Professional Documents
Culture Documents
Thiệt Chẩn
Thiệt Chẩn
vn
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ CHỈ SỐ LIPID MÁU
VỚI HÌNH THÁI LƯỠI VÀ HÌNH ẢNH SIÊU ÂM GAN TRÊN BỆNH
NHÂN RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU NGUYÊN PHÁT1
1
Tạp chí YDHCT Quân sự số 1/2012 tapchi@yhoccotruyenqd.vn
2
Tạp chí YDHCT Quân sự số 1/2012 tapchi@yhoccotruyenqd.vn
Nhận xét: Tỷ lệ rêu lưỡi trắng dày, nhớp dính, chất lưỡi bệu, hồng nhợt tăng dần theo thứ tự
từ nhóm chứng, nhóm I, nhóm II và cao nhất ở nhóm tăng lipid hỗn hợp. (C=nhóm
chứng;I=nhóm tăng CT; II=nhóm tăng TG; III=nhóm tăng lipid hỗn hợp).
3.1.3. Tương quan của một số chỉ số lipid máu với hình thái lưỡi
Bảng 2. Hệ số tương quan (r) giữa một số chỉ số sinh hóa máu với một số chỉ tiêu hình thái
lưỡi (n=189)
Chỉ tiêu CT TG HDLC LDLC
Rêu trắng 0,243 0,182 -0,051 0,255
Chất lưỡi hồng nhợt 0,139 0,076 -0,045 0,085
Rêu nhớp 0,137 0,147 -0,195 0,151
Chất lưỡi bệu 0,177 0,239 -0,105 0,126
Hằn răng 0,200 0,138 -0,095 0,120
3.2. Kết quả hình ảnh siêu âm gan
Bảng 3. Kết quả hình ảnh siêu âm gan nhiễm mỡ
Gan Nhóm C (n=40) I (n=35) II (n=42) III (n=72) p
Bình thường n 38 26 24 22 pc,I<0,05
% 95,0 74,3 57,1 30,6 pc,II<0,001
Nhiễm mỡ độ n 2 8 16 41 pc,III<0,001
I pI,II>0,05
% 5,0 22,9 38,1 56,9
pII,III<0,01
Nhiễm mỡ độ n 0 0 0 6 pI,III<0,001
II
% 0 0 0 8,3
Nhận xét: Tỷ lệ gan nhiễm mỡ gặp nhiều nhất ở nhóm tăng lipid máu hỗn hợp chiếm 65,2%,
tỷ lệ gan nhiễm mỡ độ II chỉ gặp ở nhóm III. So sánh tỷ lệ gan nhiễm mỡ ở các nhóm nghiên
cứu với nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,050,001). Tỷ lệ gan nhiễm mỡ
ở nhóm III cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm I và II (p<0,050,001).
3.3. Tương quan của một số chỉ số lipid máu với hình ảnh siêu âm gan nhiễm mỡ
(n=189)
Cholesterol toàn phần Hệ số tương quan r = 0,44.
Trỉglyceride Hệ số tương quan r = 0,49.
LDLC Hệ số tương quan r = 0,36
HDLC Hệ số tương quan r = - 0,18
3.4. Giá trị của một số chỉ số lipid máu để hướng chẩn đoán hình ảnh siêu âm gan
nhiễm mỡ.
