You are on page 1of 8

TRẢ LỜI BÀI TẬP THỰC HÀNH HỒ SƠ LS.

HC 07

I/ Bản kết quả nghiên cứu hồ sơ phục vụ cho hoạt động chuẩn bị tham gia tranh
tụng trong vụ án hành chính:

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật sư không chỉ đọc các tài liệu, văn bản mà còn
phải ghi chép các thông tin và kết quả rút ra từ việc nghiên cứu. Bản ghi chép của Luật sư
thường phải có những nội dung chính sau:
- Tên vụ án, trích yếu các thông tin về đương sự và người tham gia tố tụng khác.
KHỞI KIỆN HỦY QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
+ Người khởi kiện: Hoàng Thị Nhân, sinh năm 1960
+ Người bị kiện: Chủ tịch UBND thành phố A
- Các thủ tục tố tụng đã được tiến hành và vấn đề phát sinh (nếu có), phương án giải
quyết.
1.1 Thông tin về người tham gia tố tụng:
- Người khởi kiện: Hoàng Thị Nhân, sinh năm 1960
- Người bị kiện: Chủ tịch UBND thành phố A
1.2 Đối tượng khởi kiện: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi
trường số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố A
(khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015).
1.3 Tòa án nhân dân thụ lý
Khiếu kiện Quyết định hành chính là khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015.
Căn cứ khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh là
Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh B là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này.

- Tóm tắt nội dung vụ án (các tình tiết, sự kiện chính) và yêu cầu, quan điểm của các bên
đương sự.
Diễn biến vụ việc
Ngày 27/01/2018, UBND TP A ban hành Quyết định 44/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm về
bảo vệ môi trường đối với bà Hoàng Thị Nhân là chủ cơ sở mộc, địa chỉ Lô 18P3, khóm
Tân An, phường Tân Hội, TP.A; tổng tiền phạt 14.500.000đ, từng hành vi bị xử phạt cụ
thể là (1) không thực hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường theo điểm a
khoản 2 Điều 8 Nghị định 155/2016/NĐ-CP - mức phạt 4.000.000đ; (2) thải bụi vượt
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dưới 1,5 lần, theo điểm a khoản 2 Điều 15
Nghị định 155/2016/NĐ-CP – mức phạt: 7.500.000đ; (3) gây tiếng ồn vượt tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn trong khoảng thời gian từ 06 giờ đến 21 giờ, theo khoản 2
Điều 17 Nghị định 155/2016/NĐ-CP, mức phạt 3.000.000đ.
Bà Nhân không đồng ý với quyết định xử phạt nên bà đã khiếu nại và được UBND TP A
giải quyết khiếu nại tại CV số 604/CV.UBND ngày 21/2/2018, với nội dung việc UBND
TP ban hành quyết định xử phạt bà Nhân là đúng quy định của pháp luật.
Không đồng ý với quyết định xử phạt và công văn trả lời giải quyết khiếu nại, bà Nhân đã
gửi đơn khởi kiện ngày 21/03/2018 đến TAND TP A yêu cầu hủy Quyết định 44/QĐ-
XPHC xử phạt vi phạm về bảo vệ môi trường với lý do: không có biên bản vi phạm hành
chính ngày 14/01/2018.
Ngoài ra hồ sơ còn thể hiện:
1
1. Ngày 28/02/2017, phòng TN & MT kết hợp Đội QLTTĐT TP, UBND phường
cùng văn phòng khóm Tân An, tiến hành kiểm tra cơ sở cửa sắt đối diện cơ sở
mộc cũng do bà Nhân làm chủ, kết quả đo độ ồn trong lúc hai cơ sở cửa sắt và
cơ sở mộc đang hoạt động:
+ Bên trong cơ sở cửa sắt: 102 dBA;
+ Phía trước cơ sở cửa sắt 85dBA (vượt 1,13 lần so với tiêu chuẩn 75dBA – TCVN
5949:1998, BL 29)
+ Trước nhà số 20P3 (cặp vách cơ sở mộc, đối diện cơ sở cửa sắt): 82dBA;
+ Trước nhà số 10Q2 (cặp vách cơ sở cửa sắt, đối diện cơ sở mộc): 75dBA;
Tại thời điểm đo độ ồn 02 cơ sở hoạt động không liên tục.
