You are on page 1of 4

Mở: Không cuồn cuộn tuôn về biển Đông như dòng sông Bạch Đằng, không hùng vĩ tạo

khúc hát
hùng ca như sông Đà hay đẹp một cách xót xa kì ảo như dòng sông Đuống trôi nghiêng trong thơ
Hoàng Cầm, sông Hương bao đời vẫn mang vẻ mê hoặc quyến rũ riêng khiến có người gắn bó cả
đời với Huế vẫn phải thảng thốt: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Giờ học này, mời các em hãy cùng đến với bài bút kí nổi tiếng Ai đã đặt tên cho dòng sông? để cảm
nhận vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trong tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình
với quê hương xứ sở.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Sinh 9/9/1937 tại thành phố Huế, học trung học và đại học ở Huế, nhiều năm sống và hoạt động
cách mạng, công tác tại Huế, gắn bó với đất và người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh
hồn văn hóa xứ sở. Là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ông có
làm thơ, viết nhàn đàm (bàn chuyện thế sự hàng ngày), nhưng sở trường vẫn là bút kí, tùy bút.
“Trong bút kí, HPNT phát hiện ra nhiều giá trị nghệ thuật mới mẻ, đẹp đến nao lòng, nhân ái ngập
tràn từng trang viết”…giống như những vỉa than đá “Than đá là quá khứ của trái đất, nhưng than
đá không bao giờ cũ, nó bị dồn nén cồn cào trong lòng đất và luôn đòi bốc cháy” (Ngô Minh).
- Phong cách nghệ thuật: Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử…
Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm trầm, sâu
lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.
2. Tác phẩm
2.1. Xuất xứ - Viết tại Huế, 1/ 1981, rút từ tập ký cùng tên (gồm 8 bài viết về nhiều đề tài. Có bài
đậm chất sử thi ngợi ca đất nước và con người Việt Nam như Rừng hồi, Ai đã về châu xưa, Đời
rừng, Đứa con phù sa, Cồn Cỏ ngày thường; có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó bộc
lộ lòng gắn bó với quê hương đất nước, đặc biệt là những bài kí viết về thiên nhiên và con người
Huế: Hoa trái quanh tôi, Về cây Panhxô và khẩu súng của Trường, Ai đã đặt tên cho dòng sông...),
XB năm 1984.
- Lấy Ai đã đặt tên cho dòng sông làm nhan đề cho tập bút kí, là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn.
- Là bút kí dài, có nhân vật, có lời thoại, gồm có ba phần: Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên
của sông Hương. Phần hai và ba là phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương.
- Đoạn trích này nằm ở phần một, có lược bỏ một số đoạn. Phần văn bản của đoạn trích thiên về tùy
bút, với “nhịp điệu hết sức chậm rãi...nghiêng hẳn về chất thơ thi vị ngọt ngào” (Trần Đình Sử, Lí
luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, H, 1996, tr 254) .
- Thuộc phần một, nhưng đoạn trích không chỉ đề cập tới cảnh quan thiên nhiên sông Hương xứ
Huế mà còn thấy được sự gắn bó với lịch sử và văn hóa của cố đô Huế. Nó tiêu biểu cho văn phong
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2.2. Bố cục: Đoạn 1 (từ đầu - dưới chân núi Kim Phụng): Sông Hương nhìn từ nguồn cội.
- Đoạn 2 (tiếp – quê hương xứ sở): Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế.
- Đoạn 3 (còn lại): Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca..
2.3. Thể loại
- Tính xác thực là đặc trưng cơ bản của Kí. Kí cũng có thể hư cấu, nhưng liều lượng giới hạn và
không thể xa rời thực tiễn. Là thể loại in đậm dấu ấn hình tượng tác giả, ngôn từ trong kí chủ yếu là
ngôn ngữ trực tiếp của tác giả. Nhà văn kể, phân tích, luận giải, đánh giá những sự việc. Là thể loại
nhanh nhạy, kí phản ánh kịp thời những vấn đề sôi bỏng của đời sống, ngôn ngữ gần với cuộc sống
đời thường.