Bảng 4. Giá trị của chỉ số lipid máu trong chẩn đoán định hướng gan nhiễm mỡ
Chỉ tiêu TG CT LDLC TG + CT
Độ nhạy % 50,00 54,05 40,54 56,76
Độ đặc hiệu % 89,6 82,6 84,35 90,43
Độ chuẩn xác % 74,07 71,43 67,20 77,25
Giá trị dự báo dương tính % 75,51 66,67 62,50 79,25
Giá trị dự báo âm tính % 73,57 73,64 68,79 76,47
Khu vực dưới đường cong ROC 0,8098 0,7133 0,6633 0,8224
IV. BÀN LUẬN
4.1. Biến đổi của lưỡi
Lưỡi phân làm hai bộ phận là chất lưỡi và rêu lưỡi. Chất lưỡi là chỉ cái bản thể của lưỡi,
rêu lưỡi (tưa lưỡi) là chỉ cái chất rêu bám trên mặt lưỡi. Về sự hình thành và biến đổi của rêu
3
Tạp chí YDHCT Quân sự số 1/2012 tapchi@yhoccotruyenqd.vn
lưỡi trong chú giải của Chương Hư Cốc trong Diệp Hương Nham ngoại cảm ôn nhiệt thiên
viết: “Rêu lưỡi mọc như cỏ mọc trên mặt đất. Những người không có bệnh thường rêu hơi
mỏng như rễ cỏ tức là khí sinh ra ở trong vị. Nếu sáng bóng như gương là khí của vị không
sinh phát như đất không có cỏ, đất ở đó khô vậy. Vị có sinh khí mà tà nhập vào cơ thể, rêu
lưỡi tức là phát mọc dầy như rễ cỏ được uế trọc mà trưởng phát vậy". Qua đó có thể thấy
biến đổi của rêu lưỡi chịu ảnh hưởng rất nhiều của vị dương và vị âm. Mặt khác, vị là bể của
khí huyết, tỳ vị là hậu thiên chi bản sinh hóa chi nguyên, khi chức năng của tỳ bị rối loạn sẽ
tạo điều kiện sinh thấp, thấp ứ lâu tạo thành đàm. Rêu lưỡi trắng mỏng là biểu hiện của hàn
hay vị khí còn tốt, nếu rêu lưỡi tăng dày tức là đàm trọc nhiều. Nếu rêu lưỡi vàng là biểu hiện
có nhiệt, rêu vàng mỏng là hiện tượng nhiệt nhẹ, rêu vàng dày là hiện tượng nhiệt nặng hơn
và đã vào sâu trong lý. YHCT cho rằng hội chứng rối loạn lipid máu chủ yếu là do công năng
của tạng phủ bị hư tổn, trong đó liên quan đến Tỳ Vị, Thận, Can, Tâm mà đặ biệt là Tỳ, Thận.
Tỳ là nguồn sinh đàm, Tỳ khí hư yếu thì không thực hiện công năng vận hóa thuỷ cốc khiến
chất thanh khó thăng lên, chất trọc khó giáng xuống, chất tinh vi của thuỷ cốc không thể vận
hóa lưu chuyển bình thường mà tụ lại hóa thành đàm trọc gây bệnh. Mặt khác Thận dương hư
suy, không làm ấm được Tỳ thổ càng làm Tỳ thổ suy yếu không khống chế được thủy thấp
khiến thuỷ thấp ngưng đọng thành đàm. Ăn uống không điều độ, ăn nhiều chất béo ngọt trong
thời gian dài, ít vận động làm tổn thương tỳ vị, vận chuyển tân dịch mất thăng bằng, chức
năng vận hóa, ngấu nhừ thức ăn thất thường, tạo ra chất trọc, đàm thấp nội sinh úng thịnh mà
phát thành chứng tăng lipid máu. Qua nghiên cứu mô tả cắt ngang bệnh nhân RLCHLP cho
thấy: nhóm tăng CT có tỷ lệ rêu trắng dày là 11,4%; nhớp dính 31,4%; chất lưỡi bệu là 8,6%;
Nhóm tăng TG có tỷ lệ rêu trắng dày là 11,9%; nhớp dính 33,3%; chất lưỡi bệu là 16,7%;.
Nhóm tăng lipid hỗn hợp có tỷ lệ rêu trắng dày là 27,8%; nhớp dính 40,3%; chất lưỡi bệu là
38,9%;. So sánh những tỷ lệ này ở các nhóm nghiên cứu đều cao hơn nhóm chứng, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05-0,01). Tỷ lệ chất lưỡi hồng nhợt các nhóm lần lượt là
22,8%; 26,2%; 31,9%. Tỷ lệ lưỡi có hằn răng ở nhóm tăng lipid máu hỗn hợp là cao nhất
(23,6%).
