Professional Documents
Culture Documents
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4. Thực trạng sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên
4.1. Thực trạng Sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên trên Thế giới
Theo thống kê của Liên minh Quốc gia về bệnh tâm thần và Quỹ Sức khỏe tâm thần:
khoảng 20% thanh thiếu niên có thể gặp vấn đề SKTT, 50% của tất cả các trường hợp bệnh tâm
thần suốt đời bắt đầu ở tuổi 14 và 75% ở tuổi 24; 10% trẻ em và thanh thiếu niên có vấn đề về
tâm thần được chẩn đoán lâm sàng, nhưng 70% trẻ em và thanh thiếu niên gặp vấn đề về SKTT
chưa có biện pháp can thiệp sớm và phù hợp [6,10].
Trong nghiên cứu về SKTT của trẻ em và thanh thiếu niên của Anh năm 2017 của tổ chức
NHS digital, có 18.029 đối tượng từ 2-19 tuổi tham gia, trong đó có 6.426 đối tượng từ 11-16
tuổi. Khoảng 14,4% trẻ từ 11-16 tuổi gặp ít nhất một vấn đề SKTT; 6,2% trẻ độ tuổi này gặp từ
hai vấn đề SKTT trở lên. Tại thời điểm phỏng vấn, vấn đề về cảm xúc là vấn đề SKTT phổ biến
nhất (9%); tiếp theo là rối loạn hành vi (6,2%). Tỷ lệ học sinh gặp các vấn đề SKTT khác nhau
giữa nam và nữ, học sinh nữ có vấn đề về cảm xúc (10,9%) cao hơn học sinh nam (7,1%); học
sinh nam có vấn đề về hành vi ứng xử (7,4%) cao hơn học sinh nữ (5,0%); học sinh nam có vấn
đề tăng động - giảm chú ý (3,2%) cao hơn so với học sinh nữ (0,7%). Học sinh có vấn đề SKTT
có nguy cơ tự sát /cố tự tử cao hơn những người không có vấn đề SKTT là 30%. 13% học sinh có
vấn đề SKTT có nguy cơ tự sát/ cố tử tự trong bốn tuần qua cao hơn so với trẻ không có vấn đề
SKTT (0,3%) [11].
Báo cáo khảo sát về SKTT của trẻ em và thanh thiếu niên Australia lần thứ hai khảo sát
SKTT và Sức khỏe của Chính phủ Australia năm 2015 cho thấy 13,9% học sinh (từ 4-17 tuổi)
gặp một vấn đề SKTT (khoảng 560.000 người); vấn đề tăng động - giảm chú ý là vấn đề SKTT
phổ biến nhất chiếm 7,4%; lo âu chiếm 6,9%; trầm cảm chiếm 2,8% và vấn đề về hành vi chiếm
2,1%. Tỷ lệ học sinh nam gặp các vấn đề SKTT (16,3%) cao hơn nữ (11,5%). Sự khác biệt tỷ lệ
này chủ yếu là do tỷ lệ mắc vấn đề tăng động - giảm chú ý ở nam giới (10,4%) cao hơn so với nữ
giới (4,3%). Vấn đề về hành vi cũng phổ biến hơn ở nam giới (2,5%) so với nữ (1,6%) [12].
4.2. Thực trạng Sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên ở Việt Nam
Tại Việt Nam tính đến hiện nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề SKTT đại diện cho học
sinh THCS cả nước. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu về vấn đề SKTT của các em học sinh ở
trường THCS khác nhau và các kết quả nghiên cứu này chỉ đại diện cho trường THCS được tiến
hành nghiên cứu. Dưới đây là một số nghiên cứu về thực trạng SKTT được đánh giá trên bộ công
cụ SDQ25:
Nghiên cứu về thực trạng SKTT và một số yếu tố liên quan của học sinh trường THCS
Thượng Thanh, Quận Long Biên, TP. Hà Nội năm 2018 của Trịnh Thanh Hải trong tổng số 347
học sinh tham gia trả lời nghiên cứu trên bộ công cụ SDQ25, có 36,9% học sinh có vấn đề về
SKTT; 43,8% học sinh có vấn đề cảm xúc; 22,5% học sinh có vấn đề hành vi; 47,5% học sinh có
biểu hiện sự tăng động; 39,5% học sinh có vấn đề trong quan hệ bạn bè; 4,9% học sinh có vấn đề
trong quan hệ xã hội [13].
Nghiên cứu về sức khỏe tâm thần học sinh bằng thang đo SDQ tại hai trường THCS huyện
Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2015-2016 của Hoàng Quỳnh Liên, trong 556 đối tượng
tham gia nghiên cứu, có 15,65% học sinh có vấn đề SKTT [14].
