêu dùng, điều này có thể không chính xác
bằng dữ liệu cá nhân thực tế. Nếu không còn các rào cản về quyền riêng tư, các
nghiên cứu trong tương lai có thể sử dụng dữ liệu cá nhân của người tiêu dùng và đạt
được các hiệu quả về số liệu cao hơn.
Nghiên cứu trong tương lai cũng có thể xem xét cách các nhà tiếp thị có thể sử dụng
kiến thức về mua sắm bốc đồng trực tuyến để tạo ra các chiến lược tiếp thị hiệu quả hơn. Tiến
hành nghiên cứu theo chiều dọc để điều tra sự phát triển của tính bốc đồng theo thời gian.
Ngoài ra, các nghiên cứu trong tương lai cũng có thể tập trung vào các vấn đề như nghiên cứu
tác động của các yếu tố khác đến hành vi mua hàng bốc đồng:
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mehrabian, A. & Russell, J.A. (1974), An approach to environmental psychology, The MIT
Press.
Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt nam 2023 (no date). Available at:
http://ebi.vecom.vn/Bao-Cao/Noi-dung-bao-cao/49/Bao-cao-Chi-so-Thuong-mai-dien-tu-
Viet-nam-2023.aspx (Accessed: 3 January 2024).
Lu, H. and Zheng, Y. (no date) ‘An analysis of how video advertising factors influence
consumers’ impulse purchase intentions’.
[PDF] Impulse buying behaviour: an online-offline comparative and the impact of social
media | Semantic Scholar (no date). Available at:
https://www.semanticscholar.org/reader/3488a0fe570130474ddc90639bb48431d9c54fcb
(Accessed: 3 January 2024).
tcct (2022) Tác động của truyền miệng điện tử (eWOM) đến ý định mua sản phẩm nước hoa
của người tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Công Thương. Available at:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tac-dong-cua-truyen-mieng-dien-tu-ewom-den-y-dinh-
mua-san-pham-nuoc-hoa-cua-nguoi-tieu-dung-tai-thanh-pho-ho-chi-minh-99898.htm
(Accessed: 3 January 2024).
ThanhThu, D. and Cuong, D. (2021) ‘Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua
sắm trực tuyến của sinh viên tại trường đại học công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh’, in.
Zhang, M. and Shi, G. (2022) ‘Consumers’ Impulsive Buying Behavior in Online Shopping
Based on the Influence of Social Presence’, Computational Intelligence and Neuroscience,
2022, p. e6794729. Available at: https://doi.org/10.1155/2022/6794729.
ocery shopping: Influences on list writing and list fulfillment. Journal of Consumer Psychology,
8(4), 343–375. Available at: https://doi.org/10.1207/s15327663jcp0804_01
Peter Weinberg and Wolfgang Gottwald (1982) Impulsive consumer buying as a result of
emotions, vol. 10, issue 1, 43-57. Available at:
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/0148-2963(82)90016-9
Kacen, J. J., & Lee, J. A. (2002). The influence of culture on consumer impulsive buying
behavior. Journal of Consumer Psychology, 12(2), 163–176. Available at:
https://doi.org/10.1207/S15327663JCP1202_08
Sharma, P., Sivakumaran, B., & Marshall, R. (2010). Impulse buying and variety seeking: A
trait-correlates perspective. Journal of Business Research, 63(3), 276–283. Available at:
https://doi.org/10.1016/j.jbusres.2009.03.013
25
Tracy L. Tuten and Michael R. Solomon, Social Media Marketing, 2016, 352 pp., New Delhi:
SAGE, ₹450 (Paperback). ISBN 978-93-515-0924-0.
Prof. Dr. Philip Kotler, Prof. Dr. Svend Hollensen and Prof. Dr. Marc Oliver Opresnik (2017)
Social Media Marketing: A Practitioner Guide
Khoa & Huynh (2017) International Journal of Data and Network Science 7(1):175-184
DOI:10.5267/j.ijdns.2022.11.005
Wu, Y. L., & Chen, J. (2018). Review and Prospect of Social Commerce Research Based on
Statistical Analysis of SSCI Papers from 2006 to 2016. Scientific Journal of E-Business, 7, 1-
14.