* Khảo sát về tương quan chúng tôi thấy chỉ số CT, TG, LDLC có tương quan thuận còn
HDLC có tương quan nghịch với một số chỉ tiêu hình thái lưỡi, tuy nhiên hệ số tương quan
còn thấp.
4.2. Hình ảnh siêu âm gan
Gan bình thường chứa khoảng 5g lipid cho mỗi 100g trọng lượng của gan, trong đó
khoảng 14% là triglycerid, 64% là phospholipids, 8% cholesterol, và 14% là các acid béo tự
do. Trong gan nhiễm mỡ, lượng chất béo chiếm có thể chiếm đến 50% trọng lượng của gan,
trong đó hơn một nửa là các triglycerid. Gan nhiễm mỡ có thể là một kết quả của rất nhiều
bệnh, bao gồm nghiện rượu, các bệnh về chuyển hóa đặc biệt là rối loạn chuyển hóa lipid, các
rối loạn về dinh dưỡng, và của việc sử dụng thuốc. Sự tích lũy chất béo phân bố trong các
tiểu thuỳ gan, sự phân bố này phụ thuộc vào nguyên nhân và sự kéo dài của tình trạng gan
nhiễm mỡ. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ gan nhiễm mỡ ở các nhóm tăng CT,
Triglycerid và nhóm tăng lipid hỗn hợp lần lượt là 22,8%, 38,1% và 65,9%. Tăng nhiều hơn
nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,050,001). Có sự tương quan thuận mức
độ vừa giữa các chỉ số triglyceride, CT, LDLC với hình ảnh siêu âm gan nhiễm mỡ. Hệ số
tương quan lần lượt là 0,49; 0,44; 0,36. Nghiên cứu này thấp hơn so với Xu QH, Jie YS và
cộng sự [6].
V. KẾT LUẬN
Qua nghiªn cøu 149 bệnh nhân RLCHLP và 40 người khỏe mạnh tại Viện Y Học Cổ
Truyền Quân đội từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011 chóng t«i rót ra kÕt luËn sau:
1. Nhóm tăng CT có tỷ lệ gan nhiễm mỡ là 22,9%, tỷ lệ rêu trắng dày là 11,4%; nhớp dính là
31,4%; chất lưỡi bệu là 8,6%; chất lưỡi hồng nhợt 22,8%. Nhóm tăng TG có tỷ lệ gan nhiễm
mỡ là 38,1%; tỷ lệ rêu trắng dày là 11,9%; nhớp dính là 33,3%; chất lưỡi bệu là 16,7%; chất
4
Tạp chí YDHCT Quân sự số 1/2012 tapchi@yhoccotruyenqd.vn
lưỡi hồng nhợt là 26,2%. Nhóm tăng lipid hỗn hợp có tỷ lệ gan nhiễm mỡ là 65,9%; tỷ lệ rêu
trắng dày là 27,8%; nhớp dính là 40,3%; chất lưỡi bệu là 38,9%; chất lưỡi hồng nhợt 31,9%.
So sánh những tỷ lệ này ở các nhóm nghiên cứu đều cao hơn nhóm chứng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05-0,01). Tỷ lệ chất lưỡi có hằn răng ở nhóm tăng lipid máu hỗn hợp là
cao nhất (23,6%).
2. Chỉ số TG, CT, LDLC có tương quan thuận mức độ vừa với hình ảnh siêu âm gan nhiễm
mỡ, hệ số tương quan lần lượt là 0,49; 0,44; 0,36. Độ chuẩn xác chẩn đoán định hướng gan
nhiễm mỡ của TG là 74,07%; CT là 71,43%; LDLC là 67,2%; Kết hợp CT+TG là 77,25%.
Chỉ số CT, TG, LDLC có tương quan thuận còn HDLC có tương quan nghịch với rêu lưỡi
trắng, nhớp dính, chất lưỡi hồng nhợt, bệu và có hằn răng, tuy nhiên hệ số tương quan còn
thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO