You are on page 1of 18

lOMoARcPSD|24110415

lOMoARcPSD|24110415

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI

THƯƠNG KHOA LÍ LUẬN CHÍNH

TRỊ

=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN
DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện:Vũ Thế Hoàng Sơn

Mã SV:2214818132

Lớp:Anh 34

Lớp tín chỉ: TRI114

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Trang

1
lOMoARcPSD|24110415

Quảng Ninh – 04/04/2023

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3

NỘI DUNG...........................................................................................................5

I/ Quan điểm triết học Mác- Lê nin về cái chung và cái riêng…..........................5

1. Khái niệm cái chung và cái riêng…............................................................5

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng…..............................5

II/ VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM..................................6

1. Kinh tế thị trường….....................................................................................6

a.Khái niệm kinh tế thị trường….................................................................6

b.Những đặc trưng của kinh tế thị trường………………………….............7

c.Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan…....................7

2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam......................................10

a.Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thế giới…................10

b.Thực trạng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.................11

c.Những giải pháp phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam......................13

KẾT LUẬN...........................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………17

2
lOMoARcPSD|24110415

LỜI MỞ ĐẦU

Nhìn lại quá khứ, Việt Nam đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn để xây dựng
lại nền kinh tế từ một hệ thống kinh tế phong kiến lạc hậu. Trong hơn 50 năm
phát triển của lịch sử đất Việt, đất nước ta đã trải qua những khó khăn, trở ngại
trong công cuộc xây dựng kinh tế. Từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trải qua
hai cuộc chiến tranh, ban đầu chúng ta phải vượt qua bao bất hạnh xã hội và sự
bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên,trong khuôn khổ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, Việt Nam phải trải qua một thời kỳ không có các điều kiện cơ bản
để phát triển do công nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào viện trợ nước ngoài; sản
xuất nông nghiệp không có đủ năng lực sản xuất; ngoại thương vẫn dựa trên
buôn bán hàng đổi hàng; kiến thức khoa học - kỹ thuật còn thấp; công nghiệp
quốc phòng còn sơ khai; vật liệu xây dựng bị hạn chế; hàng tiêu dùng hầu như
không có; các phương tiện giao thông và thông tin liên lạc còn khá hạn chế so
với các nước có trình độ phát triển kinh tế tương tự....

Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung,
bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó
nhanh chóng được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và đông đảo người sản xuất,
tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước
ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa,
hộ tư thương phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy
mô ngày càng lớn, chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị
trường tín dụng và chứng khoán phát triển khá nhanh. Thị trường bất động sản,
thị trường lao động và khoa học - công nghệ, dù còn chưa phát triển một cách
chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển mạnh, đưa
nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.

Tuy nhiên, mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó,
phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của
nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lọc sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều

3
lOMoARcPSD|24110415

kiện của Việt Nam. Nội dung tiể u luận “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng
và vận dụng vào việc xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta” sẽ phân tích theo
quan điểm của Triết học về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, từ đó đưa
ra những đánh giá, vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.

4
lOMoARcPSD|24110415

PHẦN NỘI DUNG


I.Quan điểm triết học Mác-Lê nin về cái chung và cái riêng
1. Khái niệm cái chung và cái riêng.

“Cái riêng” là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.

Ví dụ:

+ 01 quả bưởi đang ở trong tủ lạnh là cái riêng A; 01 quả bưởi ở trên bàn là cái riêng
B. Cái riêng A khác với cái riêng B.

+ 01 trận bóng đã giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Thái Lan diễn ra vào ngày
05/9/2019 là một cái riêng.

“Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

Ví dụ: Giữa 02 quả bưởi A và B nêu trên có thuộc tính chung là đều có cùi dày, nhiều
múi, mỗi múi có rất nhiều tép. Cái chung này được lặp lại ở bất kỳ quả bưởi nào
khác. (Quả quýt khá giống quả bưởi nhưng lại có cùi mỏng và có khối lượng nhẹ hơn
quả bưởi).

