You are on page 1of 21

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH LÀM RÕ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA HAI
CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
VÀ CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1954 - 1975

Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG


GVHD: Phan Khánh Bằng
Lớp học phần: 231DL0620
Nhóm 4

TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2023


1
MỤC LỤC

A. Chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc........................5


I. Hoàn cảnh lịch sử ở miền bắc.................................................................5
II. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc ................................................5

B. Chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền nam....................12
I. Bối cảnh lịch sử ở miền nam...................................................................12
II. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam.................................12

C. Mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng ở miền
Bắc và miền Nam trong giai đoạn 1954-1975
...............................................................................................................
17
I. Vai trò cách mạng ở miền bắc.................................................................17
II. Vai trò cách mạng miền nam...................................................................17
III. Mối quan hệ biện chứng..........................................................................18

2
MỞ ĐẦU

Để đất nước Việt Nam ta có được độc lập tự do như ngày hôm nay phải trải qua biết
bao gian khổ, hy sinh của ông cha, đó là sự nghiệp đấu tranh lâu dài, bền bỉ, phải
đoàn kết, hợp sức, phát huy lòng yêu nước tự bên trong và tranh thủ sự ủng hộ, giúp
đỡ từ bên ngoài của quốc tế. Giai đoạn 1945- 1975 có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, có nhiều khó khăn thách thức đặt ra cho nước ta nhưng
với tư duy lãnh đạo của Đảng, tinh thần đoàn kết đấu tranh của toàn thể dân tộc thì
chúng ta đã đi đến thắng lợi. Nhóm 4 sẽ đi tìm hiểu về giai đoạn này, cụ thể là phân
tích làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng, Cách mạng Xã
hội Chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân ở miền Nam.

3
PHẦN NỘI DUNG
A. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN BẮC

- Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 20/7/1954, quân Pháp rút khỏi miền Bắc
nước ta (5/1955). Tuy nhiên, hội nghị hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc để tổ
chức Tổng tuyển cử chưa được tiến hành. Mỹ thay thế Pháp, đưa tay sai lên nắm
chính quyền ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt đất nước ta làm hai miền và
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của chúng. Việt Nam tạm
thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc đã
hoàn toàn được giải phóng, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Trong giai đoạn này, miền Bắc gặp nhiều thách thức và khó khăn như chống giặc
đói, chống giặc dốt. Quốc gia mới thành lập phải xây dựng lại hạ tầng hủy hoại sau
chiến tranh và đối mặt với những tác động của việc chia cắt đất nước. Ngoài ra, sự
can thiệp của quân đội Mỹ và liên minh Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng
hoảng trong miền Bắc Việt Nam.

II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC


1. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
- Vào tháng 9/1954 Bộ chính trị đề ra nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân.
- Ngày 16/5/1955 đấu tranh đòi Pháp rút khỏi miền Bắc và toàn bộ quân viên chính
Pháp cùng với tay sai phải rút khỏi miền Bắc.
- Đảng chỉ đạo khôi phục sản xuất nông nghiệp kết hợp cải cách ruộng đất. Ngày
7/1956 đã căn bản hoàn thành, tuy nhiên đã phạm những sai lầm nghiêm trọng, do
giáo điều, không xuất phát từ thực tiễn. Đảng đã chỉ đạo công tác sửa sai trong năm
1956 - 1957.
- Vào tháng 11/1958, Bộ chấp hành trung ương họp lần 14, đề ra kế hoạch 3 năm phát
triển kinh tế, văn hoá và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960). Từ đó miền Bắc được
củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho
cách mạng Việt Nam.

2. Sự nghiệp cách mạng ở miền Bắc (1954-1965)


a. Hoàn thành cải cách ruộng đất (1954-1957)
- Mục tiêu chính của cải cách ruộng đất ở miền Bắc là tạo ra một hệ thống ruộng
đất mới có tính công nghiệp hóa và hiệu quả hơn, nhằm tăng sản xuất nông

4
nghiệp và cải thiện đời sống của người dân nông thôn. Cải cách ruộng đất được
triển khai theo các giai đoạn và phương pháp khác nhau.
 Thành tựu của cải cách ruộng đất
- Sau 5 đợt cải cách ruộng đất đã thu 81 vạn ha ruộng, 10 vạn trâu bò, l,8 triệu nông
cụ từ tay địa chủ chia cho 2 triệu hộ nông dân. Khẩu hiệu ''Người cày có ruộng'' trở
thành hiện thực, xóa bỏ triệt để chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến.
- Kết quả của cải cách ruộng đất đã thay đổi bộ mặt nông thôn ở miền Bắc, đánh đổ
giai cấp địa chủ phong kiến và củng cố khối công nông liên minh.
b. Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Miền Bắc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất(1961-1965)
- Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), miền Bắc của nước ta đã bắt tay vào
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố hoàn thiện quan điểm.
- Mục tiêu của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất là xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian này xuất hiện nhiều phong trào thi đua
yêu nước diễn ra sôi nổi đặc biệt là phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì một
miền Nam ruột thịt”.
 Công nghiệp:
- Về công nghiệp, Đảng ta chủ trương trước tiên phải chú trọng khôi phục và phát triển
công nghiệp nhẹ; đồng thời củng cố và phát triển các cơ sở công nghiệp nặng trong
phạm vi cần thiết và có khả năng.
- Giá trị sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với 1960. Một số khu
công nghiệp nặng như:khu gang thép Thái Nguyên, nhiệt điện Uông Bí.
- Công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93% tổng giá trị sản lượng công nghiệp
miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo.
- Công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công đã giải quyết được 80% hàng tiêu dùng thiết yếu cho
nhân dân. Một số khu công nghiệp nhẹ như:khu công nghiệp Việt Trì, dệt 8-3…
 Nông nghiệp:
- Hai ngành phát triển mạnh mẽ nhất là chăn nuôi và nông nghiệp , diện tích canh tác
mở rộng , năng suất lao động không ngừng tăng lên. Năm 1965, miền Bắc chỉ có 7
huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha/năm . Đến năm 1967 tăng lên 30
huyện, 2.628 hợp tác xã và đạt mức sản lượng cao.
- Đại bộ phận nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp.
 Thương nghiệp:

