You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


HCMC University of Technology and Education
-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

KHOA LÝ CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ


Môn học:NHẬP MÔN LOGIC HỌC

Đề tài: SUY LUẬN TAM ĐOẠN


LUẬN

MÃ MÔN HỌC: INLO220405


GVHD: PGS.TS Đoàn Đức Hiếu
THỰC HIỆN: NHÓM 04
LỚP: INLO220405_03. THỨ 3,5 TIẾT 1-3

TP Hồ Chí Minh, Ngày 04 tháng 07 năm 2022


Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

DANH SÁCH THÀNH VIÊN


STT HỌ VÀ TÊN MSSV TỈ LỆ HOÀN
THÀNH
1 Ngô Thanh Thanh 21110643 100%
(Nhóm trưởng)
2 Thái Trần Thiên Phú 21143436 100%

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Đoàn Đức Hiếu

ĐIỂM:

NHẬN XÉT CỦA GV:

GV ký tên
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
2. Mục tiêu nghiên cứu:
3. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng:
PHẦN 2. NỘI DUNG
LUẬN ĐƠN
Chương 1. CẤU TRÚC, CÁC LOẠI HÌNH VÀ KIỂU CỦA TAM ĐOẠN LUẬN
1.1. Định nghĩa và cấu trúc của tam đoạn luận đơn:
1.1.1. Định nghĩa:
1.1.2. Cấu trúc của tam đoạn luận đơn:
1.1.2.1. Các loại thuật ngữ:
1.1.2.2. Các loại tiền đề:
1.2. Hình và kiểu của tam đoạn luận đơn:
1.2.1. Hình của tam đoạn luận đơn:
1.2.2. Kiểu của tam đoạn luận đơn:
CHƯƠNG 2. CÁC QUY TẮC CỦA TAM ĐOẠN LUẬN ĐƠN
2.1. Tiên đề
2.1.1. Định nghĩa:
2.1.2. Nội dung của tiên đề:
2.2. Các quy tắc của tam đoạn luận đơn:
2.2.1. Các quy tắc đối với khái niệm:
2.2.2. Các quy tắc đối với mệnh đề:
2.2.3. Các quy tắc hình: 11
2.3. Xem xét tính toán đúng đắn của tam đoạn luận: 12
PHẦN 3. KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề:

Trong cuộc sống thường ngày, mọi hoạt động của con người từ đơn giản đến
phức tạp đều thông qua tư duy. Cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận
thức, con người càng ngày càng có sự hiểu biết đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, chính
xác hơn về bản thân tư duy đang nhận thức.
Nói về tư duy, phải nhắc đến các hình thức cơ bản của tư duy: khái niệm,
phán đoán, suy luận, chứng minh, bác bỏ, ngụy biện. Trong đó, suy luận chính là
một trong những hình thức quan trọng nhất của tư duy. Nếu như khái niệm hay
phán đoán là các hình thức biểu thị tư tưởng thì suy luận lại được xem là một
loại hình thức sản sinh ra tư tưởng mới từ các tư tưởng đã có, rút ra các tri thức
mới từ tri thức đã biết. Suy luận có vai trò vô cùng to lớn trong nhận thức và
trong đời sống. Nghiên cứu suy luận chính là vấn đề trọng tâm của logic học.
Suy luận có hai hình thức chính là suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch, và
trong suy luận diễn dịch, ta có hai dạng suy luận trực tiếp và gián tiếp.

Dạng suy luận diễn dịch gián tiếp (tam đoạn luận) được nhà triết học cổ đại
Hy Lạp Aristote nghiên cứu kỹ lưỡng từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Ngày
nay trong logic học người ta đã dùng những phương pháp hiện đại để nghiên cứu
loại suy luận này, và đưa ra những hệ thống chuẩn hóa khác nhau về nó. Đặc
biệt, đã có nhiều chương trình về tam đoạn luận đơn được viết cho máy tính. Có
thể nói rằng, thái độ hoài nghi hay thậm chí là phủ nhận đối với tam đoạn luận
đơn đã từng có lúc ngự trị trong logic học đã vĩnh viễn lùi vào dĩ vãng. Trong tư
duy hàng ngày, tam đoạn luận đơn vẫn có một giá trị không gì có thể thay thế.