Ta cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”.


“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc
tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết
cấu vật chất nào khác.

Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với cái cá biệt.

Ví dụ: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.850 mét. Độ cao 8.850 mét
của Everest là cái đơn nhất vì không có một đỉnh núi nào khác có độ cao này.

2.Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.

Cái chung không tồn tại trừu tượng bên ngoài những cái riêng; trái lại, cái chung
chỉ tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thông qua mỗi cái riêng. Vì vậy, để nhận
thức cái chung có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc nghiên cứu nhiều cái riêng.
Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể

5
lOMoARcPSD|24110415

rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại
độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Vì vậy, để giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể
bất chấp cái chung, đặc biệt là cái chung là cái thuộc bản chất, quy luật phổ biến...
Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà lại không
tuân theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...). Nếu doanh
nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong nền
kinh tế thị trường.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Vì vậy, chẳng những việc giải quyết mỗi
vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung mà còn phải xét đến cái phong phú, lịch sử
khi vận dụng cái chung.
Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi
vấn đề riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất
(đặc thù) của nó. Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn
đề riêng.
Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điểu kiện xác
định của quá trình vận động, phát triển của sự vật. Vì vậy, tuỳ từng mục đích có thể
tạo ra những điểu kiện để thực hiện sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung
hay ngược lại.
Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng
sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các
tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi
đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...

II/ VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI


CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀO NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
1. Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường luôn được xem là thành quả quan trọng và tiến bộ
nhất trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại, là nhân tố thúc đẩy
sản xuất,kinh doanh và tang năng suất lao động. Đây cũng là mô hình
được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng vì những ưu điểm mà nó mang

6
lOMoARcPSD|24110415

lại.
a)Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người
bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và
số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.Nói cách khác, kinh tế thị
trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại
hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế
cạnh tranh bình đẳng và ổn định.
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường tạo ra môi trường cho
các chủ thế trong xã hội thỏa mãn đam mê, sáng tạo trong vấn đề kinh
doanh, sản xuất, đồng thời tạo điều kiện để tăng cường sự cạnh tranh của
các thành phần trong nền kinh tế, phát triển hoạt động trao đổi, mua bán
trên thị trường.
b)Đặc trưng của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều
hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.Sự đa
dạng của các chủ thể kinh tế này là tất yếu trong nền kinh tế thị trường,
xây dựng lên môi trường cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế vận động và
phát triển.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã
hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận. Nói một cách dễ
hiểu, nếu như thị trường giống như một bức tranh tổng thể, thì những
mảnh ghép đó chính là các thị trường bộ phận, như thị trường hang
hóa,dịch vụ,…..
Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường, cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế
xã hội. Còn đói với các chủ thể là nhà nước khi tham gia thị trường, có thể
vì lợi ích kinh tế song đồng thời cũng phải vừa đảm bảo lợi ích xã hội.
Nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các
quan hệ kinh tế,Nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật thị
trường, thúc đẩy các yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự
ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với
thị trường quốc tế.

7
lOMoARcPSD|24110415

C) Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan

Trong giai đoạn đầu xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, nền kinh tế hàng hoá vẫn còn tồn tại. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế
hàng hoá và thị trường hàng hoá là tất yếu ở Việt Nam. Có phân công lao động
trong sản xuất của mình là điều kiện tiên quyết để sản xuất và lưu thông hàng
hóa tồn tại trong nền kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa trước đây. Sản
xuất hàng hoá dựa vào phân công lao động trong sản xuất để có năng suất cao
hơn, tạo ra

8
lOMoARcPSD|24110415

nhiều sản phẩm làm đầu vào cho trao đổi hàng hóa, do đó hoạt động trao đổi
hang hóa ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất hang hóa.
Ngoài ra,việc phân công lao động còn phá vỡ đặc điểm tự cung tự cấp của nền
kinh tế tự nhiên trước đây và thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ; nó
còn là cơ sở và động lực để nâng cao năng suất lao động: do đó có nhiều sản
phẩm được sử dụng cho hoạt động trao đổi, tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi
hàng hoá phát triển hơn nữa.