Cơ sở vẫn chưa thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh và môi trường cho loại hình sản
xuất cửa sắt (BL 29)
Yêu cầu: khắc phục tiếng ồn trong thời hạn 7 ngày và lập các thủ tục về môi trường cho
hoạt động sản xuất cửa sắt trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập biên bản ngày
28/02/2017.
2. Ngày 15/03/2017, phòng tiến hành kiểm tra, ghi nhận cơ sở có che chắn bằng hạt
nhựa giáp với nhà 08Q2, không che chắn phía giá với nhà 11Q2. Do tiếng ồn lúc
máy cắt sắt đang hoạt động là 80dBA, vượt so với tiêu chuẩn TCVN 5949:1998
là 1,06 lần. Yêu cầu cơ sở di dời máy cắt sắt vào phía sau nhằm hạn chế tiếng ồn
phát tán ra môi trường xung quanh (trong thời hạn 7 ngày từ ngày lập biên bản).
3. Ngày 11/04/2017, cùng thành phần trên kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn ghi nhận:
có đăng ký kinh doanh cho mộc, không có đăng ký kinh doanh cửa sắt; qua kiểm
tra, có phát hiện bụi bên trong cơ sở, không phát tán ra môi trường xung quanh,
kết quả đo độ ồn không vượt quá so với quy định. Tuy nhiên, do cơ sở chưa
hoàn chỉnh thủ tục về môi trường, đề nghị cơ sở không hoạt động vào ngày nghỉ,
ban đêm, nhanh chóng hoàn chỉnh thủ tục môi trường theo quy định (BL 29).
4. Ngày 13/4/2017, cùng thành phần trên tiến hành kiểm tra việc thực hiện các yêu
cầu của Đoàn kiểm tra đối với cơ sở cửa sắt. Tại thời điểm kiểm tra ông Hải,
chồng bà Nhân trình bày do sức khỏe không tốt nên sẽ ngưng hoạt động cơ sở
cửa sắt trong thời gian tới, xin cho gia hạn hoạt động trong thời gian 30 ngày (để
xử lý sắt tồn) kể từ ngày 13/4/2017 (có tờ cam kết)
Nhận xét, kiến nghị: qua quá trình kiểm tra việc đo độ ồn trong lúc hai cơ sở cùng hoạt
động có vượt so với tiêu chuẩn Việt Nam, đặc biệt trong lúc cơ sở cửa sắt hoạt động độ
ồn rất lớn.
Đối với cơ sở mộc kiểm tra trước đó đã đo độ ồn không vượt quá so với tiêu chuẩn,
đồng thời cơ sở đã lập thủ tục môi trường (đề án bảo vệ môi trường) đã được cơ quan
chức năng xác nhận tại Giấy xác nhận số 15/GXN-TNMT ngày 01/02/2017.
5. Ngày 09/05/2017, tại VP Khóm Tân An, thành phần gồm 02 CV Phòng TN&MT
+ 01 CV phòng KT TP.A + CBĐC phường Tân Hội với sự tham gia của Trưởng
khóm Tân An, Tổ trưởng tổ 103 xác minh theo đơn tường trình của bà Nhân, chủ
cơ sở mộc Thái Sơn, địa chỉ lô 18P3 về việc khu vực hoạt động của cơ sở cúp
điện làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ sở. Tổ trưởng tổ 103 cho biết: cơ sở
hoạt động theo đúng thời gian cam kết (trong giờ hành chính); Cơ sở hoạt động
vẫn phát sinh tiếng ồn, bụi làm ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh.
6. Ngày 01/08/2017, Đoàn kiểm tra theo QĐ số 153/QĐ-UBND ngày 18/3/2016
của UBND TP A có Biên bản kiểm tra theo Kế hoạch số 53/KH- UBND ngày
18/4/2016 của UBND TP.A (kiểm tra sau xác nhận đề án bảo vệ môi trường
TP.A), nhận xét, kết luận: có GCNĐKKD, GXN Bản Đề án BVMT đã được phê
2
duyệt; chưa thực hiện Chương trình giám sát đã được nêu trong bản đề án bảo vệ
môi trường; Tại thời điểm kiểm tra không đánh giá được mức độ ô nhiễm về bụi
và tiếng ồn do cơ sở không hoạt động; Tại thời điểm kiểm tra cơ sở sắt tại số
11Q2 vẫn đang hoạt động. Yêu cầu: thực hiện Chương trình giám sát môi trường
đúng tần suất và thời gian như Cam kết tại Bản đề án.