Nhằm tìm hiểu về tính quan trọng của dạng suy luận diễn dịch gián tiếp (tam
đoạn luận) trong tư duy, nhóm đã lựa chọn đề tài: “Cấu trúc, loại hình và các
quy tắc của tam đoạn luận đơn”.

1
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

2. Mục tiêu nghiên cứu:

Đề tài sẽ nghiên cứu làm rõ các vấn đề về:

- Định nghĩa và các thành phần cấu trúc chính của tam đoạn luận đơn.

- Các loại hình và kiểu của tam đoạn luận đơn.

- Tiên đề và các quy tắc của tam đoạn luận đơn.

3. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng:

- Phương pháp thu thập phân tích tài liệu: thông qua các giáo trình, sách
tham khảo, các bài báo khoa học để làm rõ nội dung của mục tiêu nghiên cứu.

- Phương pháp phân loại hệ thống hóa kiến thức: thông qua các tài liệu thu
thập được nhằm hệ thống và sắp xếp các tài liệu khoa học theo chủ đề, theo đơn
vị kiến thức để nội dung của bài tiểu luận dễ nhận biết và nghiên cứu.

PHẦN 2. NỘI DUNG

Chương 1. CẤU TRÚC, CÁC LOẠI HÌNH VÀ KIỂU CỦA TAM ĐOẠN

2
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

LUẬN ĐƠN

1.1. Định nghĩa và cấu trúc của tam đoạn luận đơn:

1.1.1. Định nghĩa:

Tam đoạn luận được hiểu là một cách suy luận trong suy luận diễn dịch, trong
đó kết luận được rút ra từ hai tiền đề. Tam đoạn luận là hệ thống suy diễn tiền đề
cổ xưa nhất do Aristote xây dựng. Trong tam đoạn luận các tiền đề và kết luận
đều là những phán đoán đơn, thuộc các dạng: A, I, E, O, với đúng ba thuật ngữ
khác nhau.

Tam đoạn luận là một phát minh lớn của Aristote. Trong học thuyết lôgíc học
của mình, ông đã xây dựng tam đoạn luận làm cơ sở cho chứng minh: “Cần
phải nói về tam đoạn luận trước khi nói về chứng minh, bởi tam đoạn luận là
một cái gì đó chung hơn và chứng minh là một loại tam đoạn luận nào đó,
nhưng không phải bất kỳ tam đoạn luận nào cũng là chứng minh”1.

1.1.2. Cấu trúc của tam đoạn luận đơn:

1.1.2.1. Các loại thuật ngữ:

Như đã nhắc trong phần định nghĩa, ta dễ dàng thấy rằng, một tam đoạn luận
đơn có cấu trúc bao gồm hai tiền đề và một kết luận, và chúng đều là những
phán đoán đơn, thuộc các dạng: A, E, I, O.
Ví dụ 1: (1) Mọi động vật đều sinh
sản.
(2) Rùa là động vật.

(3) Rùa sinh sản.


Ta có, hai tiền đề là (1) và (2), kết luận là (3), cả tiền đề và kết luận đều ở dạng
các phán đoán đơn.

1 Nguyễn Gia Thơ, Vũ Thị Thu Hương (2016), Tam đoạn luận trong học thuyết logic của Aristote – một “công cụ”
của nhận thức khoa học, truy cập tại <http://philosophy.vass.gov.vn>, [12/05/2017].