5
- Thương nghiệp quốc doanh được ưu tiên phát triển. Góp phần phát triển kinh tế.
Củng cố quan hệ sản xuất mới. Ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

 Hệ thống giao thông:


- Nhân dân miền Bắc đã bất chấp bom đạn, ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu
giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc-Nam, đáp ứng
nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam.
- Đường bộ, đường sắt, đường liên tỉnh, đường sông, đường hàng không được củng cố.
 Giáo dục - y tế:
- Giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh. Đặc biệt là giáo dục đại học, số
sinh viên tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá hoại, số cán bộ có trình độ đại
học năm 1965 là 20.000, đến năm 1969 là 40.000.
- Xây dựng 6.000 cơ sở y tế, xóa bỏ nhiều dịch bệnh.
- Mặc dù kế hoạch này phải bỏ dở, vì từ ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ tiến hành chiến
tranh phá hoại miền Bắc nhưng những kết quả đạt được là rất đáng tự hào.

3. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mĩ vừa thực hiện
nghĩa vụ hậu phương lớn(1965-1973)
a. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ
(1965-1968)
 Âm mưu của Mĩ
- Nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự, phá công xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.
- Ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần, làm nhụt chí đánh Mĩ của quân dân ta ở hai miền.
 Thủ đoạn của Mĩ
- Mỹ dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ (10/07/1964)” ném bom bắn phá một số nơi và
đến 02/1965 lấy cớ “trả đũa” quân ta tiến công Mỹ ở Plây-ku, chính thức gây ra cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.
- Mỹ huy động không quân, hải quân và các vũ khí hiện đại khác... đánh vào các mục
tiêu quân sự, giao thông, nhà máy, trường học, bệnh viện, nhà trẻ...
- Ngày 7/2/1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới , đảo Cồn Cỏ,
chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
 Diễn biến của chiến dịch

6
- Sau khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ (8.1964) và thực hiện các hoạt động gây hấn,
đánh phá một số vùng ven biển miền Bắc VN, ngày 7.2.1965 lấy cớ "trả thù việc
Quân Giải phóng miền Nam VN tấn công căn cứ Mỹ ở Pleiku", Mỹ chính thức phát
động chiến tranh xâm lược miền Bắc VN.
- Mở đầu là chiến dịch Mũi lao lửa (7 - 11.2.1965), đánh phá các cơ sở quân sự và khu
dân cư ở Vĩnh Linh, Quảng Bình; từ ngày 2.3.1965, mở chiến dịch Sấm rền
(2.3.1965 - 31.10.1968) từng bước leo thang chiến tranh, tăng quy mô sử dụng không
quân đánh phá miền Bắc với nhiều loại máy bay hiện đại, nhất là B-52 (từ 4.1966).
- Trong 4 năm (1965-68), không quân Mỹ đã tiến hành hơn 190.000 trận, thả hơn
700.000 tấn bom vào những cơ sở quốc phòng, đầu mối giao thông, cơ sở hạ tầng
kinh tế và khu dân cư. Song song với việc dùng không quân, từ tháng 10.1966, Mỹ
cũng huy động lực lượng lớn hải quân đánh phá các mục tiêu ven biển đồng thời
chặn đường vận chuyển chi viện trên biển từ miền Bắc vào miền Nam (xem chiến
dịch Ven biển, tháng 10.1966-10.1968).Quân và dân miền Bắc xây dựng và củng cố
lực lượng hải quân, phòng thủ ven biển của ba thứ quân, tổ chức đề phòng và đánh
chặn có hiệu quả, bắn hạ 3.243 máy bay (có 6 B-52 va 3 F-111), bắn rơi, bắn chìm
143 tàu chiến, tàu biệt kích của Mỹ.
- Bị thất bại trên cả hai miền Nam, Bắc VN, từ 31.3.1968 Mỹ buộc phải ngưng ném
bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào; ngày 1.11.1968, tổng thống Mỹ Giônxơn tuyên
bố ngưng ném bom bắn phá miền Bắc.
 Kết quả
- Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc, ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ
Johnson tuyên bố ngừng ném bom, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần
thứ nhất, đồng thời chuyển hướng sang thực hiện Chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh".

b. Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2

 Âm mưu của Mĩ
- Mỹ mong muốn tiến công vào hạ tầng kinh tế và quốc phòng của Bắc Việt Nam, làm
suy yếu khả năng sản xuất và quản lí tài nguyên quân sự của đối phương. Điều này
nhằm mục đích gây tổn hại đáng kể đối với sức mạnh phòng thủ của Bắc Việt Nam.
- Mỹ tiến hành cuộc tấn công B-52 với mục đích là làm suy yếu cơ sở hạ tầng kinh tế
và quân sự của Bắc Việt Nam. Việc tấn công các cơ sở sản xuất, cầu đường, nhà máy
điện, và các cơ sở khác như căn cứ không quân và nhà máy vũ khí nhằm làm suy
giảm khả năng sản xuất và hồi phục của Bắc Việt Nam sau mỗi cuộc tấn công. Điều
này cản trở khả năng duy trì cuộc kháng chiến và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Bắc Việt Nam.

7
- Ngăn chặn nguồn cung ứng từ bên ngoài: Mỹ muốn ngăn chặn nguồn chi viện quân
sự và trợ giúp tài chính từ các nước xã hội chủ nghĩa và những nước ủng hộ Bắc Việt
Nam. Việc tấn công các cơ sở hạ tầng ở Bắc Việt Nam sẽ là một cách để ngăn chặn
việc xâm lược.
- Mỹ muốn cắt đứt nguồn viện trợ do các quốc gia và tình báo phương Tây cung cấp
cho Bắc Việt Nam. Việc tấn công các căn cứ cơ động của Bắc Việt Nam tại cảng Hải
Phòng và sân bay Gia Lâm nhằm ngăn cản việc tiếp nhận viện trợ quân sự và kinh tế
từ những quốc gia đồng minh.
- Uy hiếp tinh thần và tâm lý chống Mĩ: Mỹ sẽ muốn gây sức ép tâm lý đối với dân và
quân Bắc Việt Nam, với mục đích khiến cho họ từ bỏ tinh thần đấu tranh chống lại
Mỹ và chính quyền miền Nam Việt Nam. Tấn công Bắc Việt Nam sẽ là cách để
chứng tỏ ý chí quyết tâm của Mỹ và gây ra nỗi sợ hãi trong lòng đối phương.
- Mỹ muốn gửi thông điệp rằng họ có thể tiến hành các cuộc tấn công mạnh mẽ và
không ngừng nghỉ vào Bắc Việt Nam để tạo ra sự sợ hãi và nghi ngờ trong tâm trí
quân và dân Bắc Việt Nam. Tấn công Bắc Việt Nam với sự ác liệt và sự sử dụng của
các loại vũ khí tàn bạo như bom B-52 có thể thúc đẩy tâm lý sợ hãi và làm nảy sinh
sự nghi ngờ về khả năng chiến đấu và chống lại Mỹ.
- Tất cả những điều này cùng nhau tạo nên một mục tiêu chính cho Chiến tranh phá
hoại miền Bắc lần 2 của Mỹ: làm suy yếu tiềm lực kinh tế và quốc phòng của Bắc
Việt Nam, ngăn chặn nguồn hỗ trợ từ bên ngoài và tạo áp lực tinh thần lên quân và
dân Bắc Việt Nam để đạt được lợi ích và mục tiêu chính trị của Mỹ trong cuộc chiến
tranh Việt Nam.
 Thủ đoạn của Mĩ
- Đến ngày 6/4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai được Tổng thống
Mĩ Ních-xơn chính thức phát động.
- Để cuộc chiến tranh bảo đảm phần thắng và tiết kiệm thời gian Mĩ sử dụng máy bay
chiến lược B52 đánh phá một vài địa phương như Nghệ An, Hải Phòng, Thanh Hoá,
Quảng Bình,...

- Tổng thống Mĩ Ních-xơn tiến hành chiến dịch tập kích đường không với tên là "chiến
dịch Linebacker 2" đánh phá miền Bắc nước ta vào ngày 7/12/1972

 Diễn biến của chiến dịch


- Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của Mỹ (thường được gọi là Chiến dịch
Linebacker II) diễn ra vào khoảng cuối năm 1972 và đã có một diễn biến quan trọng
đối với cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Cuộc tấn công B-52: Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 bắt đầu vào ngày
6/4/1972 và diễn ra dữ dội hơn, tập trung vào việc sử dụng máy bay chiến lược B-52

8
của Mỹ nhằm tấn công các cơ sở quân sự ở Bắc Việt Nam. Các tỉnh thành gồm Nghệ
An, Hải Phòng, Thanh Hoá và Quảng Bình đã bị tấn công.
- Sự phản kháng của quân và dân Việt Nam: Mặc dù cuộc tập kích B-52 của Mỹ đã
gây nhiều tổn thất nghiêm trọng đối với Bắc Việt Nam, quân và dân Việt Nam đã
phản kháng mạnh mẽ. Họ đã chiến đấu kiên cường và giành được chiến thắng lớn
trong cuộc tập kích đường không của Mỹ

- Hạ gục máy bay B-52: Quân và dân Việt Nam đã hạ gục hàng loạt máy bay B-52 của
Mỹ, bao gồm cả việc sử dụng tiểu đoàn 57, 77, 79 để bắn rơi nhiều máy bay B-52
trong thời gian ngắn ngủi. Điều này đã góp phần thay đổi cục diện của cuộc chiến
tranh.

