You are on page 1of 28

CHỦ NGHĨA BIỂU TƯỢNG

LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI. ________________________________________________ NHÓM 3


LÊ TRẦN HẢI ĐĂNG-2272104030156

HỒ NGUYỄN HOÀNG NHẬT-2272104030496

TRẦN HOÀI MINH-2275801080079

THÀNH VIÊN
NGUYỄN XUÂN KHANG-2272104030275

TRẦN NGUYỄN MI SA -2272104030616

NGUYỄN THUÝ DUY-2272104030125

NGUYỄN LÊ UYÊN NHI -2272104030512

NHÓM 3
NGUYỄN TRẦN GIA KHẮC -2272104030291

NGUYỄN THỊNH HỶ-2172104030227

LÊ HOÀNG TUẤN-2272104030814

HOÀNG GIA HIỆP-2272104030210

THIỀU NGỌC LINH -2275801080243


LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI.
1. KHÁI NIỆM ____________________________________________

NHÓM 3
________________________________________________

Chủ nghĩa Biểu tượng - là một phong trào truyền


đạt ý tưởng thông qua biểu tượng và nhấn mạnh

CHỦ NGHĨA
ý nghĩa đằng sau các hình dạng, đường nét, khối,
và màu sắc. Tác phẩm của một số người ủng hộ
phong trào này là ví dụ điển hình cho việc khép
lại truyền thống nghệ thuật mang tính đại diện từ
thời Cổ điển. Chủ nghĩa Biểu tượng sinh ra và
được định nghĩa từ trong các tác phẩm của nhà
văn người Pháp Gustave Kahn và Jean Moréas,
(1880 – 1910) người sử dụng cụm từ “chủ nghĩa Biểu tượng”
lần đầu năm 1886.

Cũng có thể coi chủ nghĩa Biểu tượng như là tiền

BIỂU TƯỢNG
tuyến của chủ nghĩa hiện đại, vì nó cho ra đời
các cách thức mới và thường là trừu tượng để
diễn tả sự thật về tâm lý con người, ý niệm là
đằng sau thế giới vật lý có một thực tại tâm linh.
Các nghệ sĩ Biểu tượng có thể trao hình dạng cụ
thể cho những thứ khó biểu đạt như giấc mơ và
__
ảo ảnh.
__
__
__
__
__
__
__
__
__
__
_

HI VỌNG (HOPE) (1886)


GEORGE FREDERIC WATTS.
GEORGE FREDERICH
WATTS (1817-1904)
__________________

“TÔI VẼ NHỮNG Ý TƯỞNG,


KHÔNG PHẢI VẬT THỂ”.
GEORGE FREDERICH WATTS ĐÃ LÀ MỘT
NGƯỜI DẪN ĐẦU TRÀO LƯU CHỦ NGHĨA
BIỂU TƯỢNG VỚI TUYÊN BỐ GIẢN DỊ
NHƯNG KHÁI QUÁT ĐƯỢC CHỦ NGHĨA
NÀY.

ÔNG CŨNG NÓI RẰNG TÁC PHẨM HY


VỌNG (HOPE) (1886) CỦA MÌNH ĐÃ
“ĐƯA RA NHỮNG SUY NGHĨ VĨ ĐẠI MÀ
SẼ NÓI ĐƯỢC VỚI TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
VÀ TRÁI TIM.
2. ĐẶC TRƯNG
* CHỦ NGHĨA BIỂU TƯỢNG VÀ ART NOUVEAU:
Art Nouveau được coi là một nhánh phụ của chủ nghĩa Biểu tượng. Có rất
nhiều trùng lặp giữa các tác phẩm Art Nouveau và các tác phẩm Biểu tượng
(ví dụ như các chủ đề về sự suy đồi trong tác phẩm của Aubrey Beardsley).
Nhưng Art Nouveau là một phong cách cụ thể hơn, ưa sử dụng các chi tiết
trang trí dựa trên hình dạng hữu cơ như trang sức, nội thất,…

___
___
___
___
___
___
___
__

CỰC KHOÁI (THE CLIMAX) (1893) (XUẤT BẢN 1907)


AUBREY BEARDSLEY
MINH HOẠ CHO SALOME CỦA OSCAR WILDE
* Các yếu tố văn hoá, chính trị đã tác động đến Chủ nghĩa Biểu tượng như thế nào:
Phần lớn các nghệ sĩ Biểu tượng cuối thế kỷ 19 đã phải trải qua sự chấn động về chính trị, xã hội và đạo đức diễn ra khắp
nơi, từ đó tạo ra những biểu tượng và chủ đề mang tính cá nhân, tâm linh, huyền bí, và thường khá khó hiểu, liên quan đến
sự suy đồi mà họ cảm nhận được của thời đại đó.