3
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

Trong mỗi một tam đoạn luận, ta chỉ có ba khái niệm là ba thuật ngữ, ký hiệu
là: S, P, M. Trong đó, S được gọi là tiểu thuật ngữ, M là thuật ngữ giữa hay
trung gian và P là đại thuật ngữ. Thuật ngữ trung gian (M) có mặt trong cả hai
tiền đề nhưng lại không có mặt trong kết luận.

Như ví dụ tam đoạn luận ở trên, ta có “động vật” là thuật ngữ trung gian (M),
“sinh sản” là đại thuật ngữ (P) và “rùa” là tiểu thuật ngữ (S). Tiền đề lớn là:
Mọi động vật đều sinh sản, tiên đề nhỏ: Rùa là động vật, và kết luận: Rùa sinh
sản.
Như vậy ta có thể viết tam đoạn luận trên dưới dạng:

MP MaP

SM hay đầy đủ hơn SaM

SP SaP

1.1.2.2. Các loại tiền đề:

Ở ví dụ phía trên, ta thấy phán đoán (1) chứa đại thuật ngữ P, nên nó được gọi
là đại tiền đề, còn phán đoán (2) chứa tiểu thuật ngữ S nên là tiểu tiền đề.

Trong tam đoạn luận đơn, ta không nhất thiết phải viết đại tiền đề trước và
tiểu tiền đề sau. Nên để xác định một tiền đề là đại tiền đề hay tiểu tiền đề thì ta
không thể dựa vào vị trí của nó trong tam đoạn luận đơn, mà ta phải xét xem tiền
đề đó chứa đại thuật ngữ hay là tiểu thuật ngữ.
1.2. Hình và kiểu của tam đoạn luận đơn:

1.2.1. Hình của tam đoạn luận đơn:

Thuật ngữ trung gian (M) – hay còn gọi là trung từ – có thể chiếm các vị
trí khác nhau trong các tiền đề, trung từ có thể là chủ từ hoặc thuộc từ trong đại
tiền đề và tiểu tiền đề. Mỗi vị trí của trung từ trong các tiền đề sẽ cho ra một hình
của tam đoạn luận đơn. Và theo Aristote, hình 1 được xem là quan trọng nhất. Ở

4
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

đây, ta có chính xác bốn hình khác nhau của tam đoạn luận dựa theo đặc điểm
trên:

M P P M M P P M

S M S M M S M S
Hình 1 Hình 2 Hình 3 Hình 4

* Hình 1: Trung từ là chủ từ trong đại tiền đề và là thuộc từ trong tiểu tiền đề.

Ví dụ 2: Mọi sinh viên đều phải thi.

Nam là sinh viên.

Vậy Nam phải thi.

* Hình 2: Trung từ là thuộc từ trong cả hai tiền đề.

Ví dụ 3: Tháng 6 rất nóng.

Tháng này không nóng.

Vậy tháng này không phải là tháng 6.

* Hình 3: Trung từ là chủ từ trong cả hai tiền đề.

Ví dụ 4: Con người có thể tư duy.

Con người là động vật.

Vậy động vật có thể tư duy.

* Hình 4: Trung từ là thuộc từ trong đại tiền đề và là chủ từ trong tiểu tiền đề.

5
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

Ví dụ 5: Thuốc trừ sâu là chất độc.

Độc là chất nguy hiểm đối với con người.

Vậy có chất nguy hiểm với con người là thuốc trừ sâu.