 Kết quả
- Cuộc tập kích đường không của Mỹ, được biết đến là "Chiến dịch Linebacker II,"
kéo dài suốt 12 ngày đêm và chấm dứt vào ngày 19/12/1972. Tổng cộng, Mỹ đã thả
hơn 6.600 quả bom xuống Thủ đô Hà Nội và các thành phố lân cận, gây nhiều
thương vong nặng nề. Chiến dịch này không dẹp bỏ khả năng quân và dân Việt Nam
chiến đấu, vì nó không thuyết phục Bắc Việt Nam chấp thuận điều khoản hoà bình
Hoa Kỳ đề ra. Tuy nhiên, nó đã đẩy Hoa Kỳ vào cuộc xung đột tại Paris và góp phần
khiến cho cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng kéo dài thêm.
 Ý nghĩa chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai
- Chiến thắng vang dội của quân và dân miền Bắc tại trận "Điện Biên Phủ trên không"
tháng 12 năm 1972 được thể hiện rõ qua tổn thất của Mỹ. Chỉ trong vòng 1 tháng
(6/4 – 8/5/1972) quân ta đã bắn hạ 90 máy bay địch, bắn cháy 20 tàu chiến và bắt
sống nhiều giặc lái. Song song với đó quân dân miền Bắc cũng đảm bảo thông suốt
những trục đường trọng yếu chi viện vào tiền tuyến miền Nam.
- Quân và dân miền Bắc đã bắn chìm 81 chiếc, bao gồm: 34 chiếc B. 52, 2 chiếc
RA5C, 12 chiếc A7, 21 chiếc F4CE, 4 chiếc A6A, 1 chiếc máy bay không người lái
147SC, 5 chiếc F111A, 1 chiếc F105D, 1 chiếc trực thăng HH53, bắn rơi và làm
hỏng 9 tàu chiến; diệt và bắt sống hàng trăm phi công Mỹ.
- Ngày 15/1/1973 vì bị tổn thất quá nặng, Mỹ tuyên bố chấm dứt hoàn toàn chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần 2. Ngừng toàn bộ hoạt động đánh phá miền Bắc để thực hiện
hiệp định Pari. Kết quả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của quân và dân ta
kết thúc thắng lợi.
- Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của Đế quốc
Mỹ đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Chiến thắng đã góp phần làm thay đổi cơ bản
cục diện chiến tranh,quyết định thành công của công cuộc chống Mỹ cứu nước của
nhân dân Việt Nam.

9
c. Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn

- Suốt 21 năm chiến tranh, kể từ sau Nghị quyết Hội Nghị BCHTW lần thứ 15 của Đảng
(1959), miền Bắc tổ chức chi viện đầy đủ sức người, sức của cho miền Nam, cho
cách mạng Lào và sau đó, cho cách mạng Campuchia. Sự chi viện như vậy là to lớn,
toàn diện, liên tục, với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
- Năm 1959, miền bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm 1964, con số ấy tăng lên hơn
17 nghìn. Trong thời kỳ xảy ra các trận tấn công chiến lược (1968,1972,1975), nhân
lực huy động ở miền Bắc đáp ứng yêu cầu chiến đấu tăng gấp bốn, năm lần so với
năm trước. Chưa tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực lượng chi viện chiến lược,
chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chi tính riêng số quân chuyển vào miền
Nam trong những năm tiếp theo kể trên như sau: năm 1968 là 141 nghìn, năm 1972 xấp
xỉ 153 nghìn, năm 1975 là 117 nghìn. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, thì lực lượng
vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường cùng các lực lượng bảo đảm khác với hàng
trăm nghìn người cũng được huy động từ miền Bắc.
- Về vật chất, miền Bắc đã tổ chức đón nhận hàng chục triệu tấn vật chất, vũ khí, trang bị
kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu thiết kế cải biên cải tiến nhiều
chủng loại vũ khí khí tài tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn km dưới bom đạn đánh
phá của địch tới tận chiến trường các vùng giải phóng.
- Trong những năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng vật chất gấp
10 lần so với các năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong các năm chống chính sách
Hoá chiến tranh còn tăng gấp nhiều lần.
- Bên cạnh việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Bắc đã tiếp nhận hàng
trăm nghìn cán bộ, chiến sĩ con em miền Nam nhập ngũ; đón tiếp nhận gần 310
nghìn thương binh bệnh binh và hơn 350 lượt người từ chiến trường ra hậu phương
khám chữa bệnh v.v. Miền Bắc không chỉ là hậu phương chống cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ vừa thực sự là nhà của vững vàng về tư tưởng cho những người
lính chiến trường, cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu ở miền
Nam đặc biệt trong những lúc cách mạng miền Nam bị chia cắt, gặp nhiều gian khổ
thiếu thốn…
- Vào thời kỳ cuối cùng của cuộc chiến tranh, giữa hai năm 1973 và 1974, 250.000
thanh niên miền Bắc gia nhập lực lượng vũ trang 150.000 quân ở hậu phương miền
nam chiến đấu, hàng chục nghìn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, thanh niên xung phong
miền Bắc vào các vùng giải Phóng ổn định tình hình. Lực lượng Công binh bộ đội
đoàn 559, ngành vận tải miền Bắc huy động hàng chục nghìn dân công hoả tuyến
đường sức giữa rộng đường Trường Sơn đặt thêm đường ống dẫn .Trong hai năm này
397 nghìn tấn vật chất từ miền Bắc được vận chuyển vào chiến trường, chiếm 54%
tổng khối lượng vật chất chi viện tới các mặt trận trong suốt 16 năm trước chiến
tranh.

