You are on page 1of 214

3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI BÍCH HẠNH

CÁI TÔI TRỮ TÌNH


TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. Hồ Chí Minh - 2012


3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI BÍCH HẠNH

CÁI TÔI TRỮ TÌNH


TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ

TP. Hồ Chí Minh - 2012


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của
tác giả luận án. Kết quả nghiên cứu không sao chép từ bất kì
một công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam
đoan danh dự này.

Tác giả

Bùi Bích Hạnh


3

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................3
MỤC LỤC........................................................................................3
MỞ ĐẦU...........................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................4
4. Lịch sử vấn đề..............................................................................................4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................12
6. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................12
7. Những đóng góp mới.................................................................................13
8. Cấu trúc luận án........................................................................................13
CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT..................14
1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình.................................................................14
1.1.1. Cái tôi..........................................................................................................14
1.1.2. Cái tôi trữ tình.............................................................................................19
1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình................................................................25
1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại......................................................25
1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ.................................................27
1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của
cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975..........................................31
1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại..............................31
1.3.2. Diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động
của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975............................................35
CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN.......54
2.1. Cái tôi sử thi............................................................................................54
2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân................................................55
2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung...................................66
3

2.2. Cái tôi sử thi biến thể.............................................................................79


2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm thơ............................................................80
2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ..................................................................85
2.3. Cái tôi phi sử thi.....................................................................................93
2.3.1. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh..........................................................94
2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư..............................................................108
Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -
1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN......................128
3.1. Trường ca và thơ tự do........................................................................128
3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư...........................129
3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần....140
3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi......................................................156
3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực...............157
3.2.2. Yếu tố văn xuôi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường..................................161
3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp...........................................................165
3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích...........................................166
3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén..................................................172
3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu..................................................................178
3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng............................................................................179
3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin............................................................................181
3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn.....................................................................185
3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm..................................................................................189
KẾT LUẬN...................................................................................194
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.............................................................196
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................197
3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Hoàn cảnh đất nước Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ với hiện
thực chiến tranh khốc liệt đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Nếu như tiếng
rít gầm hãi hùng của chiến tranh làm tổn thương đời sống nội cảm con người thì
tiếng thơ 1965 - 1975 là đất cựa mình sầm sịch trong khuya (Nguyễn Duy), là cuộc
đời như sắp sửa đi xa (Lưu Quang Vũ), là những vành môi khát sữa, những bước
nhớ lang thang (Trần Quang Long), là những bát cơm không đủ níu lòng (Trần Phá
Nhạc)… Thơ trẻ 1965 - 1975 là hiện tượng văn học mang lại cho thơ Việt Nam
1945 - 1975 những khuôn diện mới, trước hết nhìn từ khía cạnh cái tôi trữ tình. Nếu
quan niệm “văn chương là một tiếng gọi” [173, tr.63] thì thơ trẻ 1965 - 1975 sẽ còn
vẫy gọi tầm đón đợi của người tiếp nhận.
Với nguyện ước làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh), một lớp nhà thơ -
thế hệ thơ trẻ - đối mặt với chiến tranh, nếm trải bi kịch chiến tranh. Họ đến với thơ
bằng trái tim tự nguyện của lớp tuổi hai mươi, ba mươi. Sống trong nỗi đau giằng
xé, mất mát, các nhà thơ khát khao tự họa chân dung thế hệ từ âm bản hiện thực tàn
khốc của chiến tranh. Hơn nữa, với cái nhìn “cuộc sống đã mong manh tái nhạt
trong từng cá thể con người”, một bộ phận sáng tác thậm chí bóc trần những thân
phận bi kịch thời chiến. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 có thể được xem là bản tự
thuật đa giọng điệu, góp phần làm sinh động diện mạo thơ Việt Nam 1945 - 1975.

2. Mục đích nghiên cứu


Tìm hiểu Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là con đường tiếp
cận khơi sâu vào bản sắc của thơ trẻ. Việc xác định những dạng thức của cái tôi trữ
tình nhằm khái quát hệ thống quan điểm thẩm mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh
hiện thực của nhà thơ; trên cơ sở đó, khẳng định thuộc tính của thơ trẻ giai đoạn
này. Đồng thời, luận án đi sâu khám phá những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ
4

tình trong xu hướng vận động để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử,
bối cảnh đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ..., cái tôi trữ tình mang diện mạo riêng.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu


Luận án xác định đối tượng thơ trẻ ở miền Bắc, ở vùng giải phóng và ở vùng
tạm chiếm miền Nam, tạo nên cái nhìn toàn cảnh về thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này.
Nếu thơ trẻ miền Bắc đã khắc dấu sắc cạnh vào nền thơ hiện đại và thơ trẻ vùng giải
phóng đã tạo được nhiều phong cách riêng thì ở thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam,
phải kể đến sự góp mặt của những cây bút “viết trên đường tranh đấu” cùng một lớp
nhà thơ không đứng trong dòng chủ lưu của văn học cách mạng, thậm chí chỉ được
xem là bộ phận “bên kia chiến tuyến”. Qua đó, luận án khẳng định sự đa dạng của
cái tôi trữ tình, vốn là yếu tố căn cốt hình thành nên bản sắc thơ trẻ giai đoạn này;
đồng thời góp phần khôi phục khuôn mặt đa diện của thơ Việt Nam 1945 - 1975.

4. Lịch sử vấn đề
4.1. Thơ 1965 - 1975 tạo nên một vị trí xứng đáng trong dòng chảy của thơ
Việt Nam 1945 - 1975, thu hút nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình. “Tập trung vào
chủ đề đánh Mỹ, thơ chống Mỹ rất chính trị, nhưng lại là một thứ chính trị tự nhiên,
nằm ngay trong đời sống, không lên gân, không giả tạo” [208, tr.137]. Và đây cũng
chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của thơ giai đoạn này, đặc biệt là sáng tác của
thế hệ cầm bút trẻ. Không ít công trình nghiên cứu, phê bình nhận định, đánh giá sự
xuất hiện của thơ trẻ thời chống Mỹ như là một bước chuyển mình đáng kể của văn
học cách mạng vốn đã tạo được hương sắc riêng từ thế hệ các nhà thơ lớp trước.
Biểu hiện của cái tôi trữ tình, một trong những đóng góp đáng kể của thơ trẻ Việt
Nam 1965 - 1975, trở thành vấn đề nghiên cứu được quan tâm, trong đó hầu hết nêu
nhận định về đặc điểm cơ bản của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ.
Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh, “Nửa thế kỷ
thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương diện vận động của cái tôi trữ tình)”.
Đây là công trình khái quát sự vận động, phát triển cũng như rút ra được những
dạng thức biểu hiện chính của cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng, từ cái tôi trữ tình
5

yêu nước - kháng chiến (1945 - 1954), cái tôi ngợi ca cuộc sống mới (1954 - 1964)
đến sự phát triển đỉnh cao của cái tôi trữ tình công dân (1964 -1975). Vũ Tuấn Anh
nhận định thơ chống Mỹ là “giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của cái tôi trữ tình
công dân để trở thành cái tôi khái quát, cái tôi tập hợp, cái tôi nhân danh cái Ta dân
tộc và Thời đại” [4, tr.124]. Xuất phát từ nhận định đó, tác giả xác định hai dạng
thức biểu hiện cơ bản của cái tôi thơ chống Mỹ là “cái tôi sử thi” và “cái tôi thế hệ”.
Với tâm thế cái tôi sử thi, tiếng nói của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ trẻ chống Mỹ
“có sức âm vang của hàng ngàn giọng nói, có sức thuyết phục của chân lý phổ quát”
[4, tr.126]. Vũ Tuấn Anh nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cái tôi - cái ta như
là một sự thể hiện nhất quán của cái tôi sử thi, đồng thời cũng nhận dạng một kiểu
cái tôi trữ tình chủ yếu thuộc vào lớp nhà thơ trẻ, “thể hiện cách nhìn, cách cảm
riêng của một lứa tuổi trẻ gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến
tranh, với những gian lao, hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [4,
tr.137]. Chính sự xuất hiện của “cái tôi thế hệ” đã tạo nên tư thế trữ tình mới của
thơ 1945 - 1975: là độc thoại, đối thoại với thế hệ mình - “Cái tôi thế hệ, bằng cách
chiếm lĩnh hiện thực riêng, là sự tăng cường và bổ sung quý báu phẩm chất hiện
thực cho nền thơ chống Mỹ” [4, tr.140]. Cùng hướng khai thác với Vũ Tuấn Anh,
trong “Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nguyễn Văn Long cũng cho rằng cái
“tôi” sử thi và cái “tôi” thế hệ là hai dạng thức tiêu biểu của cái tôi trữ tình trong
sáng tác của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, trong đó cái tôi thế hệ “thống
nhất với cái “tôi” sử thi và có thể coi là một biến thể, một dạng độc đáo và cụ thể
của cái “tôi” sử thi” [92, tr.112]. Theo Nguyễn Văn Long, “cái “tôi” sử thi trong thơ
thời kì chống Mỹ tuy rất thống nhất nhưng không đơn điệu, không hoàn toàn thủ
tiêu cái “tôi” của tác giả, vì thế bản sắc, cá tính của mỗi nhà thơ vẫn có chỗ để bộc
lộ, phát huy” [92, tr.112]. Nguyễn Văn Long cảm nhận: “từ cái náo nức, say sưa với
cảm hứng của buổi đầu, đến sự trải nghiệm với nhiều suy tư, trầm tĩnh trong giai
đoạn cuối của cuộc chiến tranh, cái “tôi” của thơ trẻ muốn tìm cho mình một tiếng
nói trầm tĩnh, trực tiếp, thậm chí đến trần trụi, chối bỏ những gì hoa mĩ và sáo mòn
trong thơ” [92, tr.114]. Tuy nhiên, biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt
6

Nam 1965 - 1975 được các nhà nghiên cứu đặt trong quá trình vận động của cái tôi
trữ tình trong tiến trình văn học cách mạng, vì thế vẫn chưa phải là một cách nhìn
nhận toàn diện về diện mạo cái tôi trữ tình.
Lê Lưu Oanh, trong “Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)”, đề cập đến đặc
điểm của cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, nhằm so sánh với biểu hiện của cái tôi
trữ tình trong thơ sau 1975. Chuyên luận đặt những dạng thức của cái tôi sử thi
tương ứng với kiểu nhà thơ hiện thực cách mạng, từ đó cho rằng “vị trí chủ yếu của
con người trữ tình là vị trí của cái tôi xã hội, cái tôi công dân mang một sinh khí
mới mẻ, mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ tuyên bố rời bỏ cái tôi
cá nhân, để cái riêng tư hòa lẫn trong cái chung” [152, tr.74]. Trong bài viết “Đội
ngũ nhà văn trong chiến tranh chống Mỹ”, Ngô Thảo cũng có nhận định về tâm thế
mới của cái tôi thơ trẻ chống Mỹ: “Lớp trẻ vào thơ chống Mỹ không còn phân vân
đo đếm tỷ lệ “riêng - chung”, “tôi và chúng ta” trong tác phẩm… Họ không khoác
cho tác phẩm tấm áo đồng phục hay mảnh dù ngụy trang” [199, tr.257]. Cũng nhận
định về cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Vị trí số
một của nhân vật trữ tình trong thơ thời chống Mỹ là một cái Ta. Cái ta lấn át cái
tôi”. [197, tr.189]. Từ đó, tác giả khẳng định “Đến giai đoạn chống Mỹ, cái tôi trữ
tình thật sự trở thành cái tôi phương tiện, cái tôi chứng kiến sự vận động của lịch sử.
Thời kỳ chống Mỹ, cái tôi trữ tình có mờ nhạt đi” [197, tr.191]. Theo Nguyễn Bá
Thành, “Xu hướng ẩn khuất của cái tôi trữ tình ngày càng thể hiện rõ trong thơ
chống Mỹ ở giai đoạn sau. Nhất là trong loại thơ suy tưởng, chính luận, thơ đánh
giặc” [197, tr.193]. Một mặt nhà nghiên cứu này nêu lên đặc trưng của cái tôi trữ
tình thơ chống Mỹ, mặt khác chỉ ra sự nhòe mờ, ẩn khuất của cái tôi trữ tình giai
đoạn này. Trong khi đó, Vũ Văn Sỹ lại cho rằng: “Một trong các hình thức tồn tại
ước lệ của cái tôi nhân chứng, khiến ta nhận diện một cách dễ dàng, đó là hình thức
nhân vật xưng tôi đứng ra trần thuật. Cái hình thức trần thuật như vậy không chỉ là
kinh nghiệm thơ ca, mà còn là nội dung nghệ thuật, một hình thức biểu hiện của con
người mang dấu ấn thẩm mĩ lịch sử” [183, tr.134]. Từ đó, Vũ Văn Sỹ khẳng định:
“Trong quá trình vận động của lịch sử thơ ca, chữ “tôi” nhân xưng trần thuật ngày
7

càng biến hóa đa dạng ở lớp nhà thơ chống Mỹ, gắn với những cá tính thơ khác
nhau như Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần
Phương, Thanh Thảo (…) tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về chữ “Tôi” của thơ
trữ tình Cách mạng” [183, tr.135]. Đây là vấn đề được luận án tiếp tục làm sáng rõ
khi khám phá bản chất cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.
Đứng từ góc nhìn cái tôi trữ tình gắn với ý thức khẳng định bản sắc sáng tạo
của người nghệ sĩ, theo Vũ Văn Sỹ, “Những nhà thơ xuất sắc của thế hệ chống Mỹ
như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo,
Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… đều là những cây bút đã chạm khắc được rõ nét chân
dung tinh thần của mình, đồng thời cũng là của thế hệ mình vào những mảng sự
kiện và biến cố lịch sử” [183, tr.115]. Còn xem cái tôi trữ tình như một biểu hiện
của quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chống Mỹ, Trần Đình Sử lại đánh
giá: “Con người của văn học mười năm cả nước đánh Mỹ vẫn là con người chính trị
và dân tộc, con người của sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, vì tập thể”
[130, tr.68] và theo Trần Đình Sử, “chiến tranh dầu ở đâu cũng là một hoàn cảnh bất
thường, và gương mặt con người trong chiến tranh thường là gương mặt đau
thương, nghị lực và ý chí” [130, tr.73] nhưng các nhà thơ “tránh nói những gì đau
thương mất mát” [130, tr.73]. Đây cũng là một gợi ý để tác giả luận án có cơ hội tìm
tòi, suy ngẫm thêm về những biểu hiện khác nữa của cái tôi trữ tình trong thơ 1965 -
1975, ở đó người nghệ sĩ không hề lảng tránh bi kịch chiến tranh.
Một số công trình về đặc điểm của thơ thời chống Mỹ cũng ít nhiều bàn đến
cái tôi trữ tình, như một trong những phương diện nổi bật làm nên diện mạo nền
thơ. Hữu Thỉnh khẳng định “nhập cuộc và hành động là vẻ đẹp của thơ ca kháng
chiến” và cho rằng đấy là tâm thế hình thành nên một lớp thi sĩ kiểu mới trong thơ
kháng chiến, “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng
tạo và khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8]. Đây cũng chính là một cách nhìn nhận về
đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này mà không ít nhà nghiên cứu
đề cập. Trong bài viết “Về một đặc điểm của thơ 1955 - 1975”, Trần Đăng Xuyền
khẳng định “cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước không cho phép con người nghĩ
8

đến cái tôi cá nhân riêng tư, nhất là cái cá nhân ấy lại đối lập, cản trở cái chung của
cộng đồng, của toàn dân tộc (...) Nỗi đau của cái tôi riêng tư hòa vào nỗi đau chung
của toàn dân tộc” [33, tr.259]. Mai Hương, khi ghi nhận về đóng góp của các cây
bút trẻ trong thơ chống Mỹ nhận thấy “những nhà thơ chiến sĩ viết về những người
cùng thời và cũng là của chính họ” [74, tr.93]. Trường Lưu lại so sánh: “Cái tôi mà
phần lớn lớp nhà văn trước Cách Mạng Tháng Tám đã đấu tranh vất vả khi thể hiện
những con người và xóm làng trong kháng chiến chống Pháp, thì giờ đây đã nhuần
nhuyễn hòa vào cái ta, cái chúng ta chung của cảm nghĩ dân tộc” [97, tr.98]. Bài
viết “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ trong chiến tranh giải phóng”
của Lê Thị Bích Hồng cũng góp phần khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình,
trong đó có những nhận định khá xác đáng trên tinh thần phát triển thành quả
nghiên cứu của người đi trước: “Chữ tôi trong thơ mang một tâm thế hoàn toàn mới
mẻ. Đó là cái tôi chung, cái tôi cộng đồng, cái tôi giai cấp, cái tôi thế hệ. Có lúc thơ
phải bằng lòng một sự phiến diện để yên lòng người đánh giặc” [66, tr.15].
Nhìn một cách tổng thể, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã được đề
cập đến ở một vài góc độ trong các công trình nghiên cứu về thơ chống Mỹ, tuy
nhiên, phần lớn chỉ tập trung khái quát nên một số dạng thức cơ bản và có tính chất
phổ quát của cái tôi trữ tình, đó là cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ. Ở công trình luận văn
Thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ”, tác giả luận án cũng đã nhận thấy
trong thế giới nghệ thuật thơ ấy, có biểu hiện của cái tôi thế sự, đời tư - cái tôi dằn
vặt, nhìn thấu vào chiều đau xót bi thương của chiến tranh hay cũng có cái tôi cô
đơn đến tuyệt vọng, chông chênh trong chuỗi bi kịch vụn vỡ của tình yêu. Lưu
Quang Vũ một mình lặng lẽ trở về góc riêng dành cho những điều bình thường mà
cả dân tộc đang bận rộn với nhiều điều lớn lao, thiết thực hơn dường như đã bỏ
quên và dừng lại ở thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ, hẳn chúng ta sẽ ngẫm ngợi
được nhiều điều trăn trở của cái tôi giữa cõi riêng tư thăm thẳm. Như vậy, dù không
phải là một dạng thức phổ biến nhưng trong thơ trẻ thời chống Mỹ, không thể
khuyết sự thể hiện sâu sắc của cái tôi trữ tình đời tư, vốn là một đặc trưng nổi bật
của thơ trữ tình sau 1975. Việc khảo sát dạng thức này cũng là một trong những
9

mục đích nghiên cứu của luận án. Đến gần đây, với chuyên luận “Thơ với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Lê Thị Bích Hồng nhận diện bên cạnh cái tôi sử
thi và cái tôi thế hệ, còn có cái tôi phi sử thi - vốn là một dạng thức hiện hữu trong
thơ chống Mỹ những năm cuối chiến tranh: “Con người một mặt vừa chịu áp lực sử
thi, một mặt lại trở về với cái tôi nhân bản. Thơ chống Mỹ đã góp một thành tựu
trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi” [68,
tr.118]. Đây là một dạng thức cái tôi mà hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình trước
đây gần như không bàn đến, hoặc chỉ khẳng định đó là diện mạo cái tôi trữ tình của
thơ sau 1975, khi cuộc sống dần trở lại những quy luật bình thường, con người phải
đối mặt với bao nhiêu biến động của xã hội. Lúc đó, cái tôi cá nhân mới thực sự
bừng tỉnh, “trở về những giá trị truyền thống nhân bản” [4, tr.174]. Lê Thị Bích
Hồng khẳng định: “Thật ra, cái tôi nhìn theo số phận cá nhân đã có mặt ngay trong
thời điểm chiến tranh” [68, tr.108]. Tác giả chuyên luận này cũng đã tập trung vào
chủ yếu hiện tượng thơ Lưu Quang Vũ; bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến một số
cây bút “bên kia chiến tuyến” ở các đô thị miền Nam khi đề cập đến xu hướng chiến
tranh nhìn từ sự mất mát, hi sinh.
Bên cạnh những công trình mang tính chất nhận định về diện mạo cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, còn một số bài viết đi vào khảo sát phong
cách nghệ thuật của thơ trẻ, ít nhiều cũng đề cập đến một vài nét biểu hiện của cái
tôi trữ tình. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu mới dừng lại phác thảo một số dạng
thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ một cách khái quát hoặc chỉ dừng lại khảo sát chân
dung cái tôi trữ tình trong một số ít hiện tượng tiêu biểu.
4.2. Đối với mảng thơ miền Nam, một số bài viết như: “Thơ miền Nam, tiếng
hát của quê hương” (Tế Hanh - Khái Vinh), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ
trẻ ở miền Nam” (Bùi Công Hùng), “Thơ ca chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam 1954
- 1970” (Phạm Văn Sĩ)… đã đề cập đến tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, cảm hứng
sáng tác của thơ trẻ miền Nam. Song hầu hết chỉ mới dừng ở mức độ giới thiệu,
khái lược, chưa đi sâu nhận diện bản chất của cái tôi trữ tình.
10

Đối với các nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, giới nghiên cứu phê bình
dành không ít sự quan tâm. Trong bài viết “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về thơ, nghĩ…”,
Trần Hữu Tá khái quát một số đặc sắc trong cá tính sáng tạo của các cây bút học
sinh sinh viên: “Ta dễ nhận ra giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần
Quang Long, cách thể hiện cô đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng
thơ hồn nhiên chân thật của Hữu Đạo, Võ Quê và lối viết mực thước, tinh tế của
Đông Trình… Quan trọng hơn, xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một
sinh khí dồi dào và một diện mạo mới mẻ” [64, tr.20-21]. Người nghiên cứu rút ra
nhận định cảm hứng sáng tạo của thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam “thể hiện thật
nhức nhối nỗi buồn, niềm đau của những người sống trên nơi chôn rau cắt rốn” [64,
tr.21]; qua đó, đi đến khẳng định biểu hiện cơ bản của cái tôi trữ tình ở vùng thơ
này là “ý thức nhân danh cộng đồng để suy nghĩ, phát biểu và hành động” [64,
tr.23]. Cũng bàn về tư duy nghệ thuật của một số cây bút học sinh sinh viên, Thạch
Phương đã nhận định tiếng nói chủ đạo của lực lượng sáng tác thơ trẻ miền Nam
giai đoạn này là “tiếng nói phủ định cái trật tự xã hội khốn nạn “đầy rẫy những dây
kẽm gai, mộ địa và lưỡi lê” [158, tr.46]; cho rằng đây là “một sự chối bỏ toàn diện”
nhằm “lật tung cái bộ mặt thật của thuộc địa trá hình” [158, tr.47]. Khi bàn về sức
bật của lực lượng cầm bút trẻ thành thị miền Nam 1965 - 1975, Thạch Phương cảm
nhận: “Đọc thơ họ, ta cũng bắt gặp không ít những nỗi quằn quại, ngột ngạt giữa
một cuộc sống tù đọng” [208, tr.421]. Song Thạch Phương cũng khẳng định cảm
hứng chủ đạo của thơ trẻ thành thị miền Nam là “những thao thức, trăn trở của con
người, hay nói rộng hơn của cả một thế hệ mang tinh thần thức tỉnh trước một thực
tế cần phải đổi thay” [208, tr.422]; đồng thời, bước đầu nhận diện được một số biểu
hiện của cái tôi trữ tình ở một vài cây bút tiêu biểu: “Có chất anh hùng ca của Trần
Quang Long, Đam San, cũng có cái trữ tình da diết của Võ Quê, Thái Ngọc San. Có
cách suy tư lắng đọng kiểu Đông Trình…” [158, tr.52]. Tôn Thất Bút, trong bài viết
“Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm nay”, lại nhận diện chân dung tinh
thần của bộ phận thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam đánh mất niềm tin vào cuộc
đời: “Sự lạc lõng đã trở thành như một ám ảnh thường trực” [10, tr.44] và “Cuộc
11

sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người” [10, tr.45]. Đối với những
cây bút vùng tạm chiếm miền Nam không thuộc dòng thơ “viết trên đường tranh
đấu” như Nhã Ca, Lệ Khánh, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ…, nhìn chung rải rác đã có một số công trình
bàn đến, tuy nhiên chủ yếu vẫn mới dừng lại giới thiệu và thẩm bình một số nét cá
tính sáng tạo, cốt phác họa diện mạo thơ trẻ ở bộ phận này như một yếu tố mới của
văn học vùng tạm chiếm miền Nam: “Thi ca và thi nhân” (Cao Thế Dung), “Thi ca
miền Nam 1954 - 1975” (Nguyễn Vy Khanh), “Những dấu hiệu hiện đại hóa thơ hải
ngoại” (Trần Văn Nam), “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” (Lê Thị
Bích Hồng); “Vị trí và ảnh hưởng thơ Nguyên Sa trong văn học Việt” (Du Tử Lê),
“Đêm và biện chứng vĩnh cửu trong thơ Nguyên Sa” (Trần Nhựt Tân), “Nguyễn Tất
Nhiên, nhà thơ biểu tượng?” (Nguyễn Bảo Hưng), “Luân Hoán, nhà thơ thế hệ
chiến tranh” (Phạm Văn Nhàn), “Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn” (Đặng Tiến)...
Tuy hầu hết các bài viết, công trình chưa đi sâu khám phá cái tôi trữ tình, song
qua đó tác giả luận án cũng nhận diện một số đặc trưng cơ bản trong tư tưởng nghệ
thuật của thơ trẻ đô thị miền Nam, có cơ sở khoa học trong việc nhìn nhận những
nhân tố tác động đến đặc điểm thơ của thế hệ trẻ đồng thời cũng có cái nhìn khái
quát về một số phong cách thơ tiêu biểu như Ngô Kha, Trần Quang Long, Thái
Ngọc San, Ngụy Ngữ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên,
Trần Dạ Từ, Nguyễn Bắc Sơn… Từ đó, tác giả luận án tiếp tục mở rộng diện nghiên
cứu và đi sâu tìm hiểu sắc diện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm
miền Nam.
Nhìn chung, các cây bút nghiên cứu phê bình đã khám phá được một số dạng
thức cơ bản cũng như khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ
Việt Nam 1965 - 1975. Qua đó, thấy được diện mạo mới của cái tôi trữ tình trong
một giai đoạn lịch sử văn học đầy biến động thông qua cái nhìn đối chiếu với cái tôi
trữ tình của những thế hệ nhà thơ lớp trước. Một số công trình khá dày dặn song
cũng nhiều bài viết chỉ mới dừng ở dạng định hướng nhận diện về những biểu hiện
của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này.
12

Với lịch sử vấn đề nghiên cứu trên, luận án có cơ sở đi sâu tìm hiểu cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 dưới một góc nhìn toàn diện hơn; tiếp tục đưa ra
những nhận định mà các công trình trước giải quyết chưa triệt để hoặc mới dừng ở
mức độ gợi mở. Xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm thơ trẻ, tác giả luận
án đi vào cụ thể hóa những dạng thức nổi trội của cái tôi trữ tình ở cả ba vùng sáng
tác: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Qua đó nhận diện
một cách thỏa đáng hơn diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 và khẳng
định thành tựu nhất định của thơ trẻ giai đoạn này trong dòng chảy thơ Việt Nam
1945 - 1975.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5.1. Đối tượng nghiên cứu: Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, tập trung vào
những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu ở ba vùng thơ: Thơ trẻ miền Bắc, thơ trẻ
vùng giải phóng và thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
với những dạng thức biểu hiện và một số phương thức thể hiện nổi bật.

6. Phương pháp nghiên cứu


6.1. Phương pháp hệ thống: Nhằm đặt những tác phẩm khảo sát vào trong tính
chỉnh thể của vấn đề nghiên cứu; đặt vấn đề cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975
vào sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.
6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm phân tích những nét biểu hiện
của cái tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ tiêu biểu; qua đó, tổng hợp,
khái quát thành những dạng thức cái tôi trữ tình của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.
6.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu: là phương pháp được vận dụng để so
sánh những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 với các giai đoạn
văn học khác, đồng thời phát hiện và lí giải những nét riêng cũng như sự gặp gỡ cái
tôi trữ tình giữa các vùng thơ.
6.4. Phương pháp thống kê: Trong quá trình khảo sát những tác phẩm tiêu biểu
của thế hệ thơ trẻ, tác giả luận án sử dụng phương pháp này nhằm thống kê tần số
13

xuất hiện của thể thơ tự do - một phương tiện nghệ thuật quan trọng biểu đạt cái tôi
trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.

7. Những đóng góp mới


Khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam ở cả miền Bắc, vùng
giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam, luận án góp phần mở rộng nội hàm thơ
trẻ Việt Nam 1965 - 1975, hướng tới khái quát một cách toàn diện hơn chân dung
cái tôi trữ tình và nhận diện một cách thỏa đáng hơn tư tưởng nghệ thuật, cũng như
đặc điểm nổi bật của thơ Việt Nam 1965 - 1975. Đồng thời, mong muốn khôi phục
khuôn mặt vốn đa diện của thơ 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 - 1975. Từ
đó, luận án mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá không còn “trượt
theo quán tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 - 1975 chỉ là sự hợp thành
của văn học miền Bắc và vùng giải phóng.
Luận án nhận định trong thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi sử thi là diện mạo cơ bản
của cái tôi trữ tình song cái tôi sử thi biến thể, cái tôi phi sử thi mới là những dạng
thức biểu hiện nổi trội, in đậm bản sắc thơ trẻ giai đoạn này.

8. Cấu trúc luận án


Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được cấu trúc thành 3 chương
Chương 1. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
- một cái nhìn khái quát
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
- nhìn từ dạng thức biểu hiện
Chương 3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
- nhìn từ phương thức thể hiện
14

CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT


NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT

Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam 1945 - 1975, cái tôi trữ tình
không ngừng vận động, góp phần làm nên diện mạo của từng giai đoạn thơ. “Tiếng
thơ phải được nói lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của một trái tim
đang xúc động. Những thương mến, căm giận và những nỗi niềm khác nhau bộc lộ
trong hình tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một tình
cảm không nén lại được” [45, tr.117]. Đây có thể xem là sứ mệnh thơ trẻ 1965 -
1975, trước hết nhìn từ ý nghĩa tồn tại của cái tôi trữ tình. Với những dạng thức biểu
hiện phong phú, cái tôi trữ tình tạo cho thơ trẻ một chân dung tinh thần, một phong
cách thời đại.

1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình


1.1.1. Cái tôi

Với tư cách là ý thức cá nhân của mỗi con người, cái tôi xuất hiện từ rất lâu
trong lịch sử triết học. Cái tôi thuộc về bản chất, là chiều sâu tinh thần con người.
Dẫu tiềm ẩn hay hiển lộ, cái tôi đều được thừa nhận như là nhu cầu thể hiện cá nhân
chính đáng. “Cái tôi tự khẳng định chính nó và tìm được tiếng vang của nó trong cái
ta, đồng thời cái ta cũng tự khẳng định khi bao bọc cái tôi và tìm được tiếng vang
bên trong của nó trong cái tôi” [201, tr.82]. Cái tôi là sự thức tỉnh đầu tiên của con
người, để xác lập vị trí của cá thể này so với cá thể khác.
Trong lịch sử triết học phương Đông, cái tôi mang diện mạo riêng. Với Lão
giáo, con người cá nhân không thể là trung tâm vũ trụ; chừng nào con người quên
“tôi” thì mới có thể sống trong cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời
gian. Theo Nho giáo, con người được đặt trong mối quan hệ với thiên mệnh: “Con
người kính sợ trời, tin thiên mệnh, tin huyền tưởng, ngưỡng vọng siêu nhân” [150,
tr.74]. Bên cạnh đó, Nho giáo lại quan tâm đến cá nhân trong mối quan hệ luân lí,
cương thường giữa người với người; đưa con người vào cái đại ngã của gia tộc,
15

quốc gia nhưng cũng hướng con người vào tự do nội tâm. Cái tôi trong tư tưởng
Nho giáo không tồn tại với ý nghĩa tự thân mà chỉ tồn tại với ý nghĩa con người là
“cái đức của trời đất, là sự kết giao của âm dương…”. Còn với Phật giáo, con người
được thiết lập trong quan hệ với chính mình và được lí giải trên học thuyết “vô
ngã”. Đạo Phật quan niệm phải tiêu diệt cái tôi vật chất để giải phóng cái tôi tinh
thần, phải đưa con người đến nhu cầu hướng nội. Như vậy không có nghĩa là Phật
giáo phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của cái tôi. “Con đường đắc đạo của đạo Phật là
một con đường cá nhân, chứ không thể cộng đồng” [150, tr.75]. Tuy tam giáo đều
quan niệm về cái tôi cá nhân dựa trên khuynh hướng “vô ngã” song hoàn toàn
không phải là sự triệt tiêu cái “ngã”. Lão giáo dùng “ngã” để khước từ, tiêu diệt
danh lợi chính là khẳng định vai trò của yếu tố cá nhân trên con đường thực hiện lí
tưởng đó. Nho giáo một mặt đặt con người vào mối quan hệ khăng khít với thiên
mệnh, khuôn con người vào cương thường, luân lí; mặt khác lại đưa con người quay
vào thế giới nội tại. Điều này có nghĩa là “cá nhân hòa tan vào một bản chất chung
của con người - tự nhiên, con người - chức năng, con người - cương thường, và
không còn ý nghĩa như một cái tôi tồn tại độc lập” [4, tr.22]. Như vậy, dù xuất phát
từ quan niệm về cái tôi cá nhân của mỗi triết thuyết có những đặc trưng khác nhau
thì tất cả đều không thể phủ định ý nghĩa của con người trong việc thực hiện tư
tưởng. Ở mỗi triết thuyết, con người cá nhân dù không tồn tại độc lập nhưng vẫn
được bộc lộ ở một hình thức nhất định. Và “tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân
để giải phóng cho cái “ngã” nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới
khác, không gò bó, tạm bợ” [150, tr.75].
Đến với một số tư tưởng triết học phương Tây, có thể cũng tìm thấy những
quan niệm về con người. Với Descartes, con người đặt mình trong tư thế đối diện
với vũ trụ, là một “bản thể suy tư”; bản chất con người là bản chất cá thể. Theo
quan niệm của Descartes, con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ giữa thể xác
và linh hồn mà người là Người vì người biết đau khổ, đam mê trong sự so sánh với
tộc loại; con người dù nhỏ bé cũng không bị cô lập trong vũ trụ mà luôn tự nhận
thức mình là một phần của trật tự toàn vẹn và có vị thế nhất định trong trật tự toàn
16

vẹn đó. Như Héraclite quan niệm “giữa vũ trụ và con người luôn luôn có một liên
hệ” [114, tr.182]. Dừng lại ở Kant, một đại diện tiêu biểu của triết học duy tâm,
cũng thấy rất rõ ý nghĩa của cái tôi trong đời sống con người. Cái tôi tồn tại vừa là
chủ thể vừa là khách thể của quá trình nhận thức, đồng thời Kant còn tuyệt đối hóa
khả năng nhận thức của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong
tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”
[147, tr.113]. Như vậy, cái tôi cá nhân được thừa nhận như là một đối tượng khám
phá phức tạp của con người. Hay đối với Hegel, cái tôi tồn tại như một cá thể độc
lập. Cái tôi có khả năng tự biểu hiện mình, thể hiện khát vọng của con người. Xét
đến sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc có mối liên hệ với quan niệm cái tôi trữ tình, dừng
lại ở triết học hiện tượng luận của Husserl, thấy rằng cái tôi được chú trọng với tư
cách “chủ tri”, là suy tư về chính chủ thể; khách thể chỉ là cái cớ để chủ thể suy tư.
Chính tư tưởng này đã đẩy triết thuyết của Husserl đến một quan niệm về con người
tự do. Ở đó con người tự thân đã là một chủ thể sáng tạo không có một mối dây
ràng buộc nào với thực tại khách quan. Gặp gỡ Husserl, J.P.Sartre cũng đưa ra một
quan niệm hiện sinh về ý thức của cái tôi, trong đó cái tôi không chỉ thiết lập sự
khác biệt của nó với ngoại vật, với tha nhân mà còn với chính mình. Theo quan
niệm của triết học hiện sinh, “Con người cũng là một toàn thể không phân chia; do
đó mỗi cử chỉ, hành động của nó, dù bé nhỏ, tầm thường cũng bày tỏ một ý nghĩa,
một thái độ của con người hiểu như một toàn thể trước cuộc đời” [232, tr.252]. Con
người được đặt trong sự tự do hóa tuyệt đối, là hữu thể trong mối quan hệ với chính
nó, không có tha tính, là sự “tự ý thức”. Như một sự kế thừa hiện tượng học của
Husserl, J.P. Sartre cho rằng chính cá nhân ra luật cho toàn thế giới, cá nhân phải
xác định ý nghĩa của thực thể trong mình và bên ngoài mình. Từ đó, Sartre quan
niệm: “không có vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ con người” [172, tr.31] và khẳng định
“con người không phải là đóng kín trong bản thân mình mà luôn luôn có mặt trong
một vũ trụ con người” [172, tr.32]. Đối lập với những triết thuyết tuyệt đối hóa cái
tôi cá nhân, đến triết học Marx, giá trị con người cá nhân được xác lập với tư cách
vừa là chủ thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội. Cá nhân luôn tự thiết
17

lập quan hệ với môi trường xã hội, là “bộ mặt xã hội”. Đến đây, cái tôi tồn tại như
là trung tâm của cá tính con người không tách rời khỏi hiện thực: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [102, tr.11].
Theo lí giải của triết học, cái tôi là một yếu tố của chủ thể, là quan niệm của
chủ thể về chính mình. Hay nói cách khác, cái tôi chính là khả năng tự nhận thức
của chủ thể. Sự khu biệt cơ bản nhất của hai phạm trù này là nếu chức năng của chủ
thể là nhận thức và cải tạo thế giới thì chức năng của cái tôi là xác lập vị thế của
mình trong thế giới. Chủ thể, theo quan niệm của triết học, không hẳn là một cá
nhân đơn lẻ, mà đó có thể là một tập thể, một cộng đồng. Như vậy, tương ứng với
chủ thể của mỗi thời đại là sự biểu hiện một loại hình cái tôi phù hợp.
“Sẽ giản đơn, siêu hình nếu xem cái tôi cá nhân là một cái gì nhỏ hẹp, hạn chế,
khép kín” [181, tr.136]. Mang những đặc tính riêng, cái tôi không đơn thuần là cái
tôi cá nhân riêng lẻ, nhỏ hẹp, bất biến mà đó là một phạm trù mang tính “động”,
“không chỉ là chức năng tự ý thức của chủ thể, mà còn là chức năng tự ý thức về
bản chất xã hội của chủ thể” [181, tr.136]. Cái tôi tự thân có sức dung chứa vô cùng
bởi cái tôi có chức năng thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính nội cảm. Sự
thâu nhận này đã tạo nên một thế giới chủ quan của cái tôi, ở đó sức nội cảm của cái
tôi tỉ lệ thuận với sự phong phú đa dạng của cuộc đời. Đây chính là thế giới của
những giá trị qua cách nhìn của cái tôi, là thế giới khó tách bạch đâu là chủ quan
đâu là khách quan: Khúc thu/ Khúc thu/ Bần bật lá vàng/ Đôi giày nhỏ xinh xinh
nàng công chúa (Dương Kiều Minh); Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi
uốn mình trong chiếc áo the xanh (Đoàn Văn Cừ). Chính đặc tính này tạo nên sự đa
dạng trong những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình: cái tôi hướng nội, cái tôi
hướng ngoại… Cái tôi luôn tự thiết lập một cách ứng xử “thống nhất bền vững” đối
với cuộc sống. Điều đó không có nghĩa cái tôi là một phạm trù bất biến. Sự bền
vững ở đây có thể hiểu là sự nhất quán trong bản chất tinh thần con người, nghĩa là
ý thức khẳng định bản chất tinh thần qua nhiều biến cố của đời sống: Biển vẫn cậy
mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút/ đã cô đơn (Hữu Thỉnh); Ký hiệu đời
18

tôi là một chấm xanh xanh ngắt/ Ký hiệu thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến/
khôn cùng (Phùng Khắc Bắc). Như đã khẳng định, cái tôi là một phạm trù có tính
“động”. Đây có thể là sự xung đột trong nội tại cái tôi, hay cũng có thể hiểu là sự
xung đột với thế giới để đi đến một sự thống nhất của chủ quan. Nghĩa là đích đến
cuối cùng của cái tôi là xác lập giá trị của mình trong thế giới khách quan. Hay nói
khác hơn, cái tôi là một cách “lựa chọn”. Cái tôi luôn nhận ra mình trong cái nhìn
thể nghiệm: Nghĩa lớn ai mua bán chợ chiều/ Dập vùi hoa lá biết bao nhiêu (Trần
Huyền Trân); Suốt đời thương không thương hết được đời/ Điều ấy làm tôi day dứt
mãi/ Tôi từng trải và tôi vụng dại (Trần Nhuận Minh). Từ cách lí giải này, khi đi
vào làm rõ bản chất của cái tôi trữ tình, hẳn sẽ có cái nhìn thỏa đáng hơn; không thể
quy cái tôi trữ tình vào trong cái tôi cá nhân thuần túy, cũng như không thể đồng
nhất cái tôi trữ tình với cái tôi cá nhân ấy, càng không thể quy cái tôi trữ tình và cái
tôi tác giả - cái tôi nhà thơ về một mối.
Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc của
tư tưởng triết học. Cái tôi gắn với những bước tiến hóa của nhân loại trong quan
niệm về con người của triết học đã ảnh hưởng đến ý thức nghệ thuật văn chương
trong việc thiết lập quan niệm về cái tôi trữ tình. Suy cho cùng, cái tôi trong thế giới
trữ tình khởi đi từ ý thức về cái tôi trong nguồn gốc triết học song đi vào thế giới
thơ ca, cái tôi lại mang một diện mạo riêng. Đó là nhu cầu được biểu hiện và nhìn
nhận về hiện thực khách quan. Và những dạng thức khác nhau của cái tôi trải qua
các nền văn học đều ít nhiều thể hiện sự ảnh hưởng của quan niệm cái tôi triết học,
tạo thành biểu hiện phong phú của cái tôi trữ tình trong thơ. Nếu như thơ Thiền gắn
với “cái tôi vô ngã” của phạm trù thi pháp văn học trung đại thì thơ ca lãng mạn lại
gắn mình với “cái tôi cá nhân” là một, là riêng, là thứ nhất. Và khi đi ra khỏi thời
của cái tôi co mình trong thế giới cô đơn, rợn ngợp của Thơ mới, thơ 1945 - 1975
lại là môi trường nảy nở những dạng thức mới của cái tôi.
Trong ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ, cái tôi được quan niệm dưới nhiều
khía cạnh phong phú. Đó là ý thức về cá tính sáng tạo của con người, là cách nhìn
nhận về con người như là một đối tượng thẩm mĩ của quá trình sáng tác, là số phận
19

con người không lặp lại ở mỗi giai đoạn sáng tác và mang dấu ấn thời đại. Xuất
phát từ căn nguyên của cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật, có thể hình dung
ban đầu về cái tôi trữ tình là “sự tự ý thức của cái tôi được biểu hiện trong nghệ
thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được
thể hiện thông qua phương tiện trữ tình” [4, tr.26-27].

1.1.2. Cái tôi trữ tình

Theo Hegel, nguồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình là “ở chủ thể, và chủ thể
là người duy nhất và độc nhất mang nội dung” [60, tr.995]. Bản chất thơ trữ tình là
thể hiện cảm xúc, ngẫm suy, khát vọng của con người. Đó là sự thể hiện rõ nét vai
trò của cái tôi trữ tình như một yếu tố làm nên tính chất riêng biệt của tác phẩm thơ
trữ tình. “Thơ trữ tình với tư cách là sự biểu hiện của cái tôi, là phương tiện để con
người cảm thấy sự tồn tại của mình” [181, tr.140]. Thơ ca là tiếng nói xuất phát từ
nhu cầu nội tại của con người, có khi đó là nhu cầu tự bạch bức bách của thế giới
tâm hồn. Nhiều định nghĩa về thơ trữ tình đều hướng đến giải mã sự thôi thúc của
nhu cầu sáng tạo xuất phát từ góc độ đó. Thơ là sự bắt nhịp của những tâm hồn
đồng điệu, là tiếng nói tri âm… Quá trình sáng tạo thơ ca trước hết là nhu cầu rung
cảm tự thân của người nghệ sĩ, là con đường tìm sự đồng vọng. Bản chất của thơ
chính là sự hiện diện của cái tôi trữ tình. Vì thế có thể xem cái tôi là nhân tố xuyên
suốt hành trình sáng tạo thơ trữ tình.
“Thơ trữ tình là phương tiện để con người tự khẳng định bản chất tinh thần
của mình so với tồn tại vật chất, là phương tiện để tự đồng nhất mình, xây dựng
hình tượng về mình…” [181, tr.140]. Cái tôi có vai trò quan trọng trong thơ với tư
cách là trung tâm để bộc lộ tất cả suy nghĩ, tình cảm, thái độ bằng giọng điệu riêng;
nhờ vậy làm nên cái độc đáo không lẫn giữa thế giới nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ.
Sáng tạo thơ ca là kết quả tất yếu của quá trình dồn tụ cảm xúc, là khoảnh khắc
thăng hoa của cái tôi thi sĩ khao khát tự bộc bạch, giãi bày. Không có sự thúc bách
bên trong đời sống nội cảm, không có cái tôi chênh chao giữa thế giới hiện hữu,
không có niềm vọng tưởng về một quá khứ mờ xa thì không thể có Điêu tàn đi về
20

trong những miền hư tưởng. Sẽ không có Di cảo thơ như một cuộc chạy đua dốc
sức cuối cùng về với bến bờ của đời người nếu không có một tâm hồn luôn trên
hành trình suy tưởng về số phận, về cái chênh vênh giữa cõi sống và cõi lò thiêu.
Cũng như nếu không có cái tôi cảm nghiệm thân phận buồn trống trải thì không thể
có thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, không thể có lời tự thú xót cay: Nhiều khi muốn mình
như chiếc bóng/ Tan trong màn đêm/ Để không ai nhận ra/ Mình có mặt trong đời
(Tặng nỗi buồn riêng). Hegel đã khẳng định: “điều làm thành trung tâm và nội dung
thực sự của thơ trữ tình, đó chính là cái chủ thể” [60, tr.1007]. Tác phẩm thơ trữ
tình chỉ tồn tại khi đó là nhu cầu tự ý thức, nhu cầu xúc cảm của chủ thể sáng tạo.
Điều đó có nghĩa sẽ không có tác phẩm trữ tình nếu không có nhu cầu tự khẳng
định, không có nhu cầu tìm kiếm tri âm của chủ thể. Hoặc có thể tác phẩm trữ tình
vẫn ra đời nhưng không thể nhận được sự đón đợi của công chúng. Vậy để có một
tác phẩm trữ tình đích thực, trước hết phải khởi đi từ sự rung động của chính chủ
thể. Sự xuất hiện của cái tôi trữ tình là điều kiện cốt yếu của thơ trữ tình.
Từ những cơ sở lí luận nền tảng trên, tác giả luận án quan niệm cái tôi trữ tình
là biểu hiện của cách nhận thức và suy tư của chủ thể trước thế giới hiện thực; qua
những điểm nhìn nghệ thuật, thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Ở đây, cái tôi trữ tình được hiểu theo nghĩa rộng, là “bản chất chủ quan của thể loại
trữ tình” [152, tr.22]. Và bản chất của thơ trữ tình là sự hiện diện của cái tôi.
Cái tôi trữ tình và cái tôi tác giả có mối quan hệ thống nhất nhưng hoàn toàn
không đồng nhất. “Cái tôi trữ tình chỉ là sự hiện diện bộ mặt tinh thần của nhà thơ
trong những tác phẩm thơ ca” [46, tr.167]. Việc quy cái tôi trữ tình vào khuôn nghĩa
hẹp tương ứng với cái tôi tác giả hoặc gán ghép cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử sẽ
đưa đến một cách nhìn phiến diện về bản chất của cái tôi trữ tình trong thơ. Trong
thực tế sáng tác, tác phẩm và người sáng tạo quan hệ mật thiết. Có khi thơ chính là
âm bản, là hồn phách của người nghệ sĩ. Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ “dưới dạng
trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn
với cuộc đời riêng của người viết” [45, tr.73]. Nguyễn Trãi với nỗi lòng chồng chất
ở non nước Côn Sơn; Hồ Xuân Hương với kiếp lấy chồng chung; Xuân Diệu cùng
21

nhịp sống nôn nao, cuống quýt, vội vàng; Hàn Mặc Tử tủi phận trước tình đời hờ
hững hay một Lưu Quang Vũ lận đận với nỗi niềm bài hát ấy vẫn còn dang dở…
Nhà thơ mang thế giới riêng tư in vào trang viết. “Nhà thơ là nhân vật, là cái tôi, là
hình tượng trung tâm. Đọc thơ, chúng ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một, là
thống nhất” [86, tr.19]. Cái tôi trữ tình ở đây dường như chính là cái tôi nhà thơ.
Não nề đến rên xiết, cô độc đến trống rỗng, khát thèm đến đê mê… là cõi
riêng tây của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Trong đó, Đau thương là duyên phận lỡ làng
của đời thơ ông. Lỡ làng yêu đương, lỡ làng thân phận và cuộc phiêu diêu vào
mộng tưởng cũng lỡ làng. Ở đó, người thơ dấn thân vào tận cùng bi kịch bằng một
cái tôi mê dại. Xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là người tình tri kỉ, Hàn
Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái tôi trao phận vào cõi hư vô ắp đầy
ám gợi. Để tự giải thoát sượng sần thân xác. Để thỏa ẩn ức đời tư và bức bách hơn
là để chạm tới cạn sâu những ước vọng mà chủ thể không tìm thấy trong thực tại:
Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/ Cho ngây người mê dại đến tâm can (Rướm
máu). Không nén nổi cơn khát yêu mà trong ngắn ngủi cuộc đời, nhà thơ vắt kiệt
mình nếm trải. Vườn yêu trong cõi Hàn Mặc Tử dậy men tình mà cũng chật ních
rạn vỡ tái tê. Dự cảm đổ vỡ đón đợi người thơ ngay trong khoảnh khắc say sưa nhất
của ái tình, sẽ chán chường và sẽ chán chê (Tối tân hôn). Trải nghiệm đau thương là
đối mặt với định mệnh. Song tận sâu tâm thức Hàn Mặc Tử là sự cưỡng lại thân
phận. Say trăng, rượt trăng, chơi trên trăng hay ngủ với trăng âu cũng là sự phân
thân của cái tôi mê dại. Cái tôi đắm mình trong trăng đến hoang tưởng. Rượt đuổi
trăng mà viễn tưởng đến ái tình không xác thịt. Ngủ với trăng lại tưởng vọng đến
thổn thức, phập phồng niềm yêu đương… Không phải là sự quy chụp cuộc đời bệnh
tật của Hàn Mặc Tử vào thế giới nghệ thuật thơ của chủ thể, giữa cái tôi nhà thơ và
thế giới hình tượng thơ vẫn có một độ “vênh” nhất định. Sáng tạo thơ ca trước hết là
cái nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dẫu là cuộc đời thi sĩ đấy nhưng
chưa hẳn là đời, là tôi nhưng cũng không hoàn toàn là tôi. Song nếu không có một
Hàn Mặc Tử cô đơn giữa cõi người rộng rinh trong mặc cảm bệnh tật giày vò,
không có một Hàn Mặc Tử cồn cào khát sống thì sẽ không có Đau thương. Quả
22

thật, khi người thơ đóng dấu ấn đời tư vào tác phẩm, cái tôi trữ tình ít nhiều đều
mang bóng dáng của cái tôi tác giả như là sự phơi trải chính mình.
Cái tôi trữ tình có thể bộc lộ gián tiếp qua cảnh ngộ không phải của riêng mình
mà tác giả chỉ nói lên cảm nghĩ của mình về những cảnh ngộ, những sự kiện đó.
Lúc này, “cái tôi trữ tình là nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác” [45, tr.74]. Tây
Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu… là những trường hợp như thế. Hay cũng không ít tác phẩm viết về một
nhân vật trữ tình được xác định nào đó: Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Trần Thị Lý, Nguyễn
Văn Trỗi…, khi đó “nhân vật trữ tình của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình
của nhà thơ” [45, tr.74]. Đối với những trường hợp này, dù cái tôi nhà thơ không
bộc lộ trực tiếp song qua nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình vẫn tiềm ẩn. “Từ cảm
hứng chủ đạo đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn cần phải hiện diện. Chính cái khác
nhau của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca
khác nhau” [45, tr.74-75]. Như trong địa hạt thơ tình, người đọc luôn nhận ra sự
khác nhau, đa dạng của những lời “tự hát”: một Xuân Quỳnh giăng mắc dự cảm;
một Ý Nhi duyên thầm, trầm lắng; một Dương Hương Ly ngọt ngào, thao thức; một
Lê Anh Xuân mãnh liệt, chân thành…
Thơ là độc bạch mà cũng là đối thoại. Chừng nào có sự phân thân của tác giả
để nhập vai vào từng số phận - nhà thơ đồng nhất cảm xúc với khách thể được phản
ánh thì chừng đó xuất hiện cái tôi trữ tình. Ở không ít trường hợp, cái tôi trữ tình
không đơn thuần là cái tôi hóa thân vào đối tượng miêu tả, cũng không chỉ là cái tôi
nói hộ tiếng lòng người khác, tiếng lòng chung. Trước khi hóa thành cái tôi trữ tình,
người đọc nhận ra cái tôi của chính chủ thể đang bộc lộ cảm xúc, suy tư. Và dẫu là
trực tiếp hay gián tiếp thì sự xuất hiện của cái tôi trữ tình không thể đi ra ngoài cái
tôi chủ thể. Rõ ràng ở đây, “cái tôi trữ tình là cái tôi được nghệ thuật hóa” [45,
tr.74] nhưng không tách rời khỏi cái tôi nhà thơ mà thống nhất trong biểu hiện
phong phú của cái tôi chủ thể sáng tạo. Như chốn dừng chân cuối cùng của kiếp
người trở thành nỗi trở trăn không dứt trong hồn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có
phải nhà thơ mang nặng quá những dự cảm chia xa hay đó là nỗi lo sợ cõi đời vội
23

vàng đóng khép? Thế giới tâm linh, thế giới cõi âm rờn rợn... đều thành gần gụi như
thể tự đó con người tái sinh: Mai kia về ngủ trên đồi/ Nắng rải hoa vàng quanh chỗ
tôi/ Con chim sơn ca ngày thơ bé/ Nó bay về khóc mãi không thôi (Sinh nhật). Thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần chạm vào cái chết. Con người hiện sinh trong
ông dằn vặt quá nhiều với sự cô đơn đến trống rỗng. Đến nỗi thi sĩ ban cho mình
quyền được buồn như là một quan niệm nghệ thuật: Nỗi buồn là căn - nhà - ở - đời
của thơ. Nhà thơ nguyện gánh trên vai sức nặng của thiên chức nghệ sĩ, không trốn
chạy buồn sầu. Thậm chí, ngôi nhà ở đời cũng thành địa chỉ buồn, hoang lạnh như
nấm mồ vô chủ: Nhà tôi ở phố Đạm Tiên. Nhu cầu đối thoại, dù là đối thoại với
người cõi âm, vẫn giải tỏa được những khắc khoải, giằng xé trong đời sống nội tâm
chất chồng mâu thuẫn. Cũng như nhiều nhà thơ sau 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường
muốn dùng tiếng nói tâm linh để đến thẳm sâu bí ẩn tâm hồn con người. Không
chìm trong nỗi ám ảnh cái chết mà thi sĩ của cõi âm này chạm đến cái chết như là
đối tượng thẩm mĩ để tâm niệm về triết lí nhân văn từ sau thế giới tha ma nghĩa địa.
Chút tình nhân gian ủ ấm con người khi họ trở về nằm trong cát bụi, đó là cái còn
lại của kết cuộc một đời người. Còn niềm an ủi nào hơn thế: Món quà tặng sau cùng
đời dành cho anh/ Là nắm đất ủ nơi bàn tay bè bạn (Nói với bóng mình in trên
vách). Hay trước sự tạ từ, người thơ cũng cảm thấy chống chếnh và cô độc: Rồi em
vội vã ra đi/ Hân hoan, nồng thắm, xuân thì/ Và hoa tàn trong phút chốc/ Không
còn ai người để khóc/ Anh chết một mình đêm qua (Không đề). Thơ Hoàng Phủ
Ngọc Tường đau đáu trăn trở giữa sống - chết, nhất thời - vĩnh cửu... Chiêm nghiệm
cái chết, để được sống đầy với đoạn đời còn lại. Cái tôi thử đi đến cõi âm để quay
về chăm chút hơn nữa cho cuộc sống hiện tại. Song trong hồn thơ ấy, dường như
mọi thứ đều vô thường. Ở đó, không còn sân si, không còn thói đời phàm tục, chỉ có
tôi ngồi với bóng tôi. Trong một tác phẩm, người đọc thường tiếp xúc với tiếng nói
trữ tình hòa quyện của hai cái tôi như thế, có khi không thể phân biệt rạch ròi.
“Trong thế giới trữ tình, cái tôi nhà thơ tự biểu hiện và tự biến cải theo quy luật
sáng tạo thẩm mĩ để trở thành cái tôi trữ tình với một chất lượng khác, một tầm vóc
24

khác, mang tính khái quát hóa” [4, tr.40]. Sự gắn kết này chính là đặc trưng của cái
tôi trữ tình, góp phần thể hiện bản sắc thơ trữ tình.
Cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình cũng là một mối quan hệ thống nhất nhưng
không đồng nhất. Cái tôi là bản sắc trữ tình của chủ thể, là khả năng tự ý thức, tự
phân tích của chủ thể. Hay nói khác hơn, cái tôi trữ tình có chức năng thiết kế quan
niệm của chủ thể về chính mình, xây dựng hình tượng của chủ thể trữ tình. Cái tôi
trữ tình luôn ý thức thiết lập vị thế của mình trong thế giới nghệ thuật để chủ thể trữ
tình góp phần nhận thức thế giới. Như vậy, cái tôi trữ tình có thể xem là nguyên cớ
để chủ thể trữ tình tồn tại. Ứng với mỗi chủ thể là một dạng thức cái tôi trữ tình phù
hợp. Thơ mới 1932 - 1945, là thế giới riêng tư “càng đi sâu càng lạnh” của chủ thể
cá nhân, vì thế cái tôi trữ tình là cái tôi cá nhân với những nỗi niềm thân phận cô
độc, rợn ngợp, vội vàng… Trong khi đó, ở thơ 1945 - 1975, chủ thể trung tâm lại là
cộng đồng, dân tộc; vì vậy, cái tôi trữ tình mang cảm quan chủ đạo của giai cấp,
thời đại là cái tôi sử thi, cái tôi đặt trong cái ta: Ví phải mắc vào vành xiềng xích/
Đành cắn răng một chết không khai/ Chết là chết cái hình hài/ Sắt son một tấm
gương đời treo cao (Khương Hữu Dụng). Đến thơ sau 1975, với bản chất của thế
giới khách quan là bộn bề cuộc sống, là tầng lớp bi kịch riêng tư thì chủ thể trữ tình
lại là chủ thể cá thể; vì thế cái tôi trữ tình chủ yếu là cái tôi “phi sử thi” - cái tôi thế
sự, đời tư với khuynh hướng nhìn lại, nghiệm lại những nấc thang giá trị và nhìn lại
chính mình hay đó là cái tôi tự thú: Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt
sương/ Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Như vậy, cái tôi trữ tình là biểu
hiện cho yếu tính “động” của chủ thể. Ứng với mỗi chủ thể của từng thời đại, từng
giai đoạn văn học, cái tôi trữ tình mang diện mạo riêng, theo quy luật vận động và
phát triển. Cái tôi trữ tình thể hiện bản chất xã hội của chủ thể trữ tình. Việc phác
họa diện mạo chung của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận
động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 vì lẽ đó tạo cơ sở lí giải về
những dạng thức đặc trưng và những biểu hiện mới của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ
giai đoạn này; ngược lại đây cũng là minh chứng cho tính tất yếu của sự vận động
và phát triển của cái tôi trữ tình trong tiến trình thơ ca 1945 - 1975, qua đó thấy
25

được sự vận động, chiều hướng phát triển của đời sống thơ ca nói riêng và đời sống
văn học hiện đại nói chung.