+ Kí có nhiều tiểu loại: kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, hồi kí, tùy bút...Bút kí là thể loại ghi chép
các sự kiện, qua đó ghi lại những cảm xúc suy nghĩ của tác giả. Tùy bút là một thể loại của kí,
nhưng đó là thể giàu chất trữ tình nhất, khá tự do trong quá trình sáng tạo. Ngôn ngữ trong tùy bút

1
giàu hình ảnh, giàu chất thơ...Trong thành tựu của kí không thể không khắc đến Nguyễn Tuân,
Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, HPNT....
- Đặc điểm cơ bản của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường: + Kí HPNT bộc lộ một trí tuệ sắc sảo uyên bác.
+ Kí HPNT thiên về tùy bút. Thể loại chuyên ghi chép các sự việc xác thực qua ngòi bút HPNT lại
thấm đẫm chất trí tuệ, nặng trĩu nỗi trầm tư.
+ Kí HPNT thường có tính chất tự do tản mạn. Cách tổ chức văn bản thường mang tính nghệ thuật
cao, văn phong giàu chất thơ, hình ảnh gợi cảm.
+ Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí HPNT là lòng yêu quê hương đất nước, là tâm huyết với
tinh hoa dân tộc.
II. Đọc hiểu văn bản
“Quê hương ai cũng có một dòng sông”, nên dòng sông luôn là một hình ảnh biểu tuợng cho quê
hương. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, sông Hương chính là Huế. Dòng sông “vừa là một
cảnh quan thiên nhiên, vừa là một thành phần của văn hóa phi vật thể của cố đô Huế”; và là “tấm
lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
1. Hình tượng sông Hương trong vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên
1.1. Vẻ đẹp sông Hương nhìn từ nguồn cội
+ Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một “bản trường ca của rừng
già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn- hùng tráng.- Mãnh liệt vượt
qua ghềnh thác- ào ạt.- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu- dữ dội.
- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng- nên thơ, tình tứ, mê
đắm.
+ Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”, với “bản lĩnh
gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Vẻ đẹp nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt hoang sơ.
Không chỉ ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn cội để khám phá vẻ
đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc lộ.
Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ đẹp của Sông Hương: Người ta hay nghe tới sông
Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết tới phần dữ dội, mê
hoặc, khó cưỡng của dòng sông.
1.2. Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế
+ Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi”- hành trình về cố đô được hình dung
như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của người con gái.
+ Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi”
- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”- gợi nhớ truyện cổ tích
“Công chúa ngủ trong rừng”- vẻ đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ.
- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột’, “vẽ một hình
cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng
sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột”- linh hoạt, rạo rực sức trẻ và sự khao khát.
- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”
- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang nhiều màu sắc”; “ sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím”
- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc…như triết lí, như cổ thi”- so sánh độc đáo, giàu sức gợi-
tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ - nổi bật vẻ
thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm
tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn năm của dòng nước, thấp thoáng hình ảnh một “cái tôi” giàu suy
tư.
- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung
Nhận xét:
• Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc thôi ngưòi ta đã thấy
bao tầng sâu văn hiến, nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn.
2
• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế.
+ Sông Hương khi chảy vào thành phố:
- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên, đó là tâm trạng của một
người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc của quê hương.
- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, làm cho dòng
sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Một so sánh lạ, dùng tiếng
“vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình
dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông, thể hiện cái nhìn tình tứ, thống nhất, đem lại cho
người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.
- Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ:
• So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, những tên sông đã trở
thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu tượng văn hóa của quốc gia, ngầm thể hiện lòng tự
hào về sông Hương và kinh thành Huế. (Liên hệ với Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”: đặt
các triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa)
• Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va, lâu năm xa Huế:
Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên
con tàu thủy tinh để đi ra biển. Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp
cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo… Hai nghìn năm
trước: triết gia Hi Lạp “khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh”. Nhớ lại con sông Hương:
“quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành phố”, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy qua kinh thành Huế: điệu
chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không vương vấn chút nào cái xô bồ của thời gian, sự nuối
tiếc của con người vì mọi thứ một đi không trở lại. Sông Hương nguyên sơ, trăm năm không đổi
thay, như mang thần thái, quan niệm vũ trụ tuần hoàn của Phương Đông, như điệu chảy thời gian
bất di bất dịch trong thơ ca cổ điển Việt Nam và Trung Hoa. Sông Hương mang cảm nghiệm thời
gian và niềm tự hào của nhà thơ.