10
B. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN NAM

- Sau khi ký kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ (7/7/1945), nước Việt Nam bị chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tháng 5/1956, Pháp rút quân
khỏi miền Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai
miền Nam – Bắc. Mĩ thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm
mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự của Mĩ. Trong thời gian này chúng đã thực hiện nhiều cuộc hành quân
đàn áp, tạo ra những chính sách khắc nghiệt với khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ
sót”, độc ác hơn chúng còn thẳng tay bắt rồi giết chết đồng bào ta.

II. CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM
1. Nhiệm vụ cách mạng
- Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống
nhất Tổ quốc. Trong đó cách mạng ở miền Nam không những có vai trò quan trọng
trong việc lật đổ ách thống trị mà còn có quan hệ chặt chẽ với miền Bắc nhằm xây
dựng mối quan hệ hậu phương - tiền tuyến cùng hỗ trợ nhau, phối hợp cùng nhau
phát triển.
2. Nhiệm vụ cách mạng
- Kiên quyết xây dựng mục tiêu chiến lược cùng khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược”, “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ
trong bất cứ tình huống nào”. Cùng với Trung ương Đảng cũng phát động cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược trong toàn quốc. Và đây là nhiệm vụ, quan
trọng cấp bách của dân tộc Việt Nam.
- Với phương châm chỉ đạo toàn dân đồng tâm, đồng lòng hợp sức chống chiến tranh
cục bộ với một quyết tâm cao, thực hiện kháng chiến lâu dài bền bỉ, dựa vào sức
mình. Cùng hướng đến mục tiêu “Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
triệt để thực hiện ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.
3. Giai đoạn 1954 - 1965: Miền Nam đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài
Gòn
a. Phong trào “Đồng khởi” (1959 – 1960)

Bối cảnh lịch sử

11
- Sau Hiệp định Giơnevơ, chuyển từ đấu tranh vũ trang trong kháng chiến chống Pháp
sang đấu tranh chính trị rồi phát triển thành đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ.
Qua thực tiễn đấu tranh, lực lượng chính trị được bảo tồn và phát triển, lực lượng vũ
trang cà căn cứ địa cách mạng được xây dựng lại ở nhiều nơi. Đây chính là điều kiện
kiện để cách mạng tiếp tục đi lên.
- Vào những năm 1957 – 1959, Mĩ cùng tay sai tăng cường dùng bạo lực để áp đảo
phong trào đấu tranh của dân ta. Tháng 5/1959, chính quyền Sài Gòn ra Luật 10 –
59, đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng
nề.
- Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1/1959) khẳng định
con đường cách mạng bạo lực, chuyển cách mạng miền Nam tiến lên đấu tranh vũ
trang.

Diễn biến

- Phong trào bắt đầu nổi dậy ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận), Trà
Bồng (Quảng Ngãi), lan rộng khắp miền Nam thành cao trào cách mạng.
- Ngày 17/1/1960, “Đồng khởi” nổ ra ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre), sau đó nhanh chóng
lan nhanh toàn tỉnh Bến Tre, phá vỡ từng mảng lớn chính quyền của địch. Rồi nhanh
chóng lan ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung Bộ.

Kết quả

- Đến năm 1960, nhân dân miền Nam đã làm chủ nhiều thôn, xã ở Nam Bộ, ven biển
Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Thắng lợi của “Đồng khởi” dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam (20-12-1960), giương cao ngọn cờ đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân
miền Nam, đấu tranh chống Mỹ và tay sai.

b. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ( 1951 - 1965)

Từ cuối năm 1960, sau khi thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thất
bại, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ
- Thực hiện liên tiếp hai kế hoạch: “Kế hoạch Xtalây – Taylo” (bình định miền Nam
trong vòng 18 tháng) và “Kế hoạch Giôn xơn – Mắc Namara” (bình định miền Nam
trong 24 tháng). Trong đó chúng đã tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn, tăng
viện trợ quân quân sự cũng như các vũ khí tối tân, hiện đại cũng như thành lập Bộ
chỉ huy quân sự Mĩ - MACV.