1.2.2. Kiểu của tam đoạn luận đơn:

Như đã nói ở phần cấu trúc của tam đoạn luận, các phán đoán tiền đề và kết
luận có thể là các phán đoán đơn dạng A, E, I, hoặc O. “Kiểu của một tam đoạn
luận đơn là khái niệm cho biết các phán đoán tiền đề và kết luận của nó có dạng
nào. Vì có 4 dạng phán đoán đơn, nên có tất cả 4 3 kiểu tam đoạn luận đơn. Nếu
phân biệt kiểu tam đoạn luận đơn theo các hình khác nhau thì có thể nói đến
64×4 = 256 kiểu tam đoạn luận đơn tất cả” 2. Nghĩa là chỉ cần với ba khái niệm
M, S, P ta có thể xây dựng 256 kiểu tam đoạn luận khác nhau. Điều này giúp ta
hiểu rằng: với một vấn đề được đưa ra ta có thể suy nghĩ ở 256 khía cạnh khác
nhau.
Vậy nên mới có câu “Lưỡi không xương trăm đường lắt léo”, trước khi nói gì
đó phải “Uốn lưỡi bảy lần”, xem xét sự đúng sai của vấn đề. Ta có 256 kiểu của
tam đoạn luận, nhưng không phải tất cả các kiểu đều đúng, để xác định được các
kiểu đúng của tam đoạn luận, phải dựa vào các quy tắc chung của tam đoạn luận
để loại bỏ các kiểu sai.
Một suy luận được xem là đúng đắn khi thỏa mãn đồng thời hai yêu cầu: hợp
logic và xuất phát từ tiền đề đúng.
Theo nghiên cứu của các nhà logic học, chỉ có 19 trong tổng số 256 kiểu của
tam đoạn luận là đúng. Các kiểu đúng tương ứng với các hình như sau:
- Hình thứ nhất: AAA, EAE, AII, EIO
- Hình thứ hai: EAE, AEE, EIO, AOO
- Hình thứ ba: AAI, IAI, AII, EAO, OAO, EIO
- Hình thứ tư: AAI, AEE, IAI, EAO, EIO3
Như vậy, để xác định được các kiểu đúng trên, ta sẽ dựa trên các quy tắc của
tam đoạn luận bao gồm các quy tắc đối với khái niệm và các quy tắc đối với
mệnh đề sẽ được trình bày và làm rõ trong chương 2.

2 Phạm Đình Nghiêm (2009), Nhập môn logic học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 99.
3
Trần Hoàng (2003), Logic học nhập môn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 62.

6
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

CHƯƠNG 2. CÁC QUY TẮC CỦA TAM ĐOẠN LUẬN ĐƠN

2.1. Tiên đề

2.1.1. Định nghĩa:

Theo Phạm Đình Nghiêm - Nhập môn Logic học: “Tiên đề của một lý thuyết
là một mệnh đề được thừa nhận - thông thường là nhờ tính chất hiển nhiên của
nó - và không thể chứng minh hay bác bỏ. Tiên đề của tam đoạn luận là mệnh
đề được thừa nhận làm cơ sở cho học thuyết về tam đoạn luận, và không thể
chứng minh hay bác bỏ nó trong khuôn khổ của chính học thuyết này.”3

Theo đó, tiên đề cùng với các quy tắc của tam đoạn luận đơn sẽ là cơ sở để
chúng ta suy xét sự đúng sai của tam đoạn luận.

2.1.2. Nội dung của tiên đề:

Nội dung của tiên đề được phát biểu qua hai mặt ngoại diên và nội hàm:

- Về mặt ngoại diên: Khẳng định hay phủ định toàn bộ một loại đối tượng
là đã phủ định hay khẳng định từng đối tượng thuộc loại ấy.

- Về mặt nội hàm: Thuộc tính của thuộc tính của đối tượng là thuộc tính
của bản thân đối tượng. Cái gì không thuộc về thuộc tính của đối tượng thì cũng
không thuộc về đối tượng.
2.2. Các quy tắc của tam đoạn luận đơn:

Các quy tắc trong tam đoạn luận được rút ra từ các tiên đề. Ta có thể phân
chia các quy tắc này ra làm hai loại: các quy tắc đối với khái niệm và đối với
mệnh đề.

3 Phạm Đình Nghiêm (2009), Nhập môn logic học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang
100.

7
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

2.2.1. Các quy tắc đối với khái niệm:

* Quy tắc 1: Mỗi một tam đoạn luận chỉ có ba khái niệm và chỉ luôn có
ba khái niệm. Nghĩa là ta luôn có ba khái niệm không hơn không kém trong tam
đoạn luận đơn.