7. Ngày 8/11/2017, UBND TP. A ban hành QĐ số 16/QĐ-UBND về việc thành lập
Đoàn kiểm tra liên ngành (9 thành viên), kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn tại địa
chỉ lô 18,19P3 và cơ sở gia công cửa sắt tại lô 11Q2 khóm Tân An. Thời gian 8
giờ ngày 11 tháng 11
8. Ngày 11/11/2017, Đoàn kiểm tra gồm 11 người (trong đó có 6 người khác với
QĐ 16 ngày 8/11/2017) lập Biên bản kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn do bà Hoàng
Thị Nhân là chủ cơ sở). Đoàn kiểm tra tiến hành trưng cầu Trung tâm quan trắc
kỹ thuật tài nguyên và môi trường của tỉnh thu mẫu bụi, tiếng ồn với các vị trí cụ
thể như sau:
1. Trước cửa cơ sở: thu mẫu bụi, tiếng ồn;
2. Phía sau cơ sở (vách bà Lê Thị Tính): đo tiếng ồn;
3. Phía sau cơ sở (Vách nhà bà Nguyễn Thị Ánh): đo tiếng ồn. Đoàn ghi nhận chủ cơ
sở thực hiện không đầy đủ nội dung trong đề án bảo vệ môi trường đã được phòng TN &
MT xác nhận (số 15/GXN-TNMT ngày 01/02/2017) cụ thể như sau:
+ Không thực hiện chương trình giám sát môi trường và định kỳ lập báo cáo giám sát gởi
Phòng Tài nguyên và môi trường theo cam kết;
+ Không trang bị đầy đủ các thiết bị phòng cháy, chữa cháy theo đúng quy định của cơ
quan chức năng;
+ Không lập bảng nội quy cơ sở
+ Ngành nghề kinh doanh đăng ký chỉ có đóng tủ, bàn, ghế, mộc gia dụng, không có
ngành cưa xẻ gỡ. Thực tế có cưa xẻ gỗ với máy cưa công suất 1,5HP.
Tại thời điểm kiểm tra cơ sở cửa sắt của ông Hải chồng bà Nhân ngụ tại số 11Q2
không hoạt động. Đoàn kiểm tra không tiến hành thu mẫu giám định.
Ngày 11/11/2017 đoàn kiểm tra đến kiểm tra cơ sở mộc của bà Nhân về độ bụi, độ
ồn… Lúc kiểm tra cơ sở mộc của bà Nhân chỉ có 2 công nhân làm việc, độ bụi và độ ồn
không thể vượt quá quy định của Nhà nước. Ngày kiểm tra bà Nhân không được đoàn
cho biết con số độ bụi, độ ồn và trong biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017 của Đoàn cũng
không ghi độ bụi, độ ồn là bao nhiêu. Tuy nhiên biên bản có đọc lại cho bà Nhân nghe,
theo biên bản ghi có cho bà Nhân 15 ngày để khắc phục những thiếu sót đã ghi trong biên
bản do đó bà Nhân mới ký tên. Trong biên bản này bà Nhân có thắc mắc với đoàn là biên
bản ghi đoàn có 11 người nhưng chỉ có mặt 8 người, bà Nhân hỏi thì ông Trần Văn Tuất
là người lập biên bản nói không cần thấy mặt chỉ cần thấy tên là được rồi.
9. Ngày 11/11/2017 tại Biên bản thu mẫu không số (9h25 phút) đại diện Trung tâm
quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường B, đại diện đơn vị yêu cầu là Phó
Trưởng phòng TN &MT có giám sát là Đội trưởng 5 CATP A. Thu mẫu tại cơ
sở mộc Thái Sơn, mục đích xác định chỉ tiêu bụi và tiếng ồn. Mẫu lấy trong điều
kiện cơ sở hoạt động bình thường.