12
- Chúng ra sức dồn dân, lập “ấp chiến lược”, dự định dồn 10 triệu nông dân vào
16.000 ấp, nhằm kìm kẹp và bóc lột quần chúng, tách rời nhân dân với phong trào
cách mạng, thực hiện “tát nước bắt cá”.

Miền Nam trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ

- Trong những năm 1961 – 1962, cách mạng ta đã đẩy lùi nhiều cuộc tiến công, tiêu
diệt nhiều đồn bốt lẻ của địch. Tháng 1/1963, giành thắng lợi lớn trong chiến dịch
Ấp Bắc, mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
- Trên mặt trận chống bình định, phong trào nổi dậy chống và phá “ấp chiến lược”
diễn ra rất gay go quyết liệt, đến cuối năm 1962, cách mạng kiểm soát trên nửa tổng
số ấp với gần 70% số dân. Dẫn đến nội bộ Mĩ và tay sai lục đục, gây ra cuộc đảo
chính, giết chết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Từ cuối năm 1964, Mĩ thực hiện
kế hoạch Giôn Xơn – Mắc Namara.
- Trong đông – xuân 1964 – 1965, kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, các lực
lượng vũ trang giải phóng đẩy mạnh tiến công địch, giành thắng lợi trong nhiều
chiến dịch, đẩy quân đội Sài Gòn đứng trước nguy cơ tan rã. Và phong trào đô thị
và phong trào nổi dậy phá “ấp chiến lược” tiếp tục phát triển mạnh dẫn đến “Chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ bị thất bại.
4. Giai đoạn 1965-1973: Nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mĩ
xâm lược
a. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968)
- Sau chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” ở miền Nam
Diễn biến
- Ồ ạt đổ quân viễn chinh Mỹ, quân các nước thân Mĩ và phương tiện chiến tranh hiện
đại vào miền Nam. Đến năm 1968, số quân viễn chinh Mĩ ở miền Nam lên tới hơn
50 vạn.
- Chúng tiến hành hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 –
1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt
Cộng”. Kết hợp với việc tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu huỷ tiềm lực kinh tế – quốc phòng miền
Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ Bắc vào Nam, đồng
thời làm lung lay quyết tâm chống Mĩ của nhân dân Việt Nam.
Kết quả
- Chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự cũng như mặt trận
ngoại giao.

13
- Về quân sự chúng ta đã đập tan 2 cuộc chiến lược mùa khô lần thứ nhất và lần thứ
hai với nhiều cuộc hành quân. Điển hình trong số đó là cuộc hành quân Gianxơn Xiti
đã đánh vào Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt cơ quan chủ lực và đầu não của địch.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân cũng cũng đã làm lung lay ý chí
xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “Phi Mĩ hóa chiến tranh”. Ngừng ném bom
miền Bắc và đàm phán Pari nhằm chấm dứt chiến tranh. Mở ra bước ngoặt mới
trong cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.
- Về mặt ngoại giao chúng ta đã thành công trong việc chống ách kìm kẹp của địch,
phá từng mảng “ấp chiến lược”. Từ đầu năm 1967, đấu tranh ngoại giao cũng được
nâng lên thành một mặt trận, nhằm kết hợp với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính
trị, đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước tiếp tục tiến lên. Cũng như Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam ngày càng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc
tế và chính quyền Giôn-xơn phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra và bắt đầu đàm phán với Việt Nam.
b.Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến
tranh”
Âm mưu và thủ đoạn
- Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược
“Đông Dương hóa chiến tranh”. “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng là một hình thức
chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội tay sai là
chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần của Mĩ, do cố vấn Mĩ chỉ
huy. Nhằm chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia
riêng biệt, thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
- Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến
trường, thay cho quân Mĩ rút dần về nước, thực hiện “dùng người Việt Nam đánh
người Việt Nam”. Đồng thời sử dụng quân đội Sài Gòn mở rộng chiến tranh xâm
lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện “Dùng
người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
- Tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ
của các nước này đối với nhân dân Việt Nam.
- Sẵn sàng Mĩ hoá trở lại cuộc chiến tranh khi cần thiết.
Diễn biến
- Từ tháng 4 đến tháng 6/1970, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia,
đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài
Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.