Ví dụ 6: Tất cả sinh viên đều học Logic học.

Minh là sinh viên.

Minh học Toán.

Ở ví dụ trên, ta thấy có nhiều hơn ba khái niệm: “Sinh viên”, “Logic học”,
“Minh”, “Toán”, như vậy ví dụ trên quy phạm quy tắc số 1, không phải là tam
đoạn luận đơn.

* Quy tắc 2: Trung từ chỉ có mặt trong tiền đề và không có mặt trong kết
luận.

Xem lại phần 1.1.2.1 trang 4, ta có cấu trúc của tam đoạn luận đơn được viết
như sau:

MP

SM

SP

Ở đây, trung từ M chỉ luôn xuất hiện trong hai tiền đề và không xuất hiện ở
kết luận. Như ví dụ 1, “động vật” được xem là trung từ, chỉ xuất hiện trong hai
tiền đề và không có mặt ở kết luận “Rùa sinh sản”.

* Quy tắc 3: Khái niệm nào không chu diên trong tiền đề thì cũng không
chu diên trong kết luận.

8
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

Trong quy tắc này chúng ta chỉ đề cập đến đại thuật ngữ và tiểu thuật ngữ.
Quy tắc này thể hiện yêu cầu cơ bản của suy luận diễn dịch đó là những thông
tin chứa đựng trong kết luận không được nhiều hơn thông tin đã có trong các
tiền đề.
Như đã được học ở phần phán đoán, ta đều biết rằng, một từ chu diên trong
phán đoán thì các đối tượng mà nó phản ánh sẽ có lượng thông tin đầy đủ và
ngược lại. Như vậy, người ta dễ dàng suy ra được quy tắc 3.

* Quy tắc 4: Trung từ phải chu diên ít nhất một lần trong tiền đề.

Theo quy tắc này, trung từ phải chu diên ít nhất ở một tiền đề, như vậy quan
hệ giữa các đối tượng được cặp thuật ngữ M – P, M – S phản ánh sẽ xác định
chính xác. “Cụ thể là khi biết đối tượng a có tính chất M, ta hoàn toàn không
biết đối tượng a có tính chất S và tính chất P hay không. Vì vậy, M không làm
được vai trò trung gian giữa S và P.”4

2.2.2. Các quy tắc đối với mệnh đề:

* Quy tắc 1: Có ít nhất một trong hai tiền đề là phán đoán khẳng định.

Điều này là đương nhiên, bởi vì trung từ đóng vai trò là cầu nối giữ đại thuật
ngữ và tiểu thuật ngữ, một khi cả hai tiền đề đều là phán đoán phủ định, trung từ
sẽ hoàn toàn không có quan hệ gì với các phần đối tượng phản ánh tương ứng
của đại thuật ngữ và tiểu thuật ngữ, như vậy ta không thể rút ra được kết luận.

Ví dụ 7: Dạy học không phải là lao động chân tay.

Dạy học không phải là công việc đơn giản.

Không thể rút ra bất cứ kết luận nào từ hai tiền đề trên, vì ta không biết được
mối quan hệ giữa lao dộng chân tay và tính chất đơn giản hay phức tạp của công
việc.
* Quy tắc 2: Có ít nhất một trong hai tiền đề là phán đoán toàn thể.

4 Phạm Đình Nghiêm (2009), Nhập môn logic học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang
102.

9
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

Trong tam đoạn luận, nếu cả hai tiền đề đều là phán đoán bộ phận thì ta
không thể rút ra được kết luận. Ít nhất một trong chúng phải là phán đoán toàn
thể.

Ví dụ 8: Một số sinh viên là sinh viên giỏi.

Một số vận động viên là sinh viên.