10. Ngày 15/11/2017, Kết quả phân tích MS 031041-0106 của Trung tâm quan trắc
và kỹ thuật tài nguyên môi trường thể hiện: ngày thực hiện 11/11/2017, loại
mẫu: không khí; phương pháp lấy mẫu và phân tích các chỉ tiêu theo Trường quy
kỹ thuật của Bộ Y tế - 1993 và Standard Methods of air Sampling and Analysis,
độ ồn môi trường được đo bằng máy Testo – 816 .Vị trí lấy mẫu: trước cơ sở,
sau nhà số 20P3, sau nhà số 17P3, trước cơ sở khi vận hành máy phát điện, sau
3
nhà số 20P3 khi vận hành máy phát điện, sau nhà số 17P3 khi vận hành máy
phát điện.
Kết quả phân tích
Vượt so với Vượt so với
Vị trí thu mẫu Ồn (dBA) Bụi QCVN 2010 về QCVN 2009 về
(mg/m3) tiếng ồn bụi
Phía trước cơ sở 67-81 0,367 1,08 1,2 lần
Phía sau cơ sở (20P3) 61-79 - 1,04
Phía sau nhà 17P3 70-88 - 1,05
Trước cơ sở khi vận 70-88 1,17
-
hành máy phát điện
Sau nhà 20P3 khi vận 76-90 1,2
-
hành máy phát điện
Sau nhà 17P3 khi vận 78-84 1,12
-
hành máy phát điện

11. Ngày 26/11/2017, Báo cáo kết quả kiểm tra cơ sở mộc Hoàng Thị Nhân khóm
Tân An, phường Tân An, phường Tân Hội, TP A, Phòng tài nguyên và môi
trường kết luận:
- Cơ sở không thực hiện chương trình giám sát môi trường và định kỳ lập báo cáo…
không thực hiện các nội dung đã cam kết nêu trong bản đề án bảo vệ môi trường đã được
xác nhận, vi phạm Điều 7 khoản 2 NĐ 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 về XL VPPL
trong lĩnh vực BVMT (phạt từ 2 – 5 triệu đồng)
- Độ ồn tối đa cho phép trong khu dân cư xem kẽ trong khu vực thương mại, dịch
vụ, sản xuất từ 6h đến 18h giờ 75 dBA. Vì vậy, chủ cơ sở đã vi phạm
vào Điều 17 khoản 1 của NĐ 155/2016/NĐ-CP ngày (phạt từ 1 – 5 triệu đồng)
- Kết quả đo bụi trong không khí phía trước cơ sở vượt 1,2 lần so với QCKT môi
trường QCVN 05: 2009/BVMT quy định bụi trong không khí xung quanh giới hạn là
300mg/m3. Điều này vi phạm vào Điều 15 khoản 2 điểm a NĐ 155/2016/NĐ-CP (phạt 5
– 10 triệu đồng).
12. Ngày 3/12/2017, tại Thông báo kết luận của Phó CT UBND TP Đặng Văn Phát tại
buổi họp bàn biện pháp xử lý cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân, lô 18 khóm Tân An
phường Tân Hội, Phó CT kết luận: Giao Phòng TN&MT tham mưu UBND TP lập Đoàn
kiểm tra cơ sở mộc của bà Nhân; Giao UBND phường Tân Hội chủ trì tiến hành kiểm tra
vào ngày 10/12/2017 theo CV 111 ngày 26/9/2017 của UBND TP; khi tiến hành kiểm tra
cơ sở, giao Đội QLTTĐT TP lập Biên bản VPHC.
13. Ngày 2/1/2018, Đội quản lý TTĐT có Thông báo về việc phân công cán bộ số
24/TB-QLTTĐT, thực hiện công văn 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 xử phạt VPHC
đối với cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân. Phân công ông Trần Văn Tuất kết hợp với
phường Tân hội lập Biên bản XLVPHC đối với bà Nhân.