14
- Từ tháng 2 đến tháng 3/1971, bộ đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào, đập tan
cuộc hành quân “Lam Sơn – 719”, loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 quân địch, giữ
vững đường hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
c. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
- Từ ngày 30/3/1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược, lấy Quảng Trị làm
hướng chủ yếu, cùng với các hướng tiến công ở Đông Nam bộ và Tây Nguyên, rồi
phát triển rộng khắp miền Nam dẫn đến việc chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất
của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng đất đai
rộng lớn và đông dân.
- Đây là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, mở ra
bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc. Nhân dân Việt
Nam căn bản hoàn thành nhiệm vụ đánh cho Mĩ cút, làm so sánh lực lượng ở miền
Nam thay đổi cho cách mạng, tạo ra điều kiện thuận lợi để tiến lên giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
5. Miền Nam đấu tranh chống địch “bình định – lấn chiếm” tạo thế và lực
tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)
a. Âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn
– Ngày 29/3/1973, Mĩ rút khỏi miền Nam nhưng vẫn theo đuổi mục tiêu Việt Nam hoá
chiến tranh, duy trì một lực lượng hải quân và không quân ở Vịnh Bắc Bộ, Thái Lan
và Guam, để lại ở miền Nam “những người lính không mặc quân phục” cùng các
nhân viên dân sự. Trước ngày ký Hiệp định Pari, Mỹ chuyển giao các căn cứ quân sự
Mỹ cho chính quyền Sài Gòn cùng với viện trợ khẩn cấp một lượng vật chất khổng
lồ.
– Mĩ dung túng và cùng với chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Paris, nhất là ba
vấn đề: ngừng bắn, thả tù chính trị và thực hiện các quyền tự do dân chủ ở miền
Nam. Chính quyền Sài Gòn tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, mở những
cuộc hành quân “bình định – lấn chiếm” vùng giải phóng.
b. Cuộc chiến đấu chống địch phá hoại Hiệp định Paris
– Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 21, nhận định kẻ
thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu; xác định nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; khẳng
định con đường cách mạng bạo lực, nắm vững chiến lược tiến công, đấu tranh trên ba
mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
– Thực hiện nghị quyết 21, cuối năm 1973, quân và dân miền Nam đã chủ động mở các
cuộc tiến công, trọng tâm là đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, giành
thắng lợi vang dội ở Đường 14 – Phước Long (6/1/1975).
c. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc

15
Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng cuối năm 1974 đầu năm 1975 đề ra chủ
trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975-1976. Hội nghị cũng nhấn
mạnh, nếu thời cơ chiến lược đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì phải giải phóng
hoàn toàn miền Nam trong 1975. Và sau khi Tổng tiến công và nổi dậy 1975 miền
Nam Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng.
C. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH
MẠNG Ở MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954-
1975

I. VAI TRÒ CÁCH MẠNG MIỀN BẮC


Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), Trung ương Đảng ta đã sớm
xác định nhiệm vụ xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Đại hội
toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9/1960) xác định cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước.
 Từ 1954 - 1960: Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, củng cố khối liên minh
công nông, đẩy lùi nạn đói,
 Từ 1961 - 1965: Đây là bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, thực hiện kế hoạch năm năm. Miền Bắc tại thời điểm này ra sức chi viện khối
lượng lớn đạn, dược, thuốc men, vũ trang và còn có cán bộ chiến sĩ cho miền Nam.
 Từ 1965 - 1975: Miền Bắc tiếp tục ra sức chi viện nhiều hơn nữa cho miền Nam,
ngoài ra vào năm 1972, miền Bắc không chỉ là hậu phương mà miền Bắc trực tiếp
đánh quân Mỹ và giành chiến thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ, đặc biệt nhất là
thắng trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Như vậy, miền Bắc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh; tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc vững
mạnh trở thành căn cứ địa cách mạng cả nước và hậu phương lớn mạnh của cách mạng miền
Nam.
II. VAI TRÒ CÁCH MẠNG MIỀN NAM
Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ, đánh đổ ách thống trị của Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
 Từ 1954 - 1960: Miền Nam đánh bại chiến lược chiến tranh đơn phương của Mỹ -
Ngụy.
 Từ 1961 - 1965: Miền Nam giành chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc, mở ra nhiều chiến
dịch với hàng trăm trận chiến lớn nhỏ trên khắp các chiến trường, làm phá sản chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Đây chính là cơ sở để đưa cách mạng
miền Nam tiếp tục tiến lên.

16
 Từ 1965 - 1975: Miền Nam đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và
“Đông Dương hóa chiến tranh”. Đánh bại toàn bộ âm mưu xâm lược của Mỹ, tổng
tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
Sau hàng loạt những cuộc tiến công chiến đấu và giành chiến thắng, miền Nam là mặt trận,
là tiền tuyến, từ đó thể hiện sự kiên cường mạnh mẽ của toàn quân toàn dân, sự lãnh đạo tài
tình của Đảng và Bác Hồ. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đã đi đến
thắng lợi góp phần công cuộc thống nhất đất nước.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
- Nhận thấy được hai chiến lược cách mạng này có mối quan hệ biện chứng, thuộc 2
chiến lược khác nhau. Song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng
miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước nên có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng,
thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, cụ thể là mối quan hệ hậu phương - tiền tuyến.
- Thập niên 1960 là thời kỳ đầy khó khăn và gian khổ cho nhân dân Việt Nam khi bị
chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính phủ Sài Gòn. Tuy nhiên, hai phong trào cách
mạng đã phối hợp hoạt động và hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc kháng chiến. Các lực
lượng quân đội miền Bắc (Quân đội Nhân dân Việt Nam) và miền Nam (Quân Giải
phóng Miền Nam) đã cùng nhau chiến đấu để chống lại quân đội Mỹ.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam (9/1960) nhận định
rằng nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà của nhân dân ta”. Còn cuộc cách mạng miền Nam “có tác dụng quyết
định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
Mĩ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.
 Miền Bắc tập trung xây dựng quân đội mạnh mẽ và nỗ lực phát triển kinh tế, điều
kiện sống của nhân dân và tăng cường quân đội
 Trong khi đó, miền Nam đã tập trung vào cuộc kháng chiến và xây dựng cơ sở
vật chất cần thiết để hỗ trợ cuộc kháng chiến, bao gồm các trung tâm huấn luyện
quân sự và các khu vực sản xuất.
- Nhìn chung sự phát triển song hành hỗ trợ lẫn nhau của 2 chiến lược trong giai đoạn
1954 - 1975 được nêu như trên thể hiện rõ qua nhiều khía cạnh:
 Thứ nhất, các Đảng cách mạng ở cả 2 miền đều có chung mục tiêu hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống
nhất đất nước.
 Thứ hai, cả 2 miền đều đã tận dụng một số yếu tố bên ngoài như sự giúp đỡ từ
Liên Xô, Trung Quốc, Cuba để hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế và xây dựng
quân đội.
 Thứ ba, nhiều nhân vật lãnh đạo của cả 2 miền đều có quan điểm tương đồng
trong việc đấu tranh chống đế quốc và chống Mỹ.