Cả hai tiền đề trên đều là phán đoán bộ phận, đại thuật ngữ và tiểu thuật ngữ chỉ
có quan hệ với nhau một phần thông qua trung từ, phần còn lại ta không thể xác
định được quan hệ bởi chúng không có liên hệ với trung từ. Và kết luận thu
được sẽ không được logic.

* Quy tắc 3: Từ một trong hai tiền đề là phán đoán bộ phận thì kết luận
phải là phán đoán bộ phận và từ một trong hai tiền đề là phán đoán phủ
định thì kết luận phải là phán đoán phủ định.

Ví dụ 9: Một số nữ sinh là đoàn viên.

Tất cả đoàn viên đều có sổ đoàn.

Vậy, một số người có sổ đoàn là nữ sinh.

Đối với ví dụ trên, cả đại tiền đề và tiểu tiền đề đều chỉ có một phần đối
tượng được xét đến ở tiền đề nên trong kết luận các lớp đối tượng chỉ được đề
cập dưới dạng phán đoán bộ phận để đảm bảo tính nhất quán và có căn cứ của
nhận thức.

* Quy tắc 4: Từ hai tiền đề là phán đoán phủ định thì không rút ra được
kết luận và từ hai tiền đề là phán đoán bộ phận thì cũng không rút ra được
kết luận.

Quy tắc này xét về ý nghĩa giống với quy tắc số 1 với cách giải thích tương tự.

10
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

2.2.3. Các quy tắc hình:

Đối với hình 1, ta có hai quy tắc:

Quy tắc 1.1. Đại tiền đề là phán đoán toàn thể.

Quy tắc 1.2. Tiểu tiền đề là phán đoán khẳng định.

Đối với hình 2, ta cũng có hai quy tắc:

Quy tắc 2.1. Đại tiền đề là phán đoán toàn thể.

Quy tắc 2.2. Một trong hai tiền đề là phán đoán phủ định.

Hình 3 có hai quy tắc:

Quy tắc 3.1. Tiểu tiền đề là phán đoán khẳng định.

Quy tắc 3.2. Kết luận là phán đoán bộ phận.

Hình 4 có ba quy tắc:

Quy tắc 4.1. Nếu có tiền đề là phán đoán phủ định thì đại tiền đề là phán
đoán toàn thể.

Quy tắc 4.2. Nếu đại tiền đề là phán đoán khẳng định thì tiểu tiền đề là
phán đoán toàn thể.

Quy tắc 4.3. Nếu tiểu tiền đề là phán đoán khẳng định thì kết luận là phán
đoán bộ phận.

Lưu ý: Về việc áp dụng các quy tắc hình: “Các quy tắc hình là điều kiện cần,
nhưng không phải là điều kiện đủ để tam đoạn luận đơn đúng. Nghĩa là không
thỏa mãn các quy tắc hình 1 thì tam đoạn luận đơn thuộc hình 1 sai; tuy nhiên

11
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

thỏa mãn tất cả các quy tắc hình 1, tam đoạn luận đơn thuộc hình 1 cũng chưa
chắc đã đúng.”5

2.3. Xem xét tính toán đúng đắn của tam đoạn luận:

Có ba bước để xác định tính đúng đắn của tam đoạn luận:

* Bước 1: Xác định cấu trúc của tam đoạn luận.

* Bước 2: Xác định hình và kiểu tam đoạn luận.

* Bước 3: Chứng minh Sơ đồ Venn

Vòng tròn Euler

Ví dụ 10: Ta xét lại ví dụ 1,

(1) Mọi động vật đều sinh sản.

(2) Rùa là động vật.

(3) Rùa sinh sản.