1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình


1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại

Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thơ ca, bộc lộ tầm nhìn, cách
nghĩ về thế giới và con người; thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của nhà thơ; đồng
thời là một điểm nhìn nghệ thuật. Sự thể hiện cái tôi trữ tình xuất phát từ nhu cầu tự
khẳng định thế giới tư tưởng, tình cảm của chủ thể. Đây là một đặc trưng cơ bản của
cái tôi trữ tình. Như nhận định của Hegel, thơ trữ tình chân chính “phải mang dấu
ấn những tình cảm, những trực giác những biểu tượng hay những suy nghĩ của chủ
thể” [60, tr.1002]. Nếu không có quá trình nhận đường, không có hành trình đến với
mặt trời chân lí thì sẽ không có cái háo hức, ngỡ ngàng, bừng ngộ của hồn thơ Từ
ấy. Sẽ không có Thêm một (Trần Hòa Bình) nếu không có một chủ thể luôn thao
thức về những điều được - mất song hành trong đời. Cũng như không có một tâm
hồn vấn vít hương quê thì Chân quê sẽ không xuất hiện giữa thi đàn hiện đại; thi sĩ
Nguyễn Bính sẽ không thả được vào lòng cô gái vương hơi hướng thị thành một nốt
lặng luyến tiếc… Chủ thể càng tự thức về mình sâu sắc thì tác phẩm thơ trữ tình
càng có chiều sâu.
Sự tự ý thức, tự biểu lộ của cái tôi trữ tình là cơ sở của những tiếng thơ không
trộn lẫn. Đây có thể xem là sự bộc lộ của cái tôi cá tính. Chính biểu hiện này phân
biệt phong cách nhà thơ. Thời đại Thơ mới, cái tôi cá nhân kiêu hãnh bước vào
vườn thơ lãng mạn. Nhưng mỗi hồn thơ là một cá tính sáng tạo, một phong cách
riêng biệt. Một Xuân Diệu đắm đuối, một Chế Lan Viên kì dị trong cõi hư vô, một
Huy Cận đơn côi trong cảm thức thời gian… làm xôn xao cung đàn thơ 1932 -
1945. Nền văn học kháng chiến gắn với cái tôi hòa trong cái ta thời đại, song không
thể lẫn một Phạm Tiến Duật ngông ngạo, đùa duyên với một Hữu Thỉnh đằm sâu,
da diết; một Ý Nhi thanh khiết, dịu dàng với một Lâm Thị Mỹ Dạ nồng nàn, day
26

dứt… Những bức chân dung đó được vẽ nên từ ý thức của cái tôi trong việc tự nhìn
nhận, đánh giá và cũng chính từ nhu cầu tạo dựng phong cách ở từng nhà thơ.
Người nghệ sĩ tìm đến thơ trước hết để được thỏa mãn đời sống nội cảm. Thế
giới quan của người sáng tạo không thể tách rời cái tôi trữ tình. Song đó không phải
là cái tôi đứng riêng lẻ, cái tôi cá nhân hẹp hòi. Cái tôi trữ tình cũng không bao giờ
chỉ nhằm biểu hiện mình. Ngay trong lời độc bạch là cả một xu hướng đối thoại. Dù
thế giới trữ tình là những điều riêng tây, cái tôi vẫn không hẳn chỉ viết ra cho mình.
Và cho dù cốt sáng tác chỉ để cho riêng mình thì tiếng thơ đó cũng động đến tâm
khảm nhiều người. Người đọc tìm thấy bóng dáng mình và được soi ngắm mình ở
đó. Điều này một phần lí giải vì sao có những tác phẩm thời chiến không được đón
nhận do đấy là những tiếng thơ tưởng rất riêng tư và xa lạ với mối bận tâm của hoàn
cảnh đất nước chiến tranh, sau một quá trình sàng lọc của thời gian lại tìm thấy chỗ
đứng của mình, lại hồi sinh trong lòng độc giả. Đây là đặc trưng xã hội, là nhu cầu
đối thoại của cái tôi trữ tình.
Cái tôi tất yếu phải chịu chi phối bởi môi trường xã hội. Sự tự thức của con
người suy cho cùng cũng vì muốn khẳng định mình trong mối quan hệ đó. Cái tôi
trữ tình là sự tự thức của chủ thể với người khác, với cộng đồng, với xã hội và với
chính mình. Tiếng Tự tình của Hồ Xuân Hương đâu chỉ là của riêng nữ sĩ. Đó là lời
đồng vọng của những thân phận phụ nữ không tìm thấy tri âm, đối mặt với tuổi
thanh xuân cô độc đến rợn người. Đây còn là lời đối thoại, thách thức của bao nhiêu
số phận đắng cay với cuộc đời, với xã hội u ám bấy giờ. Tiếng thở dài ai oán của
Phạm Thái cuối thế kỉ XVIII vừa là sự luyến tiếc xuân xanh, vừa là lời nguyền rủa
chế độ phong kiến thối rữa và đây cũng không chỉ là lời tự thán của mỗi cái tôi nhà
thơ: Ba mươi tuổi lẻ là bao tá/ Năm sáu đời vua thật chán ghê. Hay lúc tình yêu lên
tiếng, dẫu đó là tiếng lòng sâu kín nhất của con người, thì khi đi vào thơ cũng trở
thành cuộc hạnh ngộ của nhiều thân phận tình yêu. Tôi bật thốt với người và mọi
người tìm thấy mình trong tôi. Cái tôi trữ tình tự phát hiện mình, tự phân tích nhưng
ẩn trong bức chân dung tự họa đó là niềm mong tạo được kênh giao tiếp với thế giới
bên ngoài. Nghĩa là cái tôi không thể tách mình ra khỏi sự ràng rịt với chung quanh.
27

Chỉ khoanh cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử, đi tìm bản sao của đời thực ở tác
phẩm nghệ thuật sẽ đem lại cách nhìn phiến diện về đặc trưng của cái tôi trữ tình.

1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ

Cái tôi trữ tình tồn tại trong một thế giới nghệ thuật, thế giới của những giá trị
thẩm mĩ. Khi bước vào lãnh địa nghệ thuật, hiện thực đời sống được nâng lên một ý
nghĩa mới. Đất nước là ngôi nhà chung của con người nhưng mỗi nhà thơ lại có một
đất nước của riêng mình. Hình tượng đất nước ở mỗi cách nhìn mang một khuôn
mặt không lặp lại. Dưới cái nhìn tin yêu, hi vọng, đất nước gắn với những tầm cao,
những cửa gương hi vọng, là nơi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm; qua lăng
kính đổ vỡ, hẫng hụt, đất nước lại trở mình khó nhọc trong cõi lòng quặn đau của
cái tôi. Hay ở địa hạt thơ tình cũng thế, vẫn là một câu chuyện của muôn đời song
mỗi nhà thơ lại phát hiện trong thế giới riêng tư ấy những giá trị thẩm mĩ không
giống nhau. Khó ai biểu lộ tình yêu si dại, mê đắm, quấn quýt như Xuân Diệu
nhưng đó lại là một tình yêu diệu vợi, là thèm khát không thành, là ham muốn tột
độ, là nỗi buồn đeo đẳng. Còn với Xuân Quỳnh, tình yêu là máu thịt, là lời ru, là
tiếng thầm thỉ dỗ dành, là mái ấm, là bàn tay; là niềm khát yêu không thỏa; là quan
niệm hạnh phúc mong manh; là chênh vênh trong dự cảm. Giá trị thẩm mĩ ấy không
chỉ là “ý nghĩa tinh thần” của riêng đời sống nội tâm chủ thể mà đó còn là sự kết
tinh những giá trị văn hóa, lịch sử, thời đại. Tình yêu của Xuân Diệu đâu chỉ là niềm
hướng vọng không bao giờ đến đích mà đó còn là nỗi cô đơn, trống trải của cái tôi
một thời; là khát vọng thành thực của con người dẫu cuối cùng một thời đại của cái
tôi đã khép lại trong khoảng trống không thể lấp đầy. Ở Xuân Quỳnh cũng thế, đâu
chỉ là thổn thức trong nhiều cung bậc yêu thương, đâu chỉ là xốn xang rung động
của những trái tim yêu mà đó còn là quan niệm về hạnh phúc, về những khát khao
bình dị; là chiêm nghiệm... Cái tôi trữ tình ngoài nhu cầu tự bạch, đối thoại, còn là
một thực thể mang nhiều ý nghĩa tinh thần khái quát.
Cái tôi chỉ trở thành cái tôi trữ tình khi chủ thể có nhu cầu tạo kênh giao tiếp
với đối tượng tiếp nhận, nghĩa là phải có văn bản nghệ thuật. Cái tôi trữ tình được
28

biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, thông qua thế giới nghệ thuật ngôn từ.
Có thể xem cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật, ở đó những phương thức thể
hiện đều mang quy luật riêng. Hình ảnh thơ, chất liệu tạo nên thế giới hình tượng
nghệ thuật là thế giới giàu tính biểu trưng. Không - thời gian nghệ thuật là “hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Khi đi vào thế giới nghệ thuật văn chương,
chúng không còn nguyên chiều kích khách quan nữa mà đã được tạo dựng bằng sự
phong phú của các phương tiện nghệ thuật ngôn từ thông qua trạng thái cảm xúc
của chủ thể thẩm mĩ. Hay nói khác hơn, không gian và thời gian nghệ thuật được
tạo nên từ lăng kính của cái tôi trữ tình. Với điểm nhìn dịch chuyển trên nhiều chiều
không gian và thời gian, người nghệ sĩ có thể khám phá nhiều góc cạnh về con
người, về cuộc đời.
Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím ngát… (Đoàn Phú Tứ). Đây là
mảng màu từng làm xôn xao cung đàn thơ một thời quá vãng. Thi sĩ đã tạo nên một
gam màu đặc biệt của cảm xúc. Thời gian như nhuộm cái buồn thân phận. Và phải
chăng là định mệnh, vườn thơ mấy mươi năm sau lại hiện hữu một sắc trắng thời
gian đến não nề: Em ở đây không sớm không chiều/ Thời gian trắng, không gian
toàn màu trắng (Thời gian trắng - Xuân Quỳnh). Chủ thể trữ tình đã mất ý niệm
thời gian? Dòng đời vẫn trôi chảy, vậy mà em rơi vào cõi không sớm không chiều.
Hóa ra cái tôi trữ tình đang trải mình trong màu thời gian. Không phải màu thời
gian tím ngát thê thiết trong hồn thơ Đoàn Phú Tứ mà ở Xuân Quỳnh, thời gian não
nề sắc trắng. Cái tôi ngập chìm trong màu trắng tang tóc, lạnh lẽo - màu trắng của
cõi chết im lìm. Hay những hình tượng thời gian dự cảm, thời gian hồi sinh, thời
gian khát vọng… trong thế giới nghệ thuật thơ đều là sự thể hiện đa dạng của thời
gian tâm tưởng. Thời gian không còn thuần túy là thời gian hiện thực nữa mà có
khi trong thơ trữ tình đã xuất hiện kiểu thời gian đồng hiện. Trong thơ Lưu Quang
Vũ, con người thường được phát hiện ở chiều thứ tư của thời gian - đó là chiều của
đời sống tâm linh. Có thể thấy, hình tượng thời gian trong sự kết hợp đồng hiện quá
khứ - hiện tại - tương lai là nghệ thuật xây dựng thời gian đời tư, thời gian tâm
tưởng trong thế giới thơ Lưu Quang Vũ. Chính dòng thời gian đồng hiện này làm
29

cho con người đời tư bộc lộ tâm trạng trên nhiều chiều kích. Tưởng nhớ thì tưởng
nhớ đến quắt quay, âu lo thì âu lo đến ám ảnh, còn khao khát thì khao khát đến tận
cùng. Sự giao thoa của ba chiều thời gian như thế đã tạo trong thơ Lưu Quang Vũ
hình tượng thời gian mang chiều kích mới: quá khứ trở nên xưa hơn, hôm nay đã
đan cài đường vân của cái đang còn phía trước và nhất là tương lai lại ôm chứa cả
chiều xưa quá khứ và chiều sâu thực tại: Nắng đầu hạ chưa về/ mưa cuối xuân sắp
tạnh/ một cái gì mong manh, thấp thoáng/ đang bồn chồn chuyển động giữa không
gian (Em có nghe...).
Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật thể hiện trong thế giới
trữ tình với nhiều chiều kích mới. Ngay trong thời gian lịch sử xã hội đã mang cái
nhìn đa chiều của chủ thể trữ tình. Con đường là không gian nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ Tố Hữu. Đó là con đường ra trận, con đường lớn, con đường của ánh sáng
và khát vọng… Cái tôi trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu được bộc lộ ấn tượng
trong những không gian như thế. Chính góc nhìn không gian đó góp phần khắc sâu
hơn bản sắc thơ Tố Hữu, ở đó cái tôi trữ tình chính trị là cái tôi chủ đạo. Hay cái tôi
đời tư của thơ hiện đại trải mình trong nhiều không gian, thể hiện được chiều sâu
nội cảm của chủ thể trữ tình. Đó là không gian hồi tưởng, không gian tái sinh,
không gian tiên cảm… Mỗi vùng không gian như thế phản ánh sâu sắc thế giới tinh
thần con người. Khi đối mặt với những vênh lệch đời tư, cái tôi đắm mình trong
không gian hồi tưởng. Khi hạnh phúc trở về, con người sống trong cảm thức không
gian tái sinh. Và khi niềm đau của quá khứ chưa thể nào lành hẳn, khi quá nâng niu
hạnh phúc có lại sau mất mát, cái tôi lại không yên với những khoảng trống hẫng
hụt đang đón đợi. Như vậy, đó là không gian tâm tưởng gắn với sự tự nghiệm về
bản thân hay đó là sự thức nhận của cái tôi về thế giới khách quan.
Thể thơ cũng là một sự lựa chọn có dụng ý của chủ thể sáng tạo, góp phần đắc
lực trong việc biểu hiện cái tôi trữ tình. Nguyễn Duy tìm đến lục bát như là một
cách làm mới bút pháp nghệ thuật từ chất liệu truyền thống. Hơi hướm dân gian phả
vào tác phẩm của nhà thơ thương mến đến tận cùng chân thật. Phạm Tiến Duật lại
xáo mình trong những vần thơ tự do. Đây là môi trường phù hợp nhất với một hồn
30

thơ dí dỏm, không chịu bó mình vào ràng buộc. Và thơ tự do cũng là sự lựa chọn
hiệu quả của rất nhiều cây bút thơ trẻ. Ở đó, cái tôi trữ tình thỏa sức trong những đề
tài giàu chất chính luận, đề tài thế sự đời tư. Thơ tự do cũng là mảnh đất đủ sức ôm
chứa hiện thực ngồn ngộn của thời đại thơ 1965 - 1975 và đặc biệt là thơ sau 1975
với muôn điệu đời thường. Mỗi thể thơ là hình thức nghệ thuật để cái tôi trữ tình thể
hiện mình.
Cái tôi trữ tình còn được biểu hiện thông qua chất liệu ngôn từ, yếu tố quan
trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà thơ nhọc
nhằn trong việc lựa chọn một nhãn tự hay trăn trở để tìm ra những lời thơ giàu sức
gợi. Ngôn từ nghệ thuật là một thế giới có quy luật riêng, thậm chí có những lí lẽ
riêng mà nếu đi tìm cái hữu lí của nó sẽ là việc làm vô lí. Bởi đó là quy luật của sự
sáng tạo, là cái lí của tâm hồn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác trong thơ là một
dẫn chứng. Huy Cận có một thời gian xa cách được đo bằng thời gian cảm giác:
Thuở chờ đợi thời gian ôi rét lắm. Trần Đăng Khoa như chạm vào được tiếng rơi
của chiếc lá, bằng cả sự rung động khẽ khàng trong tâm hồn: Tiếng rơi rất mỏng
như là rơi nghiêng. Hay nhiều cách dùng từ rất mới trong thơ cũng là sự thể hiện
cách cảm, cách nhìn độc đáo của cái tôi trữ tình đối với hiện thực. Ngay khi ngôn
ngữ của cuộc sống đời thường ồ ạt vào thơ thì đó cũng là thứ ngôn ngữ mang giá trị
thẩm mĩ, là khuynh hướng tăng cường chất tự sự trong thơ trữ tình. Và chính thế
giới nghệ thuật trần trụi của ngôn ngữ đời thường ấy lại là cái tạng của nhà thơ, làm
nên phong cách nghệ thuật tác giả. Tính chất này tạo nên những diện mạo mới cho
cái tôi trữ tình trong thơ hiện đại.
Cái tôi trữ tình còn biểu hiện mình ở sắc giọng khác nhau. Thăng - trầm, được
- mất trong tôi tạo nên những sắc giọng chồng chất. Cùng nếm trải tình yêu, song
mỗi cái tôi là một cung bậc. Hay ngay trong cái tôi, cũng là sự đan xen nhiều chất
giọng. Thơ tình đâu chỉ là tiếng nói dịu dàng đằm thắm, đâu chỉ là chất nồng nàn sôi
nổi, cũng đâu chỉ có đắm đuối mê say mà còn là phấp phỏng âu lo, là ngóng đợi, là
thổn thức, giằng xé, đớn đau… Mỗi cái tôi trữ tình lại là một cung âm không lẫn,
góp phần chủ yếu tạo nên sự đa dạng của cái tôi trữ tình, tạo nên nhiều phong cách
31

nghệ thuật thơ. Trong đó giọng điệu chủ đạo là sự thể hiện đậm nét nhất cá tính
sáng tạo của người nghệ sĩ.
Tồn tại trong thế giới nghệ thuật, đặc trưng thẩm mĩ của cái tôi trữ tình còn
được thể hiện ở những phương thức nghệ thuật khác. Một chỉnh thể nghệ thuật với
hình thức biểu đạt càng phong phú càng góp phần khắc họa sinh động dạng thức cái
tôi trữ tình. Đây là hệ quả tất yếu của sự kết hợp hài hòa giữa nội dung trữ tình và
hình thức trữ tình của thơ ca.

1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của
cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975
1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại

Đời sống thơ Việt Nam 1965 - 1975 đã có những chuyển mới với một lực
lượng cầm bút trẻ ở những vùng thơ khác nhau (Các cây bút miền Bắc và vùng giải
phóng: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lưu Quang Vũ, Phạm
Ngọc Cảnh, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Ý Nhi,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Dương
Hương Ly, Thu Bồn; các cây bút vùng tạm chiếm miền Nam gồm cả đội ngũ “viết
trên đường tranh đấu” - phần lớn là lực lượng học sinh sinh viên sáng tác trên “trận
địa đường phố”: Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Đông
Trình, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Văn Phụng, Tần Hoài Dạ Vũ, Bùi
Chí Vinh… và cả một bộ phận nhà thơ nằm ngoài dòng chủ lưu của văn học cách
mạng, với ngòi bút khơi sâu vào bi kịch thân phận con người: Thanh Tâm Tuyền,
Nguyên Sa, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ, Trần Dzạ Lữ, Du Tử Lê, Lệ Khánh, Tô
Thùy Yên, Nguyễn Phan Thịnh, Trần Thúc Vũ, Nguyễn Tất Nhiên…). Chính những
diễn đàn báo chí của miền Nam bấy giờ như Đối diện, Đứng dậy, Khởi hành, Sáng
tạo, Tin văn, Văn, Ý thức... là môi trường sáng tác chủ yếu để các cây bút vùng tạm
chiếm miền Nam thể nghiệm và bộc lộ được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ;
bước đầu tập hợp cho thơ 1965 - 1975 một lực lượng cầm bút có những nét riêng
trong quan niệm nghệ thuật, khuynh hướng sáng tạo, tư duy nghệ thuật.
32

Bước vào đời sống văn học từ những vùng đất khác nhau của Tổ quốc, lực
lượng sáng tác mới này đã dốc hết mình trong cuộc chạy tiếp sức của lịch sử thơ ca,
mang sắc diện riêng của một thời đại. Đó là lớp nhà thơ trẻ - một sự hợp thành có
vẻ ngẫu nhiên song lại rất biện chứng của ba mảnh ghép: miền Bắc, vùng giải
phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. “Không thể nào nói tới sự tiến bộ, sự phát
triển của một nền văn học nếu như một thế hệ nhà văn trẻ đã không đủ tư cách, tài
năng để thay thế được những bậc cha anh họ và đã không mang trong mình những
nhân tố mới” [243, tr.105]. Chính sự xuất hiện của một thế hệ thơ trẻ đã dẫn đến sự
ra đời của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Như vậy, về thơ trẻ, có thể quan niệm đây
là sáng tác của lớp nhà thơ trẻ, được xem như là một thế hệ thứ ba, tiếp nối thế hệ
nhà thơ tiền chiến và thế hệ nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp. Cần nói thêm
rằng, thơ trẻ ở đây không còn được hiểu với tư cách một khái niệm cũ thường được
dùng để chỉ sáng tác của đội ngũ nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong thời chống
Mỹ, thấm nhuần lí tưởng cách mạng theo phần lớn quan điểm đánh giá hiện tượng
văn học này. Thơ trẻ ở đây đã được sử dụng theo quan niệm riêng của tác giả luận
án, với nội hàm được mở rộng, trước hết, nhìn từ phương diện vùng sáng tác. Thơ
trẻ Việt Nam 1965 - 1975 bao gồm sáng tác của các bộ phận nhà thơ thuộc cả ba
vùng: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Việc nhận diện
phạm vi của đối tượng khảo sát được mở rộng như thế cũng là một cách vượt qua áp
lực của những quan điểm trước đây khi nhìn nhận về hiện tượng thơ trẻ này; vì thế
sự cố gắng làm mới một khái niệm cũ chắc hẳn không tránh khỏi những hạn chế
nhất định trong việc lí giải thật thấu đáo thuật ngữ. Từ thực tế này, khi chọn đối
tượng nghiên cứu của đề tài là thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với tính chất tương đối
của khái niệm thơ trẻ, tác giả luận án rất mong nhận được sự đồng tình, sẻ chia từ
phía người tiếp nhận.
Thế hệ thơ trẻ được hiểu là thế hệ nhà thơ với chất trẻ của lứa tuổi hai mươi,
ba mươi bước vào sáng tác. Đây là một lực lượng sáng tác bao gồm những con
người cùng một lứa tuổi, phần lớn xuất hiện và trưởng thành trong cùng một hoàn
cảnh của thời đại - những năm chiến tranh chống Mỹ. Thơ trẻ vừa có chất trẻ của
33

lứa tuổi, vừa có chất trẻ trong suy nghĩ, trong cảm xúc, trong tư duy nghệ thuật và
cụ thể là trong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực. Mười năm chiến tranh ngột
ngạt mùi lửa đạn đã tạo nên chất liệu nghệ thuật mới cũng như tác động đến khuynh
hướng sáng tác thơ 1965 - 1975. Đó là sự xuất hiện của một lớp nhà thơ với lí tưởng
thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật phong phú. Họ cùng tìm đến thế
giới nghệ thuật như một sự tự nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình
hài của đất nước, của nhân dân, thời đại hay tự nghiệm về thế giới đời tư phức tạp
của con người. Phải nói, thế hệ thơ trẻ đã khẳng định “tiếng nói đặc sắc của riêng
lứa tuổi trẻ mà những thế hệ nhà thơ trước không thể nói thay được” [74, tr.93].
Thật vậy, điều đáng ghi nhận của thế hệ thơ trẻ là khả năng khám phá tinh tế, từ
những điều bình thường của cuộc sống và nâng những điều tưởng rất đỗi bình
thường ấy lên thành vấn đề mang ý nghĩa khái quát “được đúc kết thông qua tâm
trạng sinh động của một lớp người với mọi suy nghĩ, cảm xúc vui buồn, mọi yêu
thương, kỉ niệm, mơ ước, mọi gian khổ, mất mát, mọi tình huống, hoàn cảnh sống”
[74, tr.95]. Với tư thế người trong cuộc, họ mang vào sáng tác những mảng hiện
thực “tươi nguyên sự sống”. Có thể khẳng định, chất liệu cơ bản nhất của thơ trẻ là
hiện thực tươi rói.
Cũng như những nhà thơ lớp trước, thế hệ thơ trẻ dám đối mặt với hiện thực
chiến tranh, như lời bộc bạch của Hữu Thỉnh: “Như là sự sắp đặt của lịch sử, về sau
này, hành trình thơ của chúng tôi cũng giống các anh. Bối cảnh thì khác, quy mô và
tính chất ác liệt cũng khác, nhưng tinh thần dấn thân và hành động vẫn là một”
[209, tr.7]. Tuy nhiên so với thế hệ trước, thế hệ thơ trẻ không thiên về “bình luận”
chiến tranh mà họ “trình bày” cuộc chiến tranh, khốc liệt và trần trụi như nó vốn có.
Đối với một số cây bút, chiến tranh còn được nhìn ở mặt khuất lấp, mặt trái và thậm
chí bi kịch chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong tư duy nghệ thuật
của các cây bút trẻ, nhiều nhất tập trung ở lớp nhà thơ trong vùng tạm chiếm miền
Nam mà với họ, số phận cá nhân mới là mối bận tâm lớn nhất. Các nhà thơ lớp
trước cũng viết về cái riêng - chung, về Tổ quốc trong sự gắn kết với lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc. Họ đã phản ánh tầm vóc thời đại và ý nghĩa nhân loại của
34

cuộc chiến tranh, tuy nhiên cách cảm, cách nghĩ ấy dường như vẫn để lại một
khoảng trống trong nhu cầu nhận thức và tình cảm của độc giả. Thấp thoáng trong
những phong cách thơ ấy là sự lặp lại những thực tế, thậm chí những nếp nghĩ đã
thành quen thuộc, cũ mòn. Người đọc vẫn khao khát, đón đợi sự xuất hiện của lớp
nhà thơ “trực tiếp cầm súng, thật sự xông vào nơi mưa bom bão đạn, từng giờ từng
phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói về mình và đồng đội của
mình...” [107, tr.347]. Với tâm thế làm thơ ghi lấy cuộc đời mình, lớp nhà thơ trẻ
thực sự lấy nét thật của cuộc sống làm vẻ đẹp tự thân của thế hệ mình, chối từ
những trang sức vốn làm cho cuộc sống đẹp lên, đẹp mà gượng gạo. Họ “góp tiếng
nói của lứa trẻ, tâm hồn trẻ, con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn cái cụ thể của đời…” [14,
tr.65] từ ý thức vượt mình trong sáng tạo nghệ thuật: muốn tươi mát hãy tự là dòng
suối/ hát về mình đừng bắt chước tiếng chim (Hữu Thỉnh). Thế giới nghệ thuật thơ
trẻ là sự tự nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình hài đất nước,
nhân dân. Khuynh hướng này đã tạo nên một âm hưởng mới của thời đại. Bên cạnh
đó, thơ trẻ 1965 - 1975 còn có lối rẽ bên cạnh dòng chủ lưu của thơ ca cách mạng,
mang cảm thức phi sử thi trải nghiệm nỗi đau chiến tranh và tự nghiệm về thế giới
đời tư phức tạp của con người.
Những tráng ca thuở trước/ còn hát trong sách thôi (Thanh Thảo). Tuyên
ngôn nghệ thuật này cũng là hiện thân chất trẻ của thơ 1965 - 1975, từ ý thức tìm
kiếm những thể thức biểu hiện phù hợp và ôm chứa được bản chất của hiện thực
cuộc sống bấy giờ. Với cuộc sống ắp đầy không khí chiến tranh, các nhà thơ trẻ
luôn cảm thấy không thể chỉ khuôn mình vào những hình thức nghệ thuật truyền
thống như là một sự mô phỏng. Họ luôn đặt trách nhiệm của người nghệ sĩ trong sự
sáng tạo ngôn từ, dẫu đó có khi chỉ là sự làm mới những hình thức nghệ thuật quen
thuộc. Chẳng hạn từ phương diện thể loại, không chỉ đến thời này, trường ca và thơ
tự do mới được lựa chọn. Song đến lượt mình, lớp nhà thơ trẻ đã có những sáng tạo
nhất định: mở rộng điểm nhìn của chủ thể trữ tình trong trường ca từ triết luận cao
cả đến suy tư, day dứt đời thường. Sáng tạo ngôn từ nghệ thuật còn thể hiện ở
khuynh hướng tăng cường yếu tố khẩu ngữ và văn xuôi cho thơ tự do vốn đã là
35

“cuộc xâm lăng” từ Thơ mới, nay càng thực sự “tự do” để vừa vặn với dung lượng
hiện thực ngồn ngộn, vừa vặn với sự phóng túng của một số cây bút trẻ trong việc
tái dựng những mặt gồ ghề của cuộc sống. Đây còn là sự hòa phối nhiều cung bậc
giọng điệu, cốt để diễn tả đến sâu cùng thanh âm, ngữ điệu phức tạp của cuộc sống
thời chiến. Tất cả tạo nên chất trẻ của một thế hệ, một giai đoạn thơ ca.
Có thể khẳng định, trong bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa - văn học Việt
Nam 1945 - 1975, sự ra đời của thơ trẻ 1965 - 1975 là tất yếu. Hiện tượng thơ trẻ có
thể xem là quy luật hình thành và phát triển của một trào lưu văn học với đầy đủ cơ
sở lí luận và thực tiễn. Trên tinh thần kế thừa và tiếp nối sứ mệnh của thế hệ trước
song chủ yếu đó là tiếng thơ cất lên từ chính cuộc đời trải nghiệm, dấn thân, vì vậy
thế giới quan, nhân sinh quan của thế hệ thơ trẻ thật sự sinh động, đa chiều và tươi
mới. Với cách nhìn nhận này, việc tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975
là cơ sở khẳng định vị thế của một hiện tượng thơ vốn có nhiều biến động và tạo
được những sắc diện mới.

1.3.2. Diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận
động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975

“Cái tôi nằm trong thời gian và thời gian là sự tồn tại của chủ đề” [59, tr.146].
Tồn tại như một chủ thể đầy ý thức, cái tôi trữ tình được xem là nhân tố vận động
trong sự thay đổi của lịch sử, xã hội và sự phát triển của đời sống văn học. Từ cái
tôi phi ngã trong thơ trung đại đến cái tôi cá nhân trong Thơ mới; từ cái tôi bó mình
vào chuỗi cô đơn, có lúc lạc lõng của Thơ mới đến cái tôi hòa tiếng ca chung của
thời đại trong thơ cách mạng hay sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan
Viên từ Điêu tàn đến Ánh sáng và phù sa; những bước dài chuyển đổi của cái tôi cô
đơn, lận đận với bi kịch đời tư giằng xé đến cái tôi tái sinh trong thơ Lưu Quang
Vũ… Thế giới cái tôi trữ tình hoàn toàn không phải là một dấu lặng mà đó là sự đấu
tranh có khi đầy mâu thuẫn, xáo động. Cái tôi trữ tình luôn trong quá trình khẳng
định mình với thế giới, vì thế lật trở mình trong nhiều trạng huống là điều tất yếu.
Càng đặt trong nhiều mối tương quan với hiện thực, cái tôi trữ tình càng được thể
hiện phong phú trong tác phẩm trữ tình. Tất cả xuất phát từ ý thức tâm lí xã hội của
36

cái tôi trữ tình; là xu hướng vận động tất yếu của tư duy nghệ thuật. Cái tôi trữ tình
chịu sự chi phối của xã hội ở nhiều khía cạnh: Hoàn cảnh lịch sử xã hội, tư tưởng
thời đại, khuynh hướng thẩm mĩ… Sự chuyển biến của cái tôi trữ tình có thể diễn ra
trong nội tại cái tôi trữ tình, cũng có thể là sự biến động của các dạng cái tôi qua
từng giai đoạn lịch sử văn học. Đây là một trong những yếu tố thể hiện rõ nhất quá
trình vận động và phát triển của thơ trữ tình, với những thay đổi trong lí tưởng thẩm
mĩ, quan niệm nghệ thuật…
Đặc trưng xã hội là một trong những nhân tố tạo nên sự vận động của cái tôi
trữ tình. Con người không tách mình ra khỏi hiện thực cuộc sống mà luôn chịu sự
chi phối của những chấn động tinh thần thời đại. Đời sống thơ 1932 - 1945 trước
những biến động lịch sử - xã hội lớn lao, cùng với sự du nhập của luồng gió tư
tưởng mới đã đưa chữ tôi đĩnh đạc bước vào thi đàn. Con người có nhu cầu khẳng
định cái tôi cá nhân, thể hiện những khát khao thành thực rất riêng tư. Cách Mạng
Tháng Tám thành công mở ra một chặng đường chuyển đổi của nền văn học. Cái tôi
không tìm được lối thoát của thời đại Thơ mới trở nên lạc lõng trước sự chuyển
mình của đời sống xã hội và đời sống văn chương. Cái tôi kiểu mới của nền thơ
cách mạng ra đời, phản ánh một hiện thực cách mạng nóng bỏng. Các kiểu nhà thơ
mới cũng hình thành, tương ứng với những dạng thức tiêu biểu của cái tôi trữ tình
cách mạng, tạo nên đặc trưng cơ bản của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 -
1975. Và đến thơ đương đại với những mảng màu sáng tối của cuộc sống, với
những khuôn mặt đời thường nhiều góc cạnh…, cái tôi trữ tình lại góp một chân
dung mới vào diện mạo cái tôi trữ tình thơ hiện đại. Như vậy chính hiện thực đời
sống, chính mối quan hệ giữa cái tôi với hiện thực tạo nên sự vận động tất yếu của
cái tôi trữ tình.
Cái tôi nhà thơ, với những nhận thức mới trong vốn sống, trong sự tích lũy bề
dày văn hóa, trong sự thay đổi tư duy nghệ thuật cũng là một nhân tố quan trọng
thúc đẩy quá trình vận động của cái tôi trữ tình. Tôi cùng xương thịt với Nhân dân
tôi/ Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu là quá trình lột xác của Xuân Diệu để đến
được với thơ cách mạng. Thế hệ nhà thơ tiền chiến quả đã trải qua một cuộc đổi
37

dòng để đến được bờ tư tưởng mới. Chế Lan Viên cũng không ít nhọc nhằn. Quá
trình nhận đường của nhà thơ là sự nghiêm khắc với chính bản thân và cũng là một
sự nỗ lực vượt mình với bao dằn vặt, trăn trở. Từ Điêu tàn như một nỗi ám ảnh, nhà
thơ của những miền ảo mộng ấy đã tìm đến bãi bờ phù sa với nhiều quan niệm nghệ
thuật nghiêm túc. Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ về trách nhiệm của người cầm bút
luôn là lời tự vấn nhức nhối. Bước ngoặt tư tưởng nghệ thuật của các nhà thơ tiền
chiến là cả một ý thức đổi đời nghiêm cẩn. Dẫu trong quá trình đó, thơ họ cũng còn
ít nhiều vấn vít với cái cũ xưa song nhìn chung, họ đã tạo thành một lớp nhà thơ đầu
đàn, được xem là thế hệ thứ nhất của thơ ca cách mạng.
Văn bản nghệ thuật ra đời trong niềm mong mỏi được sẻ chia của cái tôi trữ
tình. Chính nhu cầu này tạo ra một lớp người tiếp nhận - độc giả. Đó là sự đồng
vọng của một tác phẩm chân chính. Người tiếp nhận có thể là bạn đọc bình thường,
bạn đọc tri âm, có thể là những người đồng sáng tạo… Đây là nguồn động lực đưa
người sáng tác đến với những tác phẩm đích thực. Đứa con đẻ tinh thần của người
nghệ sĩ không thể chỉ được đặt trong mối quan hệ tiếp nhận đơn thuần một chiều mà
người nghệ sĩ phải đặt mình trong một xu thế tiếp nhận mới: tác giả - văn bản - độc
giả chịu sự tác động lẫn nhau. Nhà thơ tạo ra đối tượng tiếp nhận và chính đối tượng
đó lại tác động đến quá trình sáng tạo. Như vậy nếu nhà thơ tạo ra công chúng của
mình thì độc giả cũng có quyền lựa chọn thi sĩ cho họ. Có thể thấy đây là thách thức
đối với người cầm bút. Thị hiếu nghệ thuật, chỗ đứng thời đại của công chúng…
thích hợp với một loại thơ nhất định. Chính điều này tác động đến sự vận động của
cái tôi trữ tình. Công chúng thơ 1965 - 1975 thường có nhu cầu tìm đến tiếng nói
trữ tình hướng ngoại, tiếng nói trữ tình công dân. Tuy nhiên, đời sống thơ giai đoạn
này cũng không ít biến động khi xuất hiện một bộ phận bạn đọc “thế hệ hai mươi”
mang cảm thức bơ vơ, lạc loài trong lòng đô thị miền Nam. Họ khát thèm được tìm
thấy chân dung mình trong tiếng thơ hướng nội, đào sâu vào bản ngã con người.
Hay độc giả thơ sau 1975 dường như không còn phù hợp với những tiếng nói sử thi
hào sảng của nền thơ thời chiến. Họ cần hơn tiếng thơ nói thay họ ẩn ức riêng tư;
38

mất mát, lỗi lầm; những mặc cảm, hoài nghi; những xáo động của tâm lí con người
trước bức tranh hiện thực giăng mắc âu lo thời hậu chiến.
Cái tôi trữ tình vận động và phát triển như một quy luật tất yếu của lịch sử
phát triển thơ trữ tình. Quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan, đưa cái tôi trữ tình thể nghiệm trong nhiều dạng thức mới. Đây là cơ sở để tìm
hiểu về sự vận động của cái tôi trữ tình trong tiến trình thơ Việt Nam 1945 - 1975
và nhận diện đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.
Cái tôi trữ tình trong thơ 1945 - 1954
Cách Mạng Tháng Tám là sự biến đổi kì diệu của lịch sử dân tộc và là một dấu
mốc chuyển đổi quan trọng của đời sống văn học hiện đại Việt Nam. Các nhà thơ
giai đoạn này xem tuyên truyền là nhiệm vụ chính của văn nghệ. Nhiều sáng tác
thực sự có giá trị đều thể hiện quan niệm thẩm mĩ của thời đại, đó là tính dân tộc và
đại chúng. Người cầm bút tìm đến các hình thức nghệ thuật dân gian để tác phẩm
của họ đến được với số đông quần chúng. Người thực việc thực là đối tượng phản
ánh được chú trọng trong quá trình sáng tác. Tuy nhiên đó chỉ là biểu hiện của
những tác phẩm khởi đầu của cuộc kháng chiến. Đến những năm 50, văn học có
một số chuyển biến về quan niệm nghệ thuật. Yêu cầu đặt ra đối với người cầm bút
không đơn thuần chỉ là hướng đến tuyên truyền chiến đấu mà còn phải đứng vững
trên lập trường giai cấp, xóa bỏ những vướng bận hẹp hòi.
Nằm trong xu hướng chung của văn học 1945 - 1954, thơ ca giai đoạn này
tập trung thể hiện con người quần chúng. Đây là quan niệm nghệ thuật mới về con
người. Cách mạng đã đặt các nhà thơ vào nhiệm vụ thể hiện những con người bình
thường trong chiến tranh bởi chính họ đã làm ra lịch sử. Đó là cái tôi trữ tình hòa
trong cái ta, hát tiếng ca chung: lũ chúng tôi bọn người tứ xứ, ta đi tới... Trong buổi
đầu kháng chiến, nhân vật quần chúng được khắc họa bằng cảm hứng bi tráng: Anh
bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Về sau, nhân vật quần
chúng được thể hiện trong vẻ đẹp bình dị mà gần gụi, từ những người mẹ, người chị
đến các em thơ... đã chung tay vào những ngày cam go khổ ải của đất nước. Tác giả
hóa thân vào nhân vật trữ tình, để bộc lộ cách cảm, cách nghĩ của quần chúng. Cái
39

mới của quan niệm về con người quần chúng của giai đoạn này là tập trung thể hiện
con người công dân, con người chính trị. Quần chúng ý thức trách nhiệm công dân,
niềm hạnh phúc và sự tủi hờn đều xuất phát từ nỗi niềm dân tộc. Con người gắn với
những biến cố lớn mang tầm thời đại, là biểu hiện cái tôi trữ tình sử thi. Không gian
nghệ thuật vì thế cũng thường được mở rộng ra tiền tuyến, đường ra trận... Không ít
nhà thơ miền Nam viết về cái chết thông qua lăng kính của cái tôi trữ tình lạc quan.
Cái chết của con người được thi vị hóa: Một mai con chết bên rừng biếc/ Thì có
ngàn hoa phủ liệm con (Tình mẹ - Ninh Huy). Sự hi sinh cũng được hình dung trong
lời dự báo thanh thản lạ lùng: Nếu mai đây bạn về chốn cũ/ Kiếm giùm tôi người mẹ
thân yêu/ Nói với người rằng: “Vì nghĩa vụ/ Đứa con yêu đã thác một chiều” (Giối
giăng - Ngọc Đại).
Cái tôi trong thơ thời chống Pháp hướng về mối giao tiếp với người khác,
với đất nước, nhân dân trong cảm hứng hòa mình vào tập thể. Hầu như đời sống
riêng tư của cá nhân mờ nhạt sau bức tranh đời sống tập thể. Con người tự hào thấy
mình trong dòng thác của tập thể. Những cuộc hành quân chân lại nối theo chân là
đặc điểm tinh thần của cái tôi hòa nhập vào cái ta cộng đồng: Một tiếng chim kêu
sáng cả rừng/ Lên đường chân lại nối theo chân/ Đêm qua đầu chụm, run bên đá/
Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng (Khương Hữu Dụng). Sức mạnh cộng đồng đốt
sáng lên niềm lạc quan cách mạng, đưa con người vượt qua thử thách. Đặc điểm
tinh thần ấy làm nên đặc trưng của cái tôi trữ tình. Nhu cầu kết giao với người khác
chính là sợi dây tạo lập nên những tình cảm thiêng liêng, gần gũi trong thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó là tình đồng chí kéo những con người cùng chung lí tưởng,
cùng chung chí hướng xích lại gần nhau. Đồng chí (Chính Hữu), Viếng bạn (Hoàng
Lộc), Từ đêm 19 (Khương Hữu Dụng), Nhớ (Hồng Nguyên) là những bài ca son sắt
về tình đồng đội. Họ chia nhau từng buồn vui, ấm lạnh của những mảnh đời riêng;
san cho nhau từng góc kỉ niệm của quê hương, làng mạc và khi chung tay súng, họ
là bọn người tứ xứ, những người đêm đắp chung chăn thành đôi tri kỉ.
Tưởng không còn đơn thuần là tình đồng đội, tưởng như đang đối diện với ý
nghĩa chia nhau trong tình máu mủ ruột rà: Đồng đội ta/ Là hớp nước uống chung/
40

Nắm cơm bẻ nửa/ Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp/ Chia nhau cuộc đời,
chia nhau cái chết (Chính Hữu). Trước ngôi mộ của đồng đội, dẫu chủ thể đã chôn
chặt tiếng khóc thương, nén chặt lời tiếc nhớ, vậy mà cái tôi vẫn ràn rụa: Khóc anh
không nước mắt/ Mà lòng đau như cắt/ Gọi anh chửa thành lời/ Mà hàm răng dính
chặt (Hoàng Lộc). Ngày Tết quân dân (Lưu Quang Thuận), Nhớ mãi (Quang Dũng),
Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông), Làng tôi (Lưu Trùng Dương)… là những bản
tình ca đẹp đẽ của tình quân dân. Đó là cái tôi ngóng đợi, chờ mong; là cái tôi tột
cùng hạnh phúc khi ngày trở về đã thành hiện thực: Các anh về/ Tưng bừng trước
ngõ/ Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau/ Mẹ già bịn rịn áo nâu/ Vui đàn con ở rừng
sâu mới về (Hoàng Trung Thông). Và lại là nước mắt nhìn rân rân trước những
cuộc hành quân xa cách. Hòa trong cái ta, cái tôi trữ tình thơ kháng chiến chống
Pháp xuất hiện với tư cách cái tôi công dân. Dẫu viết về đời sống riêng tư, dẫu đó là
tình yêu đôi lứa thì đều được soi chiếu trong bối cảnh tình cảm chung của cộng
đồng. Dường như hiếm thấy một tình yêu thuần túy, một khoảng trời riêng cho
những cuộc hẹn hò; tràn ngập trong thơ là cái tôi tình yêu lứa đôi hòa trong tình yêu
đất nước.
Cái tôi trữ tình trong xu thế hòa nhập vào cái tôi cộng đồng chú trọng đến
tiếng nói với người khác, hướng về người khác. Chủ thể trữ tình thường ẩn vào
nhân vật trữ tình trong hình thức trữ tình nhập vai để khắc họa chân dung của nhân
vật dưới phương thức tự sự, đó là biểu hiện sắc nét của tư duy nghệ thuật hướng
ngoại. Bầm ơi (Tố Hữu), Kể chuyện Vũ Lăng (Anh Thơ), Thăm lúa (Trần Hữu
Thung), Người đàn bà Ninh Thuận (Tế Hanh)… là những sáng tác như thế. Từ
nguồn cảm hứng ấy, các nhà thơ tạo dựng thành công chân dung lãnh tụ, anh hùng,
người phụ nữ sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Hình tượng Hồ Chí Minh là kết tinh
của tinh túy non sông, của nét đẹp dung dị đời thường. Đó là chân dung người Cha
già kính yêu trải mình trong bộn bề lo toan cho dân tộc và cho từng cuộc sống của
đàn con (Thơ dâng Bác Hồ - Xuân Diệu). Người là hiện thân của sự soi đường dẫn
lối, là trái tim ôm chứa cả cuộc đời rộng lớn. Tác giả gọi tên Bác bằng những đại từ
gần gũi đã ăn sâu trong tâm thức nhân loại: Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim
41

lớn lọc trăm dòng máu nhỏ/ Người ngồi đó, với cây chì đỏ/ Vạch đường đi, từng
bước, từng giờ (Sáng tháng năm - Tố Hữu). Có khi Người lại như đi vào cuộc sống
từ cõi tiên, diệu kì mà cũng rất đời: Cụ già đâu chợt tới/ Tóc râu trắng, áo sồng/
Chân nhanh thoăn thoắt lội/ Vượt làn suối mênh mông (Theo chân Bác - Anh Thơ).
Hình tượng Bác Hồ được vun đắp từ cái nhìn ngưỡng vọng song cũng thật gần gũi
của cái tôi trữ tình. Các cây bút còn quan tâm khắc họa hình tượng người phụ nữ
mang tâm hồn và tầm vóc thời đại. Đó là người mẹ ruột thịt hết lòng vì con, là
người mẹ lớn san sẻ tình mẫu tử cho những người con bộ đội, là người phụ nữ lặng
thầm gặt ngày mùa cho quê hương… Không còn là tình mẹ trong khuôn nghĩa hẹp
nữa mà lòng mẹ đã là hiện thân của tình cảm cách mạng: Con đi mỗi bước gian lao/
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm/ Bao bà cụ từ tâm làm mẹ/ Yêu quý con như đẻ
con ra (Bầm ơi - Tố Hữu). Thơ giai đoạn này còn tập trung khắc họa hình ảnh
những người vợ sẵn sàng động viên chồng lên đường ra trận trong cảm quan ngợi
ca, tự hào vô cùng xúc động của cái tôi trữ tình. Đó là hậu phương thắm tình, là nét
lặng thầm hi sinh. Người phụ nữ còn hiện lên với vẻ đẹp của những người tình
nguyện chung tay cùng tiền tuyến, làm nên cuộc cách mạng dân tộc. Đó là những
bàn tay phá đường, cản giặc. Vậy mà khi nghĩ về mái ấm gia đình, họ cũng đầy âu
yếm, yêu thương trong thiên chức làm mẹ: Con ơi, con ngủ cho ngoan/ Sang canh
trăng lặn buổi tan mẹ về (Phá đường - Tố Hữu).
Không chỉ hát tiếng ca chung, cái tôi trữ tình còn xuất hiện trong tư cách cái
tôi gắn bó với hiện thực đời sống, cách mạng. Mỗi tác phẩm là một bức tranh thu
nhỏ của hiện thực đầy ắp sức sống. Trong bối cảnh đó, bắt gặp trong thơ tư thế của
con người hành động. Họ không đứng ngoài cuộc để miêu tả cuộc sống mà trên nền
hiện thực đó là cái tôi hành động cụ thể, xác định vị thế của mình trong cuộc kháng
chiến. Con người trong thơ hiện lên gân guốc, là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, đi vào hiện thực chiến tranh trong tâm thế của con người hành động
ngoan cường. Giữa năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm
vắt ấy, người chiến sĩ vẫn xả thân, tạo nên bức tranh thơ góc cạnh, bừng sáng:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai/ Băng mình qua núi
42

thép gai/ Ào ào vũ bão/ Những đồng chí chèn lưng kéo pháo/ Nát thân, nhắm mắt
còn ôm/ Những bàn tay xẻ núi, lăn bom/ Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến
trường tiếp viện (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu).
Tinh thần yêu nước được cụ thể hóa thành hành động yêu nước. Người nghệ sĩ
như đứng trong cuộc để thể hiện tinh thần thời đại. Mang nhãn quan hiện thực, cái
tôi tập trung vào tư thế hành động nhập cuộc: Mắt ta căng lên/ Cả mặt/ Cả người/
Cả hồn ta sát tới (Trần Mai Ninh); Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới (Chính Hữu); Lột sắt đường tàu/ Rèn thêm dao kiếm/ Áo vải
chân không/ Đi lùng giặc đánh (Hồng Nguyên). Những mảng sống của hiện thực
quả đã làm nền cho hành động nhân vật. Đó là tâm thế hướng ngoại của cái tôi trữ
tình. Có thể khẳng định “chất thơ đích thực nằm ngay trong hiện thực cuộc sống và
con người kháng chiến, trong công việc sản xuất, đánh giặc và trong những nét sinh
hoạt của đời thường bình dị mà chứa đựng những ý nghĩa lớn” [4, tr.93]. Tuy so với
nền thơ sau này, đây chưa phải là biểu hiện sâu sắc của cái tôi trải nghiệm trong
hiện thực, chưa phải là bức tranh chằng chịt những nét vẽ đời thường nhưng cũng
tạo nên phẩm chất hiện thực của cái tôi trữ tình. Đây chính là đặc điểm cơ bản của
thơ trữ tình cách mạng, tạo tiền đề cho việc tăng cường chất hiện thực tươi ròng của
thơ thời chống Mỹ.
Bên cạnh khuynh hướng thẩm mĩ chung của thời đại, thơ Việt Nam 1945 -
1954 còn xuất hiện tiếng thơ đi vào những rung động riêng tư, những nỗi đau mất
mát xé lòng. Đó là tiếng nói tình tứ của cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ Quang
Dũng: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm (Tây
Tiến). Hay đó là tiếng nức nở của cái tôi buốt đau trước bi kịch hạnh phúc: Chiếc
bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương/ Tàn lạnh vây quanh (Màu tím hoa sim -
Hữu Loan). Như vậy, nếu tập trung thể hiện con người quần chúng, con người chính
trị là đặc trưng cơ bản của quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ 1945 -
1954 thì sự khắc họa con người trong những quan hệ, biến cố đời tư cũng là một
quan niệm không thể phủ nhận của thơ giai đoạn này. Vì thế, việc từ bỏ “cái xác
chủ quan” (Trần Đăng) là trách nhiệm sống còn của hầu hết người sáng tạo song sự
43

thấp thoáng diện mạo cái tôi cá nhân trong địa hạt thơ cũng có thể xem là biểu hiện
nhu cầu đích thực của đời sống tâm hồn người nghệ sĩ lúc bấy giờ. Thực tế sáng tác
này đã làm đa dạng đặc trưng thẩm mĩ của thơ Việt Nam 1945 - 1954, góp phần
khắc dựng chân dung cái tôi trữ tình với những suy tư, giằng xé nội tâm. Chính hình
tượng cái tôi trữ tình đời tư hé lộ trong thế giới nghệ thuật thơ 1945 - 1954 đã trở lại
trong đời sống thơ ca những giai đoạn sau, làm phong phú diện mạo cái tôi trữ tình
thơ Việt Nam 1945 - 1975. Đây là minh chứng cho sự vận động tất yếu của cái tôi
trữ tình trong tiến trình thơ ca.
Cái tôi trữ tình trong thơ 1955 - 1964
Từ sau cuộc kháng chiến chống Pháp, văn học có những bước phát triển. Đời
sống văn học đứng trước yêu cầu mới, vừa đáp ứng đòi hỏi của con người trong
cuộc sống hòa bình, vừa hướng đến mục tiêu mới của cách mạng. Đó là nền văn học
hướng đến xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam. Tinh thần hân hoan, tự hào trong niềm vui chiến thắng là cảm hứng chủ đạo
của thơ văn. Song đây mới chỉ là không khí ban đầu của những năm sau kháng
chiến chống Pháp. Công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc đặt văn nghệ sĩ trong những thách thức mới. Hơn nữa, biến động của tình
hình chính trị trong và ngoài nước tác động không nhỏ đến tư tưởng văn nghệ sĩ.
Cuộc chỉnh huấn của Đảng đã giúp văn nghệ sĩ hình thành một nếp nghĩ khác về
công việc viết văn, đấy là sự đi và sự viết. Khát vọng nối liền Bắc Nam trở thành
nguồn cảm hứng của không ít sáng tác thơ ca. Nguyễn Bính, Tố Hữu, Chế Lan
Viên, Tế Hanh… đều thấm nỗi đau chia cắt hai miền, đều sẻ chia cùng miền Nam
ruột thịt. Cái tôi trữ tình quá đỗi bàng hoàng với vết thương chia lìa Nam Bắc. Tế
Hanh xót xa trong lời chất vấn: Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân
trời mây núi có chia đâu? (Nói chuyện với sông Hiền Lương); còn Lưu Trọng Lư lại
tột cùng căm phẫn: Trước mắt tôi như có hào sâu ngăn lại/ Đất Việt Nam, người
Việt Nam không bước tới/ Mắt mải nhìn mòn hết nửa con ngươi/ Thân đứng đây,
thân chết nửa con người/ Lời tôi nói lời tôi nghe, đứt đoạn (Sóng vỗ Cửa Tùng).
44