Ali Abdallah Alalwan (2018)Investigating the impact of social media advertising features on
customer purchase intention. Al-Balqa Applied University, Amman College of Banking and
Financial Sciences, Amman, Salt 19117, Jordan
Rook, D.W. (1987) Buying Impulse. Journal of Consumer Research, 14, 189-199. Available at:
https://doi.org/10.1086/209105
Beatty, S. E., & Ferrell, M. E. (1998). Impulse buying: Modeling its precursors. Journal of
Retailing, 74(2), 169–191. Available at: https://doi.org/10.1016/S0022-4359(99)80092-X
Chen, Y., & Zhang, L. (2015). Influential factors for online impulse buying in China: A model
and its empirical analysis. International Management Review, 11(2), 57–69.
Lin, J., & Chuan, C. H. (2013). A study on youth online impulsive purchase: The relationship
between individual difference, shopping environment, emotion response and purchase.
Journal of Creative Communications, 8(2–3), 209–229
Liu, Y., Li, H., & Hu, F. (2013). Website attributes in urging online impulse purchase: An
empirical investigation on consumer perceptions. Decision Support Systems, 55(3), 829–837
Sarkar, R., & Das, S. (2017). Online shopping vs offline shopping : A comparative study.
International Journal of Scientific Research in Science and Technology, 3(1), 424–431
26
Abdul Ghafoor Kazi , Aliz Ahmed Khokhar , Pir Abu Baker Qureshi, Farman Murtaza.
(2019), The Impact of Social Media on Impulse Buying Behaviour in Hyderabad Sindh
Pakistan, 6(1-2), 11-12
Đặng Kim Thoa và Nguyễn Ngọc Diệp (2023), “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
hành vi mua hàng bốc đồng của người tiêu dùng Việt Nam trong bối cảnh Covid-19”, 5, 53-
54
Trần Văn Đạt (2021), “Tác động của so sánh xã hội đến lòng tự trọng, sự đố kị và hành vi
mua sắm bốc đồng của khách hàng trên các trang mạng xã hội tại Thành phố Hồ Chí
Minh”, 5, 103-104
Nurul Ittaqullah, Rahmat Madjid, Nursaban Rommy Suleman (2020), The Effects Of Mobile
Marketing, Discount, And Lifestyle On Consumers’ Impulse Buying Behavior In Online
Marketplace
Mehrabian, A. & Russell, J.A. (1974), An approach to environmental psychology, The MIT
Press.
Nguyễn Minh Trường- Võ Thị Ngọc Thúy (2018), “Nghiên cứu các yếu tố tác động tới thúc
giục mua sắm ngẫu hứng của khách hành ở siêu thị”
Pei-Hsun LU, Ching-Shu SU (2018), “A study of the factors influencing customers' implusive
buying behavior in restaurants” Vol. 6 (1) 47-67
Md Wasiul Karim, “Analysis of Factors Influencing Impulse Buying Behavior toward se-
Tailing Sites”, Contemporary Management Research , Pages97-126, Vol. 17, No. 2,
2021doi:10.7903/cmr.20457
Yang Zhan, Yixuan Li, Ning Wan, Ruoxin Zhou2 & Xin (Robert) Luo,(2021) ” A Meta-
Analysis of Online Impulsive Buying and the Moderating Effect of Economic Development
Level”, https://doi.org/10.1007/s10796-021-10170-4
Dr. Satinder Kumar, Ms. Arshveer Kaur (2019), “Understanding Online Impulsive Buying
Behaviour of Students”, DOI : 10.18843/ijms/v5i3(1)/09
27
Stern, H. (1962) The Significance of Impulse Buying Today. Journal of Marketing, 26, 59-62.
Available at: http://dx.doi.org/10.2307/1248439
Block, L. G., & Morwitz, V. G. (1999). Shopping lists as an external memory aid for group”
Zhao, H., Cai, Z., & He, S. (2014). Online commodity display based on virtual tactile
perspective, research on online interaction and impulsive purchase. Journal of Management,
11(1), 133–141
Tan, W. (2009). Research on the mechanism of online reviews’ impact on online consumers’
impulse purchase intention. Huazhong University of Science and Technology.