Bước 1: Theo ví dụ trên, ta xác định được dạng của tam đoạn luận là AAA

Bước 2: Giả sử xét theo hình số 1, ta có: S+AM-

M+AP-

S+AP-

Bước 3: Sử dụng sơ đồ Venn, ta vẽ được sơ đồ sau:

PM
S

5 Phạm Đình Nghiêm (2009), Nhập môn logic học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang
112.

12
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

Hình 5. Sơ đồ Venn biểu thị theo hình số 1

Như hình trên, ta thấy S P và trong kết luận ta có: P chu diên và S không
chu diên, vậy nên tam đoạn luận đã cho xét theo hình 1 là hoàn toàn hợp logic.

Giả sử, ta xét tam đoạn luận AAA trên theo hình số 3, vậy ở bước 2, ta có
kiểu của tam đoạn luận được viết như sau:
M+AS-

M+AP-

S+AP-

Sử dụng sơ đồ Venn, ta được sơ đồ như sau:

S M P
Hình 6. Sơ đồ Venn biểu thị theo hình số 3

Biểu đồ trên cho ta thấy, ta thấy cả S và P đều không chu diên, nhưng trong
kết luận, ta thấy S lại chu diên, trái với quy tắc số 3, trong các quy tắc đối với
khái niệm.

Như vậy, ta có thể kết luận rằng, một tam đoạn luận có thể hợp logic nếu xét
theo hình này nhưng lại có thể không hợp logic khi xét theo hình khác.

PHẦN 3. KẾT LUẬN

Có tư duy, ắt có sai lầm, như Brochad đã từng phát biểu: “Đối với con người,
sai lầm là quy luật mà chân lý là ngoại lệ”. Có loại sai lầm do tư duy không phù
hợp với thực tế khách quan (ngộ nhận về thế giới tự nhiên, về người khác và cả
về bản thân), loại này dẫn đến những phán đoán giả dối. Có loại sai lầm do tư
duy không phù hợp với các quy luật của tư duy, loại này dẫn đến những suy luận
phi logic. Vì vậy, logic học và đặc biệt là tam đoạn luận luôn luôn có ích và cần

13
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

thiết cho mọi người. Giúp ta nâng cao trình độ tư duy để có được tư duy khoa
học một cách tự giác. Nhờ đó, ta có thể chủ động tránh được những sai lầm
trong tư duy bản thân. Trong logic học, tam đoạn luận cũng là công cụ hữu hiệu
để khi cần thiết ta có thể tranh luận, phản bác một cách thuyết phục trước những
lập luận mâu thuẫn, ngụy biện, thiếu căn cứ của người khác. Nó còn trang bị cho
ta phương pháp tư duy khoa học, nhờ đó ta có thể nghiên cứu khoa học, lĩnh hội
và trình bày tri thức, tham gia các hoạt động thực tiễn khác một cách hiệu quả.
Logic học cũng như tam đoạn luận giúp ta có được một thế giới quan, nhân sinh
quan toàn diện, biện chứng. Đặc biệt, là cơ sở không thể thiếu được trong một số
lĩnh vực như toán học, điều khiển học, pháp lí, quản lí, ngoại giao, điều tra, dạy
học... Và khi ta có kiến thức về tam đoạn luận học thì giúp ta lĩnh hội bài học dễ
dàng, diễn đạt ý nghĩ được rõ ràng, mạch lạc, không mâu thuẫn, tránh được
những sai lầm về tư duy khi tham gia tranh luận và nghiên cứu khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Hoàng Chúng (1996), Logic học phổ thông, Nhà xuất bản Giáo dục, Thành
phố Hồ Chí Minh.

[2] Trần Hoàng (2003), Logic học nhập môn, Trần Hoàng, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

14
Nhóm 04: Suy luận tam đoạn luận GVHD: Thầy Đoàn Đức Hiếu

[3] Phạm Đình Nghiêm (2009), Nhập môn Logic học, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Nguyễn Gia Thơ, Vũ Thị Thu Hương (2016), Tam đoạn luận trong học
thuyết logic của Aristote – một “công cụ” của nhận thức khoa học, truy
cập tại <http://philosophy.vass.gov.vn>, [10/05/2017].

- Hết -

15

You might also like