14. Ngày 11/01/2018, tại Biên bản kiểm tra công tác bảo vệ môi trường, Đoàn kiểm
tra gồm 4 người (cũng không phải là những người trong QĐ thành lập đoàn công tác có
mặt tại hộ bà Nhân để lập biên bản kiểm tra hiện trạng môi trường và việc thực hiện các
giải pháp bảo vệ môi trường của đơn vị.
Đoàn kiểm tra tiến hành đo độ ồn của cơ sở trong lúc 05 máy cưa hoạt động, máy liên
hợp và máy bào cầm tay đang hoạt động, kết quả như sau:

4
+ Trong cơ sở: 25dBA
+ Trước cơ sở: 71dBA
+ Trước nhà 17P3 (cặp vách cơ sở): 67dBA
+ Trước nhà 20P3 (cặp vách): 68dBA
+ Trước nhà 8Q2 (đối diện cơ sở): 70dBA
+ Phía trước có che chắn hai bên giáp với nhà dân bằng cao su và che chắn phía trên
+ Cơ sở sử dụng lưới rây che bụi phía trước nhà chưa ra vào cơ sở
+ Phía sau có sử dụng quạt hút bụi cưa, thu gom vào buổi chiều làm phân bón cho cây
+ Có phát hiện bụi bên trong cơ sở, không phát hiện bụi phát tác ra xung quanh;
+ Qui mô hoạt động: khoảng 1m3
Nhận xét: có phát hiện bụi bên trong cơ sở, không phát tác ra xung quanh;
Kết quả đo độ ồn (đề ghi nhận): không vượt so với TCVN.
15. Ngày 14/01/2018, ông Trần Văn Tuất (cán bộ quản lý trật tự của thành phố_ và
ông Nguyễn Văn Thế (cán bộ quản lý trật tự của phường) xuống kiểm tra lại nhưng
không qua cơ sở kiểm tra mà ở tại nhà tôi là lô 11Q2 (cách cơ sở khoảng 30m) để ghi
biên bản và kêu tôi ký tên. Tôi không chịu ký tên và cũng không biết nội dung biên bản
ghi những gì vì không đọc cho tôi.
Khi được Phòng TN & MT cung cấp bà Nhân mới phát hiện có chữ ký của bà trong biên
bản này, bà khẳng định bà không có ký trong biên bản gốc và cũng không được cung cấp
biên bản này. Bà Nhân chắc chắn đây là biên bản khống.
UBND cho rằng: UBND thành phố chỉ đạo Đội quản lý trật tự đô thị tiến hành lập Biên
bản vi phạm hành chính (ngày 14/1/2018) đối với cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân (có
đọc lại biên bản vi phạm hành chính cho bà Nhân nghe rõ nội dung vi phạm nhưng không
đồng ý ký tên) và ban hành Quyết định XPVPHC về bảo vệ môi trường đối với cơ sở
mộc của bà Nhân (QĐ 44/QĐ-XPHX ngày 27/1/2018 của UBND thành phố).
Đội quản lý trật tự đô thị thành phố A lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường theo Báo cáo số 23/BC.TNMT ngày 26/12/2017 của Phòng TN & MT
về kết quả kiểm tra cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân do có hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Các vấn đề không cần phải chứng minh theo quy định của pháp luật.
- Các vấn đề cần chứng minh liên quan đến yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo do
các bên đương sự không thống nhất được với nhau nên còn có mâu thuẫn, trái ngược
nhau.
- Các căn cứ pháp lý (văn bản pháp lý và quy phạm cụ thể) đã được áp dụng.
+ Luật xử phạt VPHC năm 2012
+ Luật TTHC năm 2015
+ Nghị định 155/2016/NĐ-CP
+ Các Văn bản QPPL của UBND tỉnh
- Tài liệu, chứng cứ đã được Tòa án thu thập, xác minh.
- Các nội dung cần thiết khác để làm sáng tỏ nội dung vụ việc và các vấn đề pháp lý cần
giải quyết.
Đối với mỗi nội dung trên, nếu có sự khác biệt trong ý kiến, lời trình bày của các đương
sự và người tham gia tố tụng khác về cùng một vấn đề thì Luật sư nên thể hiện kết quả
nghiên cứu với cách thức ghi “đối xứng” theo cột trên một trang giấy và có ghi chú rõ số
bút lục minh chứng cho nội dung ghi chép đó để thuận tiện cho việc theo dõi, sử dụng sau
này.