Nghiên cứu về thực trạng rối nhiễu tâm lí ở học sinh THCS trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng của Hoàng Thế Hải và Lê Văn Hiền trên 605 học sinh cho kết quả có 18% học sinh có
nguy cơ bị rối nhiễu tâm lý. Trong đó có 28,6% học sinh đánh giá có vấn đề về mặt cảm xúc,
14% học sinh đánh giá cso vấn đề về mặt hành vi, 8,3% học sinh đánh giá về các vấn đề trong
mối quan hệ bạn bè, vấn đề tăng động được học sinh đánh giá ở mức có vấn đề là 8,3% [15].
Khảo sát về sức khỏe tâm thần ở học sinh trên địa bàn Hà Nội bằng bộ công cụ SDQ25
của Tổ chức Y tế Thế giới ở 1202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở (10-16 tuổi) cho thấy tỷ
lệ học sinh có các vấn đề về sức khỏe tâm thần chung là 19,46%, không khác biệt về nam, nữ,
học sinh tiểu học hay trung học cơ sở [16]. Những khó khăn về ứng xử của học sinh trong
nghiên cứu của Bệnh viện tâm thần ban ngày Mai Hương chiếm 9,23%. Lứa tuổi từ 10-11 có tỷ
lệ cao nhất từ 42-46% gặp khó khăn về ứng xử. Đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về khó khăn
trong ứng xử giữa học sinh nam (84.6%) và học sinh nữ (15,4%) [17].
Ở Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hoá,
mở rộng giao lưu văn hoá liên quốc gia, vì vậy đòi hỏi sự thích nghi, đáp ứng với sự phát triển
của xã hội. Từ đó làm gia tăng mâu thuẫn quan điểm giữa các thế hệ, mâu thuẫn giữa nhu cầu bản
thân và sự đáp ứng của gia đình và xã hội; chuẩn mực xã hội thay đổi. Việc bố mẹ kỳ vọng vào
kết quả học hành của các con, đồng thời giáo dục còn nặng về lý thuyết, việc cải cách giáo dục
còn cục bộ chưa toàn diện làm cho trẻ luôn trong tình trạng học quá tải. Đây là cũng là một trong
nguyên nhân gây ra các vấn đề SKTT của trẻ em vị thành niên.
Các vấn đề SKTT của trẻ em vị thành niên nếu không được quan tâm phòng ngừa và can
thiệp phù hợp sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng như gây hại cho bản thân, gây nguy hiểm cho người
khác, cho xã hội. Bệnh tâm thần ảnh hưởng đến cuộc sống của các thành viên khác trong gia
đình: ảnh hưởng đến các hoạt động trong gia đình, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình, ảnh
hưởng đến tâm lý của các thành viên khác trong gia đình. Bệnh tâm thần ảnh hưởng đến cuộc
sống xã hội: bệnh nhân tâm thần ảnh hưởng đến an ninh trật tự của xã hội, chi phí cho điều trị của
các bệnh nhân tâm thần ngày càng tăng, sức lao động của xã hội bị suy giảm. Vì vậy việc nhận
thức đúng đắn, xác định rõ ràng vấn đề SKTT, phát hiện sớm và phòng ngừa, chăm sóc, điều trị
SKTT cho lứa tuổi học sinh có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn.
5. Một số hành vi và yếu tố liên quan đến các vấn đề Sức khỏe tâm thần.
5.1. Yếu tố cá nhân
- Tuổi
- Giới tính
- Học lực
- Hạnh kiểm
- Sử dụng chất gây nghiện
- Sử dụng Internet và trò chơi điện tử
5.2. Yếu tố gia đình
- Tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp của bố mẹ, sống cùng bố mẹ
- Tình trạng mâu thuẫn trong gia đình
- Sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình
5.3. Yếu tố nhà trường
- Áp lực học tập
- Bạo lực học đường
- Mối quan hệ với thầy cô, bạn bè
6. Khung lý thuyết
Khung lý thuyết được xây dựng dựa trên tổng quan tài liệu liên quan đến 3 yếu tố là: yếu
tố cá nhân, yếu tố gia đình và yếu tố trường học.
Yếu tố cá nhân
- Tuổi
- Giới tính
Vấn đề Sức khỏe tâm thần
(được đo bằng bộ công cụ
SDQ25)
Yếu tố gia đình
1. Vấn đề cảm xúc
- Tình trạng hôn nhân của
2. Vấn đề hành vi ứng xử
bố mẹ
3. Vấn đề tăng động - giảm
- Sống cùng bố/ mẹ
chú ý
- Sự quan tâm, chăm sóc
4. Vấn đề quan hệ bạn bè
của gia đình
5. Vấn đề kỹ năng tiền xã
hội
6. Vấn đề SKTT
Yếu tố nhà trường
- Áp lực học hành
- Mối quan hệ với bạn bè
- Bạo lực học đường