Văn học cách mạng đứng trước yêu cầu nghiêm khắc là phải nêu cao tính
Đảng và sáng tác dựa trên phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Quan niệm nghệ thuật về con người vì thế cũng thay
đổi. Trong sự vận động của văn học mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp,
thơ thực sự đã có những bước chuyển mình. Quan niệm nghệ thuật về con người
chủ yếu là con người trong mối quan hệ hài hoà riêng - chung. Đất nước hòa bình,
con người có nhu cầu nhìn về hạnh phúc riêng tư. Con người cũng đặt mình trong
lợi ích của tập thể nhưng không hoà tan trong tập thể. Nhân vật lại trải qua một quá
trình trăn trở để tìm thấy hạnh phúc cá nhân. Cái tôi không còn cô độc, lạc lõng mà
đã thực sự hòa vào cuộc sống cộng đồng. Trong thơ, mối quan hệ riêng - chung
cũng là chủ đề phổ biến.
Nhìn chung quan niệm nghệ thuật về con người đã có sự vận động từ con
người quần chúng đến con người đặt mình trong mối quan hệ cộng đồng, đại diện
cho những số phận của thế hệ, của dân tộc. Sự nhìn nhận vị thế của cái tôi trong
quan hệ riêng - chung vì thế là một trong những đặc điểm cơ bản của cái tôi trữ tình
giai đoạn này. Mối quan hệ riêng - chung trở thành lẽ sống của một thế hệ nhà thơ.
Cây - đàn - muôn - điệu - tình - yêu Xuân Diệu lại gảy lên bản tình ca của một thời
con người náo nức được sống lại với những khao khát thành thật. Đó hoàn toàn
không phải là cái riêng tư cô độc trong chiếc đảo hồn của Thơ mới, không phải là
vòng luẩn quẩn của chữ tôi “càng đi sâu càng lạnh” hay cũng không phải là tiếng
lòng cô độc của người kỹ nữ van nài một chút ấm lạnh của tình du khách… Đó là
nhu cầu, khát vọng riêng tư trong khát vọng Tổ quốc, là tình yêu thánh thiện hòa
trong tình yêu đất nước: Anh xa nước thêm yêu đất nước/ Anh xa em, càng nhớ
thương em (Tế Hanh). Nhu cầu cá nhân còn làm thức dậy một vùng thơ tình đích
thực. Riêng chung (Xuân Diệu), Vườn xưa (Tế Hanh), Thuyền và biển (Xuân
Quỳnh)… là những tiếng thơ tự thức sâu sắc về tình yêu và khát vọng hạnh phúc
của con người. Như vậy, trước khi có biến động của đời sống thơ 1965 - 1975, thơ
Việt Nam 1945 - 1975 từng trải qua một giai đoạn mà cái tôi riêng tư dần trở lại
trong hoàn cảnh đất nước thanh bình sau mười năm chống Pháp.
45

Xu hướng chính của người nghệ sĩ lúc này là sự trở về xác định lại vị thế, xác
định lại hướng đi của mình. Nhà thơ đứng trước sự giằng xé, ngẫm suy, lựa chọn
giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái đã qua và cái hiện hữu… Nếu như trong thơ ca
trước đây, gần như vắng hẳn trạng thái trầm tư thì đến đây, cái tôi trữ tình lại quay
về với những dằn vặt, tự vấn giàu suy tưởng. Câu hỏi Ta là ai?, Ta vì ai? là lời tự
vấn trên con đường người nghệ sĩ muốn xác định giá trị của mình và ý nghĩa của
bản thân đối với cuộc đời; là hành trình cái tôi ý thức sâu sắc về trách nhiệm của
một người đã gặp “chân trời của tất cả”. Hay đó là sự dứt khoát đổi đời, từ bỏ
những vướng bận không đáng có từ trong quá khứ. Và đó cũng là vẻ hân hoan của
con người tìm thấy ý nghĩa đích thực cuộc đời khi được sống giữa lòng dân. Ánh
sáng và phù sa chính là cánh đồng ngọt lành chuyển hướng tư tưởng thơ Chế Lan
Viên. Đây là tập thơ khá chín nhuần của phong cách, với những quan niệm nghệ
thuật mới mẻ. Ở Ánh sáng và phù sa, thi sĩ đã đi từ thế giới của mình đến với muôn
người, đến với biến thiên của bao số phận con người: Tôi viết cho ai? Cho cả mọi
người/ Nhưng, rất gần - cho những đứa em tôi/ Ngày đau khổ khép tay trong tủi
cực/ Nay mở ra bến rộng sông dài. Tuy khao khát đến được với đồng vui, quyết ra
khỏi ám ảnh của nước non Chiêm Thành song đâu đó trong Chế Lan Viên vẫn còn
phảng phất xót xa, nên nhà thơ luôn ý thức phải tự vượt mình: Súng thơ tôi, tôi kê
lên xác đời anh/ Tôi đâu dám tủi buồn quên nhiệm vụ/ Mỗi câu thơ đều phải vượt
lên mình (Nhật kí một người chữa bệnh). Kể từ tập thơ này, Chế Lan Viên đã dấn
thân vào những quan niệm mỗi ngày lại mới, đưa nguồn thơ đến với cách mạng,
nhân dân. Ông không còn quay quắt đi tìm cái đẹp đã chết mà Chế Lan Viên đã đưa
thơ đến với chân trời bao la. Nhà thơ viết về Đảng, về lãnh tụ - những điều rất bình
thường, giản dị trong một con người vĩ đại hay viết về những chủ đề mới của thời
đại. Ở đó, sức bay bổng của một hồn thơ đã hòa vào nhịp sống mới: Tôi muốn đến
chỗ nước trời lẫn sắc/ Nơi bốn mùa đã hóa thành thu. Xuyên suốt tập thơ là nhu
cầu nhìn lại mình của tác giả. Điều này đã ấp ủ trong hồn thơ Chế Lan Viên, để rồi
được đong đầy trên hành trình nhà thơ tự nghiệm mình, lộn trái đời mình để thấm
thía, nghiệm sinh trong những trang Di cảo. Cái tôi trữ tình say với những niềm vui
46

có thể nói lần đầu tiên bắt gặp: Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ/ Như đêm xuân
người vợ trẻ yêu chồng (Chim lượn trăm vòng). Chế Lan Viên đến Ánh sáng và phù
sa với tâm thế ngoảnh lại mùa đông, giã từ những lầm lạc, để nhận ra mình và
nghiêm khắc với bản thân. Ông vượt mình bằng cả trăn trở, ăn năn, sám hối. Nhưng
nỗi niềm trong thơ Chế Lan Viên không hề rơi vào cảm giác của Điêu tàn, mà gắn
với cuộc sống xung quanh, gắn với ý thức “đổi dòng”. Tập thơ cũng là một quá
trình “đổi giọng”, từ giọng than chuyển thành giọng hát với nhiều chủ đề mới từ
ngợi ca cách mạng đến quá trình tự ngẫm, tự nghiệm. Ánh sáng và phù sa hoà lẫn
nhiều sắc giọng: trầm tư suy ngẫm, ngậm ngùi cay xót, thủ thỉ tâm tình... Hành trình
tự vượt mình của nhà thơ giàu suy tưởng ấy cũng chính là tựu trung con đường thơ
mười năm sau kháng chiến chống Pháp, nơi cái tôi trữ tình được khẳng định mình
trong quan hệ riêng - chung, nơi hạnh phúc trở về với con người.
Bên cạnh cái tôi trữ tình mang diện mạo mới trong sự hài hòa riêng - chung,
vốn là sự tiếp biến của cái tôi trữ tình công dân của thơ 1945 - 1975, thơ giai đoạn
này còn khắc họa cái tôi trữ tình đại diện cho cộng đồng, dân tộc - cái tôi sử thi -
“như là sự tiếp nối một hướng đã được mở ra trong thơ giai đoạn 1945 - 1954,
nhưng được gia tăng sức khái quát và chú trọng khắc họa tư thế, tầm vóc của đất
nước, của cách mạng trong tương quan với thời đại và lịch sử” [97, tr.116]. Cảm
hứng sử thi trở thành sắc diện chính của cả nền thơ bấy giờ: Chào 61, đỉnh cao
muôn trượng/ Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại ngàn xưa, trông tới mai
sau/ Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu (Bài ca mùa xuân 1961). Chủ thể trữ
tình trong thơ Tố Hữu thổ lộ niềm vui trước cuộc đời tươi đẹp: Vui cứ đến ngày mỗi
ngày nho nhỏ/ Như từng cây cờ đỏ mọc trên đồi. Một cành phong lan bể cũng thành
thanh âm cuộc sống xao động. Tàu đến, tàu đi cũng đánh động hồn thơ. Tiếng chổi
tre giữa đêm khuya cũng trở thành thanh âm xao xác, giàu sức lay động; gợi tiếng
đời thầm lặng phát ra từ những điều bình dị đẹp đẽ của cuộc sống mỗi ngày. Thơ
giữa cuộc đời, hoa giữa nắng (Huy Cận) là quan niệm nghệ thuật của nền thơ ngợi
ca cuộc sống mới.
47

Trong thơ 1955 - 1964, cảm hứng, đề tài thường xoay quanh cuộc sống dân
tộc đang hồi sinh. Các nhà thơ đã mở ra nhiều tứ thơ mới, trong thế đối sánh giữa
quá khứ đau thương của dân tộc với đất nước đang dần khâu lành những vết rạn vỡ
chiến tranh. Cảm hứng về đất nước anh hùng, về Tổ quốc giàu đẹp trở thành mối
quan tâm của người cầm bút. Cái tôi tin yêu, ngợi ca cuộc đời chiếm lĩnh thế giới
trữ tình. Cái tôi trữ tình hiện hữu trong tâm thế cảm nhận đất nước từ chiều sâu lịch
sử: Qua dòng sông yêu kính tự bé thơ/ Tay vốc nước, tôi hỏi cùng bát ngát:/ Những
sóng nào xưa theo thuyền đi giết giặc,/ Qua nghìn năm còn có mặt hôm nay (Qua
Bạch Đằng - Phạm Hổ); trong cách nhìn điểm xuyết về một dáng vẻ của quê hương:
Dòng sông chảy biếc trời man mác/ Một chuyến phà sang sóng vỗ bờ (Chiều đến
Bình Ca - Hoàng Trung Thông).
Khi tìm hiểu chân dung cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1955 - 1964, không
thể bỏ sót diện mạo cái tôi ở một số sáng tác vùng tạm chiếm miền Nam. Như một
lối đi riêng, trong thơ giai đoạn này, bên cạnh cái tôi trữ tình mang cảm hứng chung
của nền thơ cách mạng còn xuất hiện những cái tôi tự vấn trong cảm thức về cuộc
đời đầy giằng xé: em sẽ gọi tên anh/ mùa hoa hôm nay/ nhưng thời gian đã ngã vào
lòng vô định (Hoa - Thanh Tâm Tuyền); là cảm thức về thời gian với ảo tưởng của
quá khứ như một sự lấp đầy những khoảng đau thương hằn lên thực tại: và anh đi/
qua bóng ngày hấp hối/ đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối/ ngại ngùng mái lá mưa
khuya (Đường tình - Hoàng Trúc Ly), với lời tự thú bẽ bàng: Tôi cũng tự do xài phí
hết đời tôi/ Cuối những sớm mai chiều tối của đời người/ Khi ngã xuống những
tháng ngày mục rã/ Tôi cũng không cần ai nhớ ai quên (Khi hai mươi tuổi - Nhã
Ca); là cảm thức về tuổi đời đã “thơm mùi tội lỗi”: Còn gì đâu?/ Thỉnh thoảng có
tìm được một bờ sông/ Với một ghế đá ái tình/ Tôi cũng chỉ ngồi cô đơn/ Đếm
những khóm dâu xanh gục đầu chua xót (Hai mươi - Nguyên Sa). Hay cả những
thanh âm của tình yêu cũng đã chạm rất sâu vào thế giới tinh thần con người. Đó là
“cao điệu xúc cảm trong trái tim một cách nên thơ” [25, tr.159], song lại là một điệu
buồn trong trẻo của cái tôi tình yêu: đôi khi anh muốn tin/ ôi những người khóc lẻ
loi một mình/ đau đớn lệ là những viên đá xanh/ tim rũ rượi (Lệ đá xanh - Thanh
48

Tâm Tuyền). Đó là lời khẩn cầu mong kéo dài những phút giây tận cùng hạnh phúc
trong ám ảnh về sự bất trắc; là lời yêu nồng nàn của một hồn thơ “có khuôn dáng
yêu đương thơ và mộng” [25, tr.95]: Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn/ Gió có
lạnh hãy cầm tay cho chặt/ Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan/ Hãy biến cuộc
đời thành những tối tân hôn/ Nếu em sợ thời gian dài vô tận (Tháng sáu trời mưa -
Nguyên Sa); song ở thế giới thơ Nguyên Sa, tình yêu còn được nhìn qua lăng kính
của cái tôi rạn vỡ trong chờ mong, cái tôi yêu dấu và nhớ nhung “trên một tình tự
đam mê vỡ lở, bất trắc” [25, tr.85]: Có phải em về đêm nay/ Trên con đường thời
gian trắc trở/ Để lòng anh đèn khuya cửa ngỏ/ Ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh
(Có phải em về đêm nay)… Tất cả là biểu hiện của cái tôi đời tư với những biến
động phức tạp bên trong tâm hồn con người, là một mạch riêng làm phong phú cho
mạch chủ lưu của thơ sau kháng chiến chống Pháp. Đây có thể xem là dạng thức
biểu hiện mới bên cạnh cái tôi trữ tình phổ quát của thơ 1955 - 1964. Đó là cái tôi
mang dấu ấn hiện sinh - trong cảm quan của các nhà thơ vùng tạm chiếm miền
Nam, dẫu chỉ mới hé lộ ở một số tiếng thơ trong chặng đường này, song là mạch
ngầm cho sự xuất hiện của một tinh thần tự do - biểu hiện giá trị đích thực của cái
tôi hiện sinh - được lan tỏa vào thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.
Thơ 1955 - 1964 thường gắn với những vần thơ suy tưởng về đất nước, về
nhân dân; về nhân tình thế thái; về sự hòa hợp riêng - chung. Đấy là tiền đề cho sự
ra đời của một nền thơ mới mà Chế Lan Viên và những người bạn thơ cùng thời đã
tự hào tạc nên chân dung của thế hệ mình: Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?). Tuy nhiên, bên cạnh cái tôi sử thi, cái tôi
thống nhất riêng - chung, thơ 1955 - 1964 còn thể hiện cái tôi trữ tình mang tiếng
lòng riêng tây gắn với những cảm thức mới về thế giới, con người.
Cái tôi trữ tình trong thơ 1965 - 1975
Sự tấn công tàn khốc của giặc Mỹ vào miền Bắc là hoàn cảnh lịch sử tác động
sâu sắc đến đời sống tinh thần con người. Cảnh tượng bom dội hãi hùng xuống
miền Bắc 1967 là bằng chứng tội ác man rợ của đế quốc Mỹ. Cả miền Bắc chuyển
mình sang thời chiến. “Nếu như với một con người có những bước ngoặt làm cho
49

người ta trở thành anh hùng, trở thành vĩ nhân, thì đối với một đất nước, một địa
phương cũng như vậy, có những biến động xã hội làm cho nó trở nên lớn khỏe khác
thường, làm cho nó sống mãi mãi ngời sáng hào hùng trong lịch sử dân tộc, trong
tâm hồn nhân dân” [174, tr.17]. Đây là một nửa còn lại của đất nước, miền Nam
chìm trong biển khổ. Máu và nước mắt, tiếng kêu thét vì nhục hình tra tấn của đồng
bào trong các nhà tù… đưa miền Nam vào những tháng ngày quằn quại thương đau.
Hiện thực vùng tạm chiếm miền Nam cũng khắc vào tâm khảm con người những
hình ảnh ghê rợn của chiến tranh. Những cụ già bị trói tay, bịt miệng; những sinh
linh bé bỏng giẫy giụa trên từng vũng máu; những thiếu nữ bị hãm hiếp; những
tiếng thét rùng rợn của nạn nhân trong các phòng tra tấn… là minh chứng nhức nhối
cho tội ác nhơ bẩn của quân thù. Đứng lên từ nỗi nhục của thân phận nô lệ, nhân
dân miền Nam trong vùng tạm chiếm, lực lượng học sinh sinh viên đã biến đau
thương thành niềm tin chiến thắng. Họ xuống đường, đòi nợ máu cho nhân dân. Họ
đốt bùng lên ngọn lửa hờn căm đang âm ỉ cháy. Cái chết của Nhất Chi Mai, người
con gái tự thiêu với tâm sự chết mới được ra lời, đến nay vẫn giằng xé trong tâm
thức con người. “Miền Nam trong lòng miền Bắc” và “miền Bắc trong lòng miền
Nam”, là sợi dây gắn kết máu thịt của hai nửa đất nước những năm kháng chiến
chống Mỹ.
1965 - 1975 là giai đoạn văn học có nhiều biến động trên nhiều phương diện.
Trong tâm thế bốn mươi thế kỉ cùng ra trận, người cầm bút bước vào một không khí
sáng tác mới. Nhiều thể loại vào cuộc, song tỏ ra nhạy bén nhất trong không khí
thời đại lúc bấy giờ chính là thơ. Trong địa hạt thơ ca, quan niệm về con người lại
mang một sắc diện riêng. Cái tôi trữ tình công dân đã phát triển đến đỉnh cao. Vươn
tới cái đẹp tuyệt đối vẫn là biểu hiện căn cốt của cái tôi sử thi giai đoạn này. Chỗ
dựa vững chắc của cái tôi trữ tình là lí tưởng, là niềm tin: Ôi cái mũ vải mềm dễ
thương như một bàn tay nhỏ/ Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành/ Sáng trên đầu
như một mảnh trời xanh/ Mà xông xáo mà tung hoành ngang dọc (Bài ca xuân 68 –
Tố Hữu). Lí tưởng cách mạng ở ngay trong những ngày sống ấm lành, hạnh phúc:
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả/ Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn/
50

Trái cây rơi vào áo người ngắm quả/ Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn/
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ/ Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn
(Chế Lan Viên). Chất sử thi nằm ở tâm thế sử thi, ở cái nhìn sử thi và ngay trong
những sự kiện - thời sự. Đây có thể xem là sự phát triển cao của cái tôi trữ tình công
dân trong thơ cách mạng. Sao chiến thắng, Chào xuân 67, Bài ca xuân 68, Dáng
đứng Việt Nam… là những vần thơ thấm đẫm sự kiện lịch sử dân tộc. Tăng cường
chất chính luận trong thơ cũng là một biểu hiện của cái tôi trữ tình thời đại chống
Mỹ. Người nghệ sĩ là người trong cuộc bàn luận, phân tích, triết lí về những vấn đề
sống còn của quê hương để rút ra quan niệm sống mang tầm thời đại. Cái tôi tranh
luận để tự vấn, chất vấn và để đối thoại với chung quanh. Tất cả là sự lựa chọn của
con người trước những nẻo đường thử thách. Không phải ngẫu nhiên khi Tố Hữu tự
vấn: Có ai bảo ta dại khờ không nhỉ? Khi ta không sợ quỷ trên đời.
Đi ra khỏi khoảng thời gian tạm sống trong không khí thanh bình, cả đất nước
lại ngập chìm trong chuỗi thanh âm hãi hùng của cuộc chiến tranh hủy diệt của Mỹ.
Đời sống văn học vào cuộc mới. Từ những vần thơ chủ đạo xoay quanh cuộc sống
yên ả của năm tháng lắng tiếng đạn bom chuyển sang một nền thơ chiến đấu là quá
trình vận động tất yếu. Hiện thực ùa vào các sáng tác và trở thành thi liệu căn cốt
nhất của thơ 1965 - 1975, nhất là trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ. Các cây bút thâm
nhập rất sâu vào hiện thực, sống cùng hiện thực để trải nghiệm và dấn thân. Không
phải đến thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ, chất hiện thực mới trở thành thi liệu.
Nhưng phải đến bối cảnh này, trong không khí sáng tác của thế hệ thơ trẻ, hiện thực
mới tràn vào địa hạt thơ hơn bao giờ hết. Chính những yếu tố này đã đưa đến cho
thơ trẻ 1965 - 1975 một số kiểu nhà thơ mới. Trên nền chung của thơ ca 1945 -
1975, kiểu nhà thơ cách mạng xem như vẫn giữ ưu thế trong thơ giai đoạn này. Tuy
nhiên, sự nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa thơ với đời sống như đã lí giải
trong quan niệm thẩm mĩ của lớp nhà thơ trẻ đã dẫn đến sự chuyển biến của những
lựa chọn trữ tình, những cách nghiền ngẫm và lí giải hiện thực cuộc sống… Vì vậy,
sự bổ sung một số kiểu nhà thơ, bên cạnh kiểu nhà thơ trữ tình công dân là tất yếu.
Chính hiện thực cuộc sống chiến tranh với những khoảng lặng, những phía khuất
51

lấp, mất mát… đã thực sự tạo một ý thức trữ tình mới, làm xuất hiện một kiểu nhà
thơ bộc lộ ý thức xã hội của cái tôi trữ tình với những luận giải về hiện thực, về
những nghịch cảnh trong chiến tranh. Tâm thế cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn
này thực sự chuyển biến, hướng về nỗi niềm chung của dân tộc song cũng không hề
lảng tránh nỗi niềm thân phận. Cái buồn, cái bi vẫn là nguồn cảm xúc tất yếu của
cái tôi trữ tình. Từ nguồn cảm hứng ấy, cái tôi trữ tình không còn say trong điệu hát
ca của nền thơ trước đó mà trở về với những điệu nói đầy suy tư, ngẫm ngợi. Giọng
ngợi ca cũng nhuốm day trở, băn khoăn. Cái tôi nhân danh cộng đồng trở lại nhưng
đã kết tinh thành cái tôi thấm những sự kiện - thời sự. Chất chính luận không chỉ là
sắc giọng của thơ ca mà trở thành một nội dung trữ tình. Cái tôi sử thi xuất hiện
trong một nội hàm mới, đúc kết được vẻ đẹp và chiều sâu về đất nước và con người.
Cái tôi trữ tình giai đoạn này thường thể hiện nguồn cảm xúc mãnh liệt trong những
mảng đề tài rộng lớn. Song đến thơ trẻ, với đặc trưng của những tiếng thơ khuấy
động vào hiện thực ngổn ngang của chiến tranh, ngay trong tâm thế trữ tình sử thi
đầy biến động đã phái sinh diện mạo biến thể của cái tôi sử thi qua điểm nhìn phân
tích, nghiệm suy, lí giải về cuộc chiến tranh, về những vấn đề phức tạp trong thế
giới tinh thần con người trước những sự “lựa chọn” có khi đầy mâu thuẫn của chủ
thể từ ý thức luận giải của cái tôi trữ tình. Có phần đi ra khỏi âm vực vút cao của cái
tôi sử thi - vốn là cái tôi trữ tình chủ lưu của thơ ca cách mạng, thơ trẻ 1965 - 1975
lại tách mình, tạo thành một dạng thức phái sinh của cái tôi sử thi. Cảm xúc, thái độ
của chủ thể trữ tình với hiện thực khách quan thực ra vẫn dựa trên nền tảng sử thi
song đã lắng đọng hơn, thâm trầm hơn, thậm chí không ít dằn vặt; đó là tiếng nói
trữ tình chủ yếu hướng nội, là cái tôi tự thức với những quan niệm về thơ, tự họa
chân dung thế hệ - tự phân tích, tự biểu hiện chân dung tinh thần trong trạng thái
đầy suy tư ngẫm ngợi.
Hoàn cảnh đất nước cắt chia đau xót đã sản sinh ra một dân tộc anh hùng, khai
sinh một nền văn học đậm tinh thần dân tộc, một nền thơ của mặt đường khát vọng.
Song hiện thực chiến tranh, nhất là ở vùng tạm chiếm miền Nam còn khai sinh ra
những tiếng thơ đào sâu vào trạng thái cảm xúc bất an, đổ vỡ… trước thực tại,
52

những khát vọng riêng tư thành thực của con người. Chính dạng thức tâm lí sáng
tạo nghệ thuật mới đã đưa thơ trẻ vào những vùng thẩm mĩ mới, ở đó cảm hứng
sáng tác chủ đạo là cảm hứng thế sự, đời tư. Như vậy, thơ 1965 - 1975 không chỉ
thể hiện nguồn cảm hứng sử thi, thể hiện cảm quan cách mạng mà theo nhận định
của tác giả luận án, sáng tác giai đoạn này còn có cả những tiếng thơ bắt nguồn từ
cảm hứng thế sự, đời tư, khắc họa chân dung cái tôi cá thể với ý thức đào sâu vào
bản ngã con người. Như đã khẳng định, cái tôi trữ tình phù hợp với một chủ thể trữ
tình, một hoàn cảnh sáng tác nhất định. Có thể nhận thấy xuất phát từ sự vận động
của đời sống văn học, cái tôi trữ tình giai đoạn này đã thực sự tạo ra một diện mạo
mới. Đây không phải là chân dung phổ biến của cái tôi trữ tình thời đại 1965 - 1975,
song chính cảm quan của cái tôi trữ tình gắn với một phía ẩn khuất của cuộc chiến
tranh đã khắc họa nên diện mạo mới của cái tôi trữ tình - cái tôi nhận thức lại cuộc
chiến tranh - tưởng chỉ có thể xuất hiện trong thơ sau 1975. Cũng với tâm thế đi ra
khỏi âm vực ngân vang của tiếng nói sử thi, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ còn là cái
tôi tự nghiệm về số phận đời tư, thậm chí là trực diện, tự vấn bi kịch đời tư - cái tôi
phi sử thi. Dù không phải là phổ quát, song như một sự tiếp nối cái tôi trữ tình đời
tư vốn đã lộ diện từ giai đoạn 1955 - 1964, sự trở lại kiểu nhà thơ thế sự, đời tư với
những trăn trở, âu lo thậm chí là cả những đối mặt với bi kịch cá nhân một cách rõ
nét hơn, thực sự đã góp phần làm đa diện chân dung cái tôi trữ tình, làm đa dạng
phong cách thời đại. Tâm trạng cô đơn, lạc lõng, bế tắc trong thế giới tinh thần con
người thực sự là những cảm thức về hiện thực ám ảnh ở một số hiện tượng thơ. Như
vậy, với sự xuất hiện của loại hình nhà thơ mới, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ còn
hiện diện với tư cách cái tôi phi sử thi. Như một sự khẳng định quan niệm của chủ
thể, cái tôi trữ tình “phụ lưu” này không ngần ngại độc thoại, đối thoại với cuộc đời
bằng cái nhìn vào chiều sâu, thậm chí mặt trái của chiến tranh: Dân tộc tôi bốn ngàn
năm áo rách/ Những người chết đặc trong lòng đất/ Những mặt vàng sốt rét/ Những
bộ xương đói khát vật vờ đi (Lưu Quang Vũ); buổi chiều đã tím ngắt rừng biên giới/
người lính già buồn bã xách súng bắn dội lên trời/ tiếng nổ giòn tan mà lòng không
thù hận/ một ngày bắt đầu biệt li (Thái Ngọc San); hay trong tiếng lòng xa lạ với
53

âm vang thời đại hào hùng lại là cung âm cất lên một cách thành thực đến trần trụi
của một bộ phận thơ ca không thuộc dòng thơ “viết trên đường tranh đấu” với biểu
hiện cái tôi bế tắc, đơn độc: Đời em còn có gì đâu/ Yêu thương cũng chết từ lâu…
để buồn (Lệ Khánh); Anh giết em chết đi để biến đời mình/ thành nghĩa trang/ Phần
mộ nhỏ những chiều reo hối tiếc/ Mưa suốt hồn chia li (Trần Dạ Từ).
Với sự xuất hiện của những kiểu nhà thơ mới, nền văn học hiện đại bước sang
một thời kì chuyển mình với quan niệm nghệ thuật mới. Đây là một trong những cơ
sở dẫn đến quá trình vận động của cái tôi trữ tình. Sự xuất hiện của cái tôi trữ tình
kiểu mới là biểu hiện sự vận động và phát triển của tư duy nghệ thuật, quan niệm
nghệ thuật, phong cách sáng tác… và cũng chính là sự phát triển của thơ trữ tình
1945 - 1975. Đúng như M.B. Khraptchenko từng nhận xét: “Sự thật của cuộc sống
trong các tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại bên ngoài cách nhìn thế giới của cá
nhân, cách nhìn này vốn có ở mỗi một nghệ sĩ thực thụ” [81, tr.89]. Trong đó, thơ
1965 - 1975 bắt rễ sâu vào hiện thực đời sống; đã dần hoàn tất sứ mệnh của mình,
để lại những dấu ấn góc cạnh ở nhiều phương diện: lực lượng sáng tác, tư duy nghệ
thuật, quan niệm thẩm mĩ, phương pháp sáng tác... Đồng thời giai đoạn này còn
hiện hữu những tiếng thơ khởi lên từ nỗi niềm khuất lấp của con người, làm phong
phú và đa dạng hơn đặc điểm thơ 1945 - 1975, trước hết nhìn từ sự vận động của cái
tôi trữ tình. Chính nhánh rẽ này đã góp thêm vào dòng văn học 1945 - 1975 chân
dung mới của cái tôi mà ở đó, tiếng nói trữ tình không hề lảng tránh thậm chí còn lí
giải về chiến tranh với những góc nhìn đa chiều và còn xoáy sâu vào bi kịch đời
tư… Tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 cũng không nằm ngoài ý
nghĩa khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn đặc trưng của một giai đoạn thơ có nhiều
biến động đáng kể trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.
54

CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT


NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN

Cái tôi trữ tình là nhân tố vận động chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã
hội và bối cảnh đời sống văn học. Mang đặc điểm thơ Việt Nam 1965 - 1975, cái tôi
trữ tình trong thơ trẻ được thể hiện ở những diện mạo riêng, phù hợp với tư duy
nghệ thuật, khuynh hướng thẩm mĩ… của thời đại. Sự chín muồi trong tư tưởng
sáng tạo, sự rung động tinh tế trong đời sống tâm hồn đã đưa người nghệ sĩ đi vào
vùng thẩm mĩ sáng tạo thơ ca một cách tự nhiên, tạo dựng được sắc diện cái tôi trữ
tình ở nhiều dạng thức biểu hiện phong phú. Trước hết đó là cái tôi mang cảm quan
sử thi, thể hiện ý thức dấn thân, hướng vọng về Tổ quốc, nhân dân của chủ thể trữ
tình. Bên cạnh đó, tư duy nghệ thuật thơ trẻ giai đoạn này đã bắt đầu “hướng nội”,
gắn với bức chân dung tự họa về sứ mệnh của thế hệ đầy âu lo, trăn trở, tạo nên
dạng thức cái tôi sử thi biến thể. Đặc biệt, thơ trẻ 1965 - 1975 còn đi sâu vào bi kịch
thân phận con người cá nhân, phơi trải những mặt trái của hiện thực chiến tranh,
khắc họa chân dung cái tôi phi sử thi.

2.1. Cái tôi sử thi


Lớp cầm bút trẻ hầu hết xuất hiện vào những năm đất nước chống Mỹ, được
tôi luyện trong cuộc chiến đấu ác liệt ở cả hai miền Nam - Bắc. Đến với chiến
trường sống và viết khi tuổi đời tuổi nghề còn trẻ, song họ đã lăn lộn cùng hiện
thực, đã thấm thía tận máu xương ý nghĩa của sự mất - còn, hạnh phúc ngắn ngủi -
bi kịch đằng đẵng của chiến tranh. Lực lượng nhà thơ trẻ cách mạng cũng không đi
ra ngoài quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà thơ lớp trước: Đất nước có
chung tâm hồn, có chung khuôn mặt (Chế Lan Viên). Con người ý thức được trách
nhiệm đối với đất nước, với nhân dân. Cái tôi mang cảm quan sử thi, bám sát các sự
kiện lịch sử và nhận ra mình trong dòng chảy lịch sử đó. Cái tôi của thế hệ thơ trẻ là
một sự tiếp nối, nhưng không lặp lại thế hệ trước; không chỉ ngợi ca, cổ vũ trong
tiếng nói hào sảng mà còn xuất hiện trong một chiều sâu nhận thức mới: “Huy động
55

tối đa trí tuệ và cảm xúc, cái tôi sử thi phân tích, khám phá, tổng kết vẻ đẹp, chiều
sâu của khái niệm Tổ quốc: con người Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, dáng đứng
Việt nam, nụ cười Việt Nam, lòng nhân ái Việt Nam” [4, tr.135].
Dân tộc Việt Nam những năm 1965 - 1975 sống trong nỗi đau bị xâm phạm,
thơ ca chủ yếu là tiếng nói thể hiện tình cảm thẩm mĩ của người nghệ sĩ, làm dậy
lên khí thế của một thời đại hào hùng. Từ thực tế chiến trường chất chồng xương
máu, lớp nhà thơ trẻ đến với thơ ca bằng cái tôi nhạy bén với bức tranh cuộc sống,
tạo nên những hình tượng thơ giàu giá trị thẩm mĩ. Cũng như những nhà thơ lớp
trước, các nhà thơ trẻ hướng về đất nước và nhân dân, thể hiện chân dung cái tôi
trong một nguồn cảm hứng sử thi tươi mới, ở đó lí tưởng thẩm mĩ thời đại hòa
quyện với hiện thực đời sống nóng bỏng. Chính nguồn cảm hứng đó tạo dựng trong
thơ trẻ cái tôi hướng về Tổ quốc, nhân dân bằng cái nhìn ngưỡng vọng, ngợi ca.

2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân

Hình tượng Tổ quốc luôn là niềm tự hào của bộ phận thơ trẻ cách mạng. Chủ
thể trữ tình không khỏi bộc lộ cái tôi kiêu hãnh về tư thế đất nước trong hoàn cảnh
bom đạn ngày đêm cày xới quê hương: Và vầng trăng, vầng trăng đất nước/ Vượt
qua quầng lửa mọc lên cao (Vầng trăng quầng lửa - Phạm Tiến Duật).
Đất nước lấm lem khói đạn và vầng trăng sáng trong thanh khiết - hai hình ảnh
tưởng đối lập nhau nhưng lại chan hòa, trong cảm quan sử thi của người nghệ sĩ.
Thời kháng chiến chống Pháp, người lính bước vào chiến trường từ bùn lầy, từ thân
phận nô lệ. Chẳng thế mà khi tạm thời kết thúc chiến tranh, Nguyễn Đình Thi đã
nhìn thấy đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước). Đến thời chống Mỹ, con
người đi vào tiền tuyến khi đằng sau là hậu phương xã hội chủ nghĩa vững chắc. Họ
giáp mặt với quân thù trong tinh thần vững chãi. Đến với chiến trường trong cái
nhìn sử thi, các nhà thơ trẻ thường xây dựng hình tượng thơ rất đẹp, từ sự kết tinh
của vẻ đẹp lịch sử dân tộc. Trong nhãn quan nhà thơ, đất nước vẫn rạng ngời, bất
khuất. Không gian Tổ quốc dường như được kéo gần lại với đời sống người chiến
sĩ, ấm áp nghĩa tình. Trong bữa cơm trộn mùi đạn bom ngột ngạt, người chiến sĩ
56

luôn ý thức Tổ quốc bên mình: Trong lòng đất ăn bữa cơm đánh giặc/ Tổ quốc gần
hơn bất cứ bao giờ (Ngô Văn Phú). Yêu thành phố tuổi thơ bằng một cảm giác da
thịt, bằng một cảm thức về Tổ quốc gần gụi như tình cảm máu mủ, cái tôi trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn hướng vọng thiêng liêng:
Ôi Tổ quốc ta yêu Người vời vợi
Khi Người khổ đau không làm ta sợ hãi
Trong căm hờn ta biết đường ta lên
Như hôm nay trầm tĩnh tiếng chim
Gõ không mỏi vào cửa ngày gian khổ nhất
(Con chim thời gian)
Có khi đất nước lại được phóng lên ở những tầng cao mới. Ngay trong thời
lao đao nhất của đời tư, cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn tìm đến không
gian mở khi hướng về quê hương. Cũng như các nhà thơ trẻ cùng thời, tác giả
không chịu bó mình trong những không gian chật chội. Càng chạm đến khát vọng,
tuồng như tâm hồn người nghệ sĩ chắp cánh bay cao. Vận mệnh đất nước gắn vào
khoảng không gian khát vọng: Ta đã lên đến tầng thứ năm/ Ta đã gặp trời mây lóa
nắng/ Tầng cao nhất sân dài gió lộng/ Ụ đất màu nâu xếp đó lặng yên/ Thành công
sự quanh nòng đại liên/ Ôi lên tầng năm ta gặp đất/ Lòng ta lóe sắc vàng băng đạn/
Ta biết vì sao ta đứng ở đây rồi/ Súng đăm đăm nhìn rộng đến chân trời/ Muốn nói
rất nhiều với cửa gương tầng dưới/ Nơi ngọn bút chì đang vạch nét tương lai (Tầng
năm). Nguyễn Đức Mậu lại tạc nên một đất nước mang hình hài mới: Hai mươi năm
so với tuổi rừng già/ Khoảng cách nhỏ của lụi tàn, sinh nở/ Ơi đất nước hai mươi
năm lịch sử/ Có con đường dài rộng trước thời gian (Điệp khúc một con đường).
Đó là đất nước gắn với dòng thời gian đầy hứa hẹn. Xuất phát từ nguồn cảm hứng
sử thi, điểm nhìn của tác giả thường được phóng chiếu ở những chiều kích lớn. Tất
cả đều được chắt lọc qua nguồn cảm xúc mãnh liệt của chủ thể trữ tình.
Cái tôi không chỉ thể hiện trong điểm nhìn hoành tráng, không chỉ là hiện thực
được phóng chiếu ở tầm kích phi thường mà còn là khởi nguồn của cảm xúc sử thi.
Hình hài đất nước được lật trở trong nhiều góc nhìn: Cái đất nước có dáng hình tiên
57

múa/ lại có hình ngọn lửa lúc cuồng phong (Trần Mạnh Hảo). Đó là đất nước mang
hình vóc sử thi, hoành tráng mà cũng đầy sức gợi. Có khi người nghệ sĩ lại để cho
cảm xúc tuôn trào từ những dồn nén, những rung động tinh tế khi cảm nhận được
khuôn dáng nguyên sơ của quê hương trong tình yêu nước mặn mà, sâu kín:
đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
như Tháp Mười không điểm trang
đầy im lặng
trên tất cả tình yêu - tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta
bất chấp những ngôn từ
(Một người lính nói về thế hệ mình - Thanh Thảo)
Trong sáng tác của các nhà thơ lớp trước, nhiều biểu tượng, hình tượng nghệ
thuật đã trở thành mô típ; mang những đặc trưng thẩm mĩ của phong cách, thời đại.
Như hình tượng Tổ quốc đã xuất hiện thường trực trong thơ Tố Hữu. Với cái nhìn
lạc quan, hào hùng, nhà thơ hình thành nên một Việt Nam có sức sống kì diệu:
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi/ Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm/ Chúng muốn
ta bán mình ô nhục/ Ta làm sen thơm ngát giữa đầm (Việt Nam - máu và hoa). Đến
giai đoạn 1965 - 1975, khi hướng về Tổ quốc, cái tôi trong thơ trẻ cũng được thể
hiện ở những trang thơ đậm chất chính luận. Song ở đó, các tác giả thường đặt ra
những chất vấn thời đại trong chiều sâu của tư tưởng và cảm xúc. Họ đối diện với
quê hương trong niềm tin cuộc sống tái sinh: Đâu mái nhà quê, hương khói quyện
bền lâu/ Đã hạ xuống, che cho hầm trú ẩn?/ Đâu rát bỏng bên trên. Dù quân thù
san phẳng/ Thì tự dưới hầm sâu, tất cả vẫn hồi sinh (Đất nước - Bằng Việt). Không
nằm ngoài số phận của thanh niên trí thức đô thị miền Nam, Đông Trình ý thức
được cái giá của chiến tranh nghiệt ngã. Và hồn thơ đa mang ấy không khỏi ngỡ
ngàng khi cảm nhận sự sống của quê hương lại mọc lên từ trong cõi chết: Ôi kiêu
hãnh thay quê hương ta/ Từ dưới vực sâu, hố thẳm, ao bùn/ Vẫn nở ngát những
cánh sen tinh khiết/ Trên lâu đài của một thành phố chết/ Sáng hôm nay mầm sống
đã hồi sinh (Hoa đã hướng dương). Phải nói cảm hứng lãng mạn là nguồn mĩ cảm
58

dạt dào của thơ trẻ trong lòng đô thị, là điểm tựa vững chắc để trong suốt quá trình
sáng tạo, các cây bút vững tin vào quan niệm thơ ca - thực sự là vũ khí đấu tranh.
Ngưỡng vọng về hình hài đất nước trong quá khứ hay tự hào về truyền thống
dân tộc cũng là một khía cạnh thể hiện nguồn cảm hứng sử thi của cái tôi trữ tình.
Với hồn thơ thấm ướt điệu ru, Xuân Quỳnh lại nhìn thấy một đất nước mang nỗi
đau chiến tranh chôn sâu vào lòng biển, để làm dịu đi những dấu ấn buồn của dân
tộc thời chiến: Biết bao nhiêu năm tháng đi qua/ Dẫu biển đã trải nhiều chiến trận/
Chưa bao giờ biển mang thương tích/ Mảnh đạn bom biển giấu tận lòng sâu (Biển).
Nguyễn Đức Mậu cũng có một cái nhìn sâu thẳm về lịch sử dân tộc. Đó là hình ảnh
quê hương trong Điệp khúc một con đường. Là những người đã khuất, là cây đổ
ngổn ngang, bom phá đường, cầu đứt nhịp. Đất nước là pho truyền thuyết rêu
phong: Trăm con đường kể về một con đường/ Vách đá nhắc tên những người đã
khuất/ Cột mốc cũ lên màu rêu truyền thuyết/ Thành thước đo dân tộc mình đi; là
cơn lốc sức mạnh diệt thù cuộn lên từ những dư âm hào sảng của một thời lịch sử:
Có người, cũng đủ thành thơ/ Có Người, mũi tên đồng Cổ Loa/ Không chịu vùi dưới
đất/ Không nằm yên trong viện bảo tàng/ Chúng bay lên xé gió thời gian/ Mở hết
đường bay qua thăng trầm lịch sử/ Để cắm vào đầu giặc Mỹ! (Đất nước - trích Mặt
đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm). Với khả năng khái quát hiện thực vĩ mô
của trường ca, cái tôi trong thơ trẻ tạo được mảnh đất trù phú cho cảm xúc sử thi
neo đậu. Đề tài mang tầm vóc lịch sử, thời đại được chuyển tải trọn vẹn trong thể
loại này. Trong trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm phối nên một
gam giọng đẫm chất sử thi. Đất nước đi qua bao thăng trầm của thời gian. Đất nước
là cuộc hạnh ngộ của những câu chuyện tưởng đã nằm yên trong nguồn cội xa xưa:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước núi vọng phu/ Cặp vợ chồng yêu
nhau góp nên hòn Trống Mái/ Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để
lại/ Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương/ Những con rồng
nằm im góp dòng sông xanh thẳm/ Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình
núi Bút, non Nghiên.
59

“Cảm hứng lịch sử trong thơ Lê Anh Xuân mang một ý nghĩa sâu sắc. Quá
khứ thường có một vị trí riêng trong đời sống hiện tại. Một khi đã tìm ra sự liên
quan máu thịt của nó trong tình huống và bối cảnh xã hội đương đại thì lịch sử sẽ
trở thành một điểm tựa, một điều cắt nghĩa” [148, tr.351]. Chính điều này đã dàn
dựng trong tác phẩm của nhà thơ chiến sĩ ấy một âm hưởng hào sảng cho sự trở về
của quá khứ oai hùng: Hỡi những anh hùng ngàn năm dựng nước/ Hai Bà Trưng,
Lý Thường Kiệt, Quang Trung/ Tất cả hôm nay xuất trận trùng trùng/ Lớp lớp anh
hùng tràn như sóng cuộn/ Trương Định cũng vượt Trường Sơn về đây bóng che Nhà
hát lớn (Chào Hà Nội! Chào Thăng Long!). Quay về cội nguồn dân tộc, Trần Vàng
Sao - ngòi bút học sinh sinh viên thành thị miền Nam - suy tư về một đất nước có bề
dày truyền thống rất đáng tự hào. Cũng như khi đến với Nguyễn Khoa Điềm, người
đọc lại không chỉ gặp ở Trần Vàng Sao một hình ảnh đất nước thiêng liêng qua
nguồn cảm xúc chứa chan của cái tôi trữ tình mà còn bắt gặp ở đây vẻ thâm trầm
của cái tôi suy tưởng: Tôi yêu đất nước này lầm than/ Mẹ đốt củi trên rừng cha làm
cá ngoài biển/ Ăn rau rìu rau có rau trai/ Nuôi lớn người từ ngày mở đất/ Bốn ngàn
năm nằm gai nếm mật/ Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ/ Một tiếng nói cũng đẩy hồn
Thánh Gióng (Bài thơ của một người yêu nước mình).
Đến với chuỗi tháng năm tranh đấu, các thi sĩ trẻ mang nhiều sắc diện của cái
tôi ngưỡng vọng về hình tượng Tổ Quốc đẹp đẽ, lớn lao vào mùa thơ chống Mỹ. Ở
đó, đất nước được tái hiện trong nguồn cảm hứng sử thi, mang tầm vóc sử thi.
Trong quá khứ, giữa thực tại hay ở tương lai thì đất nước cũng được dựng lên qua
cái nhìn lí tưởng của cái tôi trữ tình. Một quá khứ hào hùng, một thực tại đối mặt
với thương đau và một tương lai đầy hứa hẹn. Đó là Tổ quốc qua lăng kính cái tôi
ngưỡng vọng trong thơ trẻ 1965 - 1975.
Các nhà thơ trẻ còn hướng cái nhìn ngưỡng vọng về một khách thể thẩm mĩ
khác. Đó là nét đẹp của con người thời chiến qua cảm thức ngợi ca của cái tôi trữ
tình. Viết về họ, khám phá vẻ đẹp quần chúng nhân dân là sứ mệnh của người cầm
bút trẻ, nhất là những nhà thơ trực tiếp lăn lộn ở chiến trường, thấu hiểu tác động
sâu sắc của chiến tranh đến số phận con người. Bởi vậy lớp cầm bút trẻ còn thể hiện
60

cái tôi trong nguồn cảm hứng đẹp đẽ về nhân dân qua sự gắn kết giữa khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Như lời thơ vọng mãi của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân (Mặt đường khát vọng).
Giữa ngổn ngang trận địa, phút chợp mắt của đồng đội cũng được ghi lại trong
cái nhìn lạc quan cách mạng. Một nét vẽ đơn sơ giữa khoảnh khắc tạm dừng chân
của anh bộ đội sao thanh thản lạ lùng: Người tựa lưng vào dãy Trường Sơn/ Thành
bức tượng đồng mới tạc/ Người nằm trên đỉnh đèo chót vót/ Mây trắng vờn bay mái
tóc mềm/ Người gối đầu lên mảnh trăng liềm/ Cây lá êm đưa sao lùa dưới võng
(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc - Nguyễn Đức Mậu). Có khi từ trong khói lửa
đạn bom, hình tượng người chiến sĩ hiện ra oai hùng qua lăng kính cái tôi đầy thán
phục: Không thể rời đồi thì vùi người xuống đất/ Súng nằm im nghe lửa thổi trên
đầu/ Tưởng thiêu hết cả rồi lũ giặc kéo nhau/ Đổ quân xuống quả đồi cháy xém/
Bỗng vụt dậy ba anh chàng đen nhẻm/ Nòng súng đen vùn vụt lửa phun lên (Lửa và
súng ở quả đồi cháy - Phạm Tiến Duật). Trong cái nhìn sử thi, thơ trẻ cũng thể hiện
sâu sắc niềm tự hào về tinh thần lạc quan của những đồng đội đã bị chiến tranh lấy
mất đi một phần sự sống: Anh vẫn còn nghe rõ/ Tiếng sự sống xung quanh tách nở/
Không chỉ riêng bằng màu sắc và mùi hương/ Đất nước đâu dễ lặng chìm trong mỗi
vết thương (Anh vẫn nghe - Lâm Huy Nhuận).
Niềm lạc quan của cái tôi thơ trẻ còn là nụ cười ý vị, là thời khắc suy tư lãng
mạn của người lính xa nhà, là thoáng xao xuyến trước nét đẹp bình dị. Với cảm
quan sử thi, lay động cái tôi thơ trẻ có khi chỉ là một ngăn kí ức mang theo suốt
chặng hành quân. Cái tàn khốc của lửa đạn không thể xóa đi vẻ đẹp tâm hồn của thế
hệ từng nếm trải chiến tranh. Họ thường rung động trước một nét đẹp, một âm thanh
thân thuộc của cuộc sống. Tất cả làm nên một vùng cảm xúc chân thực, là gương
mặt tâm hồn thế hệ thơ trẻ, là biểu hiện của cái tôi hăm hở nhận thức, ngợi ca con
người. Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới thân thuộc, thế giới của hơi ấm làng
quê. Chủ thể ngậm ngùi trong niềm hạnh phúc hiếm hoi: Hạt gạo nuôi hết thảy
chúng ta no/ Riêng cái ấm nồng nàn như lửa/ Cái mộc mạc lên hương của lúa/ Đâu
dễ chia cho tất cả mọi người (Hơi ấm ổ rơm). Dưới rừng già Trường Sơn, chiếc
61

võng bạt cũng hóa thành võng trăng. Nguyễn Duy đã khảm lên trời đêm một vành
trăng thật lạ, chỉ của riêng đời lính: Cong cong võng bạt anh nằm/ Khuyên lên nền
lá vành trăng lưỡi liềm (Võng trăng). Sau trận bão bom cày nát thịt xương, con
người hướng đến hình ảnh tình tứ, dịu yên của cuộc sống. Hẳn cái tôi trải lòng mình
với thiên nhiên mới có được cảm nhận tinh nhạy thế này: Vừa tim nghỉm tiếng bom
rung/ Đã nghe nhỏng nhảnh chim rừng tán nhau/ Cành lim nhựa chảy, lá nhàu/
Tiếng chim dịt vết thương đau cho cành (Tiếng chim sau trận bom B.52). Với một
hồn thơ xao động, Hoàng Nhuận Cầm cũng lắng lòng mình bắt gặp âm thanh của
tiếng chim. Thật lạ, thanh âm trở nên có dáng, có hình và có cả cái xôn xao của tâm
hồn người lính: Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng/ Nghe lăn lăn những tiếng chim
xuống hầm. Nguyễn Đức Mậu có cả một ngăn yêu thương cho mảnh trời riêng. Anh
Ngọc lại bâng khuâng trước nét duyên thầm của một loài cây dại. Với thế hệ thơ trẻ,
duờng như một thoáng lay động khẽ khàng của thiên nhiên cũng đủ kết thành yêu
thương. Bài thơ thực sự là khoảnh khắc hòa hợp giữa cái tôi và ngoại cảnh: Người
qua rồi bóng dáng cứ theo sau/ Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm/ Cây đã hé
những mắt tròn chúm chím/ Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo. Người đọc bắt
gặp một cái tôi trữ tình xao xuyến trước cảnh vật tưởng đã hết sức thân quen trong
cuộc sống: Phút lạ lùng trời đất trong veo/ Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ/
Nhiều dáng điệu thoáng qua trong trí nhớ/ Rất thân quen mà chẳng gọi nên lời
(Cây xấu hổ). Tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống làm cái tôi thơ trẻ rung động với
từng thanh âm vui vầy trong những lúc dừng chân: Trên đường hành quân xa/ Dừng
chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục…cục tác cục ta/ Nghe xáo động nắng
trưa/ Nghe bàn chân đỡ mỏi (Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh). Có khi, cái tôi cồn cào
trong những đường nét gợi nhớ da diết quê nhà: Tiểu đội mười hai đứa/ Mười hai
nỗi nhớ quê/ Chao màu xanh đồi cọ/ Vị ngọt từ tôm he,/ Đồng bằng mùi cơm mới/
Hoa ban khi xuân về/ Và tôi, trong tưởng tượng/ Vẫn nghe hoài tiếng quê (Tiếng
quê - Phan Thị Thanh Nhàn). Ngay cả một chiếc hòm thư cũng ăm ắp nỗi niềm:
Hòm thư bưu điện ở trạm giao liên/ Treo liền trên vách đá/ Niềm vui từ nơi đây/
Được chia đều trăm ngả/ Đêm đêm bộ đội hành quân/ Có những lá thư viết vội/
62