5
II/Kế hoạch hỏi:

DỰ KIẾN HỎI TẠI PHIÊN TÒA – BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN


2.1. Dự kiến hỏi Người bị kiện
1. Phó CT UBND TP A được giao quyền ký Quyết định số 44 dựa trên văn bản nào?
2. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành dựa trên kết quả đo ngày
nào?
3. Tại sao không căn cứ kết quả tại biên bản kiểm tra ngày 11/01/2018 để làm căn cứ
lập biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018 mà lại căn cứ vào kết quả ngày
11/11/2017?
4. Tại sao thành phần Đoàn kiểm tra ngày 11/11/2017 khác với thành phần Đoàn
kiểm tra do UBND TP A thành lập theo QĐ số 16/QĐ-UBND ngày 8/11/2017?
5. Trả lời: bàn đầu có 11 người, lý do vắnsg, lý do ddihpcj cho nên ddaxx bổ sung
mọt số ngươi khác: hỏi tiếp: vậy việc phần công này đã có van bản cụ thể về sự thay thế
này không.
6. Tại sao ngày 15/11/2017 đã có kết quả phân tích mẫu mà đến ngày 14/01/2018
mới lập biên bản vi phạm hành chính? Trả lời: do việc kiểm tra kết quả mẫu, phải đi xác
minh rõ hơn để làm cơ sở lập
7. Thời điểm lập Biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018 có sự tham gia của
chính quyền địa phương không? Trả lời: chỉ có khu phố như ấp thôi, trưởng ấp.
8. Người bị kiện có ý kiến thế nào khi bà Nhân cho rằng ngày lập Biên bản vi phạm
hành chính ngày 14/01/2018 chỉ có 08 người tham gia mà không phải là 11 người như ghi
trong Biên bản?
9. Tại sao ngày 14/01/2018 lập biên bản vi phạm hành chính mà đến ngày
27/01/2018 mới ra QĐ xử phạt?
10. Mô tả rõ vị trí lấy mẫu ngày 11/11/2017? Có nắm được kinh độ, vĩ độ rõ ràng hay
không?
11. Hành vi vi phạm của bà Nhân có tình tiết tăng nặng nào?
12. Bà Nhân có phối hợp với cơ quan để lấy mẫu không
13. Phó chủ tịch đang giao quyền dựa trên văn bản nào: trả lời: quyết định xử phạt
được ban hành dựa trên kết quả biên bản kết quả xử phạt tiếng ồn, cái thứ 2 xử phạt về
tiếng ồn, năm 2017.
14. Quyết dịnh quy định hành chính của ubnd thành phố A, theo quy định về xử lý
15. Bạn đặt câu hỏi vị trí lấy mẫu, cho xin tọa độ là không hợp lý
16. Hỏi xoáy vào việc những hộ dân khu vực có ý kiến về bụi và tiếng ồn.
17. Văn bản 604.
2.2. Dự kiến hỏi Người khởi kiện hỏi sau, và đến người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan.
1. Bà Nhân cho biết cơ quan nhà nước đã nhiều lần đến kiểm tra cơ sở mộc của bà
đúng không?
2. Ngoài lần kiểm tra ngày 11/11/2017, những lần khác kết luận kiểm tra như thế
nào? 11.01.2018 có kết quả Ngày 11/01/2018, tại Biên bản kiểm tra công tác bảo vệ môi
trường, Đoàn kiểm tra gồm 4 người (cũng không phải là những người trong QĐ thành lập
đoàn công tác có mặt tại hộ bà Nhân để lập biên bản kiểm tra hiện trạng môi trường và
việc thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường của đơn vị.
3. Bà Nhân cho biết vị trí Đoàn kiểm tra lấy mẫu ngày 11/11/2017? phó trưởng
phòng có giám sát lấy mẫu tại cơ sở, lấy mẫu trong cơ hoạt động bình thường, vị trí lấy
mẫu trước cơ sở, sau cơ sở nhà 20/d3.