Vốn sở hữu nhà nước là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội chủ nghĩa,
ngoài hình thức sở hữu thống nhất giữa công chức và nhân dân, còn có nhiều
hình thức chiếm hữu khác nhau và mối quan hệ giữa chúng chỉ có thể thực hiện
được bằng giao dịch thương mại. Các tổ chức kinh tế của Nhà nước và các tổ
chức xã hội đều có chung nền tảng sở hữu về sản xuất vật chất, nhưng ở mức độ
nào đó vẫn khác nhau. Các tổ chức có quyền độc lập tham gia vào sản xuất và
kinh doanh. Mặt khác, các tổ chức kinh tế này khác nhau về công nghệ và trình
độ quản lý. Do đó, chi phí và hiệu quả sản xuất của chúng khác nhau, đòi hỏi
mối quan hệ trao đổi kinh tế giữa chúng với nhau. Thực tiễn những năm qua
cho thấy việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn
của Đảng.

Sau khi giành lấy nửa phía Nam của đất nước thông qua đấu tranh vũ trang và
giải phóng khỏi tay Mỹ, nước ta tồn tại nền kinh tế ba tầng cùng thời. Khi đó
chưa có sự hài hòa giữa ba nền kinh tế khác nhau và phương thức quản lý độc
đoán của Đảng và Nhà nước đã dẫn đến những sai sót nghiêm trọng, thậm chí có
nơi người dân phải đối mặt với nạn đói hoành hành. Những sai lầm đó đã cho
chúng ta thấy rằng không thể tiếp tục phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa như trước đây. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam là một quá trình
khách quan và tất yếu. Sau khi nhận ra những sai sót của mình tại Đại hội Đảng
lần thứ VI, Đảng đã chủ động phát triển đồng bộ nền kinh tế nhiều thành viên.
Bằng cách đó, nền kinh tế Việt Nam điều chỉnh từ nền kinh tế kế hoạch hóa trở
thành hệ thống kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi, có ý
nghĩa quan trọng cả về lý thuyết và thực tiễn.

Kinh tế thị trường là tất yếu, không những phù hợp với đặc điểm của dân tộc
ta, còn phù hợp với quy luật kinh tế và xu thế thời đại:

Nếu không thay đổi phương thức kinh tế thì không thể đủ sản phẩm để tiêu thụ;
hơn nữa việc đề cập đến lượng của cải tiết kiệm được để mở rộng sản xuất là

9
lOMoARcPSD|24110415

không thích hợp.

10
lOMoARcPSD|24110415

Chế độ tập trung quản lý ở nước ta vẫn tồn tại trong thời gian dài, do đó không
những không có tác dụng quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn tạo ra
nhiều hậu quả tiêu cực làm ảnh hưởng đến hiệu quả và năng suất sản xuất.

Thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu và
khách quan. Sự phát triển của nền kinh tế trong nước liên quan trực tiếp đến cải
cách dựa trên cơ sở thị trường và mở cửa thị trường quốc tế. Mục tiêu của các
chính sách kinh tế - xã hội là tốc độ tăng trưởng cao, điều kiện sống được cải
thiện, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Kinh tế đã trở thành một trong những chỉ tiêu cơ
bản, có vai trò to lớn và là sức mạnh của mỗi bang, là yếu tố then chốt trong
việc bảo vệ và giữ vững uy tín của đảng.

Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ta không được phép tiếp thu một cách dập khuôn
nền kinh tế thị trường chế độ TBCN mà phải xây dựng một nền kinh tế thị
trường mới về chất, thể hiện sự phát triển hơn so với nền kinh tế thị trường
TBCN.