Bỗng ùa ra như đàn chim/ Chiếc hòm sắt tưởng chừng chật chội. Nguyễn Đức Mậu
đã lột tả được chân dung cái tôi nôn nao hạnh phúc. Cái tàn khốc, vô tâm của súng
đạn càng làm con người tìm đến niềm sẻ chia ở những điều giản dị như thế. Bằng
một giọng thơ nghèn nghẹn, cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường đăm đắm nhớ về
Trường Sơn, về con đường mòn vô định có sức ám ảnh ghê gớm trong những năm
đánh Mỹ - in sâu bước chân thầm thỉ của con người: Ôi những con đường chỉ một
lần qua/ Hai mươi năm biết ai còn nhớ/ Nhưng từ đó cây hoang rừng già/ Thương
mãi đàn con gian khổ/ Đất nhớ chân người thiết tha (Tôi đi trên những con đường
rừng cũ). Hiện thực chống Mỹ đưa con đường Trường Sơn thành tri kỉ với con
người. Day trở trong tâm cảm cái tôi con đường trải dài nỗi nhớ, con đường thực hư
trĩu nét ưu tư: Mẹ Trường Sơn tóc mây bạc phơ/ Chiều khói xanh mưa nguồn chớp
bể/ Hai mươi năm dài trên trán mẹ/ Những con đường rừng vẽ nét ưu tư.
Cũng như bao nhà thơ thế hệ chống Mỹ khác, Lưu Quang Vũ hướng về nhân
dân bằng tấm lòng thành kính. Người thơ nhìn thấy lòng căm thù của nhân dân trào
lên ngay trong cái chết, khi quê hương ngày đêm chồng chất xác người: Người liệt
sĩ nơi nghĩa trang nằm đó/ Cũng lên đường nhập với hàng quân (Đêm hành quân).
Lưu Quang Vũ thống nhất trong tư duy nghệ thuật, thất vọng thường ươm niềm tin.
Bằng cả nửa đời duyên nợ với thơ ca, Lưu Quang Vũ thực sự thức nhận sâu sắc về
nhân dân, gửi niềm tin vào họ: Tôi cùng người chung lúa chung khoai/ Chung cơn
bão chung cánh rừng lửa đạn/ Chung ca nước dưới đường hào nắng gắt/ Chung lá
cờ chung ngọn lửa ban mai. Dẫu để có được nhân sinh quan tích cực này, nhà thơ
phải đi trọn một vòng đời không mấy yên lành. Niềm lạc quan có thể phải trả từ nỗi
đau xé lòng nhưng thế hệ nhà thơ chống Mỹ, trong đó có Lưu Quang Vũ, đã mang
niềm tin khắc cả vào những vần thơ đậm tình dân tộc. Có khi cái tôi vừa chất vấn
vừa tự hào về niềm yêu đời và nghị lực đáng ngưỡng mộ của những con người mới
đi vào cuộc chiến đấu: Đi giữa rừng sâu/ Câu hỏi lớn như gió rừng thổi mãi/ Rằng
dân tộc ta trong những năm tháng ấy/ Đưa lên rừng mấy chục vạn người con/
Không thể nói là không đói không sốt/ Ở giữa rừng sâu hàng chục năm trời/ Nghĩ gì
và bằng cách nào rừng ơi/ Mà vẫn sống ung dung và đánh thắng (Những vùng rừng
63

không dân - Phạm Tiến Duật). Hay giữa không khí tang thương, giăng đầy tội ác kẻ
thù, hình tượng nhân dân càng trở nên vĩ đại trong cảm quan ngưỡng vọng của cái
tôi trữ tình: Chúng ném khăn tang vào mỗi gia đình/ lại bán sẵn bát hương bằng
nhựa/ anh em quần nhau mẹ già ở giữa/ mẹ đinh ninh như đất nước một lòng (Sức
bền của đất).
Cũng trong mạch cảm hứng đầy niềm tin, người đọc còn thấy trong thơ “viết
trên đường tranh đấu” cái tôi sử thi tự vấn, để khẳng định lòng tin mãnh liệt ở chủ
thể trữ tình vào sức mạnh đầy tiềm lực của những người cùng trên “trận địa”:
Tôi không tin ở đó đã phai tàn sinh khí
Người tới lui như những kẻ cô hồn
Tôi không tin bây giờ các anh, các chị
Ngày tháng dật dờ sương khói hoàng hôn!
(Hoa máu còn hồng trước ngôi nhà cũ - Đông Trình)
Cái tôi với cảm hứng ngợi ca nét đẹp con người trong thơ trẻ miền Nam cũng
mang những sắc thái riêng, là tiếng lòng của một thực tại lớn. Đây là tiếng thét hờn
căm trong các trại tập trung, là máu ứa từ những trái tim quả cảm trước sự tàn sát
khủng bố của quân thù. Cả dân tộc hừng hực khí thế con người hóa đau thương
thành sức mạnh diệt thù, là hình ảnh nhân dân miền Nam biến cái chết thành sự
sống bất diệt. Tính chất trữ tình chiến đấu trở thành đặc điểm nổi bật của nền thơ.
Đến với thơ miền Nam, người đọc bắt gặp tình yêu của những lí tưởng lớn, những
khát vọng lớn. Những chiến trường lớn đồng hành với thế hệ thơ trẻ miền Nam. Lê
Anh Xuân với Nam Bộ. Dương Hương Ly với chiến trường Trung Trung Bộ, Trị
Thiên trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Tây Nguyên với Thu Bồn… và thành thị miền
Nam trong thơ các cây bút học sinh sinh viên “viết trên đường tranh đấu”. Mỗi
giọng thơ gắn với từng khuôn mặt của cái tôi trữ tình.
Ngòi bút thơ trẻ đã khắc vào trong lịch sử văn học một tượng đài sáng lóa về
hình tượng anh giải phóng quân. Tượng đài bằng thơ ấy không chỉ được tạc đúc từ
một con người vô danh nữa mà như là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam và
được trân trọng đặt tên - dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ: Từ dáng đứng của Anh
64

giữa đường băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Dáng đứng
Việt Nam). Năm tháng lăn lộn với chiến trường đã giúp Lê Anh Xuân dựng nên
tượng đài chiến sĩ giải phóng quân, từ cái chết hiên ngang giữa pháp trường đến cái
chết giữa một không gian mưa gió… Bằng cái tôi đầy cảm kích, tác giả nâng hình
tượng chiến sĩ vô danh lên một tầm cao mới: Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn
Nhất/ Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và Anh chết trong
khi đứng bắn/ Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Lê Anh Xuân làm sống dậy cả
hồn thiêng dân tộc, để lại dấu ấn lịch sử trong những tượng đài thơ bất tử. Nhà thơ
bất tử hóa hình ảnh người liệt sĩ vô danh, để họ hóa thân thành linh hồn đất nước:
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh
trước lúc lên đường/ Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ. Nhân vật trữ
tình bỗng đẹp đẽ vô cùng, trong sự hi sinh thầm lặng, mang tất cả những bận bịu đời
tư về với cõi vĩnh hằng. Dù ít chạm đến mất mát, đau thương nhưng các nhà thơ trẻ
vẫn không ngần ngại nói về cái chết của những anh hùng, cái chết ươm chồi sống,
bất tử với thời gian. Cái chết của nhân vật trữ tình vô danh ấy hóa thân vào hồn
thiêng sông núi. Đó là sự hóa thân diệu kì, mang tầm vóc sử thi.
Ngợi ca vẻ đẹp con người, ngòi bút thơ trẻ không chỉ tập trung vào hình tượng
anh hùng kì vĩ mà còn hướng đến những con người bình dị. Lâm Thị Mỹ Dạ gửi lại
trong lòng văn học Việt Nam hiện đại một kí ức đẹp về cái chết của người con gái
mở đường. Đã có nhiều tượng đài anh hùng trong thơ cách mạng, song đến Lâm Thị
Mỹ Dạ, câu chuyện về sự hi sinh của cô gái mở đường ấy vẫn làm xáo động tâm tư
người đọc. Có một thời như thế, những cô gái không tiếc tuổi xuân, bỏ lại sau lưng
bao nhiêu khát vọng hạnh phúc riêng tư bước vào đời lính. Đón đợi họ là đạn bom,
chết chóc, là ngổn ngang bi kịch… Nhưng chính họ lại xả thân như lẽ sống của một
thế hệ trẻ và đó cũng chính là sự lựa chọn tất yếu của những con người hết lòng vì
Tổ quốc: Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường/ Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị
thương/ Cho đoàn xe kịp giờ ra trận/ Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên
ngọn lửa/ Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom (Khoảng trời, hố bom). Nếu
không đi ra từ những tháng ngày gian khổ Trường Sơn, nếu không có sự đồng cảm
65

của trái tim chan chứa yêu thương thì nhà thơ không thể giàu sức liên tưởng trước
sự hóa thân dịu dàng, nhân hậu của người con gái Trường Sơn đến thế: Em nằm
dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm tâm hồn em tỏa
sáng/ Những vì sao ngời chói, lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/
Đã hóa thành những làn mây trắng? Như Tố Hữu từng viết: Có cái chết hóa thành
bất tử/ Có những lời hơn mọi lời ca. Gặp gỡ tư duy thơ Tố Hữu, nhà thơ trẻ Lâm
Thị Mỹ Dạ đã mang cái chết đẹp đẽ của nhân vật trữ tình vào cuộc sống vĩnh hằng.
Cái tôi trữ tình trong Khoảng trời, hố bom lặng trong cảm xúc sâu lắng, đưa hình
ảnh lung linh diệu kì ấy đi sâu vào tiềm thức những người ở lại: Gương mặt em, bạn
bè tôi không biết/ Nên mỗi người có gương mặt em riêng.
Hình tượng con người bình dị trong thơ trẻ có khi là những người mẹ giã gạo
nuôi quân, những người mẹ nặng tình yêu con. Đó là tình ruột thịt hòa trong tình
yêu Tổ quốc: Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ/
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội/ Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng/ Mồ hôi mẹ rơi
má em nóng hổi/ Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối/ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời/ -
Ngủ ngoan A Kay ơi, ngủ ngoan A Kay hỡi (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ - Nguyễn Khoa Điềm). Lời ru ngọt ngào sâu thẳm của người mẹ Tà Ôi như xoáy
vào trái tim làm mẹ một thời. Âm hưởng lời ru nghe như lời dỗ dành, nhắn nhủ;
nghe như tha thiết vọng gửi vào trẻ thơ thanh âm đầu đời của tình yêu quê hương
đất nước. Trong lời ru có âm điệu của muôn bài hát à ơi tự thuở nào và cũng lại
thắm đằm nghĩ suy mới, khát vọng mới của người mẹ về hai tiếng tự do. Ở đây
không thấy sự xuất hiện trực tiếp của cái tôi tác giả mà vẫn đọc được cái tình sâu
kín của nhà thơ. Giọng ru ăm ắp tình cảm của người nghệ sĩ trước tấm lòng thuần
khiết của đồng bào Tà Ôi với quê hương, với bộ đội. Nguyễn Khoa Điềm không nén
nổi tiếng nói trữ tình đẫm chất sử thi trong việc tái hiện lại bức tranh cuộc sống
nặng ân tình.
Thơ trẻ 1965 - 1975 thể hiện rõ nét cái tôi trữ tình sử thi, trong một chiều sâu
mới. Đó là cái tôi nhìn vào đất nước, nhân dân ở tầng sâu văn hóa, lịch sử. Đây là
một sự tiếp nối đáng ghi nhận của tư duy thơ trẻ trong mạch cảm hứng chủ đạo của
66

thơ ca kháng chiến, góp phần tạo nên bản sắc riêng. Hình tượng Tổ quốc chìm trong
đau thương mà rất đỗi hào hùng đã tác động đến tư duy thơ trẻ, vì thế hình tượng
nhân vật trữ tình đẹp nhất vẫn là những con người “quyết tử” để trả thù nhà nợ
nước. Với những biểu hiện của cái tôi hướng về Tổ Quốc và con người mang đậm
chất sử thi như thế, thơ trẻ thể hiện được sự nhất quán trong quá trình vận động và
phát triển của cái tôi trữ tình.

2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung

Theo tác giả luận án, cái tôi sử thi trong thơ trẻ không chỉ thuần nhất biểu hiện
ở những tình cảm lớn, ở sự ngưỡng vọng về hình hài của dân tộc và vẻ đẹp của con
người mà cái tôi trên mảnh đất đời thường và cả trên mảnh đất tình yêu trong thơ trẻ
giai đoạn này cũng thể hiện cảm quan sử thi. Đó chính là sự thống nhất riêng -
chung, là ý thức đặt hạnh phúc riêng tư vào trong tình yêu đất nước, là thân phận
tình yêu ẩn nhường trong số phận dân tộc. Tất cả là biểu hiện của cái tôi xốn xang
trong sự ẩn nhường riêng - chung.
Bên tình yêu đất nước, tình cảm gia đình là một phần gắn bó với suy tư của thế
hệ thơ trẻ. Trong cuộc sống yên bình, con người được thể hiện hết mực tình yêu
thương ruột thịt âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng trong hoàn cảnh nước nhà chia
cắt, khi vận mệnh con người gắn chặt với sinh mệnh Tổ quốc thì những tình cảm
gần gũi nhất có khi là sự kiềm nén, là tiếng lòng giấu lặng. Bởi vậy những vần điệu
viết về tình yêu thương máu mủ luôn là tiếng thơ chứa chan xúc cảm. Lớp nhà thơ
trẻ khơi sâu vào vùng cảm xúc rất đẹp của con người, ở đó tình thân càng xúc động
khi trở thành một phần của tình yêu quê hương, đất nước; là sức mạnh tinh thần để
con người thời chiến có thể tận hiến cho Tổ quốc, có thể tin đợi vào ngày trở về,
ngày đoàn tụ…
Gia đình luôn là nơi trú ngụ dạt dào cảm xúc của những hồn thơ trẻ. Sâu đằm
nhất bao thời thơ đã đi qua vẫn là cảm xúc của cái tôi trong tình cảm sinh thành. Lời
mẹ ru con, dấu chân đời cha, tiếng khóc con thơ… là nguồn thơ thôi thúc, ân tình.
Nỗi đau mất mẹ, cả bi kịch không được làm mẹ… không khỏi ám ảnh tâm thức các
67

nhà thơ trẻ. Có khi cái tôi trữ tình chính là âm bản của nhà thơ. Song hầu hết vẫn là
sự nén lòng, là hi sinh tình cảm riêng tư để trọn vẹn với tình yêu Tổ quốc. Nỗi nhớ
mẹ luôn thường trực trong tâm cảm con người. Đó là dòng kí ức tìm về thuở ấu thơ
thật dịu dàng, sâu lắng: Có gì nhớ hơn khi lòng con nhớ mẹ/ Nghe xa xôi vời vợi một
câu hò/ Con lại về trong lời ru thuở bé/ Như mẹ theo con trên mỗi chặng đường xa
(Nghĩ về mẹ - Lâm Thị Mỹ Dạ). Cái tôi hiểu thấu nỗi mong mỏi của những người
mẹ, không niềm hạnh phúc nào bằng hạnh phúc chứng kiến con mình lên đường
theo tiếng gọi của Tổ quốc thiêng liêng: Ôi! Con mẹ ngày mai làm chiến sĩ/ Giọt
máu đỏ của cha con - đồng chí/ Mấy hôm rày rạo rực quá con ơi/ Nghe không con!
Tổ quốc gọi con rồi (Mẹ - Phạm Ngọc Cảnh). Họ là hiện thân của nỗi đau suốt đời
chôn chặt. Là hậu phương ngày đêm vì tiền tuyến. Và cũng là hậu phương mòn mỏi
đợi chờ. Bao nhiêu sự thầm lặng trong chiến tranh là bấy nhiêu tấm lòng vì quê
hương đất nước: Mẹ nén đau/ giấu tờ báo tử/ sáng mai lại tiễn con nhập ngũ (Hữu
Thỉnh), dù có khi trong sự ẩn nhường của những hi sinh thầm lặng đó là nỗi đau
vượt quá sức chịu đựng của con người: Bao nhiêu cuộc tiễn đưa, bao bà mẹ chờ
trông/ Bao nỗi nhớ nén vào im lặng/ Cắn răng lại để làm nên chiến thắng/ Giặc tan
rồi bỗng nghe mặn trên môi (Từ biệt vùng quê sơ tán - Vũ Quần Phương). Nguyễn
Duy cũng có những vần thơ chan chứa tình mẹ. Lời mẹ cứ xoáy vào thớ tim con, dỗ
dành con mà vẫn nghe nghẹn ngào, dồn nén. Cái tôi vỡ òa mừng tủi trước tháng
ngày trở về: - Răng mà khóc, con ơi…/ Gánh cực quằn vai đã trút hết rồi,/ Đất quê
kiểng lẽ nào tang thương mãi/ Đau khổ quá chừng, lòng chai sạn lại/ Mười năm nay
mẹ không khóc nữa rồi/ Nay con về, đừng khóc, con ơi… (Bà mẹ Triệu Phong). Cái
tôi trong thơ Vương Trọng nghĩ về người mẹ trong cái nhìn có lỗi: Mẹ trở về chạng
vạng dáng đi/ Bùn quánh khô rơi dần bước mỏi/ Nhìn dáng mẹ con thấy mình có
lỗi/ Con ra đi chưa giúp mẹ được gì (Mẹ đồng chiêm). Cái tôi trữ tình không giấu
được tiếng lòng thành thật, trong nỗi ray rứt về phận làm con. Hình ảnh người mẹ
tảo tần, lam lũ, nhẫn nhịn càng làm cái tôi trăn trở. Ngực mẹ ướt đầm cho hạt thóc
khô là hình ảnh về tháng ngày cơ cực của những người mẹ kiếm sống nhọc nhằn
quen thuộc ở làng quê Việt Nam. Bằng sự sẻ chia, bằng trái tim nghẹn ngào yêu mẹ,
68

cái tôi xúc động trước dấu ấn của đời mẹ gian lao: Móng thâm đen từ ngày cấy lúa/
Mùa gặt rồi sắc bùn ấy chưa phai. Khi viết về một người mẹ Gio Linh đang ngày
ngày lầm lũi với nỗi đau ê chề trong ngục đá, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường rơm
rớm: Bỗng xót xa thương mẹ vô ngần/ Con đâu hiểu những cơn đau của mẹ/ Khi
tỉnh dậy, ê chề trong ngục đá/ Mẹ chỉ quanh mình bầy quỷ đứng nhe răng/ Và một
lưỡi dao kè cổ lạnh như băng (Bàn tay trên trán).
Người mẹ tảo tần nhìn thấu tận đường xa trở thành nguồn cảm hứng dạt dào
của thi sĩ. Tình thương mẹ gửi cả vào những câu thơ viết về đời thường xen lẫn
nguồn cảm hứng dân tộc. Trên mỗi con đường hành quân, bóng mẹ trải dài. Đối với
thế hệ thơ thời chống Mỹ, tình mẹ có thể dệt thành vô vàn thi phẩm. Trở lại thơ Lưu
Quang Vũ, mẹ chính là hiện thân của những vẻ đẹp vĩnh cửu: Mọi giả dối quanh co
mọi tàn bạo hận thù/ Đều nát vụn trước mắt hiền của mẹ (Gửi mẹ). Cái tôi dằn vặt
khi tưởng nhớ về mẹ: Ngày ấy hay mơ lắm sắc biển xa/ Ta chưa biết trong ta có
sóng cồn giận dữ/ Quá vô tư đôi khi ta chẳng nhớ/ Những nếp đau xưa trên trán mẹ
già (Ngày ấy). Cái tôi thơ trẻ nặng lòng với những người mẹ chung, những bậc sinh
thành. Đặc biệt trong hoàn cảnh thường xuyên chứng kiến sự ra đi chưa kịp trăng
trối của đồng đội, tình máu mủ càng thường trực trong thế hệ cầm súng hơn bao giờ
hết. Những điều chưa kịp tâm sự, những nghĩa cử tri ân chưa có ngày bộc lộ luôn
day dứt người chiến sĩ. Với thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai, tình cảm mẹ
cha luôn là một ngăn đằm sâu thiêng liêng nhất. Thu Bồn khắc họa bức tranh nhẫn
nhịn, hi sinh của mẹ cha thật xúc động. Lời thơ không giấu nổi cái buồn của đói
nghèo, cay cực. Song chủ thể trữ tình lặng nghe trong lời ru của mẹ thuở xưa là
tiếng khóc của niềm đau: Tiếng mẹ khóc òa vào trong tiếng hát/ Cha vẫn ngoài trời
còng lưng nắng rát/ Vai kéo cày bụng thót chân teo/ Cái nắng đốt thiêu da thịt
người nghèo/ Như tấm cháy mẹ xin ăn từng bữa/ Đâu hạt cơm thơm và đâu vú sữa?/
Con lớn lên bằng củ chuối bẹ môn/ Tiếng hát đau làm dựng sóng Thu Bồn (Em hát
bằng lòng mẹ Việt Nam). Cái tôi mênh mang chìm lặn trong dư vị ngọt đắng của lời
ru. Đó là dư âm vọng về của đời mẹ ràn rụa nước mắt: Có phải một thời son trẻ/
Tiếng mẹ ru ngọt lịm cả nắng chiều/ Và gió bên đồng lại thổi hiu hiu/ Ru bé ngủ say
69

nồng trong tã lót/ Tiếng trong sao như con chim hót/ Bay giữa vòm trời xanh vợi
đến bao la/ Nước mắt nhỏ ròng trong mỗi tiếng ca. Còn đâu đó một khoảng lặng
trong cái tôi trĩu nặng tình mẹ: Ba mươi lăm năm chưa một phút sum vầy/ giờ con
bỗng nghĩ nhiều tới mẹ/ đến nỗi đau của phút giây sinh đẻ/ đêm sương mờ nước lã
người dưng/ mẹ sinh ra con cuối bể ven rừng/ ngón chân bé đã bấm vào đá sỏi/ đôi
môi đã chạm nhiều trận đói (Người gồng gánh phương Đông - Thu Bồn). Thời khai
hoa của những người mẹ trong chiến tranh là thời khốn khó chưa xa, là giây phút
gắng gượng thắt lòng thắt dạ; là thời của cái đói gặm nhấm những bào thai - nơi ấp
iu, che ủ những mầm sống đang quẫy đạp nôn nao được cất tiếng chào đời. Nỗi nhớ
mẹ hiển hiện trong tâm thức cái tôi có khi từ nhịp tim dội về của một thời êm dịu:
những nhịp giận dỗi/ thuở còn thơ mẹ bế bồng/ những nhịp ngoan hiền như gió
thoảng bờ sông/ căn nhà mình mẹ con cơm cá/ và con rùng mình những âm thanh
lạ/ xoay tròn trong mỗi thớ tim (Thưa mẹ, trái tim - Trần Quang Long).
Cái tôi trữ tình trong thiên chức làm mẹ của các nhà thơ nữ luôn dành một góc
đầy yêu thương để tâm tình với con thơ. Ngay trong lời thủ thỉ ru con vào giấc
nồng, lòng mẹ nặng trĩu hi sinh: Mẹ sẽ nhận phần bão táp/ Khi đạn bom thù chuyển
rung/ Cho con ngọt ngào êm mát/ Hai bầu sữa mẹ thơm trong (Nói chuyện với con
trước giấc ngủ - Lâm Thị Mỹ Dạ). Trái tim làm mẹ của người phụ nữ trong thơ
Xuân Quỳnh ngổn ngang tâm trạng. Tất cả đều là tiếng lòng thương con quay quắt
hòa trong tình yêu nước nồng nàn. Đi vào thế giới trẻ thơ khi đã mang thiên chức
làm mẹ, cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh nhuần chín trong lời ru của một người từng
bồng bế, hát ru, dỗ dành, nựng nịu các con thơ. Âm thanh hỗn loạn bắn phá của
những ngày đánh Mỹ không thể át được lời mẹ ru con. Giấc ngủ con thơ không hề
bị đánh thức trong lời ru yên ả ấy. Cái tôi xốn xang hạnh phúc: Hàng mi tơ vẫn khép
giấc ngon lành/ Con đâu biết máy bay thù gầm rít/ Con chỉ nghe lời mẹ quấn quýt/
Bom chuyển hầm con ngỡ tiếng nôi đưa (Lời ru). Thì ra tuổi thơ con là chuỗi ngày
liên miên bom thù gầm rít. Tuổi thơ con là chặng đường ròng rã sơ tán, là tháng
ngày khóc nhớ bầu sữa mẹ: Mười một tháng theo bà đi sơ tán/ Còn dại thơ con
chưa biết cách xa/ Nghĩ thương con cai sữa suốt đêm qua/ Vú mẹ căng con khóc
70

hoài không ngủ (Đưa con đi sơ tán). Cái tôi trong thiên chức làm mẹ chiếm phần
nhiều đời thơ Xuân Quỳnh. Những vần thơ cho con là một thế giới hiền hậu, ấm áp
với biểu hiện của cái tôi trữ tình trĩu nặng yêu thương.
Bên cạnh tình mẫu tử, các nhà thơ trẻ cũng dành cho người cha những dòng
thơ thắm đượm mối ràng rịt cha con. Những bước chân người cha hằn lên mặt đất
dáng hình khổ nhọc. Dấu chân cha là nhân chứng của vết tích chiến tranh đầm vào
hiện tại. Từ nguồn mĩ cảm như thế, Vương Trọng có Những dấu chân son: Dấu bàn
chân cha rộng dài/ Ngón cái choãi một đời chân đất/ Máu đã nhuộm, dấu chân
không thể mất/ Ghi những ngày Hà Nội mới khai sinh. Hay đến với Thu Bồn, người
đọc bắt gặp cái tôi quay quắt tìm kiếm trong mảng tường rêu phong ngày xưa nét vẽ
đan kết cuộc đời hai thế hệ. Dấu ấn của ngày xưa thương tích vẫn hằn lên mảng
tường của đời con, thấm buốt: Đạn quân thù bắn sập mảng tường xưa/ Mảng tường/
Con vẽ lên chỗ ngày xưa ba vẽ/ Giờ ba lại nơi đây/ Cỏ dưới tường xanh sửng sốt/
Vết rêu bị thương/ Để lộ màu gạch đỏ/ Thời gian xanh bên ngoài/ Máu vẫn rỏ bên
trong (Mảng tường - Thu Bồn). Vết thương chiến tranh xé đau qua những lời chất
vấn bật thốt lên từ cái tôi mang nỗi hận tạ từ: Cha ơi! Đứa nào đã cùm cha hai mươi
năm trong bóng tối/ Đứa nào bắt cha quỳ sám hối giữa trưa hè/ Bây giờ chúng nó
chạy đi đâu? (Vĩnh biệt). Thơ trẻ còn là tiếng lòng của người cha ban tặng cho các
con yêu. Trong không gian tù túng, giam cầm, tình yêu thương con càng ngập tràn
tâm thức những người cha trong lòng đô thị miền Nam. Đâu chỉ lời ru dịu ngọt, ấm
êm của người mẹ mới làm bạn đọc bao đời xốn xang. Trong thơ trẻ, lời cha ru con
qua song sắt nhà lao càng làm rung động thế giới tâm hồn độc giả. Trong lời ru giữa
không gian chia cắt ấy, có cả hạnh phúc - đắng cay, vỗ về - chia sẻ; có cả hứa hẹn -
đợi trông: Ngủ đi con giấc ngọt bùi/ Sữa khô đã có tình người chở che/ Ngủ đi con
giấc mải mê/ Trong mơ hẳn thấy cha về hôn con (Ru con - Trần Quang Long).
Cái tôi sử thi còn được biểu hiện sinh động trong mảnh đất thơ tình thời chiến.
Tình yêu là cây đàn muôn điệu không có tuổi, dẫu đó là tình yêu của thời bình hay
trong thời ngùn ngụt khói bom. Trong không khí cay xè bom đạn, tình yêu cũng
nhuốm sắc màu chiến tranh. Nỗi niềm riêng tư ấy theo người lính vào chiến trường,
71

đi vào đời sống tâm hồn của cả một thế hệ như những bản tình ca nhiều cung bậc
sâu kín nhất của đời sống nội cảm con người. Lớp thanh niên trai trẻ không chỉ
mang vào chiến trường tuổi trẻ, ước mơ, hoài bão mà họ còn mang cả những lời đổi
trao tình tứ của đôi lứa yêu nhau vào trong đạn lửa. Họ mang vào chiến trường nỗi
nhớ yêu đương đằm kín và chính vì lẽ đó, họ gửi lại quê nhà cũng một nỗi ngóng
trông da diết. Hiện thực nóng bỏng của chiến trường, chồng chất thăng trầm của
cuộc sống thấm vào những vần thơ tình. Các cây bút trẻ tự họa chân dung tình yêu,
mang đến cho thơ giai đoạn này thêm nhiều sắc diện mới. Đây hoàn toàn có thể
xem là một dạng thức biểu hiện của cái tôi sử thi trong thơ trẻ, ở đó là sự nén chặt
niềm riêng cho tình yêu nước cao cả.
Xuân Diệu từng gảy những bản tình ca của một thời yêu mê đắm. Luôn thấy
thiếu, luôn thấy còn khoảng cách, luôn vội vàng… là cảm thức thành thực của cái
tôi luôn thu mình vào chiếc ốc đảo chơi vơi, cô độc. Đó là bản sắc tình yêu của thời
đại mà nói như Hoài Thanh, cái tôi “càng đi sâu càng lạnh”. Những mối tình của
một thời quay quắt kiếm tìm ấy rồi cũng thuộc về quá vãng và đến thời của cái tôi
thơ tình 1965 - 1975, mang một diện mạo mới của thơ tình chiến tranh, với biểu
hiện xuyên thấm là cái tôi xốn xang trong hạnh phúc riêng - chung. Cái tôi trữ tình
mang dấu ấn thời đại, bởi vậy tình yêu trong cảm xúc và điểm nhìn của chủ thể trữ
tình cũng chịu sự chi phối của yếu tố lịch sử, thời đại. Đứng trước sự mất - còn của
dân tộc, tình yêu được quan niệm trong một chiều sâu nhận thức. Đành rằng khoảng
trời riêng tư của con người phần nhiều là tiếng thôi thúc của trái tim, song tình yêu
trong các nhà thơ trẻ bấy giờ còn gắn với những ngẫm suy sâu sắc.
Từ trong nền thơ ca cách mạng, tình yêu dường như là mảnh đất chưa bao giờ
bị bỏ trống. Mỗi thời ứng với một tiếng thơ tình mang bản sắc riêng. Câu chuyện
Màu tím hoa sim đẫm tiếc thương, hẫng hụt từng để lại trong vườn thơ tình cách
mạng những cánh hoa tình yêu thấm thía buồn. Cái tôi đau đớn đến tột cùng trước
bi kịch đời tư. Chỉ còn lại trong thực tại là ngăn kí ức đẹp của những ngày chồng
vợ: Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím/ Áo nàng màu tím hoa sim/ Ngày xưa/ Một
mình/ Đèn khuya/ Bóng nhỏ/ Nàng vá cho chồng tấm áo/ Ngày xưa… Cái tôi trữ
72

tình - cái tôi tác giả không nén được đau đớn trước cái chết không lời tạ từ. Dẫu
đẫm nước mắt, dẫu bàng bạc một giọng thơ buồn não bi lụy song đó lại là tiếng lòng
bật thốt thành thật của cái tôi trữ tình, là nguồn cảm xúc của chính người trong
cuộc. Còn Núi đôi lại là câu chuyện tình yêu ở một góc nhìn khác trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Hình ảnh núi đôi ám ảnh, gợi nhớ đến thắt lòng: Anh ngước nhìn
lên hai dốc núi/ Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng
khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em. Nếu chỉ dừng lại ở đây, bài thơ của Vũ Cao lại
thêm vào khoảng thơ tình cách mạng một nỗi buồn bi lụy. Cái chết của người con
gái là mất mát nhưng sự hi sinh là cao đẹp, là khúc bi tráng. Là bản tình ca buồn
nhưng cũng là bản tình ca vượt lên nỗi đau buồn: Anh đi bộ đội sao trên mũ/ Mãi
mãi là sao sáng dẫn đường/ Em mãi là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh
hoa thơm. Cần thấy rằng từ những cuộc chia li trong các chặng thơ trước đến cuộc
chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ là một bước dài chuyển đổi tư duy nghệ thuật. Cả
không gian cuộc tiễn đưa nhuốm màu của yêu tin, màu của sự trở về. Dường như
mọi nỗi riêng tư đều khuất sau cái tôi đầy hứa hẹn ấy. Đến những giọt nước mắt
cũng trải hiện song không thấy ủy mị, đớn đau. Đó là sự dồn nén cảm xúc của cái
tôi trữ tình. Chỉ thấy bao trùm không gian tiễn đưa là yêu tin, nhắn nhủ: Vườn cây
xanh và chiếc nón trắng kia/ Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy/ Không che được
nước mắt cô đã chảy/ Những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời/ Chảy bình minh
đang hé giữa làn môi/ Và rạng đông đang bừng trên nét mặt.
Với mối quan hệ ẩn nhường của cái tôi tình yêu riêng tư trong lời tự hát chung
của thời đại, thơ trẻ 1965 - 1975 tạo dựng được những quan niệm sâu sắc về tình
yêu, dưới điểm nhìn sử thi. Tuổi trẻ thời chống Mỹ thấm thía quan niệm về hạnh
phúc của Dương Hương Ly. Có thể xem đó là bài thơ cảm động tột cùng về hạnh
phúc của con người thời chiến. Không phải là một quan niệm suông, cũng không
phải là lập ngôn đầy chất chính luận. Bài thơ hạnh phúc của Dương Hương Ly là
triết lí thấm thía về hạnh phúc, về lẽ sống từ chính nỗi đau tưởng chừng làm con
người quỵ ngã. Cái tôi trữ tình chính là hồn phách nhà thơ. Quan niệm của tác giả
về hạnh phúc cũng bởi thế có sức lay động mãnh liệt một thời.
73

Nỗi đau mất người bạn đời vĩnh viễn hằn lên cuộc đời anh vết thương buốt
xát. Cái tôi tưởng chừng chông chênh trước thực tại nghiệt ngã:
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những vết đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc
vậy mà trải dọc suốt bài thơ, người đọc như dần dần đi vào một phía khác của sự
mất mát. Cái tôi có xu hướng quay về quá khứ, bắt gặp trong ngăn kỉ niệm của
người bạn đời ăm ắp quan niệm thấm thía, đằm sâu về hạnh phúc. Những điều em
định viết, những điều em đã viết trên trang giấy nhỏ mưa chan; những bối rối sững
sờ về sự ra đi giản dị hiến mình… đều được gọi thành tên - hạnh phúc. Càng ngược
dòng quá khứ, người nghệ sĩ càng đưa người đọc đến với quan niệm giản dị đến bất
ngờ về hạnh phúc: Trong một góc vườn cháy khét lửa napan/ Em sửng sốt gặp một
nhành hoa cúc/ Và em gọi đó là hạnh phúc… Từ mất mát riêng tư, con người đã có
một hạnh phúc thật cụ thể. Là những ngày được sống và chiến đấu, là được sẻ chia
cùng đồng bào những buồn vui chiến trận, là lòng ngưỡng mộ những anh hùng giữa
đạn réo bom gào, là niềm vui giản dị được nhìn thấy cái đẹp giữa không gian tưởng
không còn sự nảy nở… Cái tôi nghiệm ra cái giá của hạnh phúc, để dằn lại nỗi đau
xé lòng. Nỗi đau riêng dường như lắng xuống, bởi trên hết, chủ thể đã tìm thấy
điểm tựa tinh thần. Hi sinh cho Tổ quốc là niềm hạnh phúc thiêng liêng.
Tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu Tổ quốc, đây là đặc điểm phổ biến của thơ
tình thời chống Mỹ và cũng là quan niệm nghệ thuật phổ biến của thế hệ thơ trẻ, là
biểu hiện cụ thể của cái tôi xốn xang trong hạnh phúc riêng - chung. Trong góc
riêng tư, dường như bao giờ cũng có chỗ dành cho Tổ quốc. Gần như ngòi bút thơ
trẻ cách mạng ít khi trao cho tình yêu một mảnh đất trọn vẹn. Cái tưởng rất riêng ấy
hướng về cái chung như thể tình yêu đôi lứa nhờ thế mà đẹp hơn, thiêng liêng hơn:
Trước tất cả những gì ta sống/ Trước một bầu trời gương xanh lồng lộng/ Soi cơn
74

mơ của anh và em/ Của triệu người giao kết một niềm tin (Tình yêu và báo động -
Bằng Việt). Khởi từ quan niệm tình yêu như thế, thơ trẻ hướng về một tình yêu lí
tưởng. Cái tôi trữ tình hân hoan khi chủ thể nhận ra tình yêu như một sự nhiệm
màu, làm hồi sinh sự sống. Ngày mai của dân tộc, ngày đoàn viên là ước mơ rát
bỏng của những người trẻ tuổi. Trong tình yêu đã có dự báo ngọt lành: Nhưng anh
đã gặp em, yêu em giữa thời rung chuyển ấy/ Rồi mọi thứ sẽ cùng ta sống dậy/ Nhà
cửa lúa khoai, hoa trái, ruộng đồng/ Tiếng hát ru đưa nôi, đám mây lành ngũ sắc/
Ngói mới lợp trên đầu, cầu mới bắt qua sông (Những đoạn thơ tình giữa hai cuộc
chiến tranh phá hoại). Có những cuộc hò hẹn trong trẻo nơi chiến trường. Không
một không gian thơ mộng cho những lời tình tứ. Cái tôi tự hào lấy những xóm làng
máu đổ, những chiến hào đào giữa hờn căm… làm điểm hẹn. Cái tôi vượt lên nỗi
đau ám ảnh tang thương: Lạ lùng sao ta nắm tay nhau vào cuộc chiến đấu này/ Như
đi vào hạnh phúc/ Ta nắm tay nhau bao lần vượt qua cái chết/ Cái chết cúi đầu/
Tình yêu cất lời ca (Bài thơ tình yêu - Dương Hương Ly).
Lưu Quang Vũ bình yên bên tình yêu đầu đời. Cái tôi thổ lộ yêu thương bằng
lời tự tình trong sáng: Trong thành phố có một vườn cây mát/ Trong triệu người có
em của ta/ Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật/ Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra
(Vườn trong phố). Cái tôi trữ tình thật sự hòa trong cái ta. Nhưng ẩn sâu trong ta
vẫn là một cái tôi yêu thương mãnh liệt. Nghe trong câu thơ niềm kiêu hãnh của
một trái tim yêu. Có khi tình cảm lứa đôi trở thành hành trang bồi thêm sức mạnh
cho người chiến sĩ dốc lòng ra trận, phảng phất trong ý tứ tình hậu phương dịu dàng
mà bền bỉ: Vườn không níu được bước chân trở lại/ Nhưng lá còn che mát suốt
đường anh. Cái tôi nhà thơ ở các sáng tác đầu tiên là cái tôi đằm thắm, chưa va
chạm và ít trở trăn. Con người hân hoan đặt hạnh phúc riêng mình vào tiếng ca
chung: Em góp cả phần ngõ nhỏ của đôi ta/ Vào đường lớn trăm người đi tấp nập
(Những con đường). Và trong cái tưởng rất riêng, vẫn chứa đựng cảm xúc về quê
hương: Bàn tay em sáng bừng bông huệ trắng/ Ôi bàn tay cầm súng/ Bàn tay thơm
phù sa… (Chưa bao giờ). Màu sắc yêu tin giăng đầy những sáng tác đầu tiên của
Lưu Quang Vũ, thể hiện cái tôi mang trên vai khát vọng được hát khúc quân hành
75

cả nước ngân vang. Ngay ở vần thơ tình tứ trong chừng mực, chân thành, người
nghệ sĩ cũng bộc lộ tiếng nói của cái tôi trữ tình thấu đượm được những điều rất
“con người”: Trao cảm thương hai bàn tay nắm chặt/ Nghe máu mẹ cha chuyển
giữa mỗi tay mình (Hơi ấm bàn tay).
Trong thời chiến, sự tìm kiếm cũng là một biểu hiện đẹp của những mối tình
vừa nhen. Họ khao khát tìm thấy nhau, để giữ lại chút thanh thản giữa cuộc chiến
tranh sặc mùi thuốc súng: Anh đã tìm em, rất lâu, rất lâu/ Cô gái ở Thạch Kim
Thạch Nhọn/ Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm/ Sách giấy mở tung trắng cả
rừng chiều (Gửi em, cô thanh niên xung phong - Phạm Tiến Duật). Con đường tình
yêu của thời chiến có khi là khoảng cách thăm thẳm. Người ta trao nhau lời yêu
trong cái không gian bên nắng đốt, bên mưa quay khắc nghiệt ấy. Và niềm riêng,
nỗi nhớ đã không còn vướng bận. Phạm Tiến Duật lại mang cái nhìn dí dỏm vào
những vần thơ tình. Chính ngòi bút hóm hỉnh, tinh nghịch của tác giả đã làm nên
một cách nghĩ về tình yêu rất lạ: Anh lên xe trời đổ cơn mưa/ Cái gạt nước xua đi
nỗi nhớ/ Anh xuống núi nắng về rực rỡ/ Cái nhành cây gạt mối riêng tư (Trường
Sơn đông, Trường Sơn tây). Ẩn trong lăng kính nhà thơ là một chiều sâu cảm xúc.
Tìm quên vào trong cái gạt nước, cái nhành cây bâng quơ ấy là cả một sự lựa chọn
nghệ thuật tinh tế của Phạm Tiến Duật, theo cách Phạm Tiến Duật. Đó là chỗ dựa
để người lính Trường Sơn vượt lên chính mình, mang theo tình yêu trên khắp nẻo
đường chiến đấu. Để khoảng cách giữa hai người yêu nhau không còn vời vợi. Cái
tôi trữ tình trong thơ tình yêu thời chống Mỹ ý thức phía trước của dân tộc là những
ngày chiến thắng. Khoảng thời gian của riêng tư, khoảng thời gian lẽ ra dành cho
những bận bịu tình tứ lại không thể là cõi riêng: Mười phút cho chung hay mười
phút cho riêng/ Mà lúc nhớ nhau lại nghĩ về đất nước/ Ngày thắng giặc đang tới
gần phía trước/ Tình yêu nào không nhắc đến ngày mai (Một giờ và mười phút).
Dường như vắng hẳn tiếng khóc than. Chỉ còn lại khoảng hạnh phúc đang đón đợi:
Em không kể gì nỗi vất vả đã qua
Chỉ niềm vui kia chẳng thể nào giấu
nổi Anh đi xuyên rừng và tóc anh gió
thổi
76

Hạnh phúc ở đằng kia, phía trước rất gần thôi


(Một đoạn thư riêng)
Dù gặp bao gian khổ, chông gai trên chặng đường chiến đấu, người lính vẫn
mang theo bóng hình của người yêu như mang theo niềm tin vào ngày mai chiến
thắng. Cái lí riêng của tình yêu thời chiến là sức mạnh kéo con người lại gần với
yêu tin. Bắt gặp rất nhiều trong thế giới thơ tình những giọng thơ lạc quan. Cái tôi
tình yêu thực sự quyện hòa trong tình cảm lớn: Anh mang em suốt dặm đường xa
lắc/ Như mang trong tim ngôi sao phương Bắc/ Mang niềm tin ngày thống nhất mai
sau/ Dù lửa bom đang dội trên đầu (Về đi em - Lê Anh Xuân). Chủ thể nén lòng khi
đặt tình yêu đằng sau tiếng gọi Tổ quốc. Cái tôi thành thật giãi bày một sự lựa chọn
thiêng liêng. Trong thơ trẻ, cái tôi ắp niềm tin của đôi lứa yêu nhau thường được kết
nối từ những ý nghĩ thiêng liêng như thế: Em có tin không nếu anh nói thật/ ngoài
mẹ hiền ra anh yêu em nhất/ nên không chối từ mà anh phải ra đi/ vì trên tất cả còn
bà mẹ Việt Nam mà ta gọi là Tổ quốc/ Đang cần anh rửa mối hận trăm năm (Mơ
ước đã gần - Nhã Thảo). Trong cái tôi ẩn nhường riêng chung, nẻo đường hoa
mộng của tình yêu lại chính là con đường đầy rẫy vết tích chiến tranh tàn phá: con
mắt em qua đau thương càng sắc hơn nhiều/ ôi những con đường mòn xưa dẫn đến
tình yêu/ giờ cỏ mọc găm đầy mảnh đạn/ những trái mìn chưa nổ vẫn nằm im/ tôi
đến với em bằng con đường đánh giặc (Chim vàng chốt lửa - Thu Bồn). Giữa một
không gian giam cầm, giữa bờ vực của cái chết, hạnh phúc vẫn thăng hoa. Được ở
cạnh nhau trong giờ phút cuối của cuộc đời người tử tù, hạnh phúc càng run rẩy. Lê
Anh Xuân tái hiện câu chuyện tình cảm động của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, song
ta vẫn đọc được trong hồn thơ sự chia sẻ gan ruột của cái tôi thấu hiểu giá trị thời
khắc tận hưởng hạnh phúc ngắn ngủi này: Khóc vì sướng, khóc vì vui/ Khóc vì hạnh
phúc được ngồi bên Anh/ Gặp nhau giây phút mong manh/ Ai ngờ đẹp nhất mối tình
giờ đây/ Bốn bên cái chết bủa vây/ Chẳng cây, chẳng lá, chẳng mây, chẳng trời/
Mà thơm hơn cả hoa tươi/ Mà xanh hơn cả da trời mùa thu/ Tình yêu vào khám tử
hình/ Dẫu song sắt cũng trổ cành đơm hoa (Nguyễn Văn Trỗi). Tình yêu lí tưởng là
động lực để con người vượt qua những xa cách, những tâm tư trĩu nặng của thời
77

chiến. Mọi vướng víu riêng tư càng bé nhỏ giữa hạnh phúc lớn của đời người: Hà
Nội cười trên xác tàu bay Mỹ/ Hạnh phúc lớn là những ngày như thế/ Ta xa nhau,
không bận ngắm đời riêng/ Vẫn không ngờ tình yêu lớn lên (Thư Hà Nội - Phan Thị
Thanh Nhàn). Những cuộc chia tay trong thế giới thơ Ý Nhi giai đoạn này cũng
vậy, ở đó cái tôi sử thi bình thản đến lạ trước thời khắc chia xa: Hôm anh lên
đường/ Chúng tôi nhìn nhau và mỉm cười lặng lẽ/ hình như ở đây cuộc chia tay nào
cũng thế/ có điều gì hơn để nói cùng nhau/ Khi thành phố đã qua những gian lao/
của ngày đánh giặc/ Khi ta nhìn bạn bè qua từng khuôn mặt/ thấy rộn lòng bao nỗi
tin yêu (Thành phố thân yêu). Dẫu có lúc người đọc nghẹn ngào trước kiềm nén tột
cùng của cái tôi thương nhớ: Phút chia tay em nhìn anh xao xuyến/ Dù không nói
nên lời/ Em vẫn thấy mình kiêu hãnh/ Vì có anh ra tận tuyến đầu (Nhớ - Hoàng Thị
Minh Khanh).
Tình yêu riêng tư của con người hòa trong tình yêu Tổ quốc là quan niệm nghệ
thuật của thơ kháng chiến, một lần nữa được khẳng định trong thơ trẻ 1965 - 1975
dưới nhiều góc cạnh sinh động của cái tôi trữ tình. Cái tôi xốn xang ẩn mình trong
hạnh phúc riêng - chung còn là sự nhẫn nhịn, chịu đựng, kiềm nén… Cái tôi đa
mang của người phụ nữ thường chiêm nghiệm về những được - mất trong tình yêu.
Ai cũng cần một nơi để tựa vào trong cảm giác bình yên, vậy mà có thời khắc trái
tim người phụ nữ rắn lại trong nhẫn nhịn, hi sinh. Bởi họ cảm nhận được ở ngoài
kia tiền tuyến, cũng là phút giây đang gắng gượng:
Em sẽ sinh con lúc vắng mặt anh
Khi miệng chiến hào lửa táp ngụy trang xanh
Tiếng con khóc đầu tiên với anh thành tiếng gọi
Và lời ru em, hơn tầm pháo dội
Đốt tim anh lúc xáp mặt quân thù
(Nếu phải trả giá đắt về hạnh phúc - Thúy Bắc)
Mang nặng trách nhiệm của thế hệ, người lính trẻ không cho phép mình đòi
hỏi quá nhiều ở tình yêu. Với họ, tình yêu có những lí lẽ thật giản dị. Đó là cái lí
của trái tim yêu biết đặt tình riêng trong tình cảm dân tộc. Tổ quốc đang chờ họ và
78

rất cần họ. Tình yêu trở thành sức mạnh, là nơi nương náu tinh thần của cái tôi trữ
tình. Chỉ cần một lá thư, hạnh phúc dường như đã là tròn trặn: Những ngày xa…
những ngày xa em ơi!/ Nơi mặt trận lòng anh thanh thản nhất/ Chỉ cần nhận một lá
thư em viết/ Anh cũng vui như hạnh phúc đủ đầy (Những ngày gần những ngày xa -
Nguyễn Đức Mậu).
Quan niệm cao cả về tình yêu giữa thời đạn lửa gắn với cái nhìn lạc quan. Cái
tôi chấp nhận sự ẩn nhường như một lí lẽ riêng của tình yêu thời chiến - niềm tin
của ngày quay lại, trở về. Tưởng không còn bi kịch chiến tranh, không còn những
cái chết tháng ngày vây bủa. Hiện thực chiến tranh chẳng còn khốc liệt nữa, con
đường hành quân dường như ngắn lại khi trong em là tên anh đã hằn sâu vào tâm
thức: Hành quân qua suối đèo/ Em chẳng tính đường bằng cây số/ Mà tính lần em
nhắc tên anh/ Đường Trường Sơn đi xa mãi hóa gần (Em nhắc tên anh - Trần Thị
Thắng). Chiến tranh cuốn con người vào chiến trường. Mỗi một cuộc đời, một số
phận khác nhau, nhưng họ đã đi vào gian khổ trong một ý hướng chung, cách nhìn
chung mang tầm suy nghĩ của cả một thế hệ. Vì vậy thế giới thơ tình của các nhà
thơ trẻ cũng nhiều gặp gỡ, dẫu mỗi giọng thơ là một bản sắc cảm xúc riêng. Cái tàn
khốc của chiến tranh không còn đáng sợ nữa. Họ lấy tình yêu làm nơi trở về bình
yên của tâm hồn. Với họ, tình yêu mạnh hơn cái chết. Khoảng cách thực tại càng
làm con người nghĩ về nhau, và cùng hướng về những ngẫm suy đồng điệu: Dẫu
chúng mình có ngày tháng cách chia/ dẫu chúng mình xa nhau ngàn dặm dài đất
nước/ em biết giữa Hà Nội đêm nay anh thức/ anh nghĩ những điều cũng giống như
em (Mặt trời tháng tư - Ý Nhi). Thức dậy trong trái tim yêu là niềm tin của ngày trở
về, của ngày gặp mặt. Cái tôi kiêu hãnh khi nhận ra tình yêu làm cuộc đời như trẻ
lại: Để sau mọi điều em lại gặp chính anh/ trong tình yêu cuộc đời trẻ trung, chân
thật/ anh là nụ cười lần gặp mặt/ là ánh mắt tự tin những lúc khó khăn/ Có cả cuộc
đời, em lại có riêng anh (Đi qua cuộc đời chúng mình - Ý Nhi).
Trong thơ “viết trên đường tranh đấu” thành thị miền Nam cũng không vắng
cái tôi tình yêu mang lí tưởng thời đại. Bài thơ của một người yêu nước mình của
Trần Vàng Sao gói vào đó một tình yêu lứa đôi rạng ngời lí tưởng. Mối tình thuần
79

khiết của con người được rọi chiếu dưới tình yêu nước nồng nàn. Cảm thức hoài
niệm của cái tôi trữ tình ẩn trong kí ức đầy ắp về đất nước: Tôi yêu đất nước này và
tôi yêu em/ Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò/ Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ/
Trong bước chân chim sẻ/ Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi/ Cho bên này không gọi
bên kia là người miền Bắc. Tình yêu không còn là thế giới riêng tư mà đã là nơi gửi
gắm mong mỏi sâu xa dành cho đất nước thân yêu. Cái tôi trữ tình còn là thân phận
tình yêu ẩn nhường trong số phận dân tộc với những lời yêu đầy đức tin, như những
Bài Thánh Ca Im Lặng: Có phải không Tố Chân?/ Lời yêu nhau đầu tiên là nước
mắt/ Lời tin nhau dài lâu là sự thật/ Trong suốt hồn ta/ Như một bài hoan ca/ Của
đàn họa mi ngập ngừng buổi sớm (Tố Chân - Trần Quang Long).
Trong cảm quan sử thi, cái tôi trữ tình thơ trẻ trải mình trên nhiều bình diện.
Trong đó, ý thức đặt chủ thể vào trong mối quan hệ riêng - chung, tạo nên tâm thế
ẩn nhường trong mối quan hệ thống nhất là sự tiếp nối hình tượng cái tôi của giai
đoạn thơ trước đó theo quy luật vận động và phát triển của cái tôi trữ tình. Chính
đặc trưng cơ bản của tư duy thơ giai đoạn này là hướng về vận mệnh dân tộc đã
mang lại ý thức xác lập vị thế của cái tôi hòa trong cái ta ở thế giới thơ trẻ. Có thể
xem đây là hệ quả của một sự “lựa chọn” tất yếu của chủ thể trữ tình, thể hiện quan
niệm nghệ thuật thời đại 1965 - 1975.

2.2. Cái tôi sử thi biến thể


Điểm nhìn của các nhà thơ trẻ không chỉ tập trung vào sự ngưỡng vọng về dân
tộc hay chỉ là sự ngợi ca về vẻ đẹp con người thời chiến mà còn dừng lại ở chân
dung tự họa của thế hệ. Cũng xuất phát từ nguồn cảm hứng sử thi, cũng ý thức sâu
sắc về trách nhiệm của thế hệ đối với vận mệnh Tổ quốc, song phải thấy rằng đến
thơ trẻ, tư duy nghệ thuật đã thiên về hướng nội. Đó là tự thức trong những quan
niệm nghệ thuật về thơ; là sự tự phân tích, tự biểu hiện, suy ngẫm về sứ mệnh của
thế hệ hay nói khác là cái tôi sử thi trở nên sâu lắng hơn trong tiếng nói đã bớt đi
phần “ồn ào, náo nhiệt”. Đây là một dạng thức phái sinh cái tôi sử thi - cái tôi sử thi
biến thể của thơ trẻ 1965 - 1975.
80

Cuộc chiến đấu khắc nghiệt hơn, yêu cầu của cuộc sống và thơ ca đặt người
nghệ sĩ trước nhiều thách thức. Vì thế họ đến với thơ ca trong quan niệm mới: Càng
yêu thương càng không vừa ý với mọi điều/ Đã qua cái thời nhà thơ nhìn đời bằng
con mắt trong veo (Lưu Quang Vũ). Theo đó là những trăn trở sâu sắc về vị thế của
đồng đội, của thế hệ. Nhu cầu tự thể hiện mình, nhu cầu tự khám phá chân dung
tinh thần của thế hệ là nhu cầu sống còn của lớp nhà thơ trẻ. Họ lớn lên từ hiện thực
máu và súng, họ trưởng thành khi mộng đẹp quê hương lại một lần tan vỡ (Trần
Quang Long). Bởi thế cái tôi trữ tình chủ yếu trong thơ trẻ thời kháng chiến chống
Mỹ là cái tôi trải mình chân thật. Cái tôi sử thi biến thể - có thể xem là một dạng
thức nổi bật, khẳng định bản sắc riêng của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.