6
4. Tại sao bà ký biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017? Ngày 11/11/2017 đoàn kiểm tra
đến kiểm tra cơ sở mộc của bà Nhân về độ bụi, độ ồn… Lúc kiểm tra cơ sở mộc của bà
Nhân chỉ có 2 công nhân làm việc, độ bụi và độ ồn không thể vượt quá quy định của Nhà
nước. Ngày kiểm tra bà Nhân không được đoàn cho biết con số độ bụi, độ ồn và trong
biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017 của Đoàn cũng không ghi độ bụi, độ ồn là bao nhiêu.
Tuy nhiên biên bản có đọc lại cho bà Nhân nghe, theo biên bản ghi có cho bà Nhân 15
ngày để khắc phục những thiếu sót đã ghi trong biên bản do đó bà Nhân mới ký tên.
Trong biên bản này bà Nhân có thắc mắc với đoàn là biên bản ghi đoàn có 11 người
nhưng chỉ có mặt 8 người, bà Nhân hỏi thì ông Trần Văn Tuất là người lập biên bản nói
không cần thấy mặt chỉ cần thấy tên là được rồi.
5. Ngày 14/01/2018, khi Đoàn kiểm tra đến lập biên bản có sự tham gia của UBND
phường không?
6. Trước đây, bà đã từng bị xử phạt hành chính đối với các hành vi tương tự như
trong QĐ số 44 chưa? Tôi chưa từng bị phạt vi phạm vì luôn đáp ứng đủ
Hỏi bà Nhân
1. Bà Nhân cho biết cơ quan nhà nước đã tổ chức kiểm tra nhiều lần?
2. Cho biết vị trí lần kiểm tra lần 11.11.2017?
3. Kết quả xử lý của Đoàn kiểm tra ngày 11.11.2017?
Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan
1. Khu dân cư khóm Tân An có thể cho biết các vị có cảm thấy như thế nào trong
thời gian hộ kinh doanh bà nhân hoạt động
Hỏi ủy ban nhân dân thành phố A:
1. Đối với ng giải quyết khiếu nại ai là người giải quết khiếu nạo cho ba Nhâ
2. Tại sao khi ra Quyết định hành chính, người bị kiện lại đưa ra công văn mà không
đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại
3. Ủy ban nhân dân Thành phố nói sao về việc báo cáo phân tích năm 2017, và báo
cáo năm 2018.

III/ Soạn thảo luận cứ bảo vệ:


DỰ THẢO BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN
Kính thưa Hôị đồng xét xử.
Tôi là Luật sư … thuộc Công ty Luật TNHH … - Đoàn luật sư Thành phố HCM, với tư
cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hoàng Thị Nhân là người khởi
kiện trong vụ kiện được xét xử hôm nay.
Qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập các chứng cứ có liên quan và tại phiên toà
hôm nay, yêu cầu của người khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở bởi các lập luận sau đây:
Xét về thẩm quyền ban hành, Quyết định số 44 ngày 27/01/2018 được ký ban hành bởi
Phó chủ tịch UBND TP. A, tuy nhiên trong phần căn cứ ra quyết định không thể hiện
việc Phó chủ tịch UBND TP. A được Chủ tịch UBND TP. A giao quyền theo văn bản
nào. Đến thời điểm này, phía người bị kiện cũng không cung cấp được văn bản giao
quyền xử phạt cho cấp phó theo quy định theo quy định tại Điều 54 Luật xử lý vi phạm
hành chính. Do đó, Quyết định số 44 ngày 27/01/2018 được ban hành sai thẩm quyền.
Xét thời hạn lập Biên bản vi phạm hành chính, theo Biên bản kiểm tra do Đoàn kiểm tra
lập ngày 11/11/2017, Đoàn kiểm tra đã tiến hành thu mẫu. Ngày 15/11/2017 có kết quả
phân tích mẫu của Trung tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường tỉnh B. Tuy
nhiên, đến ngày 14/01/2018, Đội QL trật tự đô thị TP mới lập Biên bản vi phạm hành
chính là đã 60 ngày từ ngày có kết quả phân tích mẫu. Việc chậm lập biên bản VPHC với
thời gian như trên là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC.