- Sông Hương “trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước”: người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya liên tưởng:
• Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn
với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống, gợi nhắc đến
sông Nile, sông Hằng, Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế
giới, nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.
• Nguyễn Du và Truyện Kiều là linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt Nam. Dòng sông mang
những thổn thức của cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc, là dòng
chảy vắt từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay.
+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:
- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.
- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối
- Liên tưởng: Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây, nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín
đáo của tình yêu.
• So sánh: sông Hương, kinh thành Huế - nàng Kiều, Kim Trọng với Tấm lòng người dân Châu Hóa
xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Có ba so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt
chia tay kinh thành Huế - Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người
Châu Hóa mãi thủy chung với xóm làng. Từ dòng chảy khác lạ của dòng sông liên tưởng tới mối
tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều, so sánh với tình yêu quê hương xứ sở của
người Huế. Nhà văn đã mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu
nước không chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị; tinh tế mà đằm thắm, thiêng liêng, sâu sắc.
1.3. Tiểu kết
3
- Không chỉ là hình ảnh dòng chảy lắng hồn thiêng xứ sở, dòng sông còn mang nhiều biểu tượng
khác. Dòng sông là biểu tượng cho lẽ vô thường, biểu hiện cho sự biến dịch của tự nhiên, dòng
sông luôn biến dịch không ngừng theo thời gian, không chỉ theo mùa mà còn trong từng khoảnh
khắc của một ngày, “Sông Hương rất nhạy cảm với ánh sáng, nó thay màu nhiều lần trong một ngày
như hoa phù dung và đôi khi màu nước không biết từ đâu mà có, không giống với màu trời. Đó là
một nét động trong cái tĩnh của thành phố...” (Sử thi buồn). Là biểu tượng cho lẽ vô thường, nên
dòng sông cũng đồng thời là biểu tượng cho đời người. Người Trung Hoa cũng cho rằng 64 quẻ
trong Kinh dịch, quẻ kí tế (đã qua sông) lại ở trước quẻ vị tế (chưa qua sông) mang một ý nghĩa thật
sâu xa về cuộc đời, nói lên cuộc hành hương vô tận của con người trong thời gian, vũ trụ. Đúng
là trong mỗi con người cũng có những dòng sông, là “những dòng máu, vận hành trong lẽ tuần
hoàn của vũ trụ và chuyên chở biết bao điều huyền nhiệm của cuộc sống”. Ngược lại, mỗi
dòng sông cũng gói trong lòng nó biết bao thân phận đời người. Tiếp nhận sông Hương từ
phương diện triết học, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta thấy rõ hơn sự ám ảnh về nỗi bất lực của kiếp
người hữu hạn trước dòng trôi vô thủy vô chung của thời gian. Nhìn dòng Hương trôi chảy, ông nhớ
đến xưa kia: “Có một người Hi Lạp tên là Hêraclit đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá
nhanh!”. Thời gian với những quy luật nghiệt ngã của mất - còn luôn là nỗi trăn trở của loài người.
Sông đây đã chảy, đang chảy và vẫn sẽ luôn chảy nhưng bờ sông bồi lở, vật đổi sao dời, đời dâu bể
và cái gì còn, cái gì mất? Đọc tác phẩm Thiên văn của Nguyễn Huy Thiệp, ta cũng thấy bi kịch đau
đớn này: Này nhé: này là dòng sông/ Định mệnh cứ cuồn cuộn chảy/ Bồi và lở. Thấu hiểu hơn ai
hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập thế, sống hết mình, hòa cái tôi của mình vào dòng chảy cuộc
sống để nâng niu trân trọng những giá trị đang hiện hữu. Mà có lẽ cũng vì thế, ông mới yêu quý tha
thiết “điệu chảy lặng lờ” như “điệu slow tình cảm” của sông Hương khi nó ngang qua thành phố...

You might also like