Các tác phẩm của các nghệ sĩ từ nhiều quốc gia khác nhau cùng lấy cảm hứng ít nhiều từ tầm nhìn này, hình thành từ nhiều
nguồn tham khảo thị giác khác nhau.

* Nhóm Nabis:
Nhóm Nabis là một nhóm nghệ sĩ Biểu tượng thành lập bởi Paul Sérusier năm 1889, dựa trên bức tranh Chiếc bùa hộ mệnh
(The Talisman) (1888) của ông. Mặc dù họ không có cùng quan điểm về tôn giáo và chính trị với các hoạ sĩ Biểu tượng khác,
thành viên nhóm Nabis muốn có thể giao tiếp với một thế lực cao hơn; họ tin rằng người hoạ sĩ có vai trò như một thầy tế
cấp cao, với sức mạnh tiết lộ cái vô hình.

Phong cách của họ phát triển từ các tác phẩm của Paul Gauguin với
tính phẳng và cách điệu đặc trưng, tập trung vào các cảnh nội bộ trong
cuộc sống gia đình.

__
__
__
__
__
__
__
__
__
__
__
_

ẢNH CHỤP CÁC NGHỆ SĨ NHÓM NABIS.


TỪ TRÁI SANG: KER-XAVIER ROUSSEL, ÉDOUARD VUILLARD, ROMAIN COOLUS, VÀ FÉLIX VALLOTTON
1889
BÙA HỘ MỆNH (THE TALISMAN) (1888) – PAUL SÉRUSIER.
* Chủ nghĩa Biểu tượng và chủ nghĩa Thập tự hoa hồng:
Nhóm Thập tự hoa hồng (Rosicrucians) là một nhóm các nghệ sĩ dẫn đầu bởi nhà văn Sar Joséphin Péladan.

Họ chối bỏ chủ nghĩa duy vật của thời đại đó, họ khôi phục hội họa Công giáo và hội hoạ thời Phục hưng,
nhưng điểm thêm vào đó những ý nghĩa mang tính chất huyền bí.

Nghệ thuật đối với nhóm này là một nghi thức kết nạp dẫn tới sự giác ngộ về tôn giáo. Các tác phẩm của
họ lấy hình dạng của những ngụ ngôn huyền bí, nhưng theo phong cách biểu đạt truyền thống hơn.

__
__
__
__
__
__
__
__
__
__
__
_

ÁP PHÍCH CHO SALON DE LA ROSE + CROIX ĐẦU TIÊN


DO CARLOS SCHWABE THỰC HIỆN NĂM 1892
* Chủ nghĩa Biểu tượng ở Pháp:
Hai hoạ sĩ Biểu tượng đáng chú ý nhất ở Pháp là Gustave Moreau và Odilon Redon.
Moreau: hướng tới các danh hoạ Lãng mạn như Eugène Delacroix và cái lạ lẫm ngoại lai nói chung.
Redon: cũng chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Lãng mạn khi ông tạo ra các thế giới tưởng tượng trong mơ của mình nhưng cũng bởi Francisco Goya
– điều lý giải cho hiệu ứng trong các tác phẩm của ông gây bất an cho người xem.

SỰ HIỂN LINH (THE APPARITION) LE BOUDDHA (THE BUDDHA)


(1876-77) (1905)
GUSTAVE MOREAU ODILON REDON
*
Chủ nghĩa Biểu tượng ở Bỉ

Tại Bỉ, hai nghệ sĩ quan trọng nhất là Fernand Khnopff và James Ensor.
Khnopff: luôn thể hiện một mức độ đồi truỵ nhất định
Ensor: nghiên cứu tính biểu tượng của những chiếc mặt nạ

DES CARESSES, FERNAND KHNOPFF, 1896

I LOCK MY DOOR UPON MYSELF,


“SELF-PORTRAIT WITH MASKS, CÁI CHẾT VÀ NHỮNG CHIẾC MẶT NẠ FERNAND KHNOPFF, 1891
JAMES ENSOR, 1899 JAMES ENSOR, 1897
*
Chủ nghĩa Biểu tượng ở Anh

Có thể thấy Chủ nghĩa Biểu tượng ở Anh những năm 1890 trong tác phẩm của họa sĩ Aubrey Beardsley và nhà văn Oscar Wilde mà có thể
được mô tả bằng từ “suy đồi”, cũng như chú trọng vào cái mang tính chất gợi dục.
Beardsley: khám phá các chủ đề theo Chủ nghĩa Biểu tượng như thế giới trong mơ thời Trung Cổ của Vua Arthur, khái niệm femme fatale
(người đàn bà nguy hiểm), các chủ đề sử dụng bởi nhà soạn nhạc Richard Wagner, và chủ nghĩa Dandy. Tuy nhiên, phong cách của
Beardsley, với những đường nét uyển chuyển đàn hồi, gần hơn với phong cách Art Nouveau và ông cũng được gắn với phong trào này.
*
Chủ nghĩa Biểu tượng ở các nước khác:

Thuỵ Sĩ:
Arnold Böcklin: tạo ra các “địa hình tâm trạng”, tổng hòa các hình ảnh trong trí tưởng tượng của mình.
Ferdinand Hodler: thì sáng tác những tác phẩm như Đêm (Night) (1896) và Ngày (Day) (1899), đặc trưng bởi hình thể ảo giác và theo
mẫu, cũng như việc sử dụng phép nhân cách hoá và phúng dụ, thay vì biểu tượng theo đúng nghĩa đen – mặc dù các tư thế và động
thái của các hình thể ông vẽ có vẻ tượng trưng cho các trạng thái của con người.
Ý: Giovanni Segantini: tạo nên các cảnh ảo mộng huyền bí về dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ.
Hà Lan: Jan Toorop và Johan Thorn Prikker: những người này đã cho ra đời các bức tranh Biểu tượng kiểu mẫu.
Nga: Leon Bakst: thì đóng góp bằng các thiết kế cho sân khấu.
Hoa Kỳ: bao gồm Arthur B. Davies và Maurice Prendergast, hai hoạ sĩ chỉ tuân theo một phần tầm nhìn của chủ nghĩa Biểu tượng và học
hỏi từ các phong cách khác nữa, và cả Alfred Pinkham Ryder, người thường được coi như là một hoạ sĩ độc lập không gắn liền với một
nhóm cụ thể nào, dù ông cũng vẽ tranh từ các ngụ ngôn mang tính huyền bí, đầy tâm trạng.
* Hội hoạ Biểu tượng về sau được ví dụ điển hình bởi các tác phẩm của Gustav Klimt và
CÁC PHÁT TRIỂN SAU NÀY – Edvard Munch:
Tác phẩm của Klimt: tượng trưng cho đỉnh điểm của nghệ thuật trước khi chịu ảnh hưởng
HẬU CHỦ NGHĨA BIỂU TƯỢNG: từ các hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tác phẩm của Munch: đã và tiếp tục được coi là hiện đại trong suốt sự nghiệp của ông.

GUSTAV KLIMT (1862-19180)


Ở Áo, đại diện tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa Biểu tượng là các tác
phẩm của Gustav Klimt (người cũng được gắn liền với Art
Nouveau), người hoạ sĩ cấp tiến đã bước chân vào vũ đài quốc
tế của Chủ nghĩa Biểu tượng năm 1897 sau khi ông khởi xướng
nhóm Vienna Secession.
Nước đi này đồng nghĩa với việc ông chối bỏ hệ thống triển lãm
salon và các tổ chức hàn lâm khác để tiếp tục phát triển theo
chiều hướng hiện đại, trừu tượng hơn, với nội dung gây tranh cãi
nhiều hơn, phản ánh các khám phá mới của nhà tâm lý học
Freud.
Đóng góp của ông đối với chủ nghĩa Biểu tượng nằm ở chỗ
nhiều tác phẩm của ông, dù mang phong cách Biểu tượng về mặt
nội dung, hướng tới việc thống nhất nghệ thuật và thủ công theo
cách giống như trong thẩm mỹ Art Nouveau, nhưng khác với các
hoạ sĩ Biểu tượng mà quan tâm đến “nghệ thuật vị nghệ thuật”.
GUSTAV KLIMT
CHÂN DUNG ADELE BLOCH-BAUER,1907 I

CHÂN DUNG FRÄULEIN LIESER,1917


THE KISS, 1907
THE DANCE OF LIFE,1899

ANXIETY,1894

AT THE ROULETTE TABLE IN MONTE CARLO,1892


GUERNICA CÔ DÂU CỦA GIÓ (THE BRIDE OF THE WIND)

PABLO PICASSO (1881-1973)

Trong thời kỳ Xanh và thời kỳ Hồng,


OSKAR KOKOSCHKA (1886-1990)
cũng về bản chất là một hoạ sĩ Biểu
tượng,khi mà ông nắm bắt lấy những - Tác phẩm của hoạ sĩ Biểu hiện Oskar Kokoschka:
chủ đề phổ biến trong chủ nghĩa Biểu ví dụ như Cô dâu của gió (The Bride of the Wind)
tượng như chú hề để tượng trưng cho (1914), trong đó ông gợi đến biểu tượng quen
kẻ ngoài xã hội. thuộc là đôi tình nhân trên con thuyền.

Tuy vậy, trong những năm dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, có một

CÁC HIỆN THÂN SAU NÀY


sự bất bình ngày càng tăng đối với sự tỉa tót quá mức và sự tối nghĩa
trong các tác phẩm Biểu tượng, khi mà nhiều hoạ sĩ khát khao hướng tới
cái thô sơ và “nguyên thuỷ”, với mong muốn mang lại một thế giới mới –
kể cả khi chiến tranh là một phần của câu trả lời.
3. XU HƯỚNG

Xu hướng ưa thích sự chết chóc và đồi truỵ, gắn liền với khái niệm này, vì khoảng
thời gian này thường được mô tả như là thời kỳ của “sự suy đồi” (thời kỳ đặc
trưng bởi sự thụt lùi trong nghệ thuật và đạo đức, như được thấy qua sự ưa
chuộng cái giả tạo hơn là cái tự nhiên.
CÁC TÁC PHẨM NỔI BẬT CỦA
TRÀO LƯU CHỦ NGHĨA BIỂU TƯỢNG
JUPITER AND SEMELE:
GUSTAVE MOREAU
-1895-
Bức tranh Jupiter và Semele minh hoạ
câu chuyện thần thoại kể về tình yêu
giữa Jupiter, vua của các vị thần, và
Semele (hoá thân của điều trần tục).
Bức tranh này tượng trưng cho sự kết
hợp của con người với thánh thần mà sẽ
kết thúc bằng cái chết.

Chủ đề cái chết, sự thối nát và phục sinh,


tất cả đều xuất hiện trong bức tranh này.
CÁI CHẾT VÀ NHỮNG CHIẾC MẶT NẠ
JAMES ENSOR- 1897
Với một nụ cười ghê rợn, những biểu cảm đa chiều
nhưng nó vẫn chỉ như là chiếc mặt nạ cố gắng che
giấu sự rỗng tuếch trong linh hồn của giai cấp tư
sản và sự suy đồi của thời đại. Cách bố trí đông
đúc gợi ý rằng đây có thể là một vấn đề nhức nhối
và nó là lời phê bình của họa sĩ về xã hội hiện đại.

Hoạ sĩ đã dùng bảng màu nhẹ nhàng, tươi sáng


để gợi sự kỳ dị và vô lý, đồng thời áp dụng cách vẽ
màu thô ráp và tạo kết cấu bề mặt để chỉ độ sâu
và nỗi kinh hoàng về sự bất ổn của thời đại.
CON MẮT GIỐNG NHƯ MỘT QUẢ KHINH KHÍ CẦU KỲ LẠ TRÔI VỀ PHÍA VÔ CỰC
(THE EYE LIKE A STRANGE BALLON MOUNTS TOWARD INFINITY)
ODILON REDON-1882
Độc nhãn – con mắt thấu rõ mọi việc ở thế gian
của Thượng đế – là một biểu tượng cổ, nhưng ở
đây nó đã được biến đổi. Con mắt với kích cỡ lớn
là biểu tượng linh hồn bay khỏi xác thân của
những thứ đã chết dưới đầm lầy. Nó như một quả
khinh khí cầu đang hướng lên trên, về phía thánh
thần, mang theo đầu lâu của người đã khuất.
_
_
_
_
_
_
_