7
Xét trình tự thủ tục ban hành quyết định, Quyết định số 44 ngày 27/01/2018 căn cứ trên
Biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018, tuy nhiên việc lập Biên bản vi phạm hành
chính ngày 14/01/2018 chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục theo quy định tại khỏan 2 Điều
58 Luật LVPHC Biên bản VPHC ngày 14/01/2018 do không có chữ ký của bà Nhân và
cũng không có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở.
Xét nội dung, việc xử lý vi phạm của bà Nhân hoàn toàn phải dựa trên kết quả phân tích
mẫu. Tuy nhiên, như đã phân tích, trong biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018
không nêu được việc xác định hành vi vi phạm căn cứ trên kết quả phân tích nào, vì vậy
biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018 không có giá trị làm căn cứ để ra quyết
định xử phạt theo Điều 59 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Phía người bị kiện cho rằng có hành vi gây tiếng ồn, thải bụi vượt quá quy chuẩn dựa trên
kết quả lấy mẫu ngày 11/11/2017 do Trung tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi
trường tỉnh B thực hiện. Tuy nhiên tại Biên bản làm việc cũng như Biên bản thu mẫu
ngày 11/11/2017 chỉ nêu chung chung vị trí lấy mẫu là trước cơ sở, trước nhà… mà
không nêu rõ tọa độ. Do đó, việc lấy mẫu không được bảo đảm là đã được thực hiện đúng
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư 28/2011/TT-BTNMT:
“- Vị trí lựa chọn phải đặc trưng cho khu vực cần quan trắc (phải có toạ độ xác định);
- Tránh các vật cản gây phản xạ âm;
- Tránh các nguồn gây nhiễu nhân tạo: tiếng nhạc, tiếng va đập của kim loại, trẻ em
nô đùa...;
- Chọn vị trí đo sao cho có sự truyền âm ổn định nhất với thành phần gió thổi không
đổi từ nguồn đến vị trí đo”.
Bên cạnh đó, Biên bản kiểm tra ngày 11/01/2018 với thành phần đoàn kiểm tra gồm 04
người là chuyên viên phòng TN &MT TP, chuyên viên Đội QLTTĐT TP, cán bộ phường
Tân Hội và bảo vệ dân phòng khóm Tân An có kết quả đo hoàn toàn ngược lại. Trước đó,
Đoàn kiểm tra liên ngành cũng đã kiểm tra và kết luận không có bụi phát tán ra xung
quanh, đo độ ồn không vượt quá tiêu chuẩn quy định tại Biên bản ngày 11/04/2017. Hơn
nữa, phía người khởi kiện cũng đã cung cấp Phiếu kết quả thử nghiệm và Báo cáo kết quả
phân tích ngày 20/05/2018 do Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ thực
hiện cho thấy tại cơ sở mộc Thái Sơn các chỉ tiêu tiếng ồn,
bụi đều đạt so với tiêu chuẩn cho phép. Điều đó cho thấy việc lấy mẫu ngày 11/11/2017
được thực hiện không đúng quy định dẫn đến kết quả có sai sót, không thể làm căn cứ để
ra quyết định xử phạt đối với bà Nhân.
Mặt khác, việc áp dụng mức phạt 4.000.000đ đối với hành vi không thực hiện nội dung
trong bản cam kết bảo vệ môi trường của là không phù hợp. Theo điểm a khoản 2 Điều 8
Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định hành vi trên bị phạt tiền từ 1 – 5 triệu đồng. Người
bị kiện áp dụng mức phạt đối với bà Nhân là 4.000.000đ là đã áp dụng tình tiết tăng nặng,
tuy nhiên trong Biên bản vi phạm hành chính ngày 14/01/2018 và Quyết định số 44 ngày
27/01/2018 đều không chỉ ra tình tiết tăng nặng nào.
Từ các lẽ trên, tôi khẳng định Quyết định số 44 ngày 27/01/2018 vi phạm thẩm quyền,
thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính, trình tự, thủ tục ra quyết định và cả nội dung
quyết định, do đó đề nghị HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193 LTTHC 2015:
Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường số 44/QĐ-XPHC
ngày 27/01/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố A.

You might also like