2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm thơ

Cái tôi sử thi biến thể của thơ trẻ biểu hiện trước hết ở những quan niệm nghệ
thuật về thơ. Những nhà thơ lớp trước vốn giàu trải nghiệm như Tố Hữu, Chế Lan
Viên, Nguyễn Đình Thi…, khi đứng trước yêu cầu mới của lịch sử cũng tìm đến với
quan niệm nghệ thuật mới. Họ tìm cách từ bỏ quan niệm cũ của một thời, dẫu con
đường tự vượt mình cũng tròng trành, cản trở. Nhưng gạt đi vướng vít của con
người cũ còn sót lại, vượt qua nhiều trở lực, họ đã có những tuyên ngôn nghệ thuật
thể hiện quan niệm mới về thơ ca. Chế Lan Viên, nhà thơ từng sở hữu thế giới Điêu
tàn đã nghiệm ra: Nửa nước hòa bình/ Nửa nước chiến tranh/ Máu thấm vào lòng
đất đã sâu/ Sao trang giấy lòng anh nghĩ cạn. Đây đâu chỉ là lời than phiền cho
chính mình, cho những người cầm bút mà còn là sự thức tỉnh của một ngòi bút ý
thức sâu sắc được mối dây liên hệ mật thiết giữa thơ và thực tại. Với Chế Lan Viên,
thơ ca phải có ích cho cuộc đời là một tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc. Đến lượt
mình, lớp trẻ lại ý thức sâu sắc mạch kết nối giữa sáng tạo nghệ thuật và chất liệu
mặn mà của đời sống. Là người trong cuộc, họ nhận ra mối quan hệ máu thịt giữa
thơ và đời, giữa khẩu súng và cây bút, giữa hiện thực chiến trường nghiệt ngã và
yêu cầu khắc nghiệt của thơ. Cái tôi thơ trẻ tự thức về trách nhiệm của người cầm
bút, trong quan niệm về thơ.
81

Như lời phát ngôn trực tiếp của cả một thế hệ làm thơ, Hữu Thỉnh giãi bày:
Không có sách chúng tôi làm ra sách/ Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình. Có
thể xem Đường tới thành phố của tác giả là con đường đích thực của thơ được nung
nấu ngay từ trong những ngày lửa đạn. Không khuôn mình vào cái nhìn hoành
tráng, chiêm ngưỡng như trong quan niệm của các nhà thơ lớp trước, là một nhà thơ
trẻ ý thức về số phận của mình và đồng đội, tác giả tha thiết bộc bạch: Đừng viết về
chúng tôi như cốc chén trên bàn/ Xin hãy viết như dòng sông chảy xiết. Đó là khát
vọng thành thực của cái tôi muốn in lại dấu ấn của thế hệ mình với sự dấn thân vào
chiến trường không ngớt tiếng đau thương. Với quan niệm thơ phải là sự nhào nặn
của máu thịt cuộc đời, thơ trẻ có sự lựa chọn nghệ thuật tất yếu của thời đại. Đây
cũng là con đường tất yếu từ sự thôi thúc bên trong hồn thơ của một người từng đối
diện với những gương mặt hằn lên đau khổ trong chiến tranh. Những nhà thơ cùng
thời với Hữu Thỉnh không chỉ nhìn chiến tranh ở một phía. Chủ thể nhìn thấu vào
sự thật chiến tranh, ở đó có rác rưởi và mộ người, có những tiếng cười xen vào
tiếng nấc (Hoàng Nhuận Cầm), có cả thân xác ê chề, lê lết từng đêm (Trần Quang
Long). Ở Phạm Ngọc Cảnh, thơ là sinh hoạt đời thường dung dị, là thực tại bừng
sức sống, là hứa hẹn, chờ trông: Có trong thơ những công trường mới dựng/ Có
trong thơ bếp lửa ấm cơm chiều/ Cây gạo ngoài sông ráng trời đỏ lựng/ Có cuộc
đời đầy ước vọng tin yêu (Cho được mỗi vần thơ).
Có không ít nhà thơ gần như không hình thành quan niệm về thơ bằng thơ,
song chính sáng tác của họ lại là sự thể hiện ý thức về nghệ thuật đáng trân trọng.
Đời thơ Nguyễn Đức Mậu trải dài trên đời lính. Gần như chưa từng lập ngôn về
nghệ thuật thơ ca song thơ Nguyễn Đức Mậu là ngọn lửa nhen nhóm lòng yêu nước
cho thế hệ trẻ, là lời khích lệ tuổi trẻ dấn thân lên đường. Nhà thơ nặng lòng với
điệu dân ca, áo ngụy trang, với cành ổi chìa tay dắt người lên dốc. Cùng đi trên con
đường Trường Sơn, Phạm Tiến Duật cũng như nhiều nhà thơ trẻ khác đã lấy hiện
thực chiến trường nhào nặn nên chất liệu của ngòi bút. Người đọc tìm thấy trong thế
giới nghệ thuật người nghệ sĩ của huyền thoại Trường Sơn ấy tuổi trẻ chống Mỹ với
những con người rất đời, những tình huống rất đời và cả những điều tưởng chỉ có
82

thể ở ngoài thơ. Hiện thực ngồn ngộn, thậm chí những chi tiết thật đến khó tưởng
trở thành hình tượng thơ lại rất thơ trong dòng thác thơ Phạm Tiến Duật. Không
trang bị cho mình một tuyên ngôn nghệ thuật nào rõ rệt nhưng tự thân tác phẩm của
người nghệ sĩ với chất bề bộn của cuộc sống lại là những quan niệm sống về thơ.
Dường như nếu vắng đi khí hậu nóng bỏng của thời sự, thiếu cái rộn ràng của cuộc
sống thì không thể có thơ Phạm Tiến Duật, vốn được xem là “mối tình đầu” của thơ
thời chống Mỹ.
Có một thời người ta hoàn toàn tin vào những điều tốt đẹp, hầu như chỉ có
trong sách vở. Có một thời con người sống bằng hứa hẹn, bằng niềm tin xa vợi.
Thời đó đã qua, chỉ còn lại là cuộc đời đối mặt với từng ngày lo toan, từng ngày chỉ
thấy máu và nước mắt. Lưu Quang Vũ đi trên chặng đường thơ, từ những quan
niệm sống đủ đầy như thế: Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp/ Bằng áp
phích trên tường bằng những lời đanh thép/ Phải mang cho mọi người áo đẹp cơm
ăn/ Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh/ Những bàn tay dám làm những tấm lòng
dám thật/ Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp/ Đến nay thành không đủ
nữa rồi (Viết lại một bài thơ Hà Nội). Với cảm nhận sắc sảo về thế giới và con
người, nhà thơ lật trở nhiều vấn đề của cuộc sống. Lưu Quang Vũ hình thành một số
quan niệm về thơ. Dẫu đó chỉ là phần khiêm nhường trong sáng tác nhưng lại là
những suy tưởng sâu sắc về nghề. Có thể thấy quan niệm nghệ thuật và thực tiễn
sáng tác ở Lưu Quang Vũ là một thể thống nhất. Người nghệ sĩ ấy luôn nhắc nhủ
mình sống thật trách nhiệm với nghiệp văn chương: Ta đã làm gì? như lũ viết thuê/
Chạy theo những biển hàng ngắn ngủi/ Những khuôn phép những trang in những
hư danh một buổi/ Ta nịnh người để người lại khinh ta. Chính phẩm chất này ở Lưu
Quang Vũ đã mang đến cho độc giả những vần thơ thấm đẫm tình người. Quả thật
nhà thơ nâng cảm nhận lên thành suy tưởng, chân thành mà sâu sắc: Càng thương
yêu càng không vừa ý với mọi điều/ Đã qua cái thời nhà thơ nhìn đời bằng con mắt
trong veo (Nói với mình và các bạn). Dẫu đương thời, thơ Lưu Quang Vũ được
đánh giá là lạc điệu trong âm hưởng chung của thời đại, song tận sâu hồn thơ ấy là
những dằn vặt, trăn trở cho vận mệnh đất nước, vận mệnh thơ ca. Và cũng khởi đi
83

từ quan niệm thơ rất thật như thế, sáng tác của Lưu Quang Vũ dẫu có lúc tưởng lặn
chìm trong đổ vỡ, trong chuỗi bất tận những bi kịch riêng tư đổ nát nhưng cuối
cùng, cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật ấy vẫn đến được thềm cao của niềm
tin, vẫn lấy lại niềm tin yêu từ trong cõi sống: Cuộc đời đã đi qua những ngày đông
xám ngắt/ Sẽ trẻ lại con sóng già đầu bạc/ Sẽ quây quần mọi gió dại đảo hoang/ Sẽ
có ước mơ và những quả dưa vàng (Viết cho em từ cửa biển).
Nhìn lại nghiêm túc ngòi bút của mình cũng là một cách chiêm nghiệm về
nghề đáng trân trọng của các nhà thơ trẻ. Anh Ngọc từng dằn vặt, ân hận về những
trang viết hời hợt một thời. Lời thơ thực sự là sự kiểm nghiệm của cái tôi muốn
vượt lên mình: Tôi không bao giờ tha thứ cho mình/ Đã có lúc viết vần thơ dễ dãi/
Những câu thơ nằm biếng lười uể oải/ Trên chiếc giường của trang giấy trắng tinh
(Không bao giờ). Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 không thiếu những thể nghiệm, cốt
mang lại cho thơ ngọn nguồn cảm xúc mới trong những hình thức biểu hiện tìm tòi.
Riêng Nguyễn Duy lại tâm niệm với một cách làm mới mình rất riêng, đủ sức đánh
thức tiềm lực, không ở đâu ngoài hơi hướng dân gian: Nghìn năm trên dải đất này/
Cũ sao được cánh cò bay la đà/ Cũ sao được sắc mây xa/ Cũ sao được khúc dân ca
quê mình (Khúc dân ca). Nhà thơ nâng niu hình ảnh thân thuộc của vườn cau, cánh
cò, hương lúa, khúc dân ca… Chủ thể trữ tình đắm mình trong dư vị cuộc sống dân
gian. Chính cái ngọt lành của hương vị dân gian đó phả vào thơ Nguyễn Duy linh
hồn dân tộc. Thế giới nghệ thuật thơ vì thế đằm thắm cái tôi thương mến đến tận
cùng chân thật. Luôn cảm thấy mắc nợ cuộc đời, mắc nợ chiến trường, nghĩa là tác
giả cũng mang nhiều nợ nần với đường thơ. Nguyễn Duy tạo được dấu ấn riêng
trong nét vẽ đầy cá tính, dẫu có thể đó chỉ là nét vẽ đơn sơ. Người nghệ sĩ tìm được
hướng đi của chặng đường thơ sau này, cũng không nằm ngoài quan niệm thơ đi tìm
cái mới trong chất liệu tưởng đã là xưa cũ bằng một điệu hồn da diết, ấm nồng.
Không chỉ hình thành nên quan niệm về chất liệu thơ, nghệ thuật thơ, các nhà
thơ trẻ còn thể hiện lăng kính sử thi biến thể trong cái tôi trữ tình sâu nặng với
nghiệp thơ, như thể đó là duyên phận. Đáng trân trọng xiết bao khi trong thời loạn
lạc, hoang tàn ấy vẫn tồn tại những sợi dây gắn bó máu thịt giữa thơ và nhu cầu
84

sáng tác. Xuân Quỳnh, người đàn bà “sinh ra để làm thơ”, mang nỗi sợ một ngày
mai nghiệp thơ sẽ bỏ mình ở lại, như cuộc đời mãi dở dang. Với trái tim nhạy cảm,
luôn muốn hiến mình cho tình yêu, lẽ sống và cho nghệ thuật, Xuân Quỳnh chưa
bao giờ thấy đủ đầy trong hiện tại. Dễ lí giải vì sao thế giới nghệ thuật thơ ấy ăm ắp
cái tôi dự cảm. Suốt đời thơ Xuân Quỳnh, một ngày còn được cầm bút là một ngày
được rung động yêu đương:
Ôi trời xanh, xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa!
(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)
Đối với những người từng ngày nếm trải cay đắng của cuộc sống đầy rẫy tội
ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, họ càng hướng ngòi bút về những thức nhận sắc
sảo. Với các nhà thơ sống trong lòng đô thị miền Nam, thơ càng không thể là mảng
màu sơn phết vô nghĩa mà phải lấy chất liệu từ chính màu lá chết; thơ không chỉ là
tiếng khóc than mà phải bật thốt từ cái tôi sôi sục căm thù: Chiếc xích ngàn năm ít
nhiều rỉ sét/ mà hai chân còn kéo lết đau thương/ đừng phết sơn lên phích để trang
sức cuộc đời/ đừng mang ý nghĩ sơn xanh cho màu lá chết/ không chỉ làm thơ khóc
tro tàn gạch vụn/ hãy căm thù như lửa đốt khai hoang (Bài thơ bắt đầu - Triệu Từ
Truyền). Trong tâm thế của một nhà thơ “viết trên đường tranh đấu”, Trần Quang
Long là một trong số những nhà thơ trẻ đô thị miền Nam quan niệm dùng thơ để
“phá tan thành trì áp bức”. Sinh ra trong chiến tranh và trưởng thành từ lòng tin rạn
vỡ, đó là bi kịch của một thế hệ cầm bút trẻ trong lòng đô thị miền Nam. Chính vì
thế, Tổ quốc đau thương, mái ấm gia đình trắng toát một màu tang luôn xoáy vào
tâm khảm họ: Tang cha mẹ quấn trên đầu võng/ Để nhắc cho con một mối thù/
Tang chồng mẹ đội trên đầu/ Cho màu tóc bạc tiếp màu khăn tang. Thơ ca yêu
nước miền Nam là tiếng thét căm phẫn của cái tôi đối với cái trật tự xã hội được vẽ
tô phù phiếm, là lời nguyền quyết lật đổ kẻ thù gian trá, thâm độc. Đây có thể xem
là nỗi niềm day dứt của các cây bút trẻ yêu nước thành thị miền Nam. Cái tôi căm
85

phẫn tột cùng đã hình thành nên một quan niệm hàm súc về thơ: Con sẽ vót nhọn
thơ thành chông/ xuyên vào gan lũ giặc/ con sẽ mài thơ như kiếm sắc/ chặt đầu văn
nghệ tay sai/ trả thù cho cha, rửa hờn cho nước/ cho con ngửng đầu nhìn thẳng
tương lai (Thưa mẹ, trái tim).
Chính cái tôi chân thành được bộc lộ, được khẳng định đã chi phối quan niệm
nghệ thuật của người nghệ sĩ trên bước đường sáng tạo. Nghệ thuật đích thực đối
với lớp trẻ làm thơ, không gì khác chính là âm bản của cuộc sống ắp đầy. Buồn -
vui, khổ đau - hạnh phúc, nước mắt - nụ cười, vết thương - vết thương được xoa dịu.
Từ đó, thế hệ trẻ khảm vào thế giới nghệ thuật thơ bức chân dung tự họa chằng chịt
đường nét rất thật của một thời, thể hiện sự thức nhận sâu sắc, tinh tế và cũng không
ít những trăn trở, chiêm nghiệm về vai trò của thơ ca, về ý nghĩa đích thực của thơ
ca đối với cuộc sống. Những quan niệm thơ đậm chất sử thi biến thể của cái tôi trữ
tình dẫu chưa thực sự có nhiều bứt phá song đó cũng khởi nguồn từ ý thức làm mới
thơ ca, nhất là trong xu hướng đưa thơ chạm sâu vào bản chất hiện thực.

2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ

William Faulkner cho rằng: “Tiếng nói của thi sĩ không cần chỉ là bia kỉ niệm
ghi dấu con người, tiếng nói đó còn có thể là một trong những vật chống đỡ, những
cột trụ giúp cho người chịu đựng và chiến thắng nữa” [63, tr.265]. Đến với con
đường sáng tạo có lẽ cũng từ ý thức về trách nhiệm đối với thơ ca như thế và cũng
xuất phát từ quan niệm về vai trò của thơ với hiện thực cuộc sống, các cây bút trẻ có
nhu cầu nhìn vào chính mình. Chất hiện thực, tinh thần bám sát đời sống đã đưa
người nghệ sĩ đến một vùng tư duy nghệ thuật không giống với các giai đoạn trước
đó. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ là cái tôi trữ tình với tư cách chủ thể “hướng
nội”, tự phân tích sâu sắc về chân dung tinh thần của thế hệ.
Ở thơ kháng chiến chống Pháp, chân dung tinh thần của thế hệ thường được
khắc họa trong tư thế hướng ngoại, thì đến thơ trẻ giai đoạn này, con người thường
tự soi ngắm thế hệ mình trong những trạng thái tinh thần biến động. Có thể là tự
hào, là thú nhận, là khoảnh khắc nhìn lại mình trong chiều sâu ngẫm ngợi. Với
86

Nguyễn Khoa Điềm, sự tự thức về bản thân và đồng đội trước hết xuất phát từ cái
tôi ý thức bổn phận đối với đất nước: Em ơi em đất nước là máu xương của mình/
Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất
nước muôn đời (Đất nước - trích Mặt đường khát vọng). Các nhà thơ trẻ xem Tổ
quốc là thân phận mình, qua cái tôi trữ tình kiêu hãnh: Trong anh và em hôm nay/
đều có một phần đất nước. Đối diện với ánh lửa giữa những đêm sống chết ở chiến
trường, họ thấu hiểu lí tưởng của những con người cùng nung nấu khát vọng giải
phóng dân tộc: Bếp lửa quây quần suốt mấy anh em/ Không ai nhìn ai chúng tôi
nhìn lửa/ Ở đó cháy cùng ý nghĩ (Nguyễn Khoa Điềm). Nhìn chung, một thế hệ suy
tư sâu sắc về trách nhiệm với lịch sử nên rất đỗi tự hào khi nhận ra vị trí của mình
trên dọc dài lịch sử, dù đó chỉ là những hi sinh lặng lẽ: Thời gian như cỏ vượt lên/
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua/ Ai đi gần ai đi xa/ Những gì gợi lại chỉ là dấu
chân (Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo). Có khi người đọc bắt gặp trong cái tôi
trữ tình thơ thời chống Mỹ sự quả quyết lựa chọn bước tiếp con đường của truyền
thống cha ông: Ta đi hôm nay đã là không sớm/ Đất nước hành quân mấy chục năm
rồi/ Ta đi hôm nay đã là chưa muộn/ Đất nước còn đánh giặc chưa thôi (Phạm Tiến
Duật). Hay đó là cái ầm ào, khí phách của cái tôi hãnh diện về thế hệ: Thế hệ chúng
con ồn ào, dày dạn/ Sống thì đi mà chết thì nằm (Trần Mạnh Hảo).
Các nhà thơ trẻ, về cơ bản đã khắc họa thành công chân dung thế hệ vừa mang
tính sử thi vừa thiên về sự phân tích, tự nghiệm. Đằng sau tự hào, kiêu hãnh đó là cả
những trăn trở. Thức nhận về ý nghĩa của thế hệ, cái tôi thơ trẻ dường như không
chấp nhận những cảm xúc ủy mị, những đau thương đeo đẳng trước mất mát trong
chiến tranh. Cái tôi trữ tình xuất hiện với tư cách là một chủ thể mạnh mẽ, biết dằn
lòng trước nỗi đau: Người chết sẽ chẳng bằng lòng nếu chúng tôi quá đau thương/
Chúng tôi sống thay cho người đã chết (Những sự vật còn sống - Xuân Quỳnh).
Song bên trong cái tôi tự thức đầy quả quyết đó phải chăng là cả bi kịch của sự dồn
nén. Ngày tháng chiến tranh trở thành nỗi ám ảnh khôn xiết. Nỗi ám ảnh đã in hằn
lên đời họ từ thuở ấu thơ, cũng đủ gợi về quá khứ buồn của dân tộc. Họ lớn lên
trong chiếc nôi kí ức chẳng mấy ngọt lành như thế. Cái tôi thơ trẻ thấm thía cái gọi
87

là chiến tranh. Cũng chính từ tuổi thơ không bình yên ấy, con người tự nhủ phải
định đoạt cho đời mình, dân tộc mình bằng chính ngọn lửa căm thù: Chúng tôi lớn
lên tuổi trẻ chẳng vô tư/ răng cắn chặt làn môi rách xé/ cái tát thằng dân vệ/ vị máu
mặn không bao giờ tan/ anh đốt thành ngọn lửa (Chính ủy - Bùi Minh Quốc). Các
nhà thơ trẻ khái quát thế hệ bằng những hình ảnh thật đến đau xót của thời chiến.
Nếu như thế hệ trước thể hiện rõ tính chất chính luận của thơ cách mạng thì để
biểu hiện cái tôi tự họa, thế hệ thơ trẻ cũng xem tăng cường chất chính luận là nhu
cầu bức thiết của tư duy nghệ thuật. Không ít những dòng thơ thấm đẫm lí lẽ về
quan niệm sống của con người, của tuổi trẻ một thời. Họ đứng trước một cuộc đối
thoại thảo ngay, khước từ quan niệm sống hoài sống phí. Cái tôi trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm quả quyết về quan niệm hạnh phúc, không gì khác là chiến thắng, là
hiện thân của một tuổi trẻ không yên, nhận thức về sứ mệnh của lứa tuổi mình sau
bao nhiêu dằn vặt, day dứt; đối lập với quan niệm sống tầm thường của những con
người nhân danh chủ nghĩa cá nhân cực đoan ích kỉ, lớp người chỉ biết xây đời mình
riêng một cõi: Các anh tìm về những hang động ngày xưa/ Nhân dân kêu cháy nhà,
anh giả điếc không thưa/ Dân tộc ta đau thương, anh muốn thêm rách nát/ Anh ca
hát múa may bên tội ác/ Anh lang thang mặc cường bạo lộng hành/ Anh là đứa con
bất hạnh của chiến tranh (Tuổi trẻ không yên - trích Mặt đường khát vọng). Chất
chính luận đặt nhà thơ trong tư thế đối mặt với những câu hỏi lớn của thời đại. Cái
tôi trăn trở trước sự lựa chọn sống còn của dân tộc và có khi đó là triết lí về lời thề
quyết thắng trong những ngày tiến công của lịch sử miền Nam: Ơi Đất phải ra đi và
Đất phải trở về/ Là gạch ngói đau thương là chiến hào căm giận/ Là Trường Sơn
dựng lên ngàn bệ phóng/ Là kỳ đài xưa ta khắc một câu thề:/ Giải phóng! (Đất
ngoại ô). Đó còn là lời thúc giục xuống đường, là lời xưng danh ta là quê hương
kiêu hãnh, là uất hận trào lên khóe mắt: Lựu đạn cay không xóa được sắc màu/ Máu
ta đỏ, con đường ta trước mặt/ Dùi cui bay không làm ta cúi gục/ Mắt hận thù quen
mở giữa thương đau (Xuống đường - trích Mặt đường khát vọng).
Lực lượng thơ trẻ 1965 - 1975 đại diện cho thế hệ mình tự bạch và đối thoại
với thế hệ khác bằng kinh nghiệm từng trải của người trong cuộc. Vì vậy từ quan
88

niệm về nghề, về thơ đến việc họa khắc chân dung thế hệ, cái tôi thơ trẻ đều thể
hiện chiều sâu trí tuệ và lẽ tất yếu, tiếng nói trí tuệ đó phải được chắt lọc qua nguồn
cảm xúc tràn trào của tuổi trẻ. Chất trí tuệ thấm đẫm suy tư và xúc cảm của con
người. Nhìn lại nền thơ kháng chiến 1945 - 1954, hình ảnh người lính được khắc
họa chủ yếu trong cái nhìn lạc quan cách mạng. Đặt vào những hoàn cảnh gian khổ,
khắc nghiệt, người chiến sĩ càng trở nên tỏa sáng với tất cả phẩm chất tốt đẹp: Một
tiếng chim kêu sáng cả rừng/ Lên đường chân lại nối theo chân/ Đêm qua đầu
chụm, run bên đá/ Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng (Từ đêm 19 - Khương Hữu
Dụng). Hay khi chuyện trò về những câu chuyện riêng tư, tiếng cười của người
chiến sĩ cũng ngân lên rộn rã. Và chính những góc riêng thầm kín ấy lại trở thành
động lực để người lính giữ vững bản lĩnh cách mạng; để họ càng tin yêu sự sống: -
Đằng nớ vợ chưa! - Đằng nớ? - Tớ còn chờ độc lập/ Cả lũ cười vang bên ruộng
bắp/ Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu (Nhớ - Hồng Nguyên). Ở sáng tác giai đoạn
này, hình tượng người lính càng được biểu hiện sát hợp với những con người có thật
trong đời song vẫn thấy thiếu vắng trong thơ những biểu hiện chiều sâu trong tâm
hồn. Dường như bức chân dung của người chiến sĩ vẫn ít có được thần thái của cái
tôi xao động tình cảm mà nổi lên trên tất cả vẫn là vẻ đẹp của lí trí. Trong khi đó
đến với thơ 1965 - 1975, người đọc cảm nhận được tư thế hiên ngang của thế hệ trẻ
khi bước vào chiến trường; không những thế, tâm trạng, nỗi niềm con người cũng
góp phần làm đa dạng khuôn mặt tâm hồn thế hệ. Cái tôi không chỉ hân hoan trong
tiếng hát lạc quan của tuổi trẻ, ở họ còn hằn sâu trở trăn, day dứt về số phận đồng
đội, số phận dân tộc. Thơ trẻ “nói sâu sắc, thấm thía” về thế hệ mình: chúng tôi
không muốn chết vì hư danh/ không thể chết vì tiền bạc/ chúng tôi xa lạ với những
tin tưởng điên cuồng/ những liều thân vô ích/ đất nước đẹp mênh mang/ đất nước
thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt/ chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết! (Thử
nói về hạnh phúc - Thanh Thảo). Với họ, hạnh phúc là được gánh vác, được dấn
thân. Lẽ sống của cả thế hệ trẻ là cái vội vã, để kịp sống vắt mình cho dân tộc, cho
nhân dân và cho chính đời mình: Thế hệ chúng ta xin vội vã suốt đời/ Cái vội vã say
người của đấu tranh cách mạng/ Đấy hạnh phúc của những người cộng sản/ Nhận
89

phần mình gánh hết mọi lo toan (Cửa biển - Bùi Minh Quốc). Hay đó là bản lĩnh
của cái tôi hòa nhập vào trách nhiệm công dân, ao ước góp mình làm nên một điều
gì đó hữu ích cho cuộc đời: Nếu như tôi/ được làm ngọn gió/ tôi sẽ làm ngọn gió
nam hung dữ/ Thổi từ đáy biển lên/ Để khi mình đã lặng im/ Vẫn đủ sức làm cuộc
đời xáo động (Gió bắc gió nam - Xuân Quỳnh). Niềm mong mỏi ấy phải khởi đi từ
một trái tim yêu đời mãnh liệt.
Thành thị miền Nam nhốn nháo thảm kịch đã trở thành nỗi ám ảnh không
nguôi của người cầm bút trẻ, cũng chính là những người trong cuộc biến động đầy
máu và nước mắt của quê hương. Với họ, một sớm mai mặn tanh mùi máu và nước
mắt không còn xa lạ nữa. Hình ảnh những người vô tội chồng chất trên đường phố
cũng quá đỗi quen thuộc. Cuộc sống thế hệ trẻ miền Nam ngày ngày bị vây phủ bởi
“những điều trông thấy” như thế. Chính hiện thực đau thương thường trực đó đã tạo
nên ý thức dịch chuyển điểm nhìn sử thi vào những suy ngẫm đậm chất triết luận.
Cái tôi trữ tình là âm bản của chính cuộc đời, là số phận chiến tranh:
Nếu một sớm mai nào
Mọi người vừa thức dậy
Sau giấc ngủ hôn mê
Thấy nước mắt, mồ hôi và máu
Đổ đầy trên quê hương
Thấy sinh viên, học sinh và trẻ em
Ngất lịm đầy đường
Tuổi trẻ chúng tôi là như vậy đó
(Thơ tôi bây giờ - Đam San)
Khi hiện thực bấy giờ là chuỗi ngày đối mặt với đau buồn, oán giận thì thơ
phải là nơi ôm chứa tất cả đường nét nghiêng ngả của đời sống. Hoàn toàn không
phải là những mùa thu chết, hình hài đau khổ, những vực nước mắt bi thương. Lí
tưởng sống của cái tôi trong thơ trẻ đô thị miền Nam là hành động nhập cuộc, là
tiếng thúc giục xuống đường, là lấy máu tạc khắc thành những khẩu hiệu đòi nợ
máu: Hôm nay ngày trùng dương nổi dậy/ Ta đứng lên dựng cột cờ bay/ Máu chúng
90

ta một rừng khẩu hiệu (Máu chúng ta một rừng biểu ngữ - Thái Ngọc San). Ngô
Kha, người thanh niên yêu nước day diết của phong trào sinh viên Huế nguyện đem
đến cho đồng bào những tấu khúc hòa bình của cái tôi đầy khao khát. Dẫu đó chỉ là
những thanh âm còn xa vợi: Nguyện làm loài chim mang quá khứ đau thương/ Trở
về tấu khúc hòa bình trên đồng bào/ Ở đó/ Việt Nam vĩnh cửu/ Việt Nam không còn
chiến tranh (Cho những người nằm xuống).
Tiếng nói trữ tình sâu sắc của thế hệ thơ trẻ còn được kết tinh ở cái tôi trữ tình
dằn vặt, ngỡ đầy mâu thuẫn trong thế giới tinh thần con người. Chất biến thể của
hình tượng cái tôi trữ tình sử thi còn là cái ngập ngừng rất thật khi đối mặt với
những sự lựa chọn nghiệt ngã giữa sống và chết vốn chỉ cách biệt nhau bởi một lằn
phân định mơ hồ của chiến tranh. Sự biến động trong thế giới tinh thần của chủ thể
trữ tình như thế góp phần tạo nên đặc trưng của cái tôi trữ tình giai đoạn này so với
cái tôi sử thi giai đoạn trước. Dẫu lựa chọn cuối cùng vẫn là sự hi sinh thì cũng
không thể giấu được cái tôi tự vấn. Thanh Thảo là một trong những nhà thơ trẻ khắc
họa rất ấn tượng về chân dung thế hệ. Thấm thía hơn hiện thực chiến tranh, thế hệ
trẻ nhận rõ tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, nhân dân. Họ “đã thể hiện
một cách chân thực và sâu sắc một sự lựa chọn vừa quyết liệt, giằng xé lại vừa
thanh thản, tự nguyện của những chàng trai, cô gái vừa bước vào tuổi thanh niên
gặp buổi đất nước lâm nguy” [219, tr.69]. Vì thế chân dung tinh thần thế hệ trẻ hiện
lên thật tự nhiên, dẫu không tránh khỏi những phân vân, do dự, thậm chí không khỏi
ngỡ ngàng trước năm tháng đời người: chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô/ qua
mùa mưa mùa mưa dai dẳng/ võng mắc cột tràm đêm ướt sũng/ xuồng vượt sông
dưới pháo sáng nhạt nhòa/ đôi lúc ngẩn người… một ráng đỏ chiều xa/ quên đời
mình thêm tuổi (Một người lính nói về thế hệ mình - Thanh Thảo).
Đứng lên từ những mảng màu tối sẫm, con người trong thơ trẻ nguyện giành
lại cuộc sống. Thế hệ trẻ mang cái nhìn quả quyết vào thơ. Phản ánh hiện thực
không đơn thuần là tiếng nói đồng cảm, sẻ chia. Những cây bút chạm vào hiện thực,
hầu hết để nhận thức sâu hơn về trọng trách với non sông. Trong tư duy thơ trẻ,
niềm tin được tạo dựng ngay trên hiện thực hoang tàn đổ nát hay trong chính sự thật
91

nghiệt ngã của chiến tranh. Trong thơ trẻ, xuất hiện hàng loạt con người muốn xé
toạc bóng đêm, giáp mặt với quân thù. Cái tôi trữ tình là cái tôi dấn thân và hành
động. Với tâm nguyện nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương, thế hệ trẻ quyết đối
mặt với hiểm nguy để được chiến đấu hết mình cho dân tộc: Đường hành quân sao
bỗng dài vô hạn/ Mặt quân thù lấp sau trùng non/ Tôi muốn thẳng tay xé toạc bóng
đêm/ Ép mỏng lại những tuần những tháng/ Cho lộ mặt quân thù tôi xả súng (Phố
cửa biển - Thanh Tùng). Cái tôi tự thức về thế hệ mình còn để tạo kênh đối thoại
với với thế hệ khác, với nhân dân. Đối thoại để được sẻ chia: Chúng tôi gánh trên
vai bao kẻ mất người còn/ Đằng đẵng những năm dài khuất bóng vợ con/ Chúng tôi
gánh trên vai gầy sốt rét/ Cái bật dậy ngàn bàn chân xuất kích/ Phút gầm lên pháo
dội xuống đầu thù (Sức nặng của âm thanh - Anh Ngọc). Trần Vàng Sao cũng có
Bài thơ của một người yêu nước mình, ở đó người đọc tìm thấy trong cái tôi trữ tình
niềm ao ước ngọt ngào về một đất nước hòa bình. Đây cũng chính là tâm tư trĩu
nặng của thế hệ thơ trẻ trong lòng đô thị, khi đối diện với họ là cuộc sống tù ngục,
đổ máu, cách chia. Cái tôi lặng mình trong ước vọng giản dị: Tôi yêu đất nước này
chân thật/ Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi/ Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi/
Và yêu tôi đã biết làm người/ Cứ trông đất nước mình thống nhất.
Con người trong thơ trẻ ráo riết biểu hiện, phơi trải mình nhưng vẫn luôn nhận
ra mình là một phần không thể tách rời khỏi đồng đội: Mẹ làm sao nhớ nổi/ cái
thằng con đến ngồi nghỉ bên thềm/ khi đêm về thường lẫn vào đêm/ khi trời sáng
lẫn vào đồng đội/ ghé nhà mẹ chỉ vài giờ rất vội/ mẹ chưa kịp nhìn rõ mặt, hỏi tên
(Mẹ chẳng thể nào nhớ nổi con đâu - Bùi Minh Quốc). Một tiếng gọi đồng đội cũng
in hằn cái tôi đong đầy kỉ niệm đời lính: Chúng tôi những thằng lính trẻ/ lớn lên
khắp trăm vùng gọi nhau là đồng đội. Ý thức về sự cộng hưởng của sức mạnh đồng
đội làm cho những gì vốn riêng tư nhất của con người cũng chẳng còn ranh giới:
Năm anh em mang năm cái tên/ Đã lên xe không còn tên riêng nữa/ Trên tháp pháo
một ngôi sao màu lửa/ Năm quả tim một nhịp đập dồn (Trên một chiếc xe tăng -
Hữu Thỉnh). Ở đây xuất hiện cái tôi tự tin bởi trong chặng đường cam go của cuộc
chiến đấu, những người lính không bao giờ đơn độc: Đêm nay con nằm nhẩm tên
92

từng đứa/ Mai này đây sẽ tràn xuống đồng bằng/ Chúng con đi những dòng sông
chảy xiết/ Chúng con đi rung từng trận gió rừng/ Cả thế hệ xoay trần đánh giặc
(Những ngôi sao của mẹ - Thanh Thảo).
Đối với những người từng ngày giáp mặt với tang thương, mất mát thì nỗi đau
chiến tranh càng thấm buốt. Đó là tiếng thơ đẫm đau thương và căm hờn của phong
trào học sinh sinh viên, tạo nên diện mạo của cái tôi trữ tình mang sắc thái riêng của
thơ trẻ thành thị miền Nam. Ở đó, day dứt lời tự bạch của một thế hệ lớn lên trong
cảnh tượng hãm hiếp, đốt nhà, phá làng giết lúa: “Thế hệ chúng tôi, ngay từ những
ngày còn thơ dại đã biết đến cảnh tản cư, tiêu thổ kháng chiến; đã sống trong thiếu
thốn, đói khổ, bệnh tật, ghẻ lở và sốt rét đến vàng da; đã nhìn thấy những xác người
cháy trên xóm làng…” [244, tr.423]. Những cuộc biểu tình bị tàn sát đẫm máu,
những lời oán hận làm nhức buốt tâm can dân tộc cũng chính là bằng chứng vạch
mặt sự dã man, phi nhân tính của quân thù. Cái tôi trong Chắp tay tôi quỳ xuống
chính là hiện thân của cái tôi nhà thơ. Cái chết của Nhất Chi Mai không chỉ chấn
động lòng dân thành thị miền Nam, không chỉ gây ngỡ ngàng cho những trái tim
hướng về miền Nam đang giành từng phút sống. Cái chết này còn làm bàng hoàng
những trái tim gần như không còn biết rung động của đế quốc, tay sai. Tập thơ
mỏng mảnh ngày ấy của Nhất Chi Mai đã một thời gây xôn xao cho những người
cùng thế hệ, là hiện thân của cái tôi đầy dằn vặt, xáo động. Cái tôi thức nhận trong
xót đau: Tôi thấy mình hèn yếu/ Tôi nghe lòng đắng cay/ Sống mình không thể nói/
Chết mới được ra lời. Đó là lời trăng trối, thú nhận thật đến tàn nhẫn. Lời tự bạch
đó là tiếng căm phẫn tột cùng của cái tôi trữ tình; là tiếng thơ của cả thế hệ cầm bút
từng ngày thấm nghiệm nỗi đau mất nước. Chủ thể không kiềm nén lời khẩn cầu
thống thiết: Dừng tay lại người ơi! Đây có thể xem là sự thể hiện cao độ nhất cái tôi
đầy trách nhiệm, cái tôi ý thức cảnh tỉnh tội ác của quân thù và sâu xa hơn là niềm
mong mỏi cháy lòng của tuổi trẻ miền Nam vào một ngày chấm dứt chiến tranh.
Sống trong hoàn cảnh chủ nghĩa thực dân kiểu mới, thế hệ trẻ mang nặng tấn bi kịch
xương máu đang ngày ngày bị chế độ xiềng xích lợi dụng. Cái tôi thức tỉnh, tra vấn
lẽ đời. Người thơ xót xa trước thân phận chiến tranh trên suốt chiều dài một thế hệ:
Tuổi trẻ
93

bây giờ là như thế đó/ Xin tự do người ta tặng ngục tù/ Xin no ấm người ta cho đói
khổ/ Xin tình thương người ta cho hận thù/ Xin thanh bình người ta cho chinh chiến
(Thơ tôi bây giờ - Đam San).
Suy tư, trở trăn về thơ; tự nghiệm về đồng đội, về thời đại là những tiếng nói
tự họa rất thật về chân dung của một thế hệ. Trong dòng thác cuồn cuộn của hiện
thực chiến trường, người cầm bút càng khẳng định được ý nghĩa của thế hệ mình,
đó là “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng tạo và
khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8], đưa cái tôi sử thi nguyên thủy của nền thơ ca cách
mạng đi vào chiều sâu của sự phân tích, lí giải về ý nghĩa của thế hệ, tạo nên khuôn
mặt mới của cái tôi trữ tình - cái tôi sử thi biến thể.

2.3. Cái tôi phi sử thi


Cái nhìn của các nhà thơ lớp trước thường là chiêm ngưỡng, ngợi ca: “con
người kháng chiến sống với những biến cố dữ dội, những sự kiện lịch sử, những
rung động mạnh mẽ và mới lạ; họ chỉ thực sự tìm thấy sức mạnh, niềm vui và niềm
tin tưởng ở trong đội ngũ đông đảo của tập thể, của giai cấp và dân tộc” [92, tr.74].
Có thể nói, trong thơ thời kháng chiến chống Pháp, ý thức cộng đồng trỗi dậy mãnh
liệt: Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta. Không gian nghệ
thuật thường thấy là những khoảng không rộng lớn, không gian công cộng. Các nhà
thơ tập trung thể hiện con người quần chúng. Mãi đến thơ mười năm sau kháng
chiến chống Pháp, cái tôi mới trở lại với những mối quan hệ riêng - chung. Những
đề tài đời tư cũng lại được khai thác trong thơ giai đoạn này, làm xuất hiện cái tôi
trữ tình tác giả một cách rõ nét. Nhưng chủ yếu vẫn là cái tôi luôn đặt mình trong
mối quan hệ thống nhất với xã hội. Sự gắn kết với đất nước, với nhân dân thực sự
thấm sâu vào tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Cái tôi trữ tình trong những giai đoạn
trước được tiếp nối và có nhiều biến đổi trong thơ 1965 - 1975, đặc biệt là ở diện
mạo cái tôi thơ trẻ.
Lớp nhà thơ trẻ cũng thể hiện nguồn cảm hứng sử thi như một sự tiếp nối tư
duy nghệ thuật của lớp nhà thơ trước với những dạng thức phái sinh, biến thể. Tuy
nhiên cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975, phần nhiều là sự phơi trải giữa cái
94

nghiệt ngã, tàn khốc để “nhặt lấy” từng chi tiết sống động của hiện thực. Xuất phát
từ yêu cầu của cuộc sống và thơ ca, người nghệ sĩ cày xới vào mảnh đất hiện thực
để được nghiệm sinh từ nhiều góc cạnh của chiến tranh, của cuộc đời thường nhật
và của cả âm bản đời tư. Cái tôi trữ tình trong giai đoạn này đặt mình trong một tâm
thế mới: Ba nghìn đêm chiến tranh, những xúc động ngỡ lòng không nén nổi (Từ
biệt vùng quê sơ tán - Vũ Quần Phương). Có thể xem đây là sự phá vỡ tính chất sử
thi, dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật vào những nghiệm sinh thế sự, những chiêm
nghiệm đời tư. Theo quan niệm của tác giả luận án, đó là dạng thức cái tôi phi sử thi
với biểu hiện của cái tôi thấm thía, trải nghiệm nỗi đau chiến tranh và cái tôi tự
nghiệm số phận cá nhân.

2.3.1. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh

Các cây bút thơ trẻ chạm vào rất sâu hiện thực chiến tranh. Không phải là
những người vác ống kính đứng ngoài cuộc để chụp lấy khoảnh khắc ác liệt nhất
của chiến tranh mà hầu hết họ là những người trong cuộc. “Thời tính là một đóng
góp hết sức lớn lao vào đời sống của tác phẩm nghệ thuật” [236, tr.2 - 14]. Chính
hiện thực đau thương của chiến tranh đã góp phần tạo nên cái nhìn phi sử thi. Theo
đó, cái tôi trữ tình là tiếng nói âm bản của tang thương, mất mát, chia lìa…
Mang tâm thế ngấm nghiệm nỗi đau chiến tranh, phải nói các cây bút trẻ đưa
vào thơ vùng hiện thực được bóc trần. Vào thời điểm đó, hơn ai hết, những người
lăn lộn trực tiếp trong đói khổ, cay cực hiểu thấu cái giá của những ngày tranh đấu.
Chiến trường là nơi ác liệt, nơi cái chết thành chuyện cơm bữa, nơi xác người chồng
chất lên nhau. Trong hoàn cảnh ấy, thơ vào tận sâu những mảng hiện thực chiến
tranh, ở đó “chủ thể sáng tạo đã không hề né tránh sự thật ở những tình huống bi
kịch, bi tráng xuất hiện trong mối quan hệ giữa khát vọng sống của từng cá nhân và
vận mệnh của Tổ quốc, và đã phản ánh những tình huống bi kịch đó một cách chân
thực và rắn rỏi” [113, tr.130]. Thậm chí, trong nhãn quan một bộ phận thơ trẻ, chiến
tranh không là gì khác ngoài bi kịch. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 thể hiện sinh
động biểu hiện nổi bật của cái tôi phi sử thi - cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh.
95

Đối mặt với sự thật chiến tranh, phần nhiều thế hệ thơ trẻ tách mình ra khỏi
âm vực cao vút của chất giọng sử thi. Ngay cả trong những vần thơ thể hiện cái tôi
sử thi đích thực đôi khi đã tiềm ẩn cảm quan phi sử thi. Theo nhận định của tác giả
luận án, đây là độ nhòe tất yếu của sự giao thoa giữa những dạng thức cái tôi trữ
tình trong một văn bản nghệ thuật, một thế giới nghệ thuật thơ. Hay nói cách khác,
đây là hệ quả của yếu tính “động” trong nội tại cái tôi trữ tình, thể hiện mối quan hệ
tưởng mâu thuẫn song lại thống nhất biện chứng trong một chỉnh thể tư duy nghệ
thuật, quan niệm thẩm mĩ, phong cách tác giả.
Ở bộ phận thơ trẻ cách mạng, ngay hình tượng nhân vật trữ tình người lính
cũng được xây dựng qua cảm quan thấm thía nỗi đau chiến tranh của cái tôi trữ tình.
Trong hoàn cảnh khốc liệt, người lính thường xem hiểm nguy không phải là mối đe
dọa dù nó có thể cướp đi sự sống; họ bận tâm về vận mệnh dân tộc, số phận con
người. Song ngòi bút thơ trẻ vẫn không nén được cái tôi xót xa khi chạm đến những
cơn đau thân xác tưởng chừng quá sức của đời lính: Những người sốt rét đang cơn/
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè? (Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo).
Các nhà thơ đã viết về hiện thực vật vã của cơn sốt rét, viết thật cảm động về những
con người đang từng ngày chống chọi với hoàn cảnh. Nguyễn Đức Mậu không nén
được tiếng thơ rưng rức về hình ảnh đồng đội mang căn bệnh quái ác: Cái giây phút
người anh như lửa nóng/ Núi cũng ngồi, cũng đứng khác chi anh/ Những câu thơ
lẫn vào cơn sốt/ Con chữ cháy đen xiêu vẹo dáng hình (Nhật ký sau cơn sốt). Người
đọc cảm nhận đằng sau sức chịu đựng phải chăng là những đớn đau ngấm lịm vào
da thịt. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ hết sức khốc liệt, tàn bạo. Cuộc sống là
bom dội từ trời sâu, đạn nổ dưới chân người, là cát tím bầm, là cây cụt ngọn dựng
bia vào trời xanh căm giận… Với những người lính biển, sự xa cách đất liền càng
làm họ phải đối mặt thêm một hoàn cảnh bi kịch trong chiến tranh: sự cô đơn. Cái
tôi khát thèm được kết nối với con người: Đôi khi phải gõ vào một cái gì đó/ Để
nghe tiếng con người (Hữu Thỉnh). Chiến tranh quá tàn khốc, người lính như chỉ
dám ước ao những gì thật nhỏ bé, khiêm nhường. Giữa lòng biển bao la, điều giản
dị thế thôi cũng thành mơ ước: Nhìn xuôi mặt đảo chờ đợi/ Khao khát gặp/ Một
96

cành san hô/ Một hòn đá nhô/ Bởi nỗi chơi vơi côi cút (Vương Trọng). Hay sự đơn
độc của người lính còn như một lời thú nhận trong tôi: Có khi quên mình là con
trai/ Tin các em văn công sắp tới/ Làm hồi sinh những góc khuất trong người
(Vương Trọng).
Chủ thể trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm phẫn uất trước sự chết mòn của
nhân dân dưới âm mưu hiểm độc của Mỹ. Cái tôi trữ tình nghẹn ngào: Chúng đánh
để ta không tìm được chiều cao/ Của thân thể, của ước mơ, hạnh phúc/ Chúng đánh
ta bật rễ ngoài mặt đất/ Hết cầm cày, cầm búa, dắt trẻ, yêu thương/ Chúng đánh ta
tê liệt những phản ứng bình thường/ Vui với con người, buồn khi nắng xuống/
Chúng đánh ta trụy hết những bào thai truyền thống/ Từng đẻ ra nhân nghĩa, anh
hùng, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… (Giặc Mỹ - trích Mặt đường khát vọng). Đây là
một trong những biểu hiện làm nên chất phi sử thi của cái tôi trữ tình. Hình tượng
đất nước giằng xé trong những cảnh tượng tan tác. Là nỗi buồn đã được gọi tên, là
những chấm không bình yên, là lời chất vấn xót xa: Mẹ đưa ta vào đời/ Thành phố
đã đầy bóng giặc/ Thành phố đầy dáng người ngửa tay/ Ôi những con cò “tỵ nạn”
khô gầy/ Đêm đêm lại về hàng cây thành phố/ Lao xao tìm chốn ngủ/ Những bờ bãi
nào không dành cho cò nữa/ Những lũy tre nào bom đã khai quang? (Tuổi trẻ
không yên - trích Mặt đường khát vọng). Có khi ẩn trong hồn thơ dịu dàng là hố sâu
căm thù, là cái tôi giằng xé khi phải chạm vào số phận nghiệt ngã của chiến tranh.
Ngay trong tiếng nói cộng đồng đã tiềm ẩn tiếng nói riêng tư, hé lộ góc nhìn đa
chiều về số phận cá nhân của cái tôi trữ tình: Em đã qua rồi - trong đêm - Khâm
Thiên/ Không khóc được bởi căm hờn quá lớn/ Chúng nó đã ném bom hòng hủy
diệt/ Hủy diệt việc ăn làm, hủy diệt Tình yêu/ Ngõ Hồ dài vụn nát dưới bom sâu/ Bà
con ta - hai trăm mười lăm người - không còn nữa (Từ Khâm Thiên - Phan Thị
Thanh Nhàn).
Sống giữa cái ác hoành hành, giữa thời kẻ thù tính suất bom chia cho mỗi con
người, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ không lảng tránh sự thật thắt lòng. Với cái nhìn
chiến tranh là những nỗi đau chịu tang, là bi kịch đeo đẳng lên những phận người
còn sống, Phạm Tiến Duật đã bỗng dưng rẽ lối trong một tác phẩm mà ở đó, chiến
97

tranh thực sự là một di chứng tinh thần quá sâu trong đời sống con người: Khăn
tang, vòng tròn như một số không (Viết về số 0). Cái tôi trữ tình lặng đi trước hệ lụy
đau xót của chiến tranh: Khói bom lên trời thành một cái vòng đen/ Trên mặt đất lại
sinh bao vòng trắng. Cũng với nguồn cảm hứng đó, cái tôi trong thơ Lưu Quang Vũ
đau xót, thậm chí bi quan khi hình hài dân tộc hiện lên với: Những áo quần rách
rưới/ Những hàng cây đắm mình vào bóng tối/ Chiều mờ sương léo lắt đèn dầu
(Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ). Đất nước trở mình khó nhọc dưới con mắt hụt hẫng
của trái tim ôm nặng tình quê. Lời thơ nức nở trong hàng loạt câu hỏi chất vấn dồn
dập. Tác giả chất vấn để rồi tự vấn: Tôi làm sao sống được nếu xa Người. Có lúc,
nhà thơ ghi lại nhật kí quê hương. Trong một đêm 1972, nhà thơ lưu lại bao nhiêu
cảnh tượng đổ nát trước cơn bão đạn. Mặt đất chao nghiêng, ga xưa đã sập tan
tành… làm chủ thể lặng người: Ngực nghẹn lại không còn khóc được/ Thương mọi
người cơ cực mấy mươi năm/ Thương ga xưa đã sập tan tành/ Thương những
chuyến lên đường xưa đã chết (Ghi vội một đêm 1972). Lưu Quang Vũ quả đã nhìn
vào bề sâu của chiến tranh, khơi sâu vào nỗi đau mất mát của con người. Đây cũng
là tư duy nghệ thuật của những cây bút thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính
đổ vỡ. Lưu Quang Vũ hướng về nhân dân trong nhiều nguồn cảm hứng đan xen,
trong sự thành kính đã pha lẫn xót xa: Máu ướt đẫm bàn tay khi tôi nâng xác bạn/
Anh ấy chết cho Hà Nội của tôi (Viết lại một bài thơ Hà Nội). Có thể thấy đây là sự
nỗ lực của ngòi bút thơ trẻ trong việc phá vỡ âm hưởng sử thi thuần túy, một chiều
theo khuynh hướng ngợi ca mà tập trung xoáy vào nỗi đau dân tộc. Đó có khi là
những thân phận chiến tranh tác động đến tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Hình tượng nhân dân trở về trong tiềm thức, trong những giấc mơ đánh động đến
trách nhiệm người cầm bút. Những bóng gầy lặng im, những nụ cười ràn rụa,
những bà thím suốt đời không ngẩng mặt, những ông tướng mất thành chết chém,
muôn người chết đứng lên cùng kẻ sống... (Giấc mộng đêm) là hiện thực buồn
thương của cuộc sống đạn bom mà người cầm bút không thể lảng tránh. Đó là
khách thể thẩm mĩ qua điểm nhìn của cái tôi trữ tình trải nghiệm, thấm thía tận cùng
nỗi đau chiến tranh. Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật như thế, Lưu Quang Vũ thể
98

hiện cái tôi cầu nguyện cứa cắt lòng người: Tôi không tin/ Lỗ đinh trong tay tượng
Chúa/ Chúa của tôi ngồi ở bên đường/ Ngủ gục trên nắp hầm trú ẩn/ Chúa của tôi
bom thiêu cháy xém/ Chúa của tôi hát xẩm trên tàu điện/ Chúa của tôi bới gạch vụn
tìm con. Có thể khẳng định Lưu Quang Vũ là một bút thơ thể hiện đậm nét cảm
quan phi sử thi của cái tôi trữ tình. Nhà thơ quả đã lật trở nhiều suy cảm về dân tộc,
ở đó là cả một sự phức hợp của cái tôi trữ tình. Cái tôi thấm thía nỗi buồn bị đọa
đầy lăng nhục, cái tôi đầm đìa trong nước mắt của trời khuya. Cái tôi ám ảnh trước
bước chân trở về nặng tình dân tộc của những con người đã thuộc về cõi âm, cái tôi
day trở trước trăng trối không thể thành lời của đồng đội đã khuất. Quá khứ sừng
sững hiện về, trong vóc dáng của những hoài niệm chia lìa, những ẩn khuất chưa
giải tỏa: Các cậu về đăm đắm mắt nhìn nhau/ Các cậu về đau đớn, khát khao (Giấc
mộng đêm). Cái tôi đau thương lẫn vào nỗi buồn tê dại. Người đọc thảng thốt trước
lời thức nhận của chủ thể về bản chất chiến tranh:
Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông
Ta kịp biết gì đâu
Vừa hết trẻ con đã là người lính
Cô bạn gái cánh tay trần rám
nắng
Ngực phập phồng thở mạnh đến lo âu
Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh
Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết
(Những bông hoa không chết)
Trong tư duy thơ trẻ, việc chiếm lĩnh hiện thực phải từ những sự kiện bộn bề
rất thật của cuộc sống. Nhãn quan người cầm bút xoáy vào những điều từng chứng
kiến, từng trải qua. Họ không chỉ tái hiện thực tại mà còn làm sống dậy thực tại,
trong đó mỗi bức tranh hiện thực đều được nhìn qua lăng kính trải nghiệm sâu sắc
của người cầm bút. Chiến tranh đâu chỉ là vẻ đẹp chiến thắng, là hào quang chói lọi,
là tâm thế ra đi đầu không ngoảnh lại mà chiến tranh với thế hệ thơ trẻ còn là cái
ngưỡng quá mong manh giữa hai bờ sống - chết, mất - còn. Các nhà thơ trẻ đưa
99

ngòi bút vào nhiều bề mặt trần trụi của chiến tranh. Khi tách ra khỏi âm hưởng sử
thi, thơ trẻ 1965 - 1975 khắc họa cái tôi trữ tình chiêm nghiệm, day trở.
Những phận người lao vào tội lỗi, nhơ nhuốc; những sự thật hoen ố ngày ngày
bày trên quê hương tác động mạnh mẽ đến tư duy của người nghệ sĩ. Cái tôi trữ tình
trong thơ Lưu Quang Vũ nhạy cảm với bao nhiêu kiếp người bất hạnh, đúng như
nguyện ước của nhà thơ lúc sinh thời, được đấu tranh cho thân phận con người nhỏ
bé. Lưu Quang Vũ dừng lại trước bao nhiêu số phận cụ thể. Đó là tuổi thơ không có
tuổi thơ, là cô gái trở nên suồng sã. Là cô Kiều đàn nguyệt tặng chàng Kim, là
người họa sĩ già mắt buồn ngơ ngác, là xích lô lầm lụi lên cầu. Dừng ở Những tuổi
thơ, chúng ta còn bắt gặp một nỗi buồn nhân hậu. Bên trong những mảnh tuổi thơ
nhàu nát đó là sự đảo lộn của tình người: Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ/
Dưới mái tóc quăn trơ trụi vai gầy/ Em đi đâu đêm nay/ Để lòng tôi se lại. Con
người thơ nhiều chiêm nghiệm này không lảng tránh hiện thực dù mỗi khi chạm đến
nó, cái tôi quặn thắt. Trước sự khắc nghiệt của chiến tranh, trong góc khuất những
xóm nghèo là bao mảnh đời lem luốc. Bùi Minh Quốc lại đặt bút trước hình ảnh rất
nhân văn, chiếc nôi chống chếnh của trẻ thơ trong trận dội bom kinh hoàng của đế
quốc Mỹ. Và đó không còn là chuyện chiếc nôi nữa mà chính là chuyện sinh mạng
những em bé vô tội trong chiến tranh. Lại là hai hình ảnh đối lập giữa cái bất nhân
của tiếng bom Mỹ và giấc ngủ non nớt trong veo của trẻ thơ: Chiếc nôi, chiếc nôi
nho nhỏ/ Bom Mỹ/ Xé đôi/ Một nửa mắc cành xoan cháy đỏ/ Một nửa đất vùi/ Ôi/
nụ cười/ Mùi sữa hoi hoi/ Với bầy chim chích/ Đâu rồi ?/ Đâu rồi ?/ Bé ơi! (Chiếc
nôi). Dưới điểm nhìn phi sử thi, di chứng chất độc màu da cam vẫn là vết thương
không thể lành, là nỗi đau còn lại của bi kịch chiến tranh. Những khuôn mặt biến
dạng, những thân thể tàn phế, những nụ cười ngây dại, những dòng nước mắt vô
vọng đến bây giờ vẫn là nỗi ám ảnh thắt lòng. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tìm
ra một khái niệm chua chát về màu da cam: Màu da cam không phải của mùa cam/
Làm nên sắc xanh trời thu, dịu dàng giọng nói/ Màu da cam thành màu phản bội/
Thiêu cháy trăm tầng lá biếc quê hương/ Cướp vỏ quế mẹ già, chùm mơ em gái/
Thui chột những mầm thai chín tháng mười ngày mong đợi (Nghĩ về một nhãn
100

hiệu). Màu da cam vô tội, màu của sự tươi sáng, rực rỡ thành màu phản bội, màu
của hủy diệt, tàn sát. Đằng sau khái niệm chua chát đó là nỗi xót cay của cái tôi trữ
tình. Điều ám ảnh nhất trong bức tranh màu da cam có lẽ là hình ảnh những mầm
thai chín tháng mười ngày mong đợi. Đó là những số phận tật nguyền, gắn với
chuỗi ngày lê thê bất hạnh; là những mầm sống không còn trong cõi sống.
Dừng lại ở những chi tiết nhỏ của đời sống, ngòi bút thơ trẻ lại dâng lên nguồn
cảm xúc mới. Hiện thực chiến tranh càng chi tiết, xác thực hơn. Vương Trọng cảm
nhận cuộc sống cay cực của người nông dân từ hình ảnh giàu sức gợi: Cọng lúa gầy
xác xơ ruộng chua/ Những bông lúa gặt cùng hoa cỏ/ Hố củ mài dắt người xa quê
cũ/ Thuế sưu đè xiêu vẹo dáng đi (Trong sắc lá mùa xuân). Trải qua chiến tranh, các
nhà thơ trẻ mang vào sáng tác của mình những sự kiện, chi tiết rất nhỏ của đời sống.
Nhưng chính từ những điều tưởng vụn vặt, nhỏ bé ấy lại nằm sâu trong sự thật chiến
tranh, trong hoàn cảnh đất nước và số phận con người những năm chống Mỹ. Con gà
đất trong lời hứa của mẹ năm xưa chỉ còn là niềm mơ ước không thành. Nhân vật trữ
tình chỉ còn một ước ao về con gà bốn mùa không vỡ nát, những con gà giục mùa sinh
sôi. Người thổi kèn với giấc mơ vụn vỡ thức động hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bằng
cái tôi nhạy cảm, tác giả cảm nhận tiếng kèn có ý nghĩa nhất trong đời người thổi kèn
giờ đây là thanh âm chân thật của cuộc sống buồn thương:
Những tiếng kèn
Nấc lên giữa bốn bức tường địa ngục
Ngoài cửa kia những đứa em giơ tay gầy chầu chực
Cuối đường kia rung đất tiếng bom rơi
(Con gà đất, cây kèn và khẩu súng)
Trong sáng tác vùng tạm chiếm miền Nam, chuyện đời thường phần nhiều gắn
với những nỗi buồn, những suy tư trĩu lòng của ngóng trông, chờ đợi hay đó là thế
giới nỗi niềm phức tạp của con người… Chủ thể trữ tình nhẩn nha kể chuyện quê
hương, song thẳm sâu là cái tôi day dứt cho thân phận con người: Hải Phố quê
hương tôi/ hôm nay có tiếng người uất nghẹn/ có tiếng kêu của những đời cùng bần/
trong âm thầm mơ ước một ngày vui/ có mẹ chờ con, tóc dài theo tuổi nhớ/ mong
101

ngày về, ngồi hát giữa sương khuya (Hải Phố, quê hương tôi ngày tháng tuyệt vời -
Trần Phá Nhạc). Thái Ngọc San lại có cái nhìn ám ảnh về dấu vết u buồn của cuộc
sống hằn trong kí ức:
Tôi vẫn đi qua những con đường
Khô dấu cây in hằn dấu đạn
Có những hình người thật lạ lùng
Có những khẩu súng thật lớn
Những hố bom thật sâu, những mộ phần thật lạ
Có những tiếng cười thật nhăn nheo
In dấu tích rạn vỡ
Tôi nhìn tôi thật đau thương
Cẳng chân dài đi qua phố chết
(Về những con đường khô cây)
Tiếng nói của cái tôi trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam thường là tiếng
nói xoáy vào bi kịch chiến tranh. Hiện thực thời chiến đâu chỉ có chiến trường ác
liệt, đâu chỉ là lửa đạn bom rền. Đó còn là những mảnh đời trôi nổi, những âm thanh
đớn đau giữa lòng đô thị. Mang nặng nỗi đau Bắc Nam hai miền chia cắt, những
nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam hơn ai hết thấu chịu sự tủi phận này. Nỗi đau
thắt lòng họ vẫn là hậu quả của sự cách chia. Cái tôi trữ tình đồng cảm xé lòng với
những thân phận đánh mất tiết trinh trước đồng đô la bẩn thỉu. Kiếp người bất hạnh
trong cuộc sống đời thường đã không đi ra ngoài ống kính nhân văn của các nhà thơ
trẻ. Quả thật, họ không chỉ sống với tuyên ngôn nghệ thuật làm thơ ghi lấy cuộc đời
mình mà còn làm thơ để thấm nghiệm cuộc đời. Nỗi tủi nhục của nhân vật trữ tình
cũng chính là nỗi nhục của đồng bào, của người nghệ sĩ. Không chỉ phải hứng chịu
sự tàn sát đẫm máu của đế quốc về mặt thể xác mà nhân dân còn đứng trước nguy
cơ bị hủy hoại nhân phẩm: Chúng mua lấy tiết trinh em gái ta bằng những đồng đô
- la đỏ/ Nước mắt nào rửa tủi nhục cho em/ Thân xác ê chề, lê lết từng đêm/ Từng
phút mua vui cho loài man rợ (Sài Gòn ơi, Vùng lên! - Trần Quang Long). Những
hình ảnh bé thơ vô tội sắp chông chênh giữa dòng đời cuồn cuộn, không đủ cái ăn,
102

không đủ ấm, thiếu tình thương không khỏi đánh động đến tâm hồn người nghệ sĩ:
Những tuổi thơ trong nhà tù, trong góc chợ/ Những vành môi khát sữa, những bước
nhớ lang thang/ Những tuổi thơ héo tàn trong vòng nô lệ (Ngày sinh của bé - Trần
Quang Long). Có khi đó là bức tranh cộm lên đường nét cay cực, lam lũ của con
người trong cuộc mưu sinh: Anh bạn tắc xi/ Cụ xích lô đạp mướn/ Có còn những tên
lính viễn chinh cười nghiêng ngả như điên/ Quỵt tiền từng cuốc xe giữa trưa mồ hôi
nhỏ giọt/ Này chị hàng rong quảy gánh bún bò/ Này thím đẩy xe bánh mì giữa chợ/
Liệu có kiếm một ngày ba bữa đủ ăn (Gửi một người bạn xưa - Tần Hoài Dạ Vũ).
Chủ thể trữ tình dường như không chấp nhận sự tương phản giữa cái rực rỡ của một
phần cuộc sống lợi danh với những trái tim không màu, những người còn thiếu áo,
những xác người vây máu (Mùa đông - Nguyễn Đông Nhật). Cái tôi mang nỗi buồn
dự cảm trước sự thất lạc, kiếm tìm người thân của những em thơ trong chiến tranh.
Chủ thể như chịu lỗi, như dỗ dành để làm dịu đau những cuộc đời bất hạnh. Thời
gian và không gian đều trĩu nặng nỗi niềm. Câu chuyện dự báo trở thành niềm ám
ảnh những trái tim đau đáu yêu thương con người: Những đôi mắt trông tìm nhau
tội nghiệp/ gió lên rồi, thôi khép cửa đi em/ em bé thơ, mà vì sao em khóc/ mà lòng
anh như có lỗi không đành/ Em sẽ khóc quàng khăn tìm kiếm chị/ ta xa rồi khi gió
mới sang đông/ tiếng chân tan và đêm ngoài khung cửa/ em nghe gì trong những
hạt mưa không? (Bé thơ - Ngụy Ngữ).
Các cây bút “viết trên đường tranh đấu” thành thị miền Nam dường như đi vào
từng chi tiết của chiến tranh, không phải để mất niềm tin, cũng chẳng phải để đi ra
khỏi thực tại mà cốt để quay lại những thước phim thời sự nóng hổi. Thơ trẻ đi sâu
vào cuộc sống loạn lạc, khắc họa cái tôi trữ tình đầy ám ảnh. Chiến tranh là sự tàn
tạ, chết chóc; chiến tranh là thanh âm, hình ảnh hoang mang đến vô hồn: tôi cúi đầu
đi giữa thành phố chiến tranh/ chiều đã chết thây phơi cùng gạch ngói/ từng đoàn
người chạy loạn nối đuôi/ những bàn chân hốt hoảng/ những đôi mắt không hồn
(Tro tàn trong một thành phố - Tần Hoài Dạ Vũ). Những vần thơ 1965 - 1975 như
một sự tái hiện cái tôi nhân chứng tỉnh táo, nhưng ẩn bên trong là cái tôi chạnh lòng,
quay quắt: Người bỏ nhà bơ vơ tìm đất sống/ Khói lửa vây quanh sự nghiệp
một đời/
103

Người gục ngã lên nhau, trong tiếng súng/ Bên lúa vàng hạt máu vẫn còn tươi (Lúa
chết bên xác người - Đông Trình). Cũng như nhiều cây bút trong phong trào học
sinh sinh viên thành thị miền Nam bấy giờ, Đông Trình gửi vào thơ cái tôi nghiệm
suy về số phận con người. Chiến tranh trong cái nhìn của nhà thơ trẻ này có lúc bị
vây bủa bởi những cái chết ngấm đầy bi kịch: Và em ơi, trên trang tư tờ báo/ Có bao
nhiêu người đã uống thuốc quyên sinh/ Mẹ chết bên con cho vẹn nghĩa gia đình/ Anh
bên xác em chồng bên xác vợ/ Có người chết ba ngày mắt còn mở/ Người chết năm
ngày không có mùi hôi/ Bởi những tấm thân bỏ đói lâu rồi/ Uống nước cầm hơi chờ
ngày tắt thở (Vì những người chết không nhắm mắt - Đông Trình). Người cầm bút
phơi bày sự thật khủng khiếp thường trực trên quê hương, trong nỗi niềm ngượng
ngập, buồn đau: Làm thế nào để nói với em/ Về thành phố anh đang sống?/ Chiến
tranh, rác rưởi và mộ người/ Hàng ngày chen nhau chiếm từng khoảng đất/ Làm thế
nào nói với em về những đứa học trò/ Ban ngày đến trường, ban đêm rước khách,/
Gặp thầy ở mỗi ngã ba/ Chiếc áo nữ sinh không che sự thật (Vô cùng linh thiêng
như nghe theo tiếng gọi). Trong Giọt lệ mừng, tác giả dựng lên sự đối lập giữa hai
hình ảnh ám gợi: bàn tay đẫm máu sát hại và bàn tay nhặt nhạnh kiếm sống bên
đường: Vẫn còn nguyên một lũ giết người/ Trong ngân hàng máu vẫn còn tươi/ Còn
em tay nhỏ đi qua phố/ Cúi nhặt bên đường hạt gạo rơi. Cái tôi trong thơ Đông
Trình mang cái nhìn xoáy sâu vào ngang trái, bi kịch chiến tranh. Khi đến với tập
thơ Rừng dậy men mùa, người đọc như đang đối thoại với cái tôi đầy ý thức dấn
thân của thế hệ trẻ trí thức miền Nam: “Trong hoàn cảnh cùng khổ chung, người
nông dân còn kiên gan cúi xuống cày cấy trên ruộng đồng bom đạn, chúng tôi vẫn
kiên tâm cúi xuống viết lách trên vùng đất văn hóa trổ đầy trái độc” [226]. Khởi đi
từ quan niệm cầm bút như thế, tác giả nặng lòng với kiếp người đang đối mặt với sự
sống mong manh. Lời thơ như chênh chao trước khoảng sông đau, nhưng sâu thẳm
cái tôi là niềm đau về cái chết tức tưởi của con người:
Bờ khuya bóng núi chập chùng
Thuyền em len giữa một vùng bất an…
Bỗng súng nổ!
Đau làn nước biếc!
104

Sông bị thương…
Nhưng không thể chết
thay người!
(Người em gái bên kia cầu sông Vệ)
Nỗi oán hận của cái tôi thơ trẻ thành thị miền Nam là lời kết án đanh thép tội
ác chiến tranh. Trần Quang Long đặt vào dòng thơ tranh đấu một sự thật nhói lòng.
Hiện tại và cái chết chỉ cách nhau một lằn ranh mờ nhạt. Ở đó con người gần như
mơ hồ trong cõi sống: Bây giờ con sống đây/ bên những người đã chết/ bên những
người đang chết/ cuộc sống mù lòa giữa mặt trời đen/ con mang máng thấy mình
còn sống (Thưa mẹ, trái tim). Không phải đây là niềm bi quan, chán chường của thế
hệ thơ trẻ. Trần Quang Long, cũng như bao sinh viên sống giữa những ngày Huế đổ
máu, thức nhận rất rõ về cái giá quá đắt của chiến tranh. Trái tim buốt xát của nhà
thơ yêu nước muốn khơi tận vào sự thật cay xót của những ngày đạn lửa. Thế giới
tinh thần con người chao đảo trước bờ vực sống và cõi chết. Trong nhãn quan nghệ
thuật người cầm bút, chiến tranh làm tắt lịm thanh âm hạnh phúc, chỉ còn nghe tiếng
đắng cay tức tưởi: Con nghe tiếng kêu la của bà mẹ đi tìm/ quờ quạng xác con trong
căn nhà gạch vụn/ oanh tạc vùng tình nghi/ Con nghe tiếng quay cuồng của vũ điệu
về khuya/ từng tràng cười ré lên như địa ngục/ những tiếng cười xen vào tiếng nấc/
thằng bé con lượm mẩu bánh mì rơi. Sự đối lập giữa tiếng kêu la của bà mẹ và tiếng
quay cuồng của vũ điệu về khuya, giữa những tiếng cười xen vào tiếng nấc và
những tràng súng vô nhân là sự tương phản giữa bản chất phi nhân tính của bọn
giặc thù và thế giới tinh thần hoảng loạn của đồng bào ta. Đây có thể xem là một
trong những chuỗi âm thanh ám gợi nhất của thơ thời chiến. Cái tôi ám ảnh trước
bao thân phận đang hứng chịu tủi nhục trong thế giới thu nhỏ của chém giết, tội lỗi:
tuổi mười sáu đến vũ trường chân đô thị chân quê/ em khập khiễng bán hàng chào
nón sắt/ mẹ cha ngồi vỉa hè chén cơm chan nước mắt/ đồng dollar ôm thân phận
Thúy Kiều/ những con mắt hỏa châu hậm hực sợ tình yêu/ tiếng đại bác lõa lồ đêm
tao loạn (Siêu thị chiến tranh - Bùi Chí Vinh). Các nhà thơ trẻ “viết trên đường
tranh đấu” trong lòng đô thị miền Nam trải nghiệm những ngày tháng khốc liệt của
105

chiến tranh trong một tâm trạng riêng. Họ đối mặt với cái chết như chuyện thành
quen. Họ giành từng phút giây được sống, được làm người trong lòng chảo thiêu đốt
của đế quốc và tay sai. “Họ đã sống đúng như họ viết, trong suốt những năm dài
chống Mỹ, giải phóng miền Nam. Không những họ đã sống, mà họ còn có những
khát vọng muốn những người cùng thế hệ với họ, nói rộng ra là muốn đồng bào của
họ, cũng sống như thế” [186, tr.85]. Cái tôi trữ tình vì thế chạm vào bi kịch chiến
tranh, không phải để kêu than mà để nguôi đi phần nào nỗi đau uất nghẹn.
Những thân phận đáng thương như thế luôn thường trực và xoáy sâu vào tâm
thức của những nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, nhất là những cây bút không
nằm trong dòng chủ lưu của thơ ca cách mạng, mang thế giới quan, quan niệm nghệ
thuật riêng. Đúng như một nhận định về “thế hệ hai mươi” trong lòng đô thị miền
Nam: “Nếu thế hệ nào, lúc trưởng thành cũng cảm thấy ít nhiều bơ vơ, thì thế hệ hai
mươi là thế hệ bơ vơ hơn hết, lạc loài hơn hết” [229, tr.47]. Bởi thất vọng trước một
thực tại tang thương, trong vùng tạm chiếm miền Nam bấy giờ, đã có một bộ phận
nhà thơ nhìn cuộc chiến tranh như một bi kịch và từ đó, tự họa thế hệ thành một chân
dung buồn thảm: quá khứ chết đầy bóng tối ma chơi/ tuổi trẻ hôm nay lớn lên/ sao
quá nhiều buồn bã (Trong cơn mê sảng - Võ Tấn Khanh). Trong tư duy nghệ thuật
của bộ phận nhà thơ này, quả thật chiến tranh được nhìn từ phía khác. Với cảm thức
bi phẫn của cái tôi trữ tình, chiến tranh là cái giá nghiệt ngã cho những cuộc đời
xuân sắc, là hố sâu đau thương vò xé con người:
Mày gởi một chân ngoài trận
mạc Mang về cho mẹ một bàn
chân Mẹ già khóc đến mù hai
mắt
Ðời tàn trong lứa tuổi thanh xuân
(Căn bệnh thời chiến - Nguyễn Bắc Sơn)
Cái thảng thốt của con người thời chiến dường như đã thành thường trực, tạo
nên bản sắc của cái tôi trữ tình thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, nhất là ở những
tiếng thơ mà cuộc đời của tác giả là một hành trình rẽ lối, không tìm thấy số phận
mình trong số phận dân tộc. Đó thực sự là hình tượng cái tôi trữ tình ám ảnh cảm
106

thức bi kịch chiến tranh, với thân phận bơ vơ giữa bản đồ cuộc đời chi chít âu lo:
đời đóng khung trong những ô vuông/ và phận người một hàng tọa độ/ vẫn địa bàn
đong đưa trước mặt chỉ đường/ nhưng bắt đầu đưa chân thế hệ mình đã lạc (Về
những ngày sắp tới - Nguyễn Phan Thịnh). Có lúc chủ thể trữ tình lí giải về cuộc
chiến thông qua những vết tích lở lói trên cả thể xác lẫn tâm hồn con người thật ám
gợi: quê hương vẫn trên một dòng nước mắt/ những niềm đau lở lói khắp thân
mình/ bom đạn đó mảnh vùi sâu đáy đất/ hoa màu nào đủ sức nhuộm cây xanh
(Ngọn đuốc nào - Lữ Quỳnh). Cũng mang nặng ẩn ức về sự thật khủng khiếp của
chiến tranh, trong thơ Nguyễn Phan Thịnh, ngập ngụa những dấu hỏi xé lòng:
Tôi hỏi những người mặc áo tu hành
Bài kinh nào dành cho chiến tranh
Bài kinh nào dành cho khốn khó
(Xin cho tôi được hỏi)
Không chỉ số phận con người mới là đề tài ám ảnh các nhà thơ trẻ. Họ còn tìm
chất thơ ngay trong thế giới tự nhiên, ngay trong những vật vô tri vô giác. Qua nhãn
quan phi sử thi, những gì xung quanh thế giới con người cũng mang thân phận
chiến tranh. Nhà ga tan vỡ, tất cả là cái còn lại trơ vơ: Thôi mất rồi, nhà ga cũ bay
đi/ Phố nhỏ ngủ chập chờn khi người tạm vắng/ Im lặng những chồng gạch vụn/ Im
lặng những ánh đèn ghi/ Im lặng những đường ray bên hố bom lở loét/ Im lặng
những tán bàng quen thuộc (Ga quê hương - Ngô Văn Phú). Nguyễn Duy cũng đã
dành một góc riêng cho những cảm xúc đời thường. Tác giả nghe trong thớ đất âm
thanh đau buốt: Đất cựa mình sầm sịch trong khuya/ Bị chặt làm đôi, đất đau không
ngủ được! (Khẩu súng trên tay ta). Trong khi đó, Lưu Quang Vũ lại dồn tình
thương cho từng điều nhỏ nhoi vô tội trước bão lửa chiến tranh, qua cái nhìn rạn vỡ
đời tư: Bao bài ca xáo trộn trong tôi/ Có tiếng khóc của con chim gãy cánh/ Tiếng
đau rên của ngôi nhà đổ sập/ Tiếng con thuyền không về được bờ quen/ Tiếng mưa
rơi trên ngọn cỏ yếu mềm… (Tôi chẳng muốn kỉ niệm về tôi là một điệu hát buồn).
Vòng vây giam hãm của nhà tù đế quốc làm biến dạng mọi thứ xung quanh, kể cả
tạo hóa. Trước lăng kính của nhà thơ quân đội, song sắt nhà lao đồng nghĩa với cắt
107

chia; cướp đi của con người màu thiên thanh trong trẻo. Thơ Vương Trọng thể hiện
niềm căm thù qua cái tôi trữ tình đầy ám gợi. Không gian sống chỉ còn là hủy diệt.
Xót xa nhất vẫn là màu trời, chỉ còn trong tâm tưởng con người: Song sắt nhà lao xẻ
trời thành thanh nhỏ/ Mảng trời mẹ nhìn bầm như máu ứ/ Mười năm chúng giam
mẹ trong lao/ Trời chỉ còn xanh trong thương nhớ, khát khao (Khoảng trời mắt mẹ -
Bầu trời của con). Sự hủy diệt của bom B.52 luôn là nỗi kinh hoàng của con người.
Dấu vết để lại là di chứng, là tang tóc. Cái tôi trữ tình trong thơ Phạm Tiến Duật rất
mực đau xót trước sắc xuân trong những ngày giặc trút bom, một mùa xuân trắng
xóa màu tang: Trước mùa xuân điều tôi muốn nói/ Cứ ghìm trong lồng ngực tôi
đây,/ Giặc trút bom B.52/ Hố bom giữa ruộng cày, hố bom trong thành phố,/ Giặc
muốn dựng mùa xuân bằng cây thập tự/ Chúng trang trí mùa xuân bằng những dải
khăn tang (Trước mùa xuân điều tôi muốn nói - Phạm Tiến Duật).
Mang trái tim đa cảm, Xuân Quỳnh cũng như những người bạn thơ cùng thời
không khỏi bàng hoàng, sửng sốt trước bức tranh cuộc sống bị tàn phá dưới bom
đạn dữ dội: Mảnh đạn bom và chất lân tinh/ Đã phá sạch không còn chi nữa/ Chỉ có
sắt, chỉ còn có lửa/ Và cuối cùng còn có đất mà thôi (Cỏ dại). Ngòi bút dừng lại ở
hiện thực hằn sâu nỗi đau mất trắng: Những năm chiến tranh người đi biển đi sông/
Sau mỗi trận bom trở về không nhận ra nơi mình đã ở (Em có đem gì theo đâu).
Cũng trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, khi chiến tranh dội vào cuộc sống
quá nhiều cảnh tượng nghiệt ngã, miền nội cảm của người nghệ sĩ như chẳng thể
còn chỗ cho những niềm đau riêng. Cái tôi hoảng loạn trước khoảng thời gian dồn
chất chết chóc, tang thương - mười hai ngày cùng tận của lòng đau: Gió Đông Bắc
thổi qua nền gạch vụn/ Trên máu người bị giết ở Khâm Thiên/ Con búp bê mặc váy
vải màn/ Nén hương gãy, miếng cau khô rải rác…/ Dẫu trong em một tình yêu đã
mất/ Em không còn đủ sức nghĩ về anh! (Những năm tháng không yên). Trong cảm
quan của Phan Thị Thanh Nhàn, chiến tranh lại là một vùng không gian trống rỗng,
chẳng còn gì ngoài nỗi hốt hoảng của con người: Những gốc si già như cổ tích/
Những hốc đá hoang vu, những vực sâu gió hút/ Cũng bật tung lên sau những tràng
bom/ Ở đây, một ngọn cỏ cũng không còn (Mở đường).
108

Đi sâu vào cuộc sống chiến tranh, thấm nghiệm nỗi đau chiến tranh là tâm thế
của lớp nhà thơ trẻ. Cùng xuất phát từ tư duy nghệ thuật như thế, song ở mỗi vùng
thơ, cách trải nghiệm đau thương, mất mát cũng có những nét riêng. Tiếng thơ của
những cây bút miền Bắc và vùng giải phóng đã khơi sâu vào hiện thực, đã thấm
nghiệm bi kịch chiến tranh. Tuy nhiên, ở thế hệ thơ trẻ trong lòng đô thị, nỗi đau
chiến tranh buốt xót đến tận cùng. Với tư cách là người trong cuộc, ý thức sâu sắc
về sự mong manh của từng thời khắc sinh tồn, thế hệ thơ trẻ đã thể hiện sâu sắc tư
duy nghệ thuật của thời đại. Trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi
khắc khoải, giằng xé, dấn thân trở thành thường trực. Chính những nét riêng đó góp
phần làm đa dạng chân dung cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này.

2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư

Như một sự phá vỡ mô hình sử thi, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ còn thể hiện
cảm quan phi sử thi ở khía cạnh đời tư, một sự tự nghiệm số phận. Trước hết, đó là
sự bế tắc của con người cá nhân trước cuộc đời hiện hữu, trước những điều bi đát
của hậu quả chiến tranh: đường tôi đi có bom và đạn/ có hận thù trên mỗi dấu chân/
ai thả vào hồn tôi mới lớn/ những mùa xương máu ngập tang thương (Đi giữa chiến
tranh - Phạm Cao Hoàng); là sự cô đơn, thậm chí cô độc trong hành trình tìm kiếm
chính mình; là nhu cầu tự do đích thực; là khát vọng không thỏa của con người
trong ý thức đào sâu vào bản ngã; là biểu hiện của ý thức hiện sinh… Như đã khẳng
định, sự xuất hiện của những biểu hiện đó không phải là âm hưởng chủ đạo của
tiếng nói trữ tình trong thơ giai đoạn này, song lại là điểm nhấn, là sự hoàn thiện
chân dung cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975. Có thể xem đây là sự khẳng
định tính tất yếu của dạng thức cái tôi phi sử thi với biểu hiện của cái tôi tự nghiệm
số phận đời tư.
Cuộc đời là một hố sâu bi thảm, thân phận con người là một sự “ruồng bỏ”,
con người đồng hành cùng với cô đơn... là những quan niệm nghệ thuật về con
người trong thơ trẻ 1965 - 1975 minh họa cho cảm thức hiện sinh. Đây là một trong
những tín hiệu để nhận diện cái tôi trữ tình tự nghiệm số phận đời tư trong thơ trẻ.
109

Ở thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, dấu ấn hiện sinh đã hiển lộ. Trong chặng
đời đổ vỡ, nhà thơ vùi thời gian vào những bức tranh nổi gió ở trên tường trong
cảm giác cô đơn: Gió âm thầm quằn quại, Trời chuyển gió sắp quay cuồng bão lớn,
Gió đã thổi ngàn cây nến tắt, Tôi chỉ là cây trong nỗi buồn bão gió, Lòng tôi trắng
mà mùa thu gió độc, Bao giấc mộng gió đuổi vào dĩ vãng Cái tôi thu mình trong
tiếng lòng cô độc: Đêm nay tôi chẳng biết lối về/ Phía nào cũng hàng rào trước
mặt/ Thế giới có bao nhiêu tường vách/ Ngăn cản con người đến với nhau (Mấy
đoạn thơ…). Lưu Quang Vũ tự cảm không còn gì trong đời có thể làm chủ thể vợi
đi hoang vắng và quạnh quẽ: Có những lúc tâm hồn tôi rách nát/ Như một chiếc lá
khô như một chồng gạch vụn (Có những lúc). Như một thái độ triết học, chủ thể bộc
lộ sự cô đơn - một khát vọng tận cùng để đạt đến bản chất của con người là tự do, là
sự bứt phá trong tuyệt vọng, vươn đến “đảm nhiệm” cô đơn trong cuộc kiếm tìm tự
do. “Người hiện sinh không lảng tránh cô đơn mà đảm nhiệm cô đơn” [28, tr.103].
Tuy nhiên, nếu con người trong triết học hiện sinh cô đơn vì không thể tựa vào “tha
nhân” thì đối với con người trong văn học hiện sinh, mang cảm giác cô đơn thậm
chí cô độc là bởi cảm thấy bất an, ám ảnh, đổ vỡ trước thực tại ngột ngạt. Trong thơ
trẻ, cái tôi không chỉ cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa không - thời gian mà cô đơn
trong cả bề sâu tâm tưởng. Chìm sâu vào tuyệt vọng, trong thế giới thơ Lưu Quang
Vũ ở chặng đổ nát đời tư, cái tôi trữ tình mang cảm thức hiện sinh thường hiện diện.
Chính nhu cầu hiện sinh đã tạo nên trạng thái cái tôi cô đơn đến cô độc, cô đơn
ngay giữa đám đông, bên cạnh người thân. Cô đơn ngay cả trong sự ấm áp, sẻ chia:
Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ/ Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào/
Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao (Mấy đoạn thơ).
Mang tâm thế của một trí thức yêu nước sụp đổ niềm tin, trong “Ngụ ngôn của
người đãng trí”, Ngô Kha cũng chạm vào những phạm trù của triết học hiện sinh.
Chủ thể trữ tình nhìn thấy cuộc đời chỉ là muộn sầu; con người bế tắc giữa thực tại
đầy nghịch cảnh: và cho tôi/ nhìn nếp nhăn bao la trên vừng trán mẹ/ vết thương
mưng mủ trong mạch máu quê hương/ ôi tiếng đàn không thanh âm không hương
sắc/ như nước mắt vốn là loài vô tri/ tất cả chỉ là dây đàn phiền não (Ngụ ngôn của
110

người đãng trí). Tác giả hình thành một ý niệm sống trong cõi chết: ôi ta nghe gì
em/ tháng ngày/ ôi ta thấy gì em/ ly thân với cuộc đời bằng bão tố/ mỗi ngày ta
hằng chờ đợi/ ngày ngày mặt trời giết ta. Cái tôi vô vọng trong hành trình đi tìm
chính mình: tôi vẫn là người chỉ còn một giác quan đơn độc, thậm chí đối diện với
cái chết: chỉ muốn tự sát bằng cô đơn nên chẳng bao giờ chết. Có thể thấy rằng đây
là tín hiệu của cảm thức hiện sinh trong một số cây bút trẻ vùng tạm chiếm miền
Nam, nơi chủ nghĩa hiện sinh đã xuất hiện vào những năm 50 của thế kỉ XX, đặc
biệt dấu ấn hiện sinh của Sartre đã hiện diện đậm nét trong văn học Sài Gòn 60 - 70.
Cũng xuất phát từ chất liệu đề tài thiên nhiên, cũng từ cảm quan phi sử thi của
thơ trẻ miền Bắc và vùng giải phóng, thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam thể hiện cái
tôi trữ tình qua lăng kính nội cảm phức tạp của chủ thể. Ở đó, ngoại giới in đậm cái
tôi ngẫm suy về số phận đời tư. Có khi lay thức tâm can chủ thể trữ tình là ngăn
cảm xúc đời thường với cảm quan thiên nhiên đầy suy tư của cái tôi. Thiên nhiên
gắn với cõi mộng hung tàn, với tiếng tang thương; gắn với đời sống nội tâm đa
đoan của con người. Thanh Tâm Tuyền - một phong cách thơ đậm cá tính sáng tạo
của miền Nam - góp phần khắc họa sinh động hơn cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai
đoạn này bằng những tiếng thơ nặng trĩu ưu tư như thế. Mang nỗi buồn của một lớp
người được nhìn nhận là lạc điệu với dòng thơ “viết trên đường tranh đấu” trong
lòng đô thị song tiếng thơ Thanh Tâm Tuyền lại chạm vào những vùng xúc cảm đời
thường rất thật của một bộ phận tuổi trẻ miền Nam bấy giờ. Cái tôi trữ tình gửi cảm
thức cô đơn vào thiên nhiên như một lời thú nhận thành thật: Trắng phếu sườn non
ngày mới chớm/ Một đoá trăng tàn lẩn lút bay/ Mùa hiu hắt thổi hoang vu quyện/
Lòng ta lạnh vắng như cỏ cây (Đỉnh non xa). Ở thế giới thiên nhiên trong thơ Trần
Dzạ Lữ, cái tôi trữ tình cũng gắn với cảm thức lạc lõng, thậm chí oán thán: Em
đừng hỏi rừng có gì lạ/ Có gì đâu xương rã với hồn đau/ Và khi không tháng giêng
lên núi/ Đời đày ta và thần thánh xa nhau (Gửi người ở lại).
Đối mặt với cuộc sống ngột ngạt, con người rơi vào bế tắc; hoàn cảnh xã hội
bi đát khiến tôi mang thân phận bi thảm… Đó là “nỗi cô đơn siêu hình của người
viết trước tờ giấy trắng (…), những cô đơn trong tập thể văn nghệ, trong xã hội và
111

trong chiến tranh” [168, tr.37], là dấu ấn hiện sinh đậm nét trong những tác phẩm
viết về thân phận con người của các cây bút không tìm thấy lí tưởng cách mạng, lí
tưởng thời đại. Ở đó, con người rơi vào tấm thảm kịch cô đơn và giải thoát mình
bằng tự do, bằng cả cái chết… Cái tôi bế tắc, nổi loạn và khước từ tất cả. Đây là sự
dồn chất của cái tôi cô độc tột cùng trong hành trình sáng tạo khi đeo nặng nỗi ám
ảnh về sự diệt vong, là nổi loạn để giải thoát: Trong mỹ từ của người đã chết/ người
đang chết/ và những người sắp đi vào cõi chết/ đoàn tử tù cất nhịp hát hò lơ/ đoàn
tử tù đi vào trong núi đá/ tiếng mù đã lên cao/ ru bình yên những linh hồn tuyệt
vọng (Ngụ ngôn của người đãng trí - Ngô Kha). Đây cũng có thể xem là biểu hiện
cao độ của cái tôi phản tỉnh - một sắc thái đầy sức ám gợi của cái tôi tự nghiệm số
phận đời tư. Và khi ám ảnh về một cuộc chiến buồn ảm đạm, cái tôi trữ tình trong
những hồn thơ cô độc càng đeo nặng cảm thức tự trào, trong tự trào có cả chất vấn
xót cay: ai thổi vào hồn tôi khúc nhạc/ ngàn năm réo gọi kiếp đời tôi/ nơi đây có kẻ
tìm non nước/ lang thang bên những mộ bia người/ ai bắn vào hồn tôi trái nổ/ đứt
từng mạch máu nát tim tôi/ vỡ vỡ chiều nay tôi sắp vỡ/ chiến tranh chiến tranh bao
giờ thôi (Đi giữa chiến tranh - Phạm Cao Hoàng). Xuất hiện trong thế giới nghệ
thuật thơ rất nhiều tâm thế cái tôi hiện sinh cô độc định mệnh: Ta mắc bệnh ung thư
thời chiến/ Thoi thóp còn một trái tim khô/ Sợ hãi con người hơn thú dữ/ Nhìn nơi
nào cũng thấy hư vô/ Mai kia trong những ngày ngưng chiến/ Ta chắc rằng không
thể yêu ai (Căn bệnh thời chiến - Nguyễn Bắc Sơn). Cái tôi ý thức về cái chết như
một con người của triết học hiện sinh, là cách để được giải thoát: lấy chết để giải
khuây, là tôi tàn phá mặt tôi đi trốn kiếp người (Tô Thùy Yên) hay cái tôi ám ảnh về
sự tan rã, hủy diệt như một nỗi buồn thân phận: Rồi tôi về như một hồn ma hiện/
Nơi mái nhà xưa run lạnh hoang đường/ Tôi đứng đó sắt se ngày mãn cuộc/ Nghe
tiếng chim kêu hót nỗi đau buồn (Bài tình buồn - Trần Dzạ Lữ). Con người thấm
nghiệm bi kịch thân phận lạc loài: buổi chiều buồn hiu xe đò muộn khách/ như trạm
cuối đường chẳng bóng người quen/ như anh lính canh đứng lên ngồi xuống/ như
tôi lạc loài bó gối co ro (Chiều buồn và tôi - Tạ Thủy); thậm chí hoài nghi về kiếp
sống đang hiện hữu: tôi còn sống được là tôi nữa không (Hư ngôn 1 - Nguyễn Phan
Thịnh). Đúng như chân dung tinh thần của tuổi trẻ vùng tạm chiếm miền Nam đánh
112

mất niềm tin vào cuộc đời: “Con người đã chua chát suy nghĩ về sự hiện diện của cá
nhân mình - một sự suy nghĩ khẩn thiết có lý do - nơi đó sự bấp bênh của kiếp sống
sẽ xảy ra không báo trước” [10, tr.55].
Từ cảm thức cô đơn, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm đeo đuổi âu
lo, như là “sự phản tỉnh tự do bởi chính nó”, là “dấu hiệu trung thực của hiện sinh”:
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh/ Cơn nghĩ không sao cầm giữ nổi/ Như dòng lệ nào bất
giác rơi tuôn/ Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng/ Của chiến tranh mà em
không biết rõ (Chiều trên phá Tam Giang - Tô Thùy Yên).
Quan niệm thân phận con người như sự khởi đầu một kiếp, Du Tử Lê đón
nhận lo âu như thể đó là hệ quả của đam mê, là cách để hiện sinh: dẫu sao thì chúng
ta cũng không dễ gì thoát/ khỏi những lo âu mù mù thảng thốt khi cơn lốc đam mê/
tự hồn ta tấp tới (Khởi đầu một kiếp). Ngay trong cái sắp khai sinh đầy sức sống,
cũng xuất hiện cái tôi dự cảm: anh lang thang từ mùa xuân/ và cánh đồng cỏ nhọn/
những đồi cao lẩn khuất trong anh/ như thể đó mùa hạ sau sắp nở/ anh cũng già
nua cùng tuyệt vọng/ như nắng mai (Trên đỉnh trời An Khê - Trần Thúc Vũ).
Chống đối thực tại cũng là cách để thể hiện cái tôi nhập cuộc song có khi trong
thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, chúng ta bắt gặp không ít hình tượng cái tôi trữ
tình cô đơn đến trống rỗng, cái tôi “hãnh tiến trong hoang vu cũng như trong bức
bối của thời đại” [254]:
Có một quảng đời tôi để trắng
Sống cho qua
Qua
Cho qua luôn những tháng ngày còn của một đời
Những tình nghĩa không tròn
Những hận thù không trả
Những dự định không thành
Những nét mặt nhòe tan trong kí ức
Cũng cho qua
113

(Nói một mình - Tô Thùy Yên)


Cũng có khi trong thơ trẻ, hiện hữu một cái tôi phức hợp những trạng thái hiện
sinh: tôi hỏi mỗi người đi riêng con đường nào/ và sẽ gặp nhau ở nơi nào/ tôi hỏi
em ôm trong cánh tay tôi/ để thở than chúng mình không có quê hương/ chúng mình
sẽ chết giữa con đường/ và cát buồn cây cỏ/ tôi đã đi trong thành phố/ không tìm
thấy con người (Xin cho tôi được hỏi - Nguyễn Phan Thịnh). Có thể nói, cái tôi
mang cảm thức hiện sinh là một biểu hiện đặc sắc, là sự thể hiện cao độ của cái tôi
tự nghiệm số phận cá nhân - ám ảnh bi kịch riêng tư trong thơ trẻ 1965 - 1975, nhất
là thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam. Suy đến cùng, đây là sự thể hiện sâu sắc cái
tôi trữ tình mang giá trị nhân bản, đúng như tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh:
“không phải bằng cách quay về với mình mà bao giờ cũng bằng cách tìm ra ở ngoài
mình một mục đích tức là sự giải phóng nào đó, sự thực hiện yêu cầu riêng biệt nào
đó, thì chính khi đó con người sẽ tự thực hiện được tư cách người” [172, tr.32].
Trong cảm quan phi sử thi, cái tôi tự nghiệm số phận đời tư còn thể hiện đậm
nét trong cái tôi khắc khoải với nỗi niềm được mất trên địa hạt tình yêu. Đó là cái
tôi tình yêu với những lời thú nhận yêu thương thành thật; là ám ảnh chia li, mất
mát, đổ vỡ; là hoài nghi đầy dự cảm… Song ngay những bi kịch tưởng rất riêng tư
lại chạm vào nỗi lòng của không biết bao số phận tình yêu.
Chiến tranh tạo ra giằng xé, chia lìa; chiến tranh tạo ra những chênh chao,
khao khát, đợi mong… Vì thế, cái tôi trữ tình trên mảnh đất riêng tư ấy vẫn mong
muốn được trải mình trong nhiều cung bậc yêu thương. Ở đó, người đọc được sẻ
chia với những nhớ nhung thành thật, những lí lẽ tình yêu sâu sắc và còn cả những
nỗi niềm đa đoan… Chính những biểu hiện này đã tạo nên cái tôi chiêm nghiệm số
phận con người trên địa hạt tình yêu. Dẫu đến sau nhưng mảnh đất tình yêu trong
thơ trẻ 1965 - 1975 vẫn xôn xao làn điệu không trộn lẫn với thơ tình trước đó. Đó là
tình yêu mang gương mặt đa diện của thế hệ khát sống và khát yêu. Bên cạnh một
Nguyễn Duy khắc khoải, nồng nàn; một Thúy Bắc thao thiết, nôn nao; một Lâm Thị
Mỹ Dạ dịu dàng, trở trăn… là một Lưu Quang Vũ day trở, đa đoan; một Xuân
Quỳnh đầy dự cảm; một Lệ Khánh mê đắm trong nỗi buồn thân phận tình yêu; một
114

Trần Dạ Từ đầy hoài niệm, một Nguyễn Tất Nhiên đam mê yêu đến lụy tình… Tất
cả khắc nên những lời “tự tình” phức điệu của thơ 1965 - 1975.
Thơ trẻ đến với tình yêu trong nhiều nguồn cảm xúc không trộn lẫn. Có cái tôi
dịu dàng e ấp, có cái tôi sẵn sàng bày tỏ; có cái tôi muốn được chở che, lại không ít
cái tôi khát thèm là mái ấm… Một thoáng không dám tỏ bày, chỉ có cái sôi nổi vụng
về gửi vào hương hoa hay bối rối, e thẹn trong cái nhìn nhau không nói được thành
lời là những bản tình ca trong trẻo của thơ tình chống Mỹ. Một chút thầm thoảng
trong anh và em, chỉ kịp giấu tình yêu vào mùi hương sâu kín. Vậy mà tình yêu
dùng dằng, ngượng ngập lại vẫn cứ len ngấm vào tận chiều dài nỗi nhớ: Nào ai đã
một lần dám nói/ Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối/ Anh không dám xin cô gái chẳng
dám trao/ Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao/ Không giấu được cứ bay dịu nhẹ/ Cô
gái như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu (Hương thầm - Phan
Thị Thanh Nhàn). Hồn thơ Nguyễn Duy cũng say với những thoáng gặp gỡ, những
ý tình hò hẹn chưa thành lời. Và cái tôi vẫn không thể giấu mình trong lời tự thú:
Ngả bàn tay, nhớ bàn tay/ hương thơm buổi ấy thoáng bay trở về/ nói nhiều cũng
chỉ mình nghe/ nhớ nhau mình lại vuốt ve tay mình. Bên khung cảnh tỏ tình ý nhị
ấy, thơ tình thời chống Mỹ còn khắc họa một không gian lãng mạn mà cũng đầy cái
hổn hển mê say của tình yêu. Cái tôi rạo rực trước khoảnh khắc dịu dàng, mê đắm:
Từ môi mưa giọt xuống môi/ nhấm chung một giọt mưa rơi mặn mà/ áo em ướt lẫn
vào da/ tóc lẫn vào gió, gió là sợi tơ/ mắt em trong đến ngây thơ/ trong như nắng
giữa mịt mờ mưa giăng (Mưa trong nắng nắng trong mưa - Nguyễn Duy). Nguyễn
Duy nhiều lần thể hiện cái tôi tình yêu khắc khoải đến nao lòng. Tác giả làm thức
dậy những cung trầm yêu thương tưởng mờ nhạt trong thơ tình đương thời. Day dứt
cái tôi là âm thanh bàn tay của người yêu, trong đó tôi xáo lòng khi nhận ra bàn tay
nhiều vết xước: Không thể nào quên một buổi chiều nao/ tôi chợt biết tay em nhiều
vết xước/ ấy là lúc trong tay tôi rung lên ấm áp/ bản nhạc không lời mười ngón tay
em đan. Dẫu đó là âm thanh của cái nắm tay đằm thắm hay đó là tiếng đàn thăng
trầm bật lên từ cuộc đời dâu bể thì xoáy vào lòng cái tôi vẫn là dấu vết của đời
thường nhọc nhằn: Chưa sâu bằng đêm nay tôi nghe em/ tiếng đàn êm như tóc/
115

tiếng lận đận mây trôi bèo dạt/ tiếng bàn tay mang vết xước thường ngày (Âm thanh
bàn tay).
Nỗi nhớ là cung bậc cồn cào nhất của tình yêu, nhất là tình yêu trong thời
chiến, khi sự chia cách thậm chí là sự chia lìa luôn vây bủa con người. Nguyễn Đức
Mậu lắng nghe trong gian hầm ngột ngạt, cách chia với thế giới bên ngoài tiếng
khóc của những người con gái quắt quay trong nỗi nhớ người yêu. Nhà thơ tái hiện
một góc buồn tiềm thức của thân phận tình yêu trong chiến tranh: Tôi biết đêm nay
ở những căn hầm/ Các cô gái sẽ nói về mái tóc/ Sẽ có người trong mơ ôm mặt khóc/
Chợt nhớ về bàn tay người yêu (Điệp khúc một con đường). Cái tôi tình yêu thuở
đầu trong thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ cũng không tránh khỏi những thú
nhận thành thật: Nào đâu phải ngày đi không lưu luyến/ Mắt người trong như nước
giếng ban đầu/ Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau/ Còn biết mấy hẹn hò
dang dở (Đêm hành quân). Nguyễn Khoa Điềm có Những bài thơ tình viết trong
chiến tranh với những lời đính hẹn, những ngày hạnh phúc có thật dịu dàng và cả
những khoảng trống chơi vơi: Sao nỗi nhớ/ Lại làm mình xa đi/ Và trở lại/ Với
mình/ Sao khổ đau không thể cắt nghĩa/ Nào khác ngoài em/ Sao em cười và anh
đánh mất mình trong mênh mông đôi mắt. Trong hồn thơ ấy, rung động trái tim yêu
có khi chỉ bằng lời thú nhận chân thành: Anh nhặt cho em một vỏ hàu giữa truông
cát vùng sâu/ Rồi anh lại đặt hàu trên bờ sông thượng nguồn xanh thẳm/ Anh không
lơ đãng đâu em, ngày anh đi kháng chiến/ Anh gửi trên núi sông cả mối tình anh
thầm kín (Trên núi sông).
Khát vọng tình yêu mãnh liệt đến nỗi có khi cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ
thuật thơ nữ thể hiện niềm nhớ thật phức tạp: Em khác chi con tàu/ Nay đây rồi mai
đó/ Nên cả lúc gần anh/ Mà lòng em vẫn nhớ (Con tàu - Xuân Quỳnh). Phải chăng
đấy là cái lí của những hồn thơ quá đam mê yêu như Xuân Quỳnh. Dường như trái
tim quá sức vì khát sống khát yêu và một cuộc đời nhiều chống chếnh, đổ vỡ đã
hình thành trong thế giới nghệ thuật những khát khao tận cùng. Cái tôi trải mình
trong nỗi nhớ thật cụ thể, gần gụi. Những ngày tháng hạnh phúc, bình yên dường
như là khát thèm rất thành thực của người phụ nữ từng thấm nghiệm nỗi đợi chờ:
116

Đây cửa sông, nơi anh ra biển/ Nơi anh về. Mong anh được bình yên/ Được bình
yên trở lại cùng em/ Nhưng anh chỉ trở về trong những ngày bão tố (Một vùng cửa
sông). Xuân Quỳnh, người đàn bà từng ước trái tim mình là máu thịt để biết yêu anh
cả khi chết đi rồi lại thể hiện nỗi nhớ ở một góc độ khác. Cái tôi trữ tình hóa thân
vào con sóng bạc đầu, để được trải mình giữa bể tình vô tận. Có khi dịu êm nương
mình vào cát, có khi dâng trào như kéo cả bờ cát vào lòng biển sâu, cũng có khi
thao thức trong nỗi nhớ bờ… Cõi nhớ của người đàn bà phập phồng yêu đương
trong Xuân Quỳnh là vậy. Mãnh liệt mà đằm sâu, đam mê mà dịu dàng… Cái tôi
không giấu được khát vọng ngàn đời của những trái tim yêu: Ôi con sóng nhớ bờ/
Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức (Sóng).
Hoàng Thị Minh Khanh đã không giấu che cõi lòng người phụ nữ. Cái tôi say đắm,
hối hả tỏ bày nỗi nhớ với anh. Như thể chừng ấy cũng chưa thỏa cảm xúc đang
dâng đầy. Cái tôi càng muốn phơi trải, thú nhận, lời thơ càng sôi nổi, nồng nàn: Em
nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ/ Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi/ Em nhớ anh
không chỉ đêm trăng tỏ/ Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi… (Nhớ).
Sự cách xa, chiều dài năm tháng tạo thành nỗi nhớ. Có khi, một khoảng không
gian trong vắt cũng khiến con người thấy cô đơn. Trời xanh như có lỗi. Đó là tiếng
lòng cái tôi đầy khắc khoải. Lê Thị Mây có cách diễn tả nỗi nhớ như thắt vào không
gian: Ban mai em nhớ anh/ Một ngày mong vời vợi/ Trời xanh như có lỗi/ Giờ anh
đâu, ở đâu (Bài thơ buổi sáng). Qua lăng kính đợi chờ của một anh thương binh,
người nghệ sĩ lắng nghe được tiếng hạnh phúc của những ngày cách chia không thể
trọn vẹn. Bởi ám ảnh trong tôi - nhân vật trữ tình - là mặc cảm có lỗi, xót xa cho
lòng chung thủy còn nguyên vẹn dẫu ngày trở về có khi là biền biệt: Tôi trở về quê
hương/ Biết tám năm người yêu tôi vẫn đợi/ Lòng chung thủy làm tim tôi đau nhói/
Biết bao lần tôi lẩn trốn em (Anh thương binh kể chuyện - Lâm Thị Mỹ Dạ).
Thiên tính nữ là khát khao được nâng niu, vỗ về. Và trong thơ tình của những
nhà thơ nữ 1965 - 1975, người đọc còn nhận ra một biểu hiện khác của bản sắc cảm
xúc trong thơ họ. Đó là cảm giác muốn làm điểm tựa cho anh, được hát ru anh,
được quan tâm chăm sóc, được ôm vào lòng mình nỗi niềm của anh. Có được tình
117

yêu đầy che chở, bao dung như thế, người đàn ông như được sống trong tột cùng
hạnh phúc. Lời căn dặn của chủ thể rất đỗi đằm thắm, dịu dàng: Sao không cài khuy
áo lại anh/ Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét/ Gió nhiều quá, phòng trở nên chật
hẹp/ Bụi mù ngoài đường phố ít người qua (Trời trở rét). Cái tôi ân cần, tình tứ.
Câu hỏi là lời chăm lo của người phụ nữ. Tiếng thơ nhỏ nhẻ, như dỗ dành anh; như
hàm bao lo lắng. Phải có một trái tim yêu thương đằm sâu, người phụ nữ trong thơ
Xuân Quỳnh mới có những tình cảm ấm áp đến vậy. Tự xưa, lời ru đã đi sâu vào
tiềm thức của trẻ thơ trong những làn điệu hát ru con. Lời ru chính là chiếc nôi đầu
đời ngọt dịu nhất. Ở đây, lại xuất hiện lời ru của thế giới người lớn, đẫm giai điệu
tình yêu. Có cả lo lắng, tận tụy; có cả thầm thì tình tứ: Anh không ngủ được ư anh/
Để em mở quạt, quấn mành lên cho…/ Khuya rồi anh hãy ngủ đi/ Để em trở dậy em
che bớt đèn (Hát ru chồng những đêm khó ngủ). Cũng khao khát trao gửi yêu
thương, trái tim yêu trong một khúc tình ca của Thúy Bắc lại rút sợi nhớ để dệt nên
cả một trời thương che chở cho người mình yêu. Cái tôi rơi vào trạng thái hối hả,
nôn nao cốt chỉ mong làm người yêu hạnh phúc. Như chẳng còn cái khắc nghiệt của
Trường Sơn. Chỉ có khoảng không gian bình yên bao phủ lạ thường: Rút sợi
thương/ Chắp mái lợp/ Rút sợi nhớ/ Đan vòm xanh/ Nghiêng sườn đông/ Che mưa
anh/ Nghiêng sườn tây/ Xòe bóng mát/ Rợp trời thương/ Màu xanh suốt/ Em
nghiêng hết/ Về phương anh (Sợi nhớ sợi thương).
Với những cây bút sáng tác trên “trận địa đường phố”, cái tôi tình yêu cũng có
khi không giấu được chân dung nhớ thương lồ lộ: Có phải không Tố Chân?/ Mùa
đông năm nào anh trong lao xá/ Tay run mở gói nhận khăn quàng/ Em đan những
đêm vội vã/ Từng mũi nhớ thương/ Làm sao anh quên được/ Chiếc khăn tay run rẩy
sau tường/ Trời mưa… Từ giã (Tố Chân - Trần Quang Long). Trong Tình về, Đông
Trình cũng trải vào thơ một nỗi nhớ đến dằn vặt. Cái tôi quay về trong miền kí ức
với những trạng thái tâm trạng mâu thuẫn, xáo động. Lời thơ giằng xé trong tiếng
lòng tự vấn: Ngỡ người đã chết trong tôi/ Nhưng trên đỉnh nhớ mây trời còn bay/
Tôi thức đêm, tôi thức ngày/ Ôi sao tôi lại tự đày đọa thân.
118

Trong vùng tạm chiếm miền Nam, ở địa hạt tình yêu của những cây bút không
đứng “trên đường tranh đấu” cách mạng, cái tôi càng quay quắt trong cõi nhớ: trời
khuya mưa ướt đường dài/ nụ cười em rõ dấu phơi tuổi hồng/ ôi em mưa lạnh núi
sông/ ngày đi vỡ nát cánh đồng tình yêu/ trong xa biển sóng thủy triều/ bóng em
đâu thấy bọt bèo dạt trôi (Mưa thu trên quê hương - Thế Viên); khi không tình não
nùng buồn/ gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung/ gót chân ai nhẹ vô cùng/ dẫm lên
xác - lá - tôi từng tiếng kêu/ gót chân ai bước, nhẹ hều/ bước qua tôi, bước, hư
nhiều thói quen! (Hôm nay - Nguyễn Tất Nhiên). Mang cảm giác lạc lõng thời đại,
khi quay về thế giới riêng tư, người nghệ sĩ còn như khát thèm tìm lại nỗi nhớ của
tình tứ, ái ân: Anh bước đi và anh vẫn nhớ/ Anh nhớ đời chúng ta những dục vọng
dịu dàng (Khi trở lại Huế - Trần Dạ Từ). Với những tiếng thơ tuyệt vọng, ý niệm về
nỗi nhớ của cái tôi cũng chỉ song hành cùng héo mòn, trống rỗng: mùa hạ vừa bắt
đầu/ anh lãng đãng nghìn năm như bóng tối/ trên miền cao nhớ nhung/ nỗi héo mòn
nào bơ vơ như cỏ/ như nắng mai, như trái tim chàng/ cùng lời ru chớm muộn/ có
còn gì cho một đêm khuya (Trên đỉnh trời An Khê - Trần Thúc Vũ).
Tình yêu thời chống Mỹ thường gắn với giai điệu sôi nổi, gắn với nỗi niềm
hòa quyện trong tình cảm lớn lao hơn, thiêng liêng hơn - tình yêu Tổ quốc. Và tình
yêu cũng không xa rời hạnh phúc lứa đôi giản dị. Nhưng sau những bản tình ca đầy
màu lạc quan ấy là một phía ẩn khuất những sắc thái rất thật của tình yêu. Đây là
điều không thể phủ nhận khi đi vào vườn thơ tình của thế hệ thơ trẻ 1965 - 1975. Đó
là nỗi đau không thể nén lại, là bi kịch đời tư. Có thể xem đây là hệ quả của điểm
nhìn nghệ thuật đa chiều của chủ thể trữ tình, ở đó “điểm rơi của cái nhìn vào khách
thể” [53, tr.113] là thế giới hình tượng của những rạn vỡ, mất mát; những giằng xé,
nghiêng ngả; những vết thương không liền da; những phấp phỏng đầy dự cảm… Dù
chỉ tập trung ở một số hiện tượng thơ, những “điểm rơi” này cũng tạo nên điểm
nhấn trên khuôn mặt cái tôi thơ tình 1965 - 1975.
“Thường thì cái tôi trữ tình trong thơ dễ bộc lộ trực tiếp trong trường hợp viết
về chính bản thân mình và trong những quan hệ riêng tư. Với những loại đề tài này,
cái tôi trữ tình trong thơ thường phổ biến là cái tôi của tác giả” [45, tr.74]. Cái tôi
119

trong thơ tình yêu của Lưu Quang Vũ là hồn phách nhà thơ. Trong dàn hòa tấu của
thơ ca cách mạng, tác giả riêng mình nắn nót cung đàn tình yêu. Bằng cái tôi nội
cảm mang dấu ấn hiện sinh, một lần nữa, Lưu Quang Vũ gửi vào thơ niềm khắc
khoải giữa tình yêu và số phận con người: Anh là con ong bay giữa trời lận đận/
Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao (Bầy ong trong đêm sâu). Đây là lời tâm sự xót
xa trong tập di cảo Bầy ong trong đêm sâu. Trong khổ đau, sáng tác là nơi trước
nhất để người thơ thành thực giãi bày. Nỗi đau thổn thức thành lời làm nên những
vần thơ đẹp đến muốn khóc. Đương thời đây có thể là cái tôi trữ tình lạc phách thời
đại, một thời đại mà con người ta phải cố quên đi cái riêng tư để hướng về những
điều lớn lao gắn liền với sinh mệnh dân tộc song suy cho cùng đây là tiếng lòng của
một cái tôi lặng lẽ thương đời. Mang cảm giác bị bỏ rơi, lạc lõng, Lưu Quang Vũ
thường rắc lên vườn hoa tình yêu gam màu buồn. Cái tôi dỗi hờn, gần như thu mình
vào cõi đơn độc: Hoa tìm mùa xuân suốt đời chẳng gặp/ Anh suốt đời chẳng gặp
sắc tầm xuân/ Em hồn nhiên em chẳng biết anh buồn/ Em cứ kể về loài hoa bé nhỏ/
Những chùm hoa nở bừng trong gió/ Những chùm hoa ngày cũ chết lâu rồi (Hoa
tầm xuân). Cái tôi cô đơn đến tuyệt vọng. Không hiếm khi chủ thể trữ tình nếm trải
mình đến tự trào: Mất hạnh phúc rồi ư, nhưng anh cần chi hạnh phúc/ Hai tiếng xa
vời hiểu rõ nghĩa từ lâu/ Ừ thì ngẩn ngơ anh đành nhận thế/ Giọt lệ trong không tủi
hổ gì đâu. Nhưng thẳm sâu trong cái tôi vẫn là sự gắng gượng để nâng niu cái còn
lại của tình yêu vụn vỡ: Dẫu anh mất nhà ga êm đẹp đó/ Vẫn còn con tàu chuyển
bánh đi xa/ Anh đã mất ngôi sao trên mái nhà/ Anh vẫn còn ngôi sao ngoài cửa sổ/
Và nếu mất em rồi anh vẫn còn đôi mắt của em (Anh đã mất chi anh đã được gì).
Cũng như những cây bút cùng thời, Lưu Quang Vũ vẫn có những vần thơ tình
thoảng hương ngọt ngào, dịu nhẹ đủ lay động những trái tim yêu. Song trên một
chặng đường sáng tác, nhà thơ riêng mình rẽ lối. Hạnh phúc ngày thường đột ngột
lìa bỏ như niềm đau thấm lịm vào trái tim yêu say nồng. Còn lại trong thơ là cái tôi
cô quạnh, cái tôi ướt sũng cô đơn trong cảm thức của tình yêu hiện sinh: Mai trong
em anh thành cỏ lãng quên/ Em chẳng nhớ chân trời anh khát vọng/ Em chẳng nhớ
lòng anh cơn gió nóng/ Suốt cuộc đời cỏ đắng cỏ lãng quên (Dù cỏ lãng quên). Đôi
120

khi đuổi theo những ảnh hình hư thực, cái tôi đau đến không thể chôn chặt lòng
mình, rong ruổi đi tìm những vụn vỡ của kí ức như thể tình yêu là một hành trình
của con người luôn thấy mình đơn độc:
mặt em sáng trong gương tròn lấp lánh
giữa vật vã thương vong và thắng trận
chập chờn sau khói đen
những hình ảnh không đầu không cuối
những ngày tháng những đồ dùng em chạm tới
anh lặng lẽ đi tìm
những mảnh vỡ của tấm gương
dưới đáy hào ướt sũng
(Em)
“Sự đầy đủ của cuộc đời con người là ở chỗ tìm thấy tình yêu, mặc dù tình yêu
ấy có thể không ở lại cùng ta suốt đời” [215, tr.54]. Vào khoảng thời gian này, đâu
chỉ mình Lưu Quang Vũ viết về tình yêu - đề tài muôn thuở như chuyện cổ tích
không thể già nua. Song không nhiều tiếng thơ đớn đau với niềm riêng ấy. Lưu
Quang Vũ tìm đến thơ tình trước hết như một sự giải tỏa tinh thần, ở đó, cái tôi tình
yêu quá nhiều trăn trở: Anh cũng thương em suốt đời trên sóng nước/ Cướp được
tàu anh tưởng có ngọc vàng/ Ngờ đâu chỉ là ván nát sàn hoang/ Còn trơ lại hồn thơ
tai ác quá (Bầy ong trong đêm sâu). Góc khuất tâm trạng cũng là một phần trong
thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, người phụ nữ khát khao được sống thật đầy
cho tình yêu. Khi đón nhận những gãy đổ, mất mát, chủ thể rơi vào bi kịch. Cái tôi
dằn dỗi. Dẫu đằng sau đó có thể là những hối hận, bù đắp… nhưng dường như tất
cả đã quá muộn mằn. Không tìm thấy sự đồng điệu, cái tôi giằng xé trong cõi riêng
mình trống trải: Tôi viết về những cay đắng riêng tôi/ Khi anh xót tôi không còn khổ
nữa/ Anh hãy nghĩ khác xa điều tôi nghĩ/ Thơ tôi làm không phải để anh theo (Về
những bài thơ). Đâu chỉ hướng về những khúc ru tình đằm thắm, đâu chỉ có phập
phồng trong âu yếm nồng say, cái tôi trong vườn thơ Xuân Quỳnh có lúc òa vỡ: Một
bến sông lạnh vắng/ Một con đường nắng chang/ Một ráng đỏ chiều hôm/ Một tình
121

yêu đã mất (Hoa ti - gôn). Sắc hoa một thời thấm đau như tim vỡ của T.T.K.H giờ
lại thêm một lần ngấm chuyện tình buồn. Cái tôi rưng rưng trước sắc hoa rụng tàn,
như nỗi đau tiễn biệt: Cánh hoa như lệ vỡ/ Như máu vừa mới sa/ Như ngàn vạn giọt
mưa/ Của nỗi buồn khôn dứt (Hoa ti - gôn). Trên hành trình những nỗi buồn cản lối,
cái tôi nhà thơ không dứt hoài nghi: Hạnh phúc đang còn, tình yêu đã mất (Về
những bài thơ). Bao cơn địa chấn trong đời, trong bao lần gồng mình vay trả cho
những riêng tư tan vỡ làm hồn thơ ấy rung lên những phím ngậm ngùi. Kí ức rạn
nứt chưa xa, màu hạnh phúc chưa kịp thắm lại đã mang vào thơ tiếng khóc thầm
cho lỡ làng ngày son trẻ. Những đoạn đời đứt gãy rồi chắp nối đã làm đau trái tim
người phụ nữ đa đoan. Con người từng thảng thốt gọi tìm cánh chuồn báo bão đâu
dễ vùi sâu nỗi đau riêng. Lời thơ vì thế khắc khoải hơn, day diết hơn trong nỗi buồn
tự vấn: Tôi cứ đi tìm mãi bản thân mình/ Cũng có thể suốt đời chưa thấy hết (Trở
lại mình). Có phải Xuân Quỳnh là “nhà thơ của cái đẹp lâm nguy”? (Chu Văn Sơn)
và phải chăng đây là tín hiệu của cái tôi tình yêu mang cảm thức hiện sinh với âu lo
là định mệnh của con người, là cách để con người được giải thoát, chiêm nghiệm, là
cách để con người nhận ra mình hiện hữu. Những năm tháng không yên, những nỗi
lo chằng chịt bão bom, cách trở dường như đeo đẳng hồn thơ Xuân Quỳnh như một
định mệnh. Và thắc thỏm, nơm nớp, âu lo… là trạng thái tất yếu của con người sớm
mang nỗi sợ đơn côi. Cõi đa mang ấy như góp vào hợp âm thơ tình thời đạn lửa
những nốt trầm thao thiết.
Chủ thể trữ tình không dám tin vào tình yêu vĩnh cửu. Cái mong manh, chông
chênh của niềm hạnh phúc thường làm trăn trở hồn thơ Xuân Quỳnh. Tâm hồn đa
mang, sự nhạy cảm của người phụ nữ đam mê yêu càng đẩy cái tôi đến với những
day trở phức tạp: Em đi suốt đời em/ Theo nỗi buồn anh ra biển cả/ Nơi ngàn năm
sóng vỗ/ Nỗi buồn anh trên bờ đá hoang sơ/ Nỗi buồn anh như đảo đứng chơ vơ/
Giữa sóng nước giữa bốn bề bão gió (Nỗi buồn anh). Đeo đẳng tâm thức người
nghệ sĩ là nỗi buồn anh chạy dọc một đời bể dâu. Đây không chỉ là tâm thế dự báo
mà chủ thể còn như muốn cất lên lời nguyện: hạnh phúc đích thực đôi khi phải gồng
gánh cả những buồn đau, những mặc cảm lỡ làng duyên phận. Hoài nghi vào tình
122

yêu cũng chính bởi mong chờ nhiều quá, ước ao nhiều quá. Vì thế dự cảm âu lo là
một trạng thái rung động rất thực của Xuân Quỳnh. Ngay cả trong khoảng thời gian
đong đầy hạnh phúc, khi vết thương đời tư đã dần được khâu lành, người thơ vẫn
ám ảnh về cái mong manh, tròng trành. Đây có thể xem là một trong những biểu
hiện trung thực nhất của con người hiện sinh. Tác giả tự hát với một chuỗi bồn
chồn, khắc khoải, thậm chí hoảng loạn trước dự cảm chia xa: Em lo âu trước xa tắp
đường mình/ Trái tim đập những điều không thể nói/ Trái tim đập cồn cào cơn đói/
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn (Tự hát). Có thể nói dấu ấn hiện sinh trong thơ
Xuân Quỳnh gắn với những trạng thái có khi là tột cùng của âu lo. Với cảm thức
giăng mắc dự cảm, phập phồng sợ sệt, thế giới thơ tình Xuân Quỳnh càng trở nên
hấp dẫn với bao nhiêu lí lẽ sắc sảo song cũng đầy xúc động về tình yêu, vốn là một
đề tài không phải lúc nào tạo được sức hút của thơ tình cách mạng. Xuân Quỳnh -
người đàn bà của định mệnh khát yêu - đã có một cách sở hữu tận cùng cõi yêu
tưởng thật giản dị song đó là nỗi ngấm nghiệm đánh đổi bằng cả một đoạn đời được
- mất: Em trở về đúng nghĩa trái tim em/ Là máu thịt đời thường, ai chẳng có/ Cũng
ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa/ Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi (Tự
hát). Cái tôi từng trải thấm thía một triết lí về tình yêu, đó là nhịp đập vĩnh cửu của
những trái tim đam mê yêu ngay cả sau cõi chết. Cùng mang nặng trái tim yêu day
diết, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng không thoát mình ra khỏi những phấp phỏng, âu lo, hờn
trách. Dù ở chặng thơ trước 1975, hồn thơ ấy chưa thật xáo động với những tiếng
lòng nức nở, với những cháy lòng khao khát, những khoảnh khắc giật mình, hoang
vắng... Song bản năng yêu của người phụ nữ trong thơ giai đoạn này vẫn mang nỗi
sợ thật đáng yêu: Một nỗi lo âu/ Buốt trong ngực trẻ/ Lời anh ngọt ngào/ Lòng em
đau xé (Em sợ). Trước những lời ngọt ngào của nhân vật trữ tình anh, em dường
như không lấy đó là hạnh phúc. Bởi trong em là những nếp buồn của một thời son
trẻ. Cái tôi dằn vặt trong thắc thỏm trước thời gian, tuổi xuân đời người.
Sau những lần va đập với được - mất trong tình yêu, chủ thể trữ tình càng sợ
hạnh phúc rời xa. Đây là tâm lí thường trực của con người quá nâng niu giá trị tìm
lại được trong đời. Hơn thế, khi bất hạnh chưa kịp đi ra khỏi cuộc đời thì niềm vui
123

tái sinh dường như không trọn vẹn. Trong cái tôi là bao linh cảm mơ hồ, thấp thỏm.
Ai cũng có linh cảm về một cái gì mơ hồ đang đón đợi mình phía trước. Với người
sáng tạo nghệ thuật thì sự linh cảm trở thành ám ảnh; là tiên giác, tiên nghiệm. Trở
lại với thơ tình Lưu Quang Vũ, con người gắn chặt với tâm thế chỉ mới bắt đầu
những ngày đẹp nhất trong khi thời gian cứ vô tình bỏ rơi con người. Đứng trước
tình yêu đã nhuộm màu thấm thía thì dự cảm thực sự ám ảnh thế giới thơ Lưu
Quang Vũ. Cái tôi hiện sinh rơi vào chênh chao: Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Thương
vườn cũ gãy cành và rụng lá/ Áo em ướt để anh buồn khóc mãi/ Ngày mai chúng
mình ra sao em ơi (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa). Nhà thơ có cả một chuỗi tiên cảm,
khi hạnh phúc gia đình vừa ngoảnh mặt: Lá sẽ rơi trên cỏ mềm lối cũ/ Thân cây xưa
sẽ gục đổ bên thềm (Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I). Không ít lần
chủ thể tự cảm: Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời/ Chúng ta cách nhau như
buổi sáng cách buổi chiều/ Chẳng dám mong một lần gặp gỡ (Gửi). Nhiều khi Lưu
Quang Vũ đứng mấp mé ở cảm giác sắp chia lìa ngay trong những ngày đang sống:
Tất cả ở đây đều chưa định/ Cuộc đời như sắp sửa đi xa (Viết cho em từ cửa biển).
Chưa nguôi ám ảnh về hạnh phúc gia đình một lần nghiêng ngả, có lúc, cái tôi nghi
ngờ cả đến điều thật nhất: Chẳng lời ru nào làm anh yên lòng cả/ Anh nghi ngờ cả
đến giọt sương rơi (Những ngày chưa có em…). Niềm bi quan ấy có thể dễ dàng lí
giải. Khi một thời cay xót vẫn chưa đi ra khỏi cuộc đời, con người không dễ lấy lại
tin yêu. Lưu Quang Vũ lại vốn chỉ tin vào những gì từng trải nghiệm; vì thế trong
con người thơ là bao linh cảm mơ hồ: Cậu bé con đôi mắt ngây thơ/ Đã đánh mất
kho vàng và tiếng hát/ Anh bỏ hồ trong, bỏ vườn cây mát/ Đi tìm chân trời nhưng
chỉ thấy cô đơn (Những ngày chưa có em…).
Thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam cũng không thiếu vắng tiếng thơ tình mang
sắc thái dự cảm. Trước cảm giác “lỡ dại tôi điên” - một trạng thái tâm lí tất yếu của
cái tôi mang mặc cảm bị ruồng bỏ, có khi chủ thể tạo cho mình một vách ngăn hạnh
phúc. Cái tôi trữ tình dằn vặt trong lời tự thú: Tôi không dám nhìn lâu vào mắt em/
sợ thấy rõ những ngày cách biệt/ ở trong đó thời gian đang giãy chết/ và thơ tôi
đang quằn quại kêu thương (Tình ca trên biển - Lê Ký Thương). Có lúc, người thơ
124

cũng nặng âu lo cho những bước chân trở về của tình yêu. Hạnh phúc trong cảm
giác được che chắn cho người mình yêu và cảm giác sợ lo tình yêu không trở lại cứ
đan cài trong trái tim khát yêu của người nghệ sĩ. Cái mong manh của tình yêu có lẽ
đã hình thành nên trong cái tôi trữ tình tâm thế chênh vênh: em ở đó, mùa thu buồn
khép nép/ đường em đi, em biết lối quay về? (Mùa thu ở Huế - Lê Nghiêm Vũ). Ở
tiếng thơ tình mang đậm cảm quan phi sử thi trong vùng tạm chiếm miền Nam cũng
không hiếm những thân phận tình yêu buồn thảm. Chán ngán sự chia lìa, vụn vỡ của
tình yêu như một “tiền định”, cái tôi trong thế giới thơ tình Nguyễn Tất Nhiên đắm
mình trong chuỗi lụy tình, lụy cả khổ đau: Chuông nhà thờ đổ mệt/ Tượng Chúa
gầy hơn xưa/ Chúa bây giờ có lẽ/ Rơi xuống trần gian, mưa (Hai năm tình lận
đận); sao thiên thu không là thiên thu/ nên những người yêu là những ngôi mồ/
tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành quên khổ đau (Thiên
thu); biệt ly dù ở ga nào/ cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên... (Hôm nay).
Trong tiếng thơ tình vùng tạm chiếm miền Nam, không hiếm khi cái tôi xót
lòng với những tiếc thương của ngày gặp lại: sao em bảo đời em toàn đau khổ/ biết
tránh rồi mà vẫn gặp thế thôi/ chồng tử trận người yêu xưa tàn tật/ ai tin cho ngày
tháng xóa ưu sầu? (Ghé thăm người tình cũ - Luân Hoán). Cũng trong cảm thức
đuổi theo tình yêu ảo vọng ấy, thơ tình Lệ Khánh xôn xao miền Nam một thời, nhất
là lớp người cùng phận, cô đơn, bế tắc trong cuộc sống riêng tư. Hàng loạt nỗi buồn
khổ trong cõi riêng ngập đầy tập thơ “Vòng tay nào cho em” như một quan niệm về
tình yêu - không trốn chạy khỏi buồn sầu, tội lỗi. Đây là trạng thái thường trực của
cái tôi trữ tình trong thế giới thơ tình Lệ Khánh: Tôi đơn hành với những chiều
tương tư (Nói với anh); Em - linh hồn ngoại đạo/ bơ vơ không niềm tin/ xót xa đời
gái xấu (Nhớ về thăm em); Nghe như mặn đắng trong lòng/ Nghe như nhạc khúc
não nùng nhớ thương (Với một người con gái). Có khi cái tôi trữ tình tự thú nỗi dằn
vặt của thân phận người đến sau: Vòng tay anh… chắc giờ đây quá chật?/ Ôm vợ
hiền, ôm con dại… còn đâu/ Vâng, còn đâu người con gái đến sau/ Thương, nhớ,
tiếc…sao ngỡ ngàng biết mấy? (Vòng tay nào cho em - Lệ Khánh).
125

Con người hiện sinh trong văn học vùng tạm chiếm miền Nam lúc bấy giờ
cũng tạo một khoảng riêng cho thơ tình với bao nỗi niềm đa đoan. Cái tôi trữ tình
gắn với cái nhìn về tình yêu như là một số phận chung đôi bi thảm: cây buồn lá đến
rơi thôi/ hồn dang cánh muộn thu đời nhá nhem/ mối đùn đất đắng cay em/ bù nhau
chưa đủ lệ hoen ngày vàng/ chung thân tôi - địa ngục nàng (Phúc âm riêng của hai
người - Du Tử Lê). Chính thực tại muôn vàn bế tắc, chính cuộc sống ngột ngạt đã
đưa đến trạng thái tình yêu đượm buồn. Cái tôi thường mang cảm giác chông chênh,
nuối tiếc trong thân phận lỡ làng: Sao không nói những khi mình vương vấn/ Những
chiều thu vàng thầm bước theo nhau/ Để bây giờ thu bên trời lận đận/ Lạ nhau rồi
ai còn ngóng ai đâu (Sao không nói - Trần Dzạ Lữ). Mang cái nhìn của một tình
yêu nhuộm màu hiện sinh, cái tôi trữ tình hoài niệm hình bóng yêu thương trong vô
vọng: người từ trăm năm/ về khơi tình động/ ta chạy vòng vòng/ ta chạy mòn chân/
nào hay đời cạn! (Khúc tình buồn - Nguyễn Tất Nhiên). Có khi, đó là cái tôi chênh
vênh trong cảm thức không gian vô định: buồn nào như gió ngủ trên không/ hỡi
những nhịp cầu đen buồn bã/ đã bao năm không nối được lòng nhau/ thì ngàn năm
sau cũng hoài mong đợi/ như cầu cao soi bóng đáy sông sâu (Những nhịp cầu đen
buồn bã - Phạm Cao Hoàng). Hay với cảm thức cô đơn đi cùng cái chết như một sự
giải thoát, con người thu mình trong thế giới của tình tự, cô độc; tôi đơn độc giữa
tha nhân: Như con thú nhận mũi tên tẩm độc/ Một phút thương em trải mấy thu sầu/
Ta muốn lánh mọi người - nghe tình khóc/ Một mình nằm chết lặng giữa hang sâu
(Ngồi dưới trăng tan - Hạc Thành Hoa).
Cái tôi tình yêu trong thơ trẻ 1965 - 1975, cùng với dạng thức cái tôi chiêm
nghiệm số phận riêng tư tạo nên sắc diện mới của thơ tình 1945 -1975. Chính sự
khám phá này một lần nữa góp phần khẳng định âm hưởng phi sử thi của cái tôi tình
yêu không phải là hoàn toàn khuất lấp mà phải nói đó chỉ là sự ẩn nhường tạm thời
trong dàn đồng ca của thơ tình thời chiến và thực sự đã bừng lộ trong nhánh rẽ riêng
tây. Chính tiếng nói phụ lưu này với những cung âm buồn của đổ vỡ, mất đau thể
hiện bản sắc riêng của cái tôi tình yêu với khát vọng thành thực của lớp người lớn
126

lên từ bất hạnh chiến tranh. Mỗi biểu hiện của cái tôi tình yêu tạo nên diện mạo tình
yêu trong thơ trẻ 1965 - 1975, làm đầy đặn hình tượng cái tôi trữ tình giai đoạn này.
Với biểu hiện đa dạng của cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh và cái tôi tự
nghiệm số phận đời tư, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã thể hiện đậm nét
tính chất phi sử thi. Từ giọng ngân vang của cái tôi sử thi đến âm sắc trầm tư của cái
tôi sử thi biến thể và đến tận sắc điệu chùng xuống của cái tôi phi sử thi thấm
nghiệm mất mát, bi kịch chiến tranh thực sự đã minh chứng cho sự vận động của cái
tôi trữ tình của thơ trẻ giai đoạn này.
“Cái “tôi” được lắp lại nhiều lần - đó hoàn toàn chưa phải là dấu hiệu của cá
tính sáng tạo” [81, tr.91]. Tiếp nối tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người của thơ thời kì này, thơ trẻ 1965 - 1975 tạo ra một diện mạo mới cho cái tôi
trữ tình. Đó là cái tôi tự soi chiếu thế hệ mình, đồng thời hướng ngoại tâm tình, đối
thoại với Tổ quốc, nhân dân. Cái tôi khao khát tự họa; khao khát độc thoại và đối
thoại về cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến
tranh và nghiệm sinh về thân phận con người. Tất cả là biểu hiện sinh động của
dạng thức cái tôi sử thi, cái tôi sử thi biến thể và cái tôi phi sử thi trong thơ trẻ, góp
phần làm phong phú diện mạo cái tôi trữ tình của thơ 1965 - 1975. Đồng thời, cái
tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 còn là sự khắc họa độc đáo cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ, tạo nên những phong cách nghệ thuật khó trộn lẫn. Ở cả ba vùng thơ,
người đọc vẫn tìm thấy những nét đồng điệu trong tâm hồn, trong nghĩ suy, trong
quan điểm nghệ thuật của thơ trẻ. Song ở mỗi vùng thơ, đặc biệt là thơ trẻ vùng tạm
chiếm miền Nam, diện mạo cái tôi trữ tình vẫn mang sắc diện riêng so với hai vùng
thơ còn lại. Cũng là cảm hứng sử thi, song với thơ trẻ “viết trên đường tranh đấu”
thành thị miền Nam, sự căm thù, oán giận; sự dấn thân thường trực hơn là những lời
ngợi ca, cổ vũ. Hay cũng là ý thức tự nghiệm về số phận riêng tư song ở dòng thơ
trong vùng tạm chiếm miền Nam, tập trung nhiều nhất ở bộ phận sáng tác “không
cách mạng”, diện mạo cái tôi trữ tình trong địa hạt riêng tư lại thường là tiếng nói
phức điệu của những giằng xé, đớn đau, những khát vọng rất nhân bản của con
người. Đây có thể xem như là dấu hiệu khởi đầu cho diện mạo cái tôi trữ tình đời tư
127

với ý thức đào sâu vào bản ngã của thơ Việt Nam sau 1975. Sự đối chiếu này phần
nhiều chỉ có ý nghĩa khẳng định tính đa diện của hình tượng cái tôi trữ tình trong
thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.
128

Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -


1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN

“Một tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể của những lời phát ngôn
của người kể chuyện, của cái tôi trữ tình, của các nhân vật qua độc thoại hoặc đối
thoại” [46, tr.41]. Để thể hiện hiệu quả dạng thức cái tôi trữ tình, thế hệ thơ trẻ lựa
chọn cho mình những phương thức nghệ thuật phù hợp. Đó chính là sự tìm kiếm thể
thơ, sự khéo léo trong việc khám phá chất liệu ngôn ngữ phong phú hay khai thác
những hiệu ứng thẩm mĩ từ một số thủ pháp tu từ, sự thể hiện những giọng điệu
nghệ thuật đặc sắc… Tất cả đều góp phần tái hiện sinh động chân dung cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Các cây bút trẻ không chỉ tạo dựng thành
công chân dung của cái tôi trữ tình, mà còn khẳng định một số đóng góp nhất định
trong việc sử dụng hình thức nghệ thuật để làm phong phú sự biểu hiện cái tôi trữ
tình, qua đó tạo lập được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Đối với lực lượng sáng
tác lúc bấy giờ, đây không hẳn là cách tân về mặt hình thức song có thể nhìn nhận
với một số phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình, các tác giả trẻ đã khẳng định
phong cách sáng tạo của người nghệ sĩ và phong cách thời đại.

3.1. Trường ca và thơ tự do


Thể loại thơ ca là một phạm trù lịch sử. Tính lịch sử của thể loại tác động đến
quan niệm của người nghệ sĩ trong quá trình lựa chọn phương thức biểu hiện phù
hợp với tư tưởng, phong cách và thời đại sản sinh ra tác phẩm. Với dung lượng ôm
chứa hiện thực ngồn ngộn của chiến tranh, thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 mở rộng,
tìm tòi khả năng biểu hiện mới của thơ ca. Trong đó hình thức thể loại là một trong
những phương thức được thơ trẻ ý thức lựa chọn một cách sáng tạo, nhằm chuyển
tải được tư duy nghệ thuật của thời đại. Các cây bút thử sức trên nhiều thể loại: lục
bát, năm chữ, tám chữ… Song trường ca và thơ tự do, với những đặc trưng thể loại,
là hai hình thức biểu hiện được các nhà thơ trẻ giai đoạn này sử dụng phổ biến và
129

đạt hiệu quả cao. Qua đó thể hiện phong cách sáng tác, xu hướng nghệ thuật của thơ
trẻ; đồng thời góp phần biểu hiện những dạng thức của cái tôi trữ tình.

3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư

Quá trình hình thành và phát triển của trường ca với tư cách là một thể loại
khá phức tạp. Đến những năm 60, trên cơ sở xuất hiện một khối lượng lớn trường
ca, mới có điều kiện khu biệt đặc trưng của thể loại này so với thơ dài. Thực tế lịch
sử văn học chứng minh trường ca đã khẳng định được vị trí trong sự vận động thể
loại và đã có chỗ đứng trong đời sống thơ Việt Nam hiện đại, đặc biệt là thơ thời
kháng chiến chống Mỹ. “Do yêu cầu phải bộc lộ cái tôi nhà thơ, do nhịp điệu phát
triển khẩn trương náo nức, do giọng thơ cần thay đổi nhiều màu sắc, do yêu cầu tiếp
cận hiện thực và âm hưởng hùng tráng… cho nên trường ca thích hợp với các cây
bút trẻ” [87, tr.365]. Ở trường ca, nhà thơ xuất hiện với tư cách là cái tôi dấn thân và
hành động, cái tôi phải sống với những sự kiện của tác phẩm. Điều này minh chứng
sự cần thiết của trường ca trong nhu cầu mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực của
thơ trẻ; là môi trường để thế hệ thơ trẻ thể hiện tập trung cao độ tư duy nghệ thuật.
Hơn nữa, với những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ, trước hết trường ca
đáp ứng được yêu cầu của khả năng tăng cường chất chính luận trong thơ.
“Trường ca là kết quả sự mở rộng dung lượng phản ánh và quy mô cảm xúc
của thơ trữ tình, là một hình thức biểu hiện tình cảm lớn của con người trước hiện
thực Cách mạng của dân tộc, của thời đại” [183, tr.166]. Với đặc điểm đó, trường ca
là mảnh đất hoàn toàn đủ sức để thơ trẻ thể hiện cái tôi khát vọng, cái tôi mang cảm
quan sử thi với ngọn nguồn cảm hứng ắp đầy tự hào, ngưỡng vọng. “Con đường đi
đến trường ca là con đường đi từ những bài thơ nhỏ đến bước tổng hợp, khái quát
của tư duy trữ tình, trong đó phương thức tự sự kết hợp với tính trữ tình” [4, tr.152].
Với khả năng kết hợp nhuần nhuyễn cả hai phương thức trữ tình và tự sự, đồng thời,
bằng năng lực phản ánh hiện thực rộng lớn, trường ca thể hiện bao quát cảm thức
thời đại của thơ trẻ 1965 - 1975, làm sống dậy không khí của cả một thời đại “cả
nước lên đường”. Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Vách đá Hồ Chí
130

Minh, Chim vàng chốt lửa, Quê hương mặt trời vàng (Thu Bồn); Trường ca hòa
bình, Ngụ ngôn của người đãng trí (Ngô Kha)… là những bản trường ca tiêu biểu
của thơ trẻ 1965 - 1975, là sự kì công của người nghệ sĩ nhằm tái dựng âm hưởng
của một thời đại hào hùng; là quan niệm sống của cả một thế hệ, là sinh mệnh nhân
dân gắn liền với vận mệnh dân tộc, là tình yêu. Đó còn là triết luận về vấn đề sống
còn của dân tộc, sự giằng xé của những hồn thơ ngỡ đã tuyệt vọng, là khao khát
kiếm tìm hạnh phúc cho quê hương và thậm chí đó còn là những cơn mộng mị của
người đãng trí quay quắt trong những giấc chiêm bao hư - thực để lí giải về chiến
tranh, về thân phận con người. Điểm nhìn của chủ thể trong trường ca ở giai đoạn
này đã có những bước chuyển đổi. Không chỉ là cái nhìn khái quát về quá khứ,
không chỉ khuôn vào cái nhìn hoành tráng, cổ vũ, ngợi ca mà trường ca ở thơ trẻ
thời chống Mỹ còn được mở rộng trên nhiều bình diện. Chính đặc điểm này giúp
các tác giả trường ca làm đa diện hơn những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình
- từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư.
Trong cảm hứng sử thi, hình tượng Tổ quốc, nhân dân luôn được nhìn qua
lăng kính hoành tráng, vĩ mô. Không chỉ hướng tầm nhìn về chiều kích mang tầm
rộng lớn, trường ca là thể loại có khả năng tái hiện những quan niệm cao cả song
cũng đầy suy tư của cả một thế hệ trẻ về hình tượng đất nước. Với sức dung chứa
của trường ca, cái tôi trữ tình được trải mình trên những quan niệm đẹp đẽ về đất
nước. Đó không chỉ là sự khái quát đất nước trong cái nhìn cao đẹp, hùng vĩ như ở
quan niệm sử thi trước đó. Đất nước trong cảm quan thơ trẻ gắn với những phân
tích, lí giải - đây có thể xem là sự tiếp nối sáng tạo của người cầm bút trong việc sử
dụng hình thức trường ca để xây dựng diện mạo mới của cái tôi trữ tình sử thi. Lăng
kính của cái tôi sử thi ở đây là sự gắn kết giữa cái tôi ngưỡng vọng và cái tôi lí giải
về khái niệm đất nước - nhân dân. Đất nước được cắt nghĩa ở cả chiều sâu văn hóa,
là sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại; là hình tượng gắn với những câu chuyện
văn hóa lịch sử, đi cùng những huyền thoại, những trang cổ tích xa xưa…
Trường ca Mặt đường khát vọng được thiết kế theo lối xâu chuỗi trên mạch tư
tưởng - cảm xúc. Với chín trường đoạn, tác phẩm là một hệ thống thể hiện sự vận
131

động và các sắc thái đa dạng của cái tôi trữ tình. Lời chào - Sự nhận thức vị thế của
thế hệ trẻ học sinh sinh viên thành thị miền Nam, Báo động - Những biến cố của đất
nước, Giặc Mỹ - Chân dung kẻ thù, Tuổi trẻ không yên - Chân dung tự họa và sứ
mệnh của tuổi trẻ thành thị miền Nam, Đất nước: Chân dung đáng tự hào của dân
tộc, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang: Thế hệ trẻ dấn
thân và hành động và Báo bão: Lí tưởng của tuổi trẻ và niềm tin tất thắng. Ứng với
mỗi đoạn là diện mạo của cái tôi trữ tình. Cả trường ca hợp thành một tư tưởng lớn
về dân tộc, về nhân dân - sinh mệnh của cá nhân không thể tách rời vận mệnh Tổ
quốc. Để thể hiện tư tưởng xuyên suốt đó, với quá nhiều chi tiết bề bộn, trường ca
có thể được xem là thể loại tối ưu. Qua đó, cái tôi trữ tình được trải mình trên nhiều
điểm nhìn nghệ thuật. Ở hai trường đoạn đầu tiên, người nghệ sĩ khắc họa chân
dung cái tôi với ý thức khẳng định sự trưởng thành của thế hệ trước tình cảnh đất
nước. Từ tuổi nhỏ vô tư đến khi ngẩng mặt lên thấy quân thù là nhận thức của
những con người đã ý thức được trách nhiệm đối với quê hương. Bằng lời tâm sự,
lời kêu gọi - đối thoại với thế hệ, tác giả đã thể hiện được bức tranh dân tộc trước
hoàn cảnh bị xâm lược và quan trọng hơn là từ hoàn cảnh đó, với cách tự sự của
trường ca, người đọc thấu hiểu được sự chín muồi trong nhận thức của thế hệ thơ trẻ
miền Nam. Cái tôi tự thức thể hiện rõ nét nhất trong quan niệm về cam kết: Ta quay
nhìn. Sông đã hóa mênh mông/ Từ trầm tư, sông vỗ sóng trùng trùng/ Những bờ
không giới hạn/ Những cam kết hôm nay với trăm đấng anh hùng.
Đến trường đoạn thứ ba, tính chất mở rộng khả năng tự sự của trường ca càng
phát huy hiệu quả bằng những chứng cứ đanh thép, có khi dưới dạng những câu
trích dẫn nguyên văn lời lẽ dã tâm, đầy thú tính của đế quốc Mỹ: Tao đánh cho mày
tiệt đường sinh nở, Tao phá sự tiết trinh của mày để mày đừng mơ với mộng, Tao
giết con mày để xem mày thương con hay Việt cộng… Đây là biện pháp tự sự, nhằm
tăng tính tư tưởng của trường ca, thể hiện hình tượng cái tôi trữ tình căm uất đến tột
cùng. Không chỉ vậy, với lối tăng cường chất tự sự như thế, hình ảnh của khách thể
càng gieo vào tâm thức bạn đọc cái nhìn ác cảm; khả năng tố cáo của ngòi bút vì thế
mà tăng đáng kể.
132

Với âm vang của trường ca, đến trường đoạn Tuổi trẻ không yên, chân dung tự
họa của thế hệ trẻ kiêu hãnh, đầy những đường nét suy tư được chiết xuất từ các
trường độc thoại và thực chất là đối thoại với nhân dân, với Tổ quốc về trách nhiệm
của mình đối với sứ mệnh lịch sử dân tộc; từ sự trưởng thành, chín muồi trong tình
yêu đất nước đến nỗi hối hận không cùng khi ngoái đầu nhìn lại một quá khứ nhiều
ngày mất hướng. Lời thú nhận được thành thật giãi bày qua hàng loạt chi tiết khiến
người đọc cảm phục trước ý thức trải nghiệm, nhận đường của một thế hệ trẻ miền
Nam: Trong khi nhân dân cần những anh hùng/ Để ra trận và dựng cờ tụ nghĩa/ Thì
chúng tôi sống hoài, sống phí/ Sống kiêu sa, ngất ngưởng ở bên lề. Đồng thời, cái
tôi tự họa chân dung tinh thần của thế hệ này còn là cuộc đối thoại thảo ngay với
những con người đang quay lưng lại với dân tộc, là triết luận sâu xa về vai trò của
thế hệ trên đường tranh đấu; là lời thúc giục, kêu gọi đẫm tinh thần kiên trung, bất
khuất của một lớp người. Chính nhân dân - thân phận mất nước - đã thức tỉnh một
thế hệ trẻ đang còn xoay sở tìm đường. Tính chính luận trong cái nhìn sử thi biến
thể, cái nhìn tự nghiệm của cái tôi trữ tình thực sự tạo được sức nặng qua cuộc đối
thoại giữa thế hệ trí thức yêu nước miền Nam với nhân dân đang hứng chịu đau
thương, mất mát. Chính những cuộc đối thoại qua các tuyến nhân vật - đặc trưng
của trường ca - đã khắc họa rất thành công một nét nổi bật của chân dung cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Đó là sự phân tích, tự họa thế hệ từ chính
trải nghiệm của người trong cuộc.
Từ chân dung thế hệ, mạch tư tưởng - cảm xúc của chủ thể trữ tình chuyển đến
chân dung đáng tự hào về đất nước. Xuất phát từ cảm quan lịch sử, văn hóa…, đoạn
trích Đất nước có thể xem là một câu chuyện kể rất đẹp và đầy kiêu hãnh về hình
tượng Đất nước từ lúc thành hình trong ngày xửa… ngày xưa của mẹ, trong bọc
trứng của người mẹ Âu Cơ, trong bốn nghìn năm lịch sử. Chính nhân dân với những
phận đời thầm lặng, hi sinh âm thầm, những gánh gồng gieo trồng bao điều đẹp đẽ
vào quá khứ dân tộc… đã làm ra đất nước. Với trường đoạn khá quen thuộc này,
người đọc nhận ra tư tưởng chủ đạo của Mặt đường khát vọng - Nhân dân là những
người làm nên đất nước với chiều sâu lịch sử, văn hóa và chính nhân dân là đối
133

tượng có trọng trách lưu giữ những gì thuộc về đất nước. Đây là vấn đề mang tầm
vóc lớn lao của dân tộc. Thiết nghĩ tách trường đoạn này thành nhiều bài thơ, sẽ chỉ
tạo nên được những mảnh ghép về chân dung đất nước. Chỉ có trường ca mới đủ
sức dựng nên hình tượng đất nước một cách toàn vẹn đến vậy. Đây cũng chính là sự
thể hiện đa dạng cảm xúc của cái tôi trữ tình ở nhiều cung bậc về Đất nước từ trong
miếng trầu huyền thoại đến Đất nước mai sau.
Nguyễn Khoa Điềm đã tái hiện một cách sinh động khí thế hừng hực của tuổi
trẻ miền Nam xuống đường, quyết trả mối thù của người thân và đồng bào. Qua
những trường đoạn sau, chất tự sự của trường ca được tăng cường ở khả năng tạo
nên âm vang của khí thế thời đại; đồng thời khắc sâu chân dung của cả thế hệ trong
một diện mạo mới: dấn thân và hành động. Nối tiếp các trường đoạn là thế trận của
quân ta và quân thù; là sự sỉ nhục của thế hệ về những thủ đoạn đê hèn của giặc Mỹ;
là lòng căm hận sục sôi của thế hệ để rửa nhục cho gia đình, cho dân tộc… Và cuối
cùng là lời thề sẽ biến mặt đường khát vọng thành con đường vinh quang sạch bóng
quân thù. Cái tôi sử thi, cái tôi sử thi biến thể cùng hòa trong mạch cảm xúc mãnh
liệt của chủ thể thẩm mĩ. Tất cả không nằm ở những luận đề cao siêu, những vấn đề
triết luận vĩ mô về quan niệm đất nước, nhân dân… mà nằm ngay trong cảm quan
của cái tôi trữ tình về sự gắn kết giữa số phận nhân dân và số phận đất nước. Từ
những trường đoạn của trường ca, Mặt đường khát vọng đã thành công trong việc
xâu chuỗi những chi tiết thông qua kiểu kết cấu mạch cảm xúc - tư tưởng, khiến cho
chất tự sự của tác phẩm cũng mang nhiều hơi hướng trữ tình. Trong những ngôn từ
tưởng như giàu tính tự sự đó là cả một chỉnh thể cái tôi trữ tình ắp đầy cảm xúc và
khát vọng. Đây có thể xem là sự phát huy hiệu quả thể loại trường ca trong việc
khái quát những vấn đề lớn lao đồng thời có thể khai thác đến tận cùng những phức
hợp của cảm xúc trữ tình. Với khả năng dung chứa hiện thực rộng lớn của trường
ca, thơ trẻ đi đến được mảnh đất trù phú của những vùng cảm xúc sử thi. Ở trường
ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thành công trong cái nhìn mới về
đất nước và nhân dân. Từ những vẻ đẹp và chiều sâu của đất nước, từ những câu hỏi
chất vấn thời đại, từ khí thế cuồn cuộn xuống đường đến những điều triết luận về
134

quan niệm sống, về vận mệnh dân tộc. Hình thức câu thơ của trường ca như tạo
dựng được một chuỗi gắn kết tư duy nghệ thuật của tác giả. Đó là sự kết dính giữa
tính chính luận - trữ tình, là mạch cảm xúc của cái tôi trữ tình hướng về khát vọng
của nhân dân và cũng là mạch suy tư, trăn trở của cái tôi trải nghiệm hiện thực chiến
tranh thông qua cái nhìn biện chứng. Chính sự xâu chuỗi những chi tiết dồi dào của
trường ca đã đưa Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm trở thành một câu
chuyện đầy chất triết luận về những vấn đề sống còn của dân tộc.
Một trong những đặc trưng của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 là
hướng cảm xúc, tâm tư về những sự kiện trọng đại của Tổ quốc - nhân dân, khắc
dựng chân dung tinh thần của thế hệ trong cái nhìn lạc quan. Song khác với cái tôi
sử thi của nền thơ trước đó, cái tôi trong thơ trẻ biểu hiện nguồn cảm xúc lớn về dân
tộc trong chiều sâu suy tưởng, trong những lập luận, lí giải có khi chất chồng mâu
thuẫn. Chính điều này đã khắc họa thành công diện mạo mới của cái tôi trữ tình
trong thơ trẻ giai đoạn này. Trường ca thể hiện hiệu quả đắc lực trong việc chuyển
tải tư tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ trong một cơ cấu nghệ thuật thống nhất.
Với cái tôi sử thi của thơ trẻ, trước những vấn đề đầy ắp tính sự kiện thì trường ca là
thể loại đáp ứng rất hiệu quả nhu cầu thể hiện tư tưởng người nghệ sĩ. Tuyến sự
kiện được xem lại sợi dây liên kết xuyên suốt toàn bộ mạch tư tưởng của tác phẩm,
là cơ sở để cái tôi trữ tình thể hiện nhiều điểm nhìn phức hợp. Thông qua hệ thống
nhân vật, trường ca trong thơ trẻ bộc lộ được khá đầy đủ mạch tư tưởng chủ đạo của
chủ thể trữ tình.
Với lối kết cấu trường ca theo mạch sự kiện, cốt truyện trong Vách đá Hồ Chí
Minh của Thu Bồn, chủ thể trữ tình tạo ra một tình huống đầy tính bi kịch giữa hai
tuyến nhân vật: Những người con của Tổ quốc - kẻ thù và Dy Mơ Thưng - Dang
Nghi A nhằm làm sáng tỏ niềm tin rất chân thành song cũng vô cùng lãng mạn của
dũng sĩ Dang Nghi A với với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng lối thiết kế cấu trúc
trường ca theo tuyến sự kiện xoay quanh trục cốt truyện như thế, Thu Bồn đã tạo
lập được rất nhiều sắc thái của cái tôi trữ tình. Cái tôi trong tư thế ngỡ ngàng trước
một không gian rợn ngợp gắn với nhiều sự kiện hoành tráng, dữ dội: Ngôi sao sớm
135

long lanh tia mắt/ Sao băng vạch đường vun vút phóng mũi tên/ Vạch vòm trời đo
thử cái mông mênh/ Tên chói sáng đất trời đều thấy. Chính không gian lãng mạn đó
đã tạo nên cái nhìn dự báo về một cuộc biến thiên đang đón đợi. Đây chính là sự thu
hẹp khoảng cách sử thi, chuyển từ không gian cao rộng, đầy lãng mạn về một không
gian hẹp, nơi đây nảy sinh mâu thuẫn của tình yêu. Trong không gian đó, cái tôi bộc
lộ trở trăn giằng xé trước những chuỗi mâu thuẫn được đẩy lên đến mức cao trào
trong niềm tin rạn vỡ của Dy Mơ Thưng. Nhân vật bàng hoàng khi ngỡ Dang Nghi
A đang quay lưng lại với tình yêu và đau đớn hơn là lòng tin sụp đổ trong ý nghĩ
rằng chàng phản bội Tổ quốc. Tác giả đã dàn dựng khung cảnh mâu thuẫn kép như
một bi kịch. Khi xung đột lên đến đỉnh điểm cũng là thời khắc lòng tin của Dy Mơ
Thưng dường như không còn chỗ để bấu víu thì bi kịch bắc cầu hồi mở nút qua
Giấc mơ chim ưng. Có thể khẳng định cái tôi trữ tình trong trường ca của Thu Bồn
là cái tôi chất vấn. Qua hàng loạt hoài nghi của Dy Mơ Thưng, cái tôi như nhập vai
vào nhân vật trữ tình để bộc lộ cái nhìn chua chát đầy tính phán xét, đẩy bi kịch lên
đến cao trào. Máu cha đổ cho dòng chữ kia chói sáng/ Nhưng cha ơi có một tên bội
phản/ Trèo lên xác cha để xóa cả cuộc đời/ Nó là chồng con đó cha ơi/ Là Dang
Nghi A, con phải giết. Và bi kịch được giải tỏa trong niềm xúc động tột cùng của
chủ thể trữ tình. Không gian sử thi như vỡ òa bởi tiếng súng nổ, bởi dòng chữ Hồ
Chí Minh muôn năm khắc sâu vào vách núi và như lặng đi với hình ảnh nhân vật
đang đục những con chữ cuối cùng bằng lòng yêu kính thiêng liêng trong niềm xúc
động cắn vào môi bật máu của những người chứng kiến: Dang Nghi A treo lơ lững
cuối đầu dây/ Anh chao người xua đuổi những đám mây/ Tay hất vội lá, rêu; nâng
dòng chữ/ Rồi gục xuống trong vòng tay mệt lử/ sợi dây lạnh lùng níu xuống cả
hoàng hôn. Tác giả đã hoàn tất mạch cảm xúc sử thi bằng kết cuộc của cấu trúc
trường ca, đưa nhân vật đến đỉnh cao vinh quang, trong cái nhìn ngưỡng vọng của
thời đại: Dang Nghi A như ngọn đuốc băng mình/ Gãy đổ cây rừng, vách đá rung
rinh/ Đầu ngọn núi đánh đưa trên miệng hố/ Lồng ngực con người căng trong bão
tố/ Máu vọt ra mở đường cho vách đá bay lên.
136

Trong trường ca, cái tôi thơ trẻ thể hiện trên nhiều nguồn xúc cảm, chung quy
lại đều hướng đến tình cảm lớn của dân tộc. Thông qua cốt truyện linh hoạt, trên
trục sự kiện và nhân vật, tác phẩm đã thể hiện được trọn vẹn cái tôi sử thi, với nhãn
quan tin tưởng bất diệt vào cách mạng, với lòng khắc ghi sâu nặng với Bác Hồ.
Phần Vĩ thanh là tiếng nói trực tiếp của chủ thể trữ tình, là thời điểm thể hiện một
cách rõ nét nhất hình tượng cái tôi trữ tình: Đi hết đỉnh cao của nước non này/ Lòng
mơ tới trời xanh nhân loại/ Vầng chữ kia như cầu vồng sáng chói/ Trong trái tim
sâu thẳm con người. Niềm lạc quan cách mạng là đặc điểm then chốt của cái tôi sử
thi, được xây dựng khá thành công thông qua thể trường ca.
Cũng trong quan niệm chung về trường ca là từ chủ đề của tuyến sự kiện, tìm
ra kết cấu cốt truyện thích hợp rồi mới huy động tổ chức vốn sống để khuynh hướng
hóa chúng, Thu Bồn tỏ ra là cây bút thơ trẻ có sở trường ở thể loại này, bao quát
được những sự kiện bộn bề của chiến tranh, của dân tộc. Chim vàng chốt lửa là câu
chuyện tình yêu với những cảm nhận thiêng liêng: số phận tình yêu - vận mệnh Tổ
quốc. Ở đây, người đọc được tiếp xúc với một cái tôi hồi tưởng về những kí ức tình
yêu đồng hiện đầy gai góc trong thời đạn lửa. Cái tôi chứng kiến, cái tôi là người
trong cuộc, cái tôi được sàng lọc, trải đời mình trong gian lao chiếc võng, trong
nhánh bão tử thương, trong đêm hỏa châu vàng vọt. Trở về dĩ vãng, nhiều mảng sự
kiện được ráp nối chặt chẽ trong diễn biến từ lúc chủ thể - nhân vật trữ tình - vào
đời, đến khi thành người lính và có đêm hòa bình đầu tiên. Trong những trường
đoạn hồi tưởng đó, cái tôi trữ tình sống lại hồi ức về những ngày tháng tuổi thơ
nghèo đói, những năm tháng chiến trường lựu đạn nổ từng chùm cát bay mù mịt.
Nhưng điều ám ảnh tâm tưởng tác giả nhất vẫn là hình ảnh em với bàn chân đẹp
phía mặt trời chưa tới, em trong những hình ảnh đối nghịch đầy chất sử thi: hàm
răng đẹp xinh em cắn từng chốt bão - máu tóe làn môi, em! em!.../ tôi gọi hai lần -
nhưng đồi núi lặng im… Phải nói cái tôi trữ tình sống trong nhiều cung bậc cảm xúc
thăng hoa, chạm đến được ước mơ cháy bỏng, lãng mạn trong thời chiến để xoa dịu
nỗi đau mất mát quặn thắt: Chúng tôi chôn những người chiến sĩ hy sinh/ lật từng
mặt kẻ thù/ nhưng không tìm ra bàn chân đẹp/ tôi nâng mãi trong tay đôi dép/ bao
137

năm rồi tôi vẫn tìm em/ con chim vàng kêu mãi trong đêm. Có thể thấy toàn bộ
trường ca là sự đan quyện giữa thực và mơ, giữa tình yêu suốt đời kiếm tìm và hình
ảnh người lính quả cảm hi sinh, giữa hạnh phúc riêng tư và nỗi đau đồng đội. Quá
khứ - hiện tại - tương lai đồng hiện trong những trạng huống phức tạp của cái tôi trữ
tình sử thi và cái tôi trữ tình sử thi biến thể.
Ở Trường ca Hòa bình, cũng dựa trên mạch kết cấu cảm xúc - tư tưởng, Ngô
Kha đã thiết lập một hành trình trong tư tưởng mang tính dự phóng về một tương lai
hòa bình: Nơi đây người người/ thức chờ đêm sáng/ như bánh xe lăn/ tìm ngày hạnh
phúc/ nơi đây cả người lẫn đất/ cả sự thật lẫn đau thương/ cùng nắm tay đi lên/ đến
trường sinh hoạt mới. Với tính năng của trường ca, tác giả dựng nên một cuộc đối
thoại mới trong chuỗi dự cảm về con đường trước mặt hòa bình, con đường giải
thoát. Với 5 trường đoạn nối tiếp, tác phẩm thể hiện đầy đặn sự vận động của cái tôi
trữ tình - cái tôi nhà thơ. Cái tôi háo hức trong lời hiệu triệu chấm dứt cảnh máu
xương - cái tôi ấp ủ những dự định kiến tạo tương lai - cái tôi dấn thân chối bỏ một
quá khứ ẩn thân trong cõi hẹp - cái tôi khát bỏng chứng kiến sự đổi đời trên quê
hương - cái tôi trăn trở trong sự đồng hiện tâm trạng giữa kí ức - thực tại - tương lai.
Đây cũng có thể được xem là sự hòa kết giữa hai dạng thức cái tôi sử thi và cái tôi
sử thi biến thể.
Trường ca Hòa bình thực sự là một bản anh hùng ca trùng phức dự báo và
niềm tin mãnh liệt của con người về một hình ảnh quê hương thái bình. Con người
ngập trong những dự kiến - mơ ước - hành động - khát khao. Tất cả đều thông qua
cảm quan dự cảm, song đó là sự dự cảm bắt nguồn từ những nền tảng vững chắc
của niềm tin vào sức mạnh dân tộc. Nổi bật nhất trong tác phẩm này là sự nối tiếp
chồng chất của những đổi thay từ sức mạnh tập thể, từ sự kết nối chặt chẽ của tinh
thần thời đại. Nghĩa là người nghệ sĩ đã đứng trên lập trường cái tôi công dân để
luận giải về ý nghĩa của thế hệ, của đồng bào trong cuộc dựng xây đất nước. Sợi dây
xuyên suốt mạch tư tưởng chủ đạo của trường ca này là sự hồi sinh của niềm tin từ
quá khứ đau thương hay đó chính là sự rũ bỏ quá khứ đau thương. Để có được sự
chuyển đổi tư tưởng tích cực như thế, Ngô Kha đã đứng vững trên lập trường tranh
138