Tác phẩm gợi cảm giác thần bí trong một thế giới
mộng tưởng. Thế nhưng, các tác phẩm của Redon
không nên bị nhầm lẫn với chủ nghĩa Siêu thực, vì
chúng nhằm tạo ra một ý tưởng cụ thể, mạch lạc
BA CÔ DÂU-JAN TOOROP
1893
Những nhân vật gầy gò với cánh tay
khẳng khiu và cử chỉ dứt khoát trong
tranh Ba cô dâu (The Three Brides)
có nguồn gốc từ các nghệ nhân hát
múa rối của người Java. Người họa
sĩ đã dựng nên một câu chuyện ngụ
ngôn về ba trạng thái của linh hồn,
gồm cô dâu dâng tặng Chúa, cô dâu
dâng tặng cho tình yêu thế gian, và
cô dâu Satan.
CÁI CHẾT VÀ SỰ SỐNG - GUSTAV KLIMT
1908-16
Trong sự nâng cấp của chủ đề vanitas (sự phù phiếm
của cuộc sống thế tục) thế kỷ 17 này, cái Chết nhìn chằm
chằm xuyên qua không gian âm trong khi sự Sống bộc lộ
chính mình qua những nhân vật xuất hiện, tồn tại, và đi
qua khỏi tồn tại; họ ra đời, sống và chết như một phần
dòng chảy vĩ đại của cuộc sống.

Bức tranh Cái chết và sự sống (Death and Life) này


thuộc về chủ nghĩa bi quan thời thượng của thời đại ấy,
trong đó xác định rằng vũ trụ được thúc đẩy bởi các thôi
thúc tính dục (trái ngược với việc đó là tội lỗi), là một
phần của động lực sinh sản mù quáng.
THÀNH TỰU
CỦA TRƯỜNG PHÁI
BIỂU TƯỢNG
SỰ ĐỔI MỚI NGHỆ THUẬT: ẢNH HƯỞNG LÂU DÀI: MỞ RỘNG NỀN VĂN HÓA VÀ TÂM LÝ HỌC:
Làm thay đổi cách tiếp cận nghệ Trong thế kỷ 20, Symbolism vẫn Symbolism đã giúp mở rộng
thuật, đặc biệt là trong việc sử tiếp tục ảnh hưởng đến nhiều cách nhìn nhận về nền văn hóa
dụng hình ảnh và biểu tượng để trào lưu nghệ thuật khác như Art và tâm lý học. Việc chú trọng vào
thế giới tưởng tượng và tâm hồn
truyền đạt ý nghĩa thâm tâm. Nó Nouveau, Surrealism và Dada.
con người đã làm phong phú
đã mở đường cho sự tự do sáng Tác động của nó còn rõ ràng thêm các khía cạnh văn hóa và
tạo và tập trung vào khám phá trong nhiều lĩnh vực khác như nhân văn.
các khía cạnh tâm linh và tâm văn hóa, văn học, và thậm chí là Mở Rộng Nền Văn Hóa và Tâm
hồn. trong thiết kế và kiến trúc Lý Học: Symbolism đã giúp mở
rộng cách nhìn nhận về nền văn
hóa và tâm lý học. Việc chú
trọng vào thế giới tưởng tượng
và tâm hồn con người đã làm
phong phú thêm các khía cạnh
văn hóa và nhân văn.
KẾT
Chủ nghĩa biểu tượng là một phong trào nghệ thuật đã để lại dấu ấn mạnh
mẽ trong lịch sử mỹ thuật thế giới. Từ những tác phẩm tiêu biểu như:
Jupiter and Semele - Gustave Moreau (1895), Cái Chết và những chiếc
mặt nạ - James Ensor (1897), Ba cô dâu - Jan Toorop (1893),... đã nhấn
mạnh việc truyền đạt ý tưởng tài ba thông qua biểu tượng , đường nét,
khối, và màu sắc.

Tuy xu hướng trong trào lưu này chủ yếu là sự chết chóc và đồi truỵ nhưng
chính vì tài năng và tư duy đỉnh cao của những người họa sĩ đã khiến cho
trào lưu từng được xem là “sự suy đồi của đạo đức” trở thành phong trào

LUẬN
tiên phong của nghệ thuật Hiện đại trong việc diễn đạt suy nghĩ và tư duy
cá nhân của người nghệ sĩ vào trong tác phẩm.
THANK YOU
LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI. NHÓM 3

You might also like