2.Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam


a) Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thế giới

Trước hết, nền kinh tế nước ta mang tính chất của nền kinh tế thị trường, đó
là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo mọi quy luật của nền kinh tế thị
trường:, quy luật giá trị thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung-cầu,

Cơ cấu kinh tế nước ta theo nguyên tắc kinh tế thị trường, quan hệ giữa các bộ
phận, chức năng của chúng đa dạng và tinh tế. Quyền sở hữu đã được thừa nhận
một cách đa dạng (không chỉ của nhà nước mà còn của cả tập thể) và lợi nhuận
là động lực để phát triển. Theo đó, một nhóm mới gồm những người năng động
hơn đã xuất hiện, những người tuân theo các xu hướng tốt hơn và điều hành
công việc kinh doanh của họ một cách "kinh tế". Ở nước ta hiện nay, thị trường
tự do cũng có những bất hạnh nhất định: tâm lý coi trọng đồng tiền, chú trọng lợi
nhuận, chênh lệch giàu nghèo quá cực đoan; phát triển kinh tế chưa đồng đều…
Nền kinh tế nước ta cũng được chính phủ giám sát để kiểm soát và giảm thiểu
những điều bất hạnh này cùng với những tác hại mà nó có thể gây ra. Tuy nhiên,
cho dù những bất hạnh này vẫn tồn tại trong xã hội và trong suy nghĩ của một số

11
lOMoARcPSD|24110415

Cơ cấu kinh tế của nước ta mang những nét đặc trưng của nền kinh tế thế giới.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng đi theo mô hình chung của nền kinh tế thế
giới, nghĩa là mỗi nước đều có sự phát triển, nhưng không có nghĩa là sự phát
triển kinh tế của mỗi nước sẽ tách rời khỏi sự phát triển kinh tế của các nước
khác, và cuối cùng ảnh hưởng đến sự hội nhập của thị trường tất cả các nước
trên thế giới. Ngoài ra, không chỉ giá hàng hóa trong nước mà giá hàng hóa quốc
tế cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau.

b) Thực trạng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Nhà nước kinh tế theo quan điểm xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Nếu dưới thời
hiện đại tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế do nhà nước quản lý vì lợi ích của giai cấp
tư bản, thì trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà cộng đồng là chủ thể và mục
đích, nền kinh tế đó chịu sự quản lý của nhà nước vì lợi ích của công dân. Điều
này đòi hỏi phải tìm ra nhiều giải pháp không đơn giản, không thể đơn giản tiếp
cận thông qua quan hệ tài sản mà phải giải quyết cả vấn đề quản lý và phân phối;
tìm động lực phát triển kinh tế trên cơ sở đó xây dựng các điều kiện vật chất - kỹ
thuật cho xã hội mới có công nghệ và công nghiệp hoá nước ta từng bước trở
thành nước hiện đại.

Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tập hợp các hoạt
động kinh tế dựa trên cơ sở cạnh tranh, được thừa nhận nhằm đạt được hiệu quả
và công bằng. Kinh tế thị trường không phải là mục tiêu mà là phương tiện, giải
pháp, công cụ để phát triển lực lượng sản xuất, phục vụ lợi ích của đại đa số
nhân dân; tạo điều kiện cho nước giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng xã hội.
Đồng thời với việc sử dụng sức mạnh của thị trường, ngay từ đầu Đảng đã chủ
trương sử dụng lực lượng và nguồn lực sản xuất cần được quản lý và phân phối
lại. Nhu cầu đặc biệt của quản lý và phân phối là xây dựng quan hệ giữa những
người là thành viên đầu tiên của xã hội. Việc mua bán của người tiêu dùng cần
được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giảm nghèo và nâng cao đời
sống. Nó sẽ thúc đẩy giá trị con người trên thương trường.

Tình hình kinh tế thị trường của chủ nghĩa xã hội nói đến sự cạnh tranh của cái
lớn với cái nhỏ là một hiện tượng tất yếu, nhất là khi nền kinh tế xuất hiện sự
phát triển không đồng đều. Tuy nhiên, cạnh tranh của CNXH có những đặc điểm
biện chứng: khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển bởi động cơ
cạnh tranh nhưng không tranh giành nhau; kinh tế phát triển cùng với tiến bộ xã

12
lOMoARcPSD|24110415

hội, cải thiện bình đẳng thu nhập và giảm nghèo, sau đó nâng cao mức sống của
người dân.

Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại,
khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu làm
đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng dẫn
các thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng.

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp với 75% dân số sống dựa vào nông
nghiệp. Một điều nữa là Việt Nam mới bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế
thị trường, chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và phát triển kinh tế. Kết
quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế và sản xuất hiện nay còn thấp, dựa vào phát
triển tự cung tự cấp, tư liệu đầu vào kém, thu nhập bình quân đầu người thấp 400
USD / người. Thêm vào đó, Việt Nam không có năng lực cạnh tranh mạnh do
trình độ quản lý yếu kém. Vì vậy, chúng ta cần có thời gian học hỏi kinh nghiệm
từ các nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và kinh tế thương mại. Việt
Nam thuộc nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vào những năm 1980, Việt
Nam phải đối mặt với tình hình kinh tế - xã hội còn nghèo nàn do những thiệt hại
do hai cuộc chiến tranh gây ra. Hậu quả tai hại của chiến tranh là mật độ dân cư
đông đúc và cơ sở hạ tầng nói chung bị hư hại và xuống cấp. Bên cạnh đó, Việt
Nam không có đủ kinh phí và công nghệ cần thiết để xây dựng nền kinh tế thực
sự hiện đại với công nghệ cao, như nhiều nhà nước tư bản đã làm trong hơn ba
trăm năm qua. Thị trường Việt Nam còn nhỏ, chưa trưởng thành và còn nhiều
tồn tại. Bên cạnh đó, thị trường nước ta chưa phát triển mạnh - nhiều hình thức
thị trường như thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường lao động còn thiếu và
chưa hoàn thiện nên chưa thể hội nhập với hệ thống kinh tế toàn cầu. Ở
Việt Nam đã có lịch sử lâu đời và những con người có tay nghề cao. Dân tộc ta
có truyền thống và kỹ thuật tốt, đặc biệt là các mặt hàng truyền thống như đồ gỗ
chạm khắc, sơn mài, dệt gấm… Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể nói đến những
cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm mà chưa nói đến sự phát triển của kinh
tế. Thuật ngữ "kinh tế" quá tách biệt với những gì được dạy đến nỗi nhiều người
không thể hiểu nó hoặc liên hệ nó với thế giới của họ. Thêm vào đó, với sự thay
đổi của hệ thống ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn những người thuộc “thế hệ cũ” -
họ quan niệm nhất định về thuật ngữ này và cho rằng bất cứ điều gì liên quan
đến kinh tế thị trường đều xấu trong khi họ không thể chấp nhận nó hoặc theo
nó. Ở một khía cạnh nào đó, họ quá bảo thủ hơn nữa, họ không có khiếu kinh
doanh và thiếu bản lĩnh kinh tế.

13
lOMoARcPSD|24110415

Mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu mà Việt Nam áp dụng vào đầu những
năm 1990 đã có những chi phí xã hội và kém hiệu quả nhất định. Chính phủ đã
giải quyết những điểm yếu này bằng cách làm cho hoạt động kinh tế có trách
nhiệm hơn với xã hội, điều chỉnh sự mất cân đối và giảm bớt những mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường. Các biện pháp này mang lại lợi ích cho các tầng lớp
xã hội và giảm các chi phí có thể phát sinh do sự vận hành không hợp lý của nền
kinh tế thị trường. Đó là lý do tại sao nhà nước không còn có thể được coi là
“người bảo vệ vững chắc tài sản tư nhân” mà là một lực lượng quan trọng trong
việc quản lý xã hội, trong việc kiềm chế bất bình đẳng xã hội.

Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới, ta
luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo độc
lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc.

c) Những giải pháp phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam
Tình hình kinh tế - xã hội của thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
đặc trưng bởi một nước có thu nhập trung bình mới nổi, với trình độ của cải vật
chất và cơ sở hạ tầng còn thấp. Mặt khác, có thể nói Việt Nam đã có lịch sử 4000
năm, thời đó Việt Nam không phải là một quốc gia giàu mạnh, mà là một quốc
gia có chiến tranh với quân xâm lược trong khi chưa có thời gian phát triển về
kinh tế. Và sau chiến tranh, do bản chất của sở hữu nhà nước, sự phát triển kinh
tế của Việt Nam đã bị kìm hãm bởi sự thiếu hụt kỹ năng quản lý. Hiện tại, thị
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đánh giá là chậm hơn so với các nước
khác trên thế giới. Những yếu tố gây ra sự mất cân bằng này đã ăn sâu vào ý
thức của người dân. Điều này cũng có thể xảy ra ở nhiều nước phát triển như Mỹ
và Nhật Bản, nơi mà các chính sách can thiệp và thương mại của chính phủ là
những yếu tố chính gây ra sự mất cân đối kinh tế. Để bắt kịp đà phát triển nhanh
chóng của các nước công nghiệp, Việt Nam phải “đi trước một bước”, tiến thẳng
từ nền kinh tế thị trường tự do sang nền kinh tế thị trường hiện đại. Quá trình
này đầy khó khăn và đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Để đi theo con đường này,
chúng ta nên lựa chọn thực hiện quá trình hiện đại hóa thông qua việc chuyển
đổi suôn sẻ sang nền kinh tế thị trường hiện đại. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn
thực hiện một "quá trình chuyển đổi suôn sẻ" như vậy, chúng ta có thể phải đối
mặt với một số thách thức khó khăn và phải nỗ lực rất nhiều. Chúng ta phải tính
đến những thành tựu công nghệ mới nhất do nhân loại phát triển trong lĩnh vực
khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động cả về số lượng và chất lượng.

14
lOMoARcPSD|24110415

Điều này đòi hỏi chúng ta (những người cộng sản Việt Nam) phải đào tạo một
thế hệ mới không cảm thấy xa lạ khi tiếp xúc với máy móc hiện đại; người lao
động phải có trình độ tay nghề cao; chúng ta phải phát triển khoa học và giáo
dục cũng như thiết lập các chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ các nhân tài
quý giá để chúng ta có thể ngăn chặn việc chảy máu tài sản của con người; Việt
Nam có một vị trí tuyệt vời và nhiều địa điểm du lịch đẹp. Vì vậy, việc phát
triển các dịch vụ vận tải và tour du lịch là rất quan trọng. Các quốc gia khác cho
biết họ "muốn" có những điều kiện như Việt Nam trên đất nước của họ vì họ có
địa điểm tốt về tài nguyên, giúp kiếm ngoại tệ thông qua du lịch dễ dàng hơn
nhiều. Tuy nhiên, hiện nay phát triển du lịch nước ta còn tụt hậu rất nhiều, chưa
tương xứng với tiềm năng. Điều này đặt ra một yêu cầu nữa đối với sự phát triển
của nền kinh tế đất nước này: chúng ta cần phát triển dịch vụ tour du lịch hết
mức có thể, tích cực thu ngoại tệ vào kinh doanh tour du lịch vì nó mang lại lợi
nhuận cho chính mình cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế Việt Nam là không ngừng phấn đấu hoàn thiện nền kinh
tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, cần hoàn thiện các
chính sách, chiến lược, quy chế, kế hoạch kinh tế nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả quản lý ở cấp quốc gia. Mặt khác, cần xây dựng khung hệ thống pháp
luật để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, khởi nghiệp và đổi mới
sáng tạo bằng cách thúc đẩy điều tiết thị trường và kỷ luật tài chính, trách nhiệm
cá nhân và tăng cường phối hợp liên ngành. “Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị
trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học,
công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh;
huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị
trường’’. Nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển được hỗ trợ bởi khung
pháp lý, thử nghiệm các cơ chế, chính sách đặc biệt khuyến khích các hình thức
kinh tế mới, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cung cấp dịch vụ, quản lý, bảo vệ
môi trường ... Nhà nước cần thực hiện đầy đủ các chức năng của mình là xây
dựng và điều hòa. Cần xây dựng và thực hiện các chiến lược, kế hoạch, cơ chế,
chính sách và cơ chế phân bổ để phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và bình
đẳng xã hội, bảo vệ môi trường. Bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do thương mại
và thực hiện các hợp đồng một cách tự nguyện giữa công dân, doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật.