17
- Trong sự phát triển của toàn bộ cuộc cách mạng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc là “nhiệm vụ quyết định nhất” bởi vì miền Bắc phải càng vững mạnh thì
miền Nam mới có hậu phương càng vững chắc. Miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa
mới có thể trở thành nền tảng để thực hiện cách mạng giải phóng miền Nam nói
riêng và củng cố hòa bình cho toàn Đông Dương nói chung.
- Trong sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò “quyết định trực tiếp” bởi vì miền Nam là
mặt trận, luôn trong tư thế tập hợp lực lượng, củng cố niềm tin khối đại đoàn kết dân
tộc để sẵn sàng đưa Mỹ vào thế bị động, nhằm chiến thắng mọi âm mưu phá hoại
của bọn đế quốc.
- Tóm lại, hai cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam đã để lại ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam hiện nay. Từ một quốc gia bị
chia cắt, Việt Nam đã đoàn kết lại với nhau, trở thành một quốc gia độc lập, thống
nhất và phát triển. Cả hai chiến lược này đều để lại bài học quý giá cho chúng ta về
sự đoàn kết, sự đoàn kết, sự kiên trì và sự hy sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do,
thống nhất và phát triển của đất nước. Mặc dù có nhiều khác biệt trong phương pháp
đấu tranh, mỗi cuộc cách mạng giải quyết một vấn đề song cả hai luôn gắn bó chặt
chẽ, phối hợp, tạo điều kiện cho nhau. Tất cả tạo nên mối quan hệ biện chứng giữa
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam giai đoạn 1954 - 1975.

18
PHẦN KẾT LUẬN

- Qua sự phân tích và làm rõ mối quan hệ biện chứng của hai cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong giai
đoạn 1954 – 1975 đã chứng minh rằng: đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách
mạng này của Đảng lao động Việt Nam là vô cùng đúng đắn và sáng tạo, thể hiện tính nhất
quán của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội được Đảng đề
ra trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Chiến tranh đã đi qua, nhưng những thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước sẽ mãi in dấu mốc vàng trong lịch sử chói lọi hào hùng của dân tộc,
đây cũng là biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng các mạng, được thể hiện qua chính lịch sử của nhân dân ta, và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to
lớn và có tính thời đại sâu sắc.Với mong muốn hiểu biết lịch sử dân tộc và củng cố niềm tự
hào về lịch sử cách mạng hào hùng của nhân dân ta, bài tiểu luận đã làm rõ được vai trò
của những dấu mốc lịch sử quan trọng trong hai cuộc cách mạng ở cả hai miền Nam Bắc.
- Bài tiểu luận không thể tránh khỏi những hạn chế, do đó rất mong nhận được sự góp ý thêm
của thầy để chúng em có được kinh nghiệm trong việc xây dựng những đề tài về Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới. Nhóm chúng em vô cùng cảm ơn và kính
chúc thầy sức khỏe.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

https://www.chuabaitap.com/giai-bai-tap-sgk-lich-su-12/tra-loi-cau-hoi-in-nghieng-
trang-180-bai-22-sgk-mon-lich-su-lop-12-1.html

https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Gioi-thieu/post/4109/vai-tro-cua-hau-phuong-
mien-bac-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-19651975#!

https://daibieunhandan.vn/van-hoa-van-nghe/san-sang-vi-mien-nam-ruot-thit-i315658/

https://luatduonggia.vn/am-muu-cua-mi-trong-chien-tranh-pha-hoai-mien-bac-lan-2//

https://baodantoc.vn/ho-chi-minh-voi-khat-vong-oc-lap-tu-do-hanh-phuc-cho-dan-toc-
viet-nam-1622602321958.htm/

https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-chi-
minh/kinh-te-hoc-quan-ly/phan-bao-ngoc-31211027974-lich-su-dang-cong-san-viet-
nam/62498806

20
21

You might also like