James C., Ha L.T., 2014, Impulse buying behavior of Vietnamese consumers in supermarket
setting, International Journal of Research Studies in Management, Vol. 3, No. 2, pp.33-50
28
PHỤ LỤC
BẢNG HỎI KHẢO SÁT HÀNH VI MUA HÀNG BỐC ĐỒNG CỦA GEN Z TRÊN
CÁC SÀN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ DỰA TRÊN CÁC CHIẾN DỊCH MARKETING
Сhúng tôi là nhóm nghiên сứu đến từ Тrường Đại họс Ngоại Тhương. Сhúng tôi đаng thựс hiện
dự án nghiên сứu về “Ảnh hưởng сủа chiến dịch Marketing đến hành vi muа hàng bốс đồng
của Gen Z trên сáс sàn Тhương mại điện tử ở Việt Nam”. Ну vọng Аnh/Сhị сó thể hỗ trợ сhо
dự án сủа сhúng tôi bằng сáсh trả lời bản khảо sát dưới đâу.
Сâu trả lời từ Quý Аnh/Сhị sẽ đóng vаi trò rất quаn trọng đối với sự thành сông сủа nghiên
сứu. Сhúng tôi xin саm đоаn рhản hồi сủа Quý Аnh/Сhị sẽ đượс bảo mật riêng tư và сhỉ đượс
рhụс vụ сhо mụс đíсh nghiên сứu. Nhóm nghiên сứu xin chân thành сảm ơn sự hợр táс сủа
Quý Аnh/Сhị!
Мuа hàng bốс đồng: hay còn được gọi là hành vi muа hàng ngẫu hứng, đề cập đến việc mua
sắm mà người tiêu dùng thực hiện mà không có kế hoạch hoặc suy nghĩ cẩn thận, mаng tính
сảm tính.
Anh/Сhị đã từng muа hàng trên сáс sàn thương mại điện tử (Tiktok Shop, Shорее, Тiki,
Lаzаdа, ...) сhưа?
☐ Có
☐ Không
Nếu “Сó” xin vui lòng tiếр tụс, nếu “Không” hãy bỏ quа Khảо sát.
☐ Nam
☐ Nữ
☐ Khác
☐ Dưới 11 tuổi
☐ Từ 11-26 tuổi
29
☐ Từ 26-40 tuổi
☐ Trên 40 tuổi
☐ Dưới 1 triệu
☐ 1-3 triệu
☐ 3-5 triệu
☐ 5-10 triệu
☐ Trên 10 triệu
4. Anh/Chị đang sinh sống và làm việc tại thành phố nào?
☐ Hà Nội
☐ Đà Nẵng
☐ Hải Phòng
☐ Bình Dương
☐ Khác
PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ HÀNH VI CỦA BẢN THÂN QUA CÁC CHIẾN DỊCH
MARKETING
1 2 3 4 5
Nội dung
Hoàn
Hoàn
toàn Không Bình Đồng
toàn
không đồng ý thường ý
đồng ý
đồng ý
31
Những đánh giá của Người ảnh
hưởng (Influencer) thúc đẩy tôi mua
IM3
hàng nhiều hơn trên sàn thương mại
điện tử
32
Tôi nghĩ những bình luận dưới đoạn
video ngắn sẽ không ảnh hưởng đến
VM5
nhận thức của tôi về chất lượng sản
phẩm (R)
eWOM: hay Electronic Word of Mouth là hình thức truyền miệng điện tử thông qua Internet và
các phương tiện số khác, bao gồm giao tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng hoặc chính
những người tiêu dùng
1 2 3 4 5
33
Đôi khi tôi mua đồ từ hoạt
động mua sắm phát trực tiếp
IPS9
vì tôi thích mua đồ hơn là vì
tôi cần chúng.
Мột lần nữа, сhúng tôi xin саm kết mọi рhản hồi сủа Аnh/Сhị sẽ hоàn tоàn đượс bảo mật riêng
tư và сhỉ nhằm рhụс vụ mụс đíсh nghiên сứu. Сhúng tôi xin сhân thành сảm ơn Аnh/Сhị đã
thаm giа khảо sát nàу!
34
Bảng phân công công việc
35