15
lOMoARcPSD|24110415

Nó cần sử dụng cả quyền lực của Nhà nước cũng như các công cụ điều tiết, cơ
chế hoặc mô hình phân phối chính sách để phát triển văn hóa, thực hiện công
bằng và công bằng xã hội cũng như bảo vệ môi trường.

Phát triển nền kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự phát
triển bền vai và ổn định của nhà nước, vì vậy việc đánh giá và tìm hiểu quan hệ
phát triển kinh tế thị trương là rất có ý nghĩa.

16
lOMoARcPSD|24110415

KẾT LUẬN

Tiểu luận với đề tài “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào
nền kinh tế thị trường nước ta” đã nêu ra những kiến thức cơ bản về cái chung
và cái riêng, mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Nền kinh tế Việt Nam tuy là
một bộ phận riêng biệt nhưng đồng thời cũng là một bộ phận riêng lẻ được
chứng kiến bởi những nét chung đặc trưng của thị trường, nhưng nó cũng thể
hiện một số nét riêng biệt đặc thù của nước ta.

Sự lãnh đạo của Đảng hiện nay đã thể hiện ở tư duy chiến lược, nhưng trong
thực hiện vẫn còn nhiều sai lầm làm cho nền kinh tế không sử dụng hết những
lợi ích đó và không khắc phục được hết những khuyết điểm của nền kinh tế nói
chung và chưa thể hiện được như một nền kinh tế thị trường hiện đại mang nét
độc đáo của Việt Nam. Trong khi công tác quản lý còn nhiều khó khăn, gây khó
khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy các công ty nước
ngoài rất muốn đầu tư vào Việt Nam dù chứng kiến thị trường rộng mở, nhiều cơ
hội phát triển. Để có được sự hiểu biết đầy đủ và thống nhất về nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, chúng ta sẽ nâng cao nhận thức và củng cố tư tưởng đoàn
kết của mỗi cá nhân bằng cách tuyên truyền tư tưởng thông qua giáo dục và
thông tin. phát triển giữa các tập đoàn tư nhân. Tích cực học tập và tham gia
cộng đồng kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy Việt Nam đổi mới, cạnh tranh và tham gia
vào thế giới.

17
lOMoARcPSD|24110415

I LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Thị Nhung (1998). Tạp chí cộng sản, số 9/1998.

2. Đặng Thị Nhung (1996). Tạp chí kinh tế và phát triển, số 13/1996.

3. Đặng Thị Nhung (1996). Tạp chí thương mại, số 5/1996

4. Mai Ngọc Cường (1992). Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường, NXB
Chính trị quốc gia.

5. Ngô Minh Tuấn(2021),Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12/2021

6. Phạm Văn Đức (2019) Giáo trình triết học Mác – Lênin, Trường Đại
học Ngoại Thương, Hà Nội.

7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 – Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – 2011

18

You might also like