đấu. Dẫu trong tư duy của người nghệ sĩ, hành trình đến được với niềm tin phải qua
một chặng dài giằng xé về kí ức, về những tháng ngày tù hãm ngột ngạt song chính
lập trường đó đã giúp tác giả khẳng định tư cách người nghệ sĩ - công dân. Người
đọc nhận ra điều đáng ghi nhận ở Trường ca Hòa bình là hình tượng cái tôi khát
sống: Khi nỗi chết còn in trên dòng máu/ Thì bài thơ thế hệ vẫn hồng tươi/ Khi đau
thương chỉ còn là mặt trái/ Của giấc mơ trỗi dậy ở trong hồn/ Như thoáng hiện
những bàn tay bão tố/ Đang cùng nhau góp nhặt ánh triều lên.
Đến với Ngụ ngôn của người đãng trí của Ngô Kha, người đọc còn như được
sống trong những khoảng lặng để cảm nhận một hơi hướng mới của trường ca trong
việc làm mới điểm nhìn, đó là sự dịch chuyển điểm nhìn hoành tráng mang tầm vóc
lớn của nhân loại đến bi kịch con người cá nhân. Đây một hiện tượng lạ của trường
ca trong giai đoạn 1965 - 1975. Những mất mát của cuộc đấu tranh trong lòng thành
thị miền Nam, sự sụp đổ niềm tin của con người… là dấu mốc đưa Ngô Kha đến
với nhiều quan niệm nghệ thuật mới trong trường ca này. Với kết cấu chủ yếu dựa
trên mạch tư tưởng - cảm xúc, Ngụ ngôn của người đãng trí có thể xem là câu
chuyện kể đầy mộng mị của một chủ thể đi tìm mình trong vô vọng, chỉ thấy cõi phù
dung vây bủa. Với cấu trúc như vậy, người đọc như bị cuốn vào một thế giới siêu
thực đầy ám ảnh, ở đó con người đã khước từ cõi sống, và con người chỉ còn sống
trong cõi chết. Dồn chất giữa các chương của trường ca là cơn vật vã của cái tôi
chìm trong những ám ảnh của thế giới trần thế và thế giới của cõi âm. Thực và mơ,
hiện hữu và ảo ảnh, người con gái đang chết và đã chết, chiến tranh và tử thi, cơn
say và nàng thơ khổ hạnh, tình yêu và xác chết… Cái tôi trữ tình đối thoại và độc
thoại. Cái tôi vật vã trong quan niệm siêu thực về cuộc đời - chỉ là phù phiếm.
Xuyên suốt tác phẩm là hệ thống nhân vật, được xây dựng trong cảm quan siêu
thực, gần như không thể nắm bắt, vô hình. Đặt trong chiều kích căng cứng đó, cái
tôi lại bộc lộ tận cùng phiên bản của con người khước từ thế giới chung quanh,
thậm chí khước từ chính mình để chìm đắm trong cõi hư vô. Có thể thấy đỉnh điểm
của mạch tư tưởng - cảm xúc trong trường ca này là sự phá vỡ những quy luật cuộc
sống thông thường, điểm nhìn của chủ thể chạm sâu vào nỗi đau trần thế. Trong
139

không gian vô định đó, cái tôi gần như nổi loạn, để khám phá tận cùng bi kịch chiến
tranh. Sự nổi loạn này hướng vào tâm linh nhiều hơn, “nhằm phá phách những
thành trì bao quanh ý thức để mở những con đường tiến vào vô thức và tiềm thức”
[151, tr.70]. Điều đáng nói là trong phức hợp những lí giải đầy sắc màu siêu thực,
cái tôi say, cái tôi đãng trí lại thức tỉnh trong nỗi đau của người sáng tạo thơ ca. Đó
là sự bất lực của một người nghệ sĩ yêu nước không tìm ra lối thoát cho đời mình.
Sức chứa của trường ca dường như cũng trở nên chật chội để chủ thể trữ tình vật vã
cùng với liên tiếp những đổ vỡ trong tư cách của người sáng tạo nghệ thuật. Chính
khả năng mở rộng yếu tố tự sự của trường ca đã dẫn dắt câu chuyện có vẻ mộng mị
của con người đến với sự phản tỉnh - một trong những cảm hứng nổi bật của tác
phẩm. Đó chính là sự cô độc của người nghệ sĩ trước cuộc đời vô nghĩa lí và có thể
còn là bất lực của ngòi bút trước thế giới mà con người chỉ thấy ám ảnh về sự diệt
vong. Đây lại là dấu ấn hiện sinh trong quan niệm nghệ thuật về con người của Ngô
Kha. Âm hưởng tác phẩm chùng xuống, lê thê với dòng cảm xúc rạn vỡ, sầu não
của cái tôi trữ tình. Ngụ ngôn của người đãng trí không kiến tạo theo cốt truyện mà
có chuyện. Đó là câu chuyện của một chủ thể mà cũng là cách lí giải số phận con
người trong nỗi buồn chiến tranh miền Nam đẫm máu. Trường ca diễn tả rất thật cả
một quá trình chuyển đổi tư tưởng của một người chiến sĩ yêu nước, một nhà thơ
yêu nước trở thành một con người khước từ thực tại. Đó lại là biểu hiện cao độ của
cái tôi hiện sinh dằn vặt không tìm được lẽ sống, bế tắc trước thực tại quá đau
thương và tìm quên vào thế giới của những điều u ám, tàn tạ, chết chóc: thôi/ em
hãy châm lửa đâm mù mắt tôi/ xin đừng căng dây đàn trái đất này/ tôi vẫn là người
chỉ còn một giác quan đơn độc/ để nghe dây đàn chùng/ cũng như em/ chỉ còn một
nụ cười/ để xua đuổi già nua. Nếu không đến với trường ca thì tác giả khó có thể đi
sâu vào thế giới tinh thần của chủ thể thẩm mĩ. Kết cấu tác phẩm này cũng khá đặc
biệt. Vốn trường ca mang âm hưởng hào sảng và đến đoạn kết của tác phẩm thường
là sự kết tinh của những điều hứa hẹn, những lí tưởng cao đẹp… Còn ở đây, phần
kết lại là giai điệu trầm buồn thống thiết, là một sự kết thúc không có lối thoát, là
một số phận bi kịch, là lời tiên tri cho định mệnh của cuộc đời: thi sĩ vẫn nằm im
140

trong nhà tù vĩnh cửu. Cái tôi đã chạm vào lãnh địa định mệnh, cảm thấy bị “ruồng
bỏ”. Cái tôi trữ tình thể hiện rõ nét dấu ấn hiện sinh “không tìm thấy dù ở bên trong
mình hay ở ngoài mình một khả năng bám víu” [60, tr.10 - 11]. Đây là quan niệm
nghệ thuật của Ngô Kha và cũng là biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con
người mang cảm thức hiện sinh khi đánh mất hướng đi, đánh mất niềm tin vào cuộc
chiến đấu bị thất bại. Theo đó trường ca này là sự thể hiện rất rõ nét cái tôi trữ tình
hiện sinh - một biểu hiện đặc sắc của dạng thức cái tôi trữ tình phi sử thi trong thơ
trẻ 1965 - 1975. Như vậy, cái tôi trữ tình không chỉ vận động trên bình diện lịch sử
mà còn là một phạm trù thể hiện tính “động” ngay trong nội tại của nó, như trường
hợp này, thực sự đã có sự tương tác giữa các dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình
trong tác phẩm. Chính sự xuất hiện đan xen giữa cái tôi mang cảm thức siêu thực,
cái tôi trữ tình mang dấu ấn hiện sinh một lần nữa khẳng định tính “động” của cái
tôi trữ tình, qua đó thể hiện sự phức hợp trong tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ
trước những vấn đề đáng suy ngẫm về số phận con người.
Xu hướng ưa chuộng trường ca là một yêu cầu tất yếu của lịch sử văn học.
Cuộc sống và bản thân thơ ca đã đặt ra cho người nghệ sĩ sự chọn lựa hình thức mới
trong hành trình tìm tòi, sáng tạo. Trong ý nghĩa đó, thơ trẻ 1965 - 1975 là một sự
tìm tòi thể nghiệm đáng ghi nhận trong việc phát huy tính năng của thể loại trường
ca nhằm tạo dựng những dạng thức phong phú của cái tôi trữ tình.

3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần

Trên tiến trình phát triển của văn học, thơ tự do xuất hiện trong thời kì thơ
Việt Nam chuyển sang “một thời đại trong thi ca” - phong trào Thơ mới 1932 -
1945. Đây được xem như bước khởi đầu Thơ mới khẳng định vị thế của mình trong
công cuộc cách tân thể loại. Cùng với đặc trưng “mạch thơ tự do hoàn toàn không bị
chi phối bởi một quy luật nào, mà mở rộng theo hai chiều dọc và ngang một cách
phóng túng” [119, tr.33], thơ tự do mang lại cách tân đáng kể trong việc khơi rộng
và thậm chí phá vỡ những khuôn khổ hạn định gò bó của hình thức thơ cũ. Thơ mới
là một sự phóng túng trong hình thức biểu hiện, trong đó có thể thơ tự do song so
141

với số chữ vẫn còn hạn định của câu Thơ mới thì phong trào thơ này vẫn chưa hoàn
toàn thoát mình ra khỏi những ràng buộc. Có thể khẳng định thơ tự do thuộc Thơ
mới (1932 - 1945) là bước tìm tòi thể nghiệm đầu tiên nên dù ít nhiều đã thoát khỏi
sự gò bó của thể thơ ổn định nhưng vẫn chưa thực sự linh động và phóng khoáng
bằng thơ ở giai đoạn sau, đặc biệt là giai đoạn 1965 - 1975. Như một số trường hợp:
Sớm nay tiếng chim thanh/ Trong gió xanh/ Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
(Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ) hay Nhưng em ơi,/ Đất trời nghiêng ngửa/ Mà trước
mắt thành Sầu chưa sụp đổ/ Đất trời nghiêng ngửa,/ Thành sầu không sụp đổ, em
ơi! (Say đi em - Vũ Hoàng Chương)… là bước thể nghiệm đáng ghi nhận của thơ tự
do song mạch thơ vẫn chưa thực sự được giải phóng; vẫn còn đó sự hạn định của
vần thơ, nhịp điệu và cả tứ thơ cũng chưa thực sự bay bổng. Hay đến với Xuân về
của Lưu Trọng Lư, với kiểu câu thơ dài ngắn khác nhau, thơ tự do được đánh giá là
thể thơ ít bị ràng buộc nhất về mặt vần điệu, về sự hạn định câu đã cho phép nhà thơ
phóng túng trong tư duy nghệ thuật, tạo được những khoảng thăng hoa cảm xúc. Vì
thế một số cây bút trong phong trào Thơ mới đã dần chiếm lĩnh thể thơ này, từ đó
thơ tự do cũng dần khẳng định vị thế trong hình thức thơ Việt Nam hiện đại. Tuy
nhiên, hình thức thơ tự do của phong trào Thơ mới vẫn chưa chiếm nhiều ưu thế,
nhất là trong tâm lí đón nhận của độc giả.
Chính sự xuất hiện của thể thơ tự do trong phong trào Thơ mới kéo theo sự ra
đời của hàng loạt các cây bút thử sức với thể thơ này trong thơ kháng chiến miền
Bắc. Trong khi đó ở miền Nam, các cây bút thể hiện ý thức sâu sắc trong việc cách
tân nghệ thuật như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Mai Thảo… đã mạnh dạn đưa
thể thơ này vào đời sống tiếp nhận của công chúng với quan niệm thống nhất - thơ
tự do cởi bỏ hết những ràng buộc để thơ ca đạt được đến đỉnh cao của sự thăng hoa,
“phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che
đậy” (Thanh Tâm Tuyền). Đời sống văn nghệ miền Nam những năm 50, 60 tràn
ngập một tinh thần tự do như thế. Thanh Tâm tuyền có cả một dàn hợp xướng của
tuyên ngôn tự do - điểm bắt đầu và cũng là cứu cánh của sáng tạo: mỗi người đã
chính một tự do,ôm tình yêu tự do chật ngực, câu tự do âu yếm, nối kết bằng tự do
142

(Tôi không còn cô độc). Nguyên Sa - “một con người mà tự nó đã mang theo thân
phận những yếu tính của tự do” [25, tr.90] lại muốn độc chiếm một cõi tình tự do
bằng con chữ của tự do tuyệt đối, con chữ của vô thức sáng tạo: Cho tôi tìm một con
chữ mới/ Không có trong hai mươi nhăm chữ cái/ Để bắt đầu tên em/... (Tự do).
Thể thơ tự do là một sự lựa chọn tất yếu của quá trình vận động và phát triển văn
học. Có thể thấy sau Cách Mạng Tháng Tám, thơ tự do có điều kiện phát triển với
nhiều hình thức đa dạng. Đến giai đoạn 1965 - 1975, thơ tự do nở rộ với nhiều cách
lựa chọn hình ảnh táo bạo, mới lạ và nhiều cách sử dụng tiết tấu linh hoạt nhằm biểu
hiện cái tôi trữ tình tích hợp được những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần.
Qua thống kê, khảo sát trên 30 tập thơ và tuyển tập thơ ở cả ba vùng sáng tác,
tác giả luận án thu được kết quả sau:
Tỉ
Thể
STT Tập thơ Tổng lệ
tự do
(%)
1 Áo trận - Nguyễn Đức Mậu 15 28 53.6
2 Bầy ong trong đêm sâu - Lưu Quang Vũ 40 40 100
3 Bếp lửa - Bằng Việt 16 20 80
4 Cát trắng - Nguyễn Duy 32 50 64
5 Cây xanh đất lửa - Nguyễn Đức Mậu 19 30 63.3
6 Đất sau mưa - Bằng Việt 25 35 71.4
7 Đất và khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm 19 30 63.3
8 Đôi mắt nhìn tôi - Bùi Minh Quốc 35 42 83.3
9 Gió Lào cát trắng - Xuân Quỳnh 30 36 83.3
10 Hoa dọc chiến hào - Xuân Quỳnh 18 28 64.3
11 Hư ngôn - Nguyễn Phan Thịnh 8 8 100
12 Hương cây - Lưu Quang Vũ 17 20 85
13 Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn 11 27 40.7
14 Khoảng trời quê hương - Vương Trọng 19 26 73.1
143

15 Mặt đất không quên - Thu Bồn 25 32 78.1


16 Một góc quê hương - Chim Trắng 24 31 77.4
17 Mưa trong rừng cháy - Nguyễn Đức Mậu 16 25 64
18 Ngọn lửa dòng sông - Phạm Ngọc Cảnh 20 30 66.7
19 Nhớ - Hoàng Thị Minh Khanh 8 14 57.1
20 Những bông hoa không chết - Lưu Quang Vũ 34 34 100
21 Những búp bàng - Phan Thị Thanh Nhàn 10 17 58.8
22 Nỗi nhớ con đường - Ý Nhi 13 15 86.7
23 Ở hai đầu núi - Phạm Tiến Duật 21 34 61.8
24 Rừng dậy men mùa - Đông Trình 6 27 22.2
25 Thơ miền Nam trong thời chiến - Nhiều tác giả 208 791 26.3
26 Thung lũng tiếng chim - Lâm Huy Nhuận 10 12 83.3
27 Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long 10 19 52.6
28 Tiếng hát những người đi tới - Nhiều tác giả 45 75 60
29 Tiếng thầm - Thúy Bắc 10 15 66.7
30 Trái tim sinh nở - Lâm Thị Mỹ Dạ 10 25 40
31 Trạm gió - Hữu Thỉnh 13 20 65
32 Tre xanh - Thu Bồn 23 40 57.5
33 Viết trên đường tranh đấu - Nhiều tác giả 25 31 80.6

Từ kết quả khảo sát, có thể thấy thơ tự do chiếm một tỉ lệ đáng kể trong xu
hướng lựa chọn thể loại của thơ trẻ. Qua đó có thể khẳng định đến thơ 1965 - 1975,
thơ tự do tiếp tục được lựa chọn như là hình thức phổ biến, phù hợp với dung lượng
phản ánh hiện thực cách mạng và những vấn đề mang tầm triết luận. Đặc biệt là
những năm 60, thơ tự do thực sự đã khẳng định được vị thế trên thi đàn. Với khả
năng dung nạp nhiều suy tưởng, nhiều trạng thái cảm xúc sôi nổi trước bao nhiêu
biến cố nóng bỏng của cuộc chiến đấu, thơ tự do thích hợp với những vấn đề giàu
tính trí tuệ, tính chính luận; đồng thời cũng thể hiện bao quát nhất nguồn cảm xúc
tràn đầy của chủ thể trước hiện thực chiến tranh. Thơ tự do cũng đã là một thể loại
144

được ưa chuộng của một số nhà thơ thế hệ trước, chẳng hạn với một phong cách thơ
giàu triết luận, suy tưởng, Chế Lan Viên đã tìm đến với thơ tự do. Khi cần thể hiện
cao độ chất suy nghĩ, tác giả sử dụng tối đa thể loại này bởi “thơ tự do chấp nhận
nhiều khả năng diễn tả” [119, tr.129]; trên cơ sở đó nhà thơ lật trở nhiều góc cạnh
của vấn đề để suy ngẫm. Có thể thấy Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên,
khi tính chính luận đóng vai trò chủ đạo trong tư duy nghệ thuật, thơ tự do xem như
là thể loại phù hợp nhất. Bằng hình thức thể hiện linh hoạt, co giãn của câu thơ,
những luận bàn về thời cuộc, thái độ của chủ thể đối với tội ác kẻ thù và nhất là
niềm tự hào về phẩm chất của con người anh hùng… được khai thác thấu đáo.
Sự biến động của đời sống xã hội, đời sống văn học tất yếu tác động đến tư
tưởng và hình thức thơ ca, tạo ra xu hướng tự do hóa hình thức của thơ trẻ 1965 -
1975. Tuy đã xuất hiện rải rác trong nền thơ cách mạng, song phải nói đến giai đoạn
này, thơ tự do mới trở thành sự lựa chọn phổ biến của các cây bút trẻ. Cái tôi trữ
tình là cách cảm nhận của chủ thể trước hiện thực, là cách tổ chức điểm nhìn của
chủ thể trữ tình, đồng thời cũng là tổ chức sự vận động cảm xúc cũng như tổ chức
các phương tiện biểu đạt để xây dựng hình tượng trữ tình. Như vậy cái tôi trữ tình là
sản phẩm tinh thần thơ ca, thông qua việc tổ chức các phương tiện trữ tình. Thơ tự
do chẳng những nói được những gân guốc của cuộc đời thường nhật mà còn đề cập
đến nhiều chiều cuộc sống thật thấm thía. Với điểm nhìn đa dạng ở những ngổn
ngang, góc cạnh của hiện thực chiến tranh; với những phức tạp của mạch cảm xúc,
tư tưởng; với chồng chất trăn trở về được - mất, sống - còn; với sự giằng xé giữa
vinh quang - mất mát, thơ tự do là hình thức phóng khoáng nhất để cái tôi trữ tình
dịch chuyển điểm nhìn trên nhiều bình diện. Để khắc sâu diện mạo của cái tôi trữ
tình với những suy tư, trải nghiệm đa chiều. “Thơ tự do không bị những luật lệ
khách quan cố định chi phối, nhưng vẫn có luật lệ khuôn khổ và đây là luật lệ khuôn
khổ do chính nhà thơ tạo ra” [231, tr.48]. Có thể thấy tích hợp nhiều vấn đề trong
nội tại thể thơ luôn là thế mạnh bởi thơ tự do ít bị ràng buộc nhất về mặt vần điệu,
về sự hạn định câu và cho tác giả có điều kiện diễn tả đối tượng một cách thích hợp
nhất. “Muốn đi vào cuộc sống, thực hiện đời sống gắn liền với thực tại nên thơ tự
145

do từ chối sự trau chuốt cổ điển” [49, tr.110]. Thơ tự do xem ra là hình thức sát hợp
nhất với nhu cầu của các cây bút trẻ trong việc cất dựng chân dung tinh thần của
chủ thể trữ tình. Những vấn đề nhức nhối nhất của hiện thực chiến đấu, những phân
tích lí giải của chủ thể về bộn bề sự kiện e không vừa vặn trong những thể thơ
truyền thống, niêm luật chặt chẽ và hạn định về dung lượng. Sự gò bó của các thể
thơ đó sẽ khuôn hẹp khả năng biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ trẻ với xu hướng
đưa chất bộn bề, trần trụi của đời sống vào thơ.
Thơ tự do mang thể nghiệm mới của các nhà thơ trẻ trong những cấu trúc câu
thơ linh hoạt. Trước hết, với vô vàn trở trăn về số phận dân tộc hay thân phận con
người, sự linh hoạt trong độ dài câu thơ tự do đã tạo điều kiện để các nhà thơ đi sâu
vào bày biện, luận giải về những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần. Có lúc chủ
thể cần kéo căng cảm xúc và cũng có khi nhu cầu dồn nén cảm xúc rất lớn. Với sự
luân phiên dài ngắn của câu thơ, cái tôi có khả năng thể hiện đầy đủ cung bậc cảm
xúc, suy tư. Kĩ thuật viết này đã được thể nghiệm thành công trong sáng tác của các
nhà thơ miền Nam những năm 50, 60, đúng như quan niệm cấu trúc thơ tự do là sự
“phá vỡ hết mọi hình dáng”:
Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bực thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mưa tầm tã
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nổi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
(Liên những bài thơ tình thời chia cách - Thanh Tâm Tuyền)
Một đặc điểm dễ nhận diện ở thơ tự do là không bị ràng buộc vào những quy
tắc định trước như số dòng, số chữ, niêm, đối, vần… Số dòng trong từng khổ không
146

nhất định. Số chữ trong từng dòng có thể nhiều ít khác nhau. “Nhạc điệu của thơ
chính là nhịp bước của ý thơ” [194, tr.174]:
Tôi bước đi
mưa mỗi lúc mỗi to
sao hôm nay lòng thấy chật
như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
(Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao)
Với dòng thơ càng được kéo dài, cảm xúc của chủ thể trữ tình như được đẩy
căng. Người thơ mong muốn đi tìm lời giải vì sao cõi lòng mình như hẫng đi giữa
không gian giăng mắc nỗi niềm. Thơ trẻ vì thế nói được rất nhiều nỗi lòng thành
thật của con người: Họ trao cho nhau/ giọt nước mắt và nụ cười hai mươi sáu năm
xa/ dành dụm lại/ giọt nước mắt cũng đã già như tuổi/ riêng nụ cười là vẫn trẻ
trung (Giọt nước mắt và nụ cười - Nguyễn Duy). Chính sự co giãn linh hoạt của thể
thơ tự do tạo ra những khoảng trắng trong thơ, những khoảng lặng, thậm chí là
khoảng chết lặng trong tâm hồn. Nỗi đau mất mát không chỉ là nỗi đau nữa mà còn
là thảng thốt. Cấu trúc câu thơ biến đổi trong hàng loạt lời chất vấn xót đau. Nhịp
khúc ấy diễn tả rất thấu tâm trạng chơi vơi của cái tôi giữa không gian đơn độc:
tôi đã về
chiều nay không còn ai
cổng ngoài kia đã khép
chỉ còn lại một tôi
cầm lòng nghe mưa chết
không còn ai
không còn ai
(Mưa mùa này không còn ai - Phạm Cao Hoàng)
Chính thơ tự do, với biên độ mở trên từng dòng thơ như thế đã giúp các tác
giả trẻ tận dụng trong việc chuyển tải một số tư tưởng nghệ thuật và tạo nên được
những quan niệm nghệ thuật độc đáo. Thời gian nghệ thuật được nhìn nhận không
147

chỉ trên ba chiều nữa mà trong thơ trẻ, có khi con người được sống ở chiều thứ tư
của thời gian - đó là chiều của đời sống tâm linh. Tiết tấu nhịp thơ như bị dồn nén
lại, khi gấp gáp, lúc lắng đọng trong nguồn cảm xúc trào dâng của cái tôi trữ tình.
Cái tôi dự cảm len thấm vào từng nhịp điệu của đoạn thơ, thể hiện cho thấu cái tôi
phức hợp của nhiều cảm xúc bâng khuâng, hồi hộp, ngỡ ngàng, âu lo... và chất
chồng dự cảm. Hình tượng thời gian mang nhiều chiều kích mới: quá khứ ám ảnh
ngay trong những ngày chưa sống, hôm nay đã đan cài những đường vân của cái
còn phía trước và nhất là tương lai lại ôm trọn cả chiều xưa quá khứ và chiều sâu
thực tại: Tất cả ở đây đều chưa định/ Cuộc đời như sắp sửa đi xa/ Tươi trẻ đến phát
lo/ Ồn ào mà sâu hút (Viết cho em từ cửa biển - Lưu Quang Vũ). Với một số nhà
thơ trẻ, đồng hiện nhịp thời gian đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật đầy nghiệm
sinh của một con người đam mê sống. Thời gian đồng hiện kéo con người vào cơn
lốc của xúc cảm; mà ở đó, cảm thức về cuộc đời trở nên sâu hơn và thấm thía hơn.
Đây là sự hòa quyện giữa những mặt tưởng đối lập trong đời sống nội tâm của nhà
thơ, khi dự cảm là cảm thức thời gian chủ đạo. Như vậy, cái tôi thơ trẻ thể hiện sâu
sắc triết lí về dòng đời riêng tư phần nhiều từ cái nhìn đồng hiện thời gian nhờ vào
tiết tấu linh hoạt của thơ tự do.
Thơ trẻ thâm nhập vào vùng cảm xúc đa chiều của cái tôi trữ tình. Tiếng thơ
có khi dồn nén, có lúc lại hẫng hụt. Sử dụng độ dài ngắn của thơ tự do chính là cách
để các cây bút trẻ thể hiện đầy đủ cung bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình:
Không thể xông lên đồn thù bằng đôi chân được nữa
Và bàn tay xém lửa, xù xì
Thành bàn chân: như trẻ nhỏ - anh đi
(Bàn tay biết đi - Nguyễn Đức Mậu)
Chính kết cấu này, kết hợp với nhịp điệu câu thơ, tạo nên tâm sự thiết tha của
một thế hệ vẫn chưa hết bàng hoàng trước hiện thực chiến trường: Đêm nghe tằm ăn
dâu/ Tưởng dòng sông đôi bờ đương vỡ/ Con lớn lên bỡ ngỡ/ Ôm ngọn súng trường
dắt mặt trong mưa (Quê hương - Thu Bồn). Với độ dồn nén của những dòng thơ
cực ngắn, thơ trẻ 1965 - 1975 tạo nên những tiếng tự tình trầm buồn, gây nên một
148

nguồn cảm xúc mới mẻ trong thơ. Cũng với cách gieo cảm xúc vào những khoảng
lặng cuối đoạn thơ, các nhà thơ trẻ có lúc đã để tiếng yêu thương - lẽ ra phải nén tận
vào sâu tâm thức - bật thốt thành lời:
Tôi không thể nào không nghĩ về anh
Khi trở lại bến này - Anh đã vì Tổ quốc
Thắt lòng tôi không khóc
(Bức ký họa trên bờ biển - Thúy Bắc)
Thơ tự do không phải là một hình thức định trước trong quá trình sáng tác mà
đó là sự tìm đến tất yếu khi tâm hồn nhà thơ đạt đến độ nhuần chín, ở đó độc giả
như được trải lòng trong những trạng thái cảm xúc tế vi của người nghệ sĩ. Không
chỉ tự do trong hình thức câu thơ, thể thơ này còn kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài
thơ. Đó là khi cái tôi có nhu cầu bộc bạch đến cạn cùng nguồn cảm xúc thẩm mĩ,
khi tiếng nói bức bối của chủ thể trữ tình gần như không thể kiềm nén. Chính vì
nhiều lí do khách quan, do quan niệm thơ ca mang hơi thở thời sự, thơ trẻ miền
Nam thường là những tác phẩm có khuôn lượng câu thơ rất dài. Đặc điểm này đã
góp phần chứng minh cho tư duy nghệ thuật thơ trẻ, đặc biệt là thơ trẻ trong lòng đô
thị miền Nam - đi vào những chi tiết vụn vặt của chiến trường và cuộc sống đời
thường. Sự linh hoạt trong việc mở rộng biên độ như thế không chỉ phản ánh hiện
thực phức tạp của chiến trường mà còn phù hợp với việc tái hiện cuộc sống đời
thường. Những bài thơ trong Tiếng hát những người đi tới hay Viết trên đường
tranh đấu của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam hầu hết không theo
khuôn khổ câu chữ, có khi phá vỡ cả cấu trúc thơ, đưa lời văn xuôi xâm lấn vào địa
hạt thơ; tạo nên những tác phẩm gần như xóa nhòa ranh giới giữa thơ và văn xuôi.
Chính tính năng này của thơ tự do đã tạo điều kiện cho người nghệ sĩ tự do hóa hình
thức diễn đạt, tạo nên những bài thơ có cấu trúc văn xuôi. Nhiều tác phẩm có khi
kéo dài vài trang viết với hàng trăm dòng thơ, kết chứa nhiều hình tượng trữ tình và
chuyên chở được vô vàn suy cảm của cái tôi từ những vấn đề lớn lao của dân tộc
đến những ngóc ngách của đời sống: Mỹ Lai - máu, nước mắt và niềm uất hận
(Nguyễn Văn Phụng); Đi giữa rừng súng máy (Trần Phá Nhạc); Vì sao những lời
149

quyết liệt, Sóng vẫn đập vào eo biển, Đất của những người bất phục (Lê Văn
Ngăn); Về những con đường khô cây (Thái Ngọc San).
Với sự tự do trong vần điệu, thơ tự do là sự hòa điệu của tiết tấu. Hay nói
khác hơn, tính nhạc - phần lớn là nhạc lòng - mới là điều quyết định sức hấp dẫn
của thể thơ này. Đồng thời, sắc diện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời chống Mỹ
nhờ sự vượt thoát khỏi quy luật vần điệu mà được thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Bởi không gò bó trong những hạn định về niêm, luật, cái tôi trữ tình thể hiện được
chiều sâu thế giới nội cảm trên những liên kết cảm xúc. Tiết tấu thơ mới là sợi dây
kết dính cảm xúc của chủ thể để khắc họa sắc diện của cái tôi trữ tình đối mặt với bi
kịch cô đơn. Cái tôi như chênh vênh trong hàng loạt lời chất vấn: tôi chẳng phải là
chim/ sao biết đường bay mỏi/ đôi cánh này ngông cuồng và rồ dại/ gió đã đến rồi/
xin một bàn tay đắp lên vết thương/ sao gió không ru nỗi buồn tôi đi ngủ/ bây giờ
gió là đứa trẻ hoang tàn/ đem cuộc đời tôi làm hát dạo (Gió - Ngô Kha). Với quan
niệm thơ hôm nay phải là thơ tự do, Thanh Tâm Tuyền là một trong những người
mở đường cho một sự phá vỡ gần như tuyệt đối những ràng buộc hình thức để thơ
tự do tràn vào địa hạt sáng tác ở miền Nam bấy giờ. Với Thanh Tâm Tuyền, thế giới
nghệ thuật thơ là một phức điệu của tinh thần tự do, của ý thức tự do. Chính quan
niệm này đã khiến tác giả tạo nên được những chân dung cái tôi trữ tình sắc cạnh
bởi cách tạo độ chênh cảm xúc ở kết cấu dòng thơ được thu ngắn bất thường. Với
cái tôi luôn giằng xé: Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ, tôi hét tên tôi cho nguôi giận, tôi
gào tên tôi thảm thiết… trong hành trình nghệ thuật, ở giai đoạn này, cái tôi trữ tình
lại một lần nữa khát thèm đào tận sâu vào bản ngã:
Tôi đứng đấy như con công tôi múa
xoè bộ mã đời mình nũng nịu
như trên chót đỉnh khoe khoang
Tôi đứng đấy những tơ giăng phù phiếm
con nhện rớt hoài
trong màng lưới rách bung
(Thầm nhủ)
150

Cái tôi trong địa hạt tình yêu với nỗi niềm mất mát cũng chiếm phần nhiều
trong tiếng thơ vùng tạm chiếm miền Nam, nhất là những tiếng thơ lạc lõng giữa
hoàn cảnh sống bấy giờ. Sự đeo đuổi hình bóng yêu thương sau khi đã chia lìa, nỗi
niềm thương tiếc cho thân phận của tình yêu cũng gây xốn xang cho người đọc khi
chỗ ngắt tiết tấu lại là nơi dồn ứ nỗi bất hạnh chia xa:
Anh đến với em
Như hòn sỏi rớt xuống mặt hồ phẳng lặng
Không đủ sức làm cho hồ nổi sóng
Chỉ đủ làm mặt nước hồ xao động
Khoảnh khắc rồi lại phẳng lặng như xưa
Nhưng em ơi
Chỉ một khoảnh khắc thôi
Mặt hồ dù phẳng lặng
Hòn sỏi kia nằm dưới đáy hồ rồi
(Hòn sỏi và em - Hạc Thành Hoa)
Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không theo một thể thức nhất định. Có thể
nói đây là một cấu trúc thơ xóa bỏ hầu như mọi sự ràng buộc bên ngoài. Một trong
những hình thức làm tăng khả năng biểu cảm và tăng nhạc điệu cho tác phẩm thơ tự
do là ngắt nhịp đột ngột thành một dòng thơ, vốn khá phổ biến trong tư duy lựa
chọn hình thức biểu đạt của thơ trẻ đương thời. Nhịp điệu thơ phân khúc, âm hưởng
lời thơ như chùng xuống, đó cũng chính là sức nặng cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Hiện tượng này cũng khá được ưa chuộng ở thế hệ thơ xuất hiện trong kháng chiến
chống Pháp và đã tạo được những thành công đáng kể. Tế Hanh là một trong những
nhà thơ sử dụng hiệu quả hình thức này. Để tái hiện mạch trăn trở của chủ thể trữ
tình trước tương lai dân tộc, tác giả đã tách dòng cảm xúc thành những khúc tâm
trạng nôn nao, rạo rực; thể hiện sâu sắc sức mạnh niềm tin:
Người thủy thủ
nhìn mặt trời sắp tắt
thấy lòng mình biển cháy mênh mông
151

ngày mai đây


ngày chiến đấu sau cùng
(Người thủy thủ và con chim én)
Có thể xem đây là những khoảng trắng đầy tâm trạng của cái tôi. Các nhà thơ
trẻ giai đoạn này tiếp tục đem vào thơ cách ngắt nhịp của lời nói. Nhịp điệu thơ
chính là điệu tình cảm. Kiểu kết cấu này mở độ lắng cho mạch cảm xúc, tạo những
nốt lặng của hồn thơ. Như có lần sức nặng lời buộc tội về tình người của chủ thể trữ
tình dường như dồn cả vào chỗ ngắt nhịp thành dòng như thế:
Sao mọi người có thể dửng dưng
Nhìn em đi trên đường tối
Mọi người đều có tội
Trước tuổi thơ đã chết của em
(Những tuổi thơ - Lưu Quang Vũ)
Có thể nói, hiện tượng ngắt nhịp thành dòng thơ như thế đã tạo nên những
quãng ngưng, những khoảng “im lặng”, những khoảng trắng trong thơ; làm cho
mạch thơ gián đoạn, đứt nối. Trong đó, thiết kế nấc thang giữa các dòng thơ là một
trong những cách tạo khoảng “im lặng” mang lại nhiều hiệu quả thẩm mĩ bất ngờ.
Đây là hiện tượng dòng thơ bị phá vỡ rõ nét nhất. Đặc biệt trong thơ trẻ, chính
những khoảng trống này trên văn bản nghệ thuật lại góp phần không nhỏ trong việc
khắc dựng chân dung cái tôi trữ tình phi sử thi nghiệm sinh sâu sắc trước nỗi đau
chiến tranh với những trạng thái cảm xúc dồn nén, những ẩn ức đời tư. Chính từ
hiệu quả thẩm mĩ của khoảng lặng, thơ trẻ tạo được nền cảm xúc để cái tôi trữ tình
bật lên những giãi bày dồn chất:
Sau những loạt B.52
mặt đất lặng im
Chỉ có tiếng bàn tay là rõ nhất
Tiếng xẻng cuốc cứu người thân, hầm sập
Tiếng nước giội vào lửa
Tiếng mười đầu ngón tay buốt nhức
152

Bới tìm người đã chết


Tiếng chổi vén vun, tiếng lên đạn súng trường
(Tin ở bàn tay - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Ngắt nhịp thơ thành tầng bậc mà đôi khi mỗi nấc thang chỉ còn là một tiếng
chính là phương thức sáng tạo rất đáng ghi nhận ở thơ trẻ. Cái tôi trữ tình chạm vào
cái lặng im của thinh không đến ghê người trong những thời khắc ngột ngạt của
chiến tranh. Màn đêm như đồng lõa với cái bí hiểm, cái ác. Còn hiện thực chung
quanh vẫn tồn tại đấy mà như xa vắng, mênh mang; cuộc sống chỉ như một vết
thương lòng khoét sâu thêm vào nỗi đau mất nước. Cái tôi trữ tình chất vấn, xoay
quanh những thân phận trôi giạt:
Lũ Mỹ nghênh ngang
ngoài phố
Những cánh hoa đêm tàn tạ
Những cô gái nhỏ
Đi ?
Về ?
lặng im.
Thành phố - trái tim chảy máu!
(Về âm vang của tiếng guốc bên đường - Chim Trắng)
Chỗ ngắt nhịp theo lối tầng bậc có khi là điểm dừng để người thơ lí giải về
nỗi buồn thân phận bơ vơ của con người trước hình hài đất nước rạn vỡ. Khi cái tôi
ngẫm ngợi về tiếng buồn lịch sử, cấu trúc phân tầng này chính là âm bản trạng thái
đổ vỡ của con người trước nghịch cảnh chiến tranh:
Chiều nay tôi đi
Nghe tiếng buồn lịch sử
Từ bao năm thổi trên một quê hương
Lổ đổ vết điêu tàn
Nằm phơi mình rách nát
(Chiều nay tôi đi - Mai Trung Tĩnh)
153

Với những cây bút đeo nặng nỗi niềm tuyệt vọng, mang nặng cảm thức đơn
độc, kết cấu bậc thang càng phù hợp để khắc họa cái tôi trữ tình với chân dung đổ
vỡ, bất lực đến mức dửng dưng trước cả sự hiện hữu của thân phận con người:
Cuối cùng
Tôi làm rớt cả đời tôi
xuống giòng nước
đỏ phù sa của thời gian
Cuồn cuộn chảy vào đại dương
hư vô
(Trong cuộc hành trình - Đynh Hoàng
Sa) Cũng có khi mạch cảm hứng như bị ngắt ra, mang nặng nỗi niềm cách
trở:
Tấm ký họa trên tay tôi
bỗng nhòa vào biển rộng
Kết thành nghìn mắt ngọc long lanh
Chằm chặp nhìn tôi
như đã nhìn anh
Tôi hiểu rõ anh đi
giờ phút ấy!
(Bức ký họa trên bờ biển - Thúy Bắc)
hay đó là phông nền cho một sự cắt nghĩa nỗi nhớ đến “lạ” trong thời chiến. Như
vậy, “xuống thang là để tạo nên những nét dư nhân tạo trong dòng thơ” [197,
tr.325], tạo nên chất xúc tác đưa tư duy nghệ thuật của người sáng tác đạt đến độ
chín. Sức nặng của cảm xúc dồn cả vào những nấc thang, người đọc như mải miết
trên hành trình đi tìm nguyên do của nỗi nhớ, có khi tưởng chẳng thể nào cắt nghĩa
được trong trái tim đa đoan thời chiến:
tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
154

một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu


một vết bùn khô trên mặt đá
không có ai chia tay
cũng nhớ một tiếng còi tàu
(Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao)
Những cấu trúc bậc thang đôi khi níu con người vào những miền nội cảm rất
phức tạp của thế giới tinh thần thơ trẻ. Con gà đất, cây kèn và khẩu súng - Nguyễn
Khoa Điềm là một trường hợp như thế, ở đây điều ước ao giản dị của một thuở ấu
thơ lại đeo đẳng cả một đời day trở. Và chủ thể trữ tình đã cất xây một sự chuyển
đổi những khát khao bé bỏng của tuổi thơ thành một niềm khát vọng của con người
trưởng thành. Giấc mơ về con gà bảy sắc giục mùa sinh sôi là hiện thân của mơ ước
về một cuộc sống ngắt tiếng bom rền, cuộc sống của yên ả, phồn thịnh. Sự chuyển
biến trong những ước nguyện gắn với ba đoạn đời của anh giải phóng quân được
nhà thơ thể hiện sinh động trong hình thức câu thơ bậc thang. Đoạn kết của tác
phẩm chính là biểu hiện điểm nhìn của cái tôi trữ tình trải trên ba đoạn đời đầy cơ
cực mà cũng ắp đầy dự báo của nhân vật trữ tình. Kết thúc của những chặng đời
thăng trầm kia là bến đỗ của ngày mai tươi sáng, là hạnh phúc của niềm tin:
Anh đi từ
Con gà đất
cây kèn
và khẩu súng
Để nhận lấy tình yêu của thuở ban đầu
Cái tôi ngập ngừng, e thẹn trong mảnh đất tình yêu dường như cũng tỏ ra phù
hợp với lối thơ bậc thang. Người đọc không chỉ cảm nhận được cái thẹn thùa trong
tình yêu trong trẻo mà còn như tận mắt chứng kiến cái dùng dằng, bịn rịn không
thành lời qua kết cấu đứt mạch như thế:
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng
ngực Anh lên đường
155

hương sẽ theo đi khắp


Họ chia tay

vẫn chẳng nói điều gì


Mà hương thầm thơm mãi bước người đi
(Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn)
Các nhà thơ trẻ có ý thức tìm tòi, thể nghiệm những hình thức biểu hiện của
thơ tự do. Một số cây bút kéo dài câu thơ bằng lối viết rơi dòng với những chữ đầu
dòng không được viết hoa. Đây được xem là một trong những thể nghiệm mới của
cấu trúc câu thơ, truyền hết được những ý tưởng mà những câu thơ theo hình thức
thông thường không có khả năng diễn đạt trọn vẹn. Cách ngắt nhịp xuống dòng bất
ngờ đó làm cho mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình tác động rất mạnh đến tâm hồn
người đọc. Thường những chỗ không viết hoa và đột ngột xuống dòng chính là
điểm dừng để nguồn cảm xúc chất chứa của chủ thể trữ tình được đẩy lên đến cao
trào. Hay có chỗ rơi dòng không viết hoa lại là sự đổ vỡ của con người trước những
sự thật nghiệt ngã: tôi cũng có một cái làng/ không bao giờ tới được/ khi em mở bàn
tay/ những đường chỉ xa xôi/ run run định mệnh/ những đường chỉ mơ hồ lẩn khuất/
dẫn anh về một cái làng xưa/ đã mất (Những chiếc lá rơi - Lưu Quang Vũ). Đồng
thời kĩ thuật viết này còn tạo ra nhịp điệu cho lời thơ, tạo được điểm nhấn trong cảm
xúc của chủ thể trữ tình, khắc sâu diện mạo cái tôi mang cảm thức hiện sinh:
Chuyến xe chiều chở đầy người
với sương mù và núi đi theo
và cô đơn lăn đều trên bánh
chuỗi cười để lại đằng sau
(Hành trình - Ngô Kha)
Với quan niệm cuộc đời hiện hữu là một thảm kịch, phần nhiều con người
hiện sinh trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam chiêm nghiệm về sự cô đơn, tuyệt
vọng như một bản thể đầy ý thức dấn thân. Dấn thân để nghiệm sinh về tình yêu
định mệnh, đúng như quan niệm “con người chỉ hiện sinh khi không còn hiện sinh”.
Chính những chỗ xuống dòng không viết hoa của thơ tự do là cách biện giải về ngõ
156

cụt của phận người: hãy ngủ thôi hãy ngủ mau ngoan/ tình yêu là căn phần định
mệnh dành riêng/ cho đôi ta một khắc nào sẽ chết/ như mỗi ngày trong thân/ có một
kẻ mới tới/ có một kẻ ra đi/ đến cõi nào bí mật/ sự sống chỉ bắt đầu/ trong tận cùng
tuyệt vọng (Khởi đầu một kiếp - Du Tử Lê). Hay có khi kĩ thuật xuống dòng tự do
như thế là cách để người nghệ sĩ tự thú với chân dung cái tôi tình yêu trống rỗng:
Mùa mưa quanh co/ Những ngõ ngày lầm lũi/ Mối ham mê hong ngoài trời/ biệt
dạng/ em/ như bụi lả/ giữa sầu thinh không (Mùa mưa này lạ lẫm phải không em -
Thanh Tâm Tuyền).
Có thể khẳng định trường ca và thơ tự do là phương thức thể hiện đắc địa của
thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Các cây bút đã thể nghiệm và gặt hái được khá nhiều
thành công ở hai thể loại này, góp phần khắc họa sắc nét cái tôi trữ tình. Qua đó,
người đọc hình dung một cách rõ nét hơn những biểu hiện phong phú của diện mạo
cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.

3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi


Thơ ca là một nghệ thuật biểu hiện và ngôn ngữ thơ là một trong những nghệ
thuật biểu hiện kì công nhất. Ngôn ngữ thơ ca là tín hiệu nghệ thuật thể hiện xu
hướng lựa chọn phù hợp với nhu cầu của thời đại, đồng thời cũng là sự chọn lựa in
đậm dấu ấn cá tính sáng tạo, phong cách người nghệ sĩ. Chiều sâu suy nghĩ, trạng
thái rung động tế vi của tâm hồn… chỉ có thế đến được miền tâm thức sâu lắng của
độc giả thông qua quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca. Hay nói khác hơn, ngôn từ
nghệ thuật là phương thức thể hiện khá sinh động trong việc chiếm lĩnh hiện thực.
Thơ trẻ 1965 - 1975 có nhiều tìm tòi, thể nghiệm và sáng tạo trong nghệ thuật
ngôn từ. Không hẳn đây là sự cách tân ngôn ngữ, song các nhà thơ trẻ đã ý thức tìm
cho thế hệ mình môt số cách làm mới ngôn ngữ thơ ca, xác định cho mình một
hướng đi riêng để tạo nên phong cách thời đại. Đúng như quan niệm nghệ thuật về
thơ của lớp cầm bút trẻ: Tôi không bao giờ tha thứ cho mình/ Đã có lúc viết vần thơ
dễ dãi/ Những câu thơ nằm biếng lười uể oải/ Trên chiếc giường của trang giấy
trắng tinh (Không bao giờ - Anh Ngọc). Xuất phát từ ý thức nhìn lại nghiêm khắc
về trọng trách của người nghệ sĩ đối với công chúng, thơ trẻ đã bổ sung nhiều chất
157

liệu ngôn ngữ mới trong việc tăng cường chất khẩu ngữ và mở rộng yếu tố văn
xuôi, nhằm tạo cách diễn đạt riêng phù hợp với bản chất của tư duy nghệ thuật và
thể hiện đậm nét bản sắc cái tôi trữ tình.

3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực

Từ quan niệm nghệ thuật là sự phản ánh chân thực đến từng chi tiết của cuộc
sống và chiến trường, thơ trẻ 1965 - 1975 đã để ngôn ngữ của lời nói thường ngày
xâm lấn vào địa hạt thơ. Sự gia nhập của yếu tố khẩu ngữ có thể xem là một xu thế
không thể cưỡng lại được của ngòi bút thơ trẻ. Và chính sự phổ biến của thơ tự do,
chính yêu cầu tăng chất chính luận khiến cho thơ trẻ giai đoạn này mang điệu nói.
Sự cộng hưởng này giúp người nghệ sĩ lột tả hết cái gân guốc của cuộc đời thường
nhật. Và có lẽ đưa ngôn ngữ gần với lối nói rất đời thường là cách rút gần khoảng
cách giữa thơ và đời, đưa thơ chạm sâu vào muôn mặt đời sống. Có thể nói, chất
khẩu ngữ dường như trở thành “chủ âm” của không ít hiện tượng thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975.
Phải nói khoảng cách giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời sống được thu hẹp
đáng kể trong thơ 1945 - 1975. Để tăng cường chất liệu hiện thực, không ít nhà thơ
đã thể nghiệm trong việc đưa ngôn ngữ đời sống vào thơ trên một lằn ranh mỏng
mảnh giữa yếu tố “thơ” và “ngoài thơ”. Với nhu cầu hướng ngoại, các nhà thơ lớp
trước đã mở đường cho việc tạo kênh giao tiếp gần gụi giữa thơ với đời thông qua
những cách biểu đạt, cách dùng từ đậm chất khẩu ngữ: Sao đến chỗ ni/ Trước mắt
tôi như có hào sâu ngăn lại/ Đất Việt Nam, người Việt Nam không bước tới/ Mắt
mải nhìn mòn hết nửa con ngươi/ Thân đứng đây, thân chết nửa con người/ Lời tôi
nói lời tôi nghe, đứt đoạn (Sóng vỗ cửa Tùng - Lưu Trọng Lư); Chúng tôi đi nhớ
nhất câu ni/ Dân chúng cầm tay lắc lắc:/ Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc (Nhớ -
Hồng Nguyên); Thằng giặc không chạy được/ Mày chết với chúng ông (Lên đường -
Nguyễn Đình Thi)… Đến thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ, có thể xem Phạm Tiến Duật
là nhà thơ đã “cấp chứng minh thư” cho ngôn ngữ đời thường đi vào thế giới nghệ
thuật ngôn từ của thơ ca. Đây là cây bút tỏ ra thuần thục trong việc tiếp nhận sự du
158

nhập của yếu tố khẩu ngữ. Nhớ, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em - cô
thanh niên xung phong… là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện năng lực của Phạm
Tiến Duật trong việc tiếp nhận yếu tố khẩu ngữ một cách tinh tế. Thậm chí có
những từ ngữ ngỡ không thể thành ngôn ngữ thơ ca, vậy mà lại đầy chất thơ. Chính
nhiều khi chất khẩu ngữ tràn vào thơ khiến người đọc thấy thơ và cuộc sống không
thể là những bước đi lạc điệu. Phạm Tiến Duật đã viết rất tự nhiên về hình ảnh
người lính. Nỗi nhớ xoáy sâu, như thành hình thành khối đang cựa quậy trong tâm
hồn chủ thể trữ tình. Với ý nghĩ chỉ là vết thương xoàng, tâm hồn người lính muốn
bứt ra khỏi sự ràng buộc của nỗi đau thân thể, để hướng lòng mình về phía thiên
nhiên với một cách nói tự nhiên đến tưởng chừng vượt ngưỡng thông thường. Vậy
mà lại có duyên đến lạ: Nằm ngửa nhớ trăng/ Nằm nghiêng nhớ bến/ Nôn nao ngồi
dậy nhớ lưng đèo (Nhớ). Có thể khẳng định Phạm Tiến Duật là người nghệ sĩ rất
thành công khi phát hiện chất thơ ẩn giấu trong những chi tiết chằng chịt của đời
sống. Hay chính nhà thơ là người đã phá vỡ quan niệm thông thường về đặc trưng
ngôn ngữ thơ bằng chính hệ thống ngôn từ tưởng chỉ có thể xuất hiện trong lời ăn
tiếng nói hằng ngày: Người tinh nghịch là anh dễ thân/ Bởi vì thế có em đứng gần/
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn (Gửi em cô thanh niên xung
phong). Đến với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người đọc dường như hoàn toàn
bị chinh phục bởi chất liệu của khẩu ngữ tự nhiên xâm chiếm vào phong cách nghệ
thuật thơ: Không có kính ừ thì có bụi/ Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần
rửa phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không hề gây cho
người đọc cảm giác thô vụng, chất liệu khẩu ngữ trong thơ Phạm Tiến Duật đã thực
sự được chuyển hóa nhuần nhuyễn thành ngôn từ nghệ thuật, tạo nên một tứ thơ
đẹp. Cuộc đời của người lính lái xe thời chống Mỹ hiện lên rất thực và cảm động.
Họ lạc quan ngay cả trong cách nhìn, cách nghĩ; ngay trong tư thế, giọng cười…
Nổi bật lên trên nền của hàng loạt cách nói đầy chất khẩu ngữ đó là chất thơ, chất
thơ trong tâm hồn, trong sự bình thản của cái tôi trữ tình ngạo nghễ đến lạ lùng.
Như vậy mạnh dạn sử dụng yếu tố khẩu ngữ có chọn lọc, tinh tế không hề làm giảm
159

đi giá trị của thơ mà ngược lại còn góp phần tạo nên bản sắc riêng của phong cách
người sáng tạo, khẳng định thơ ca khởi đi từ cuộc sống và trở về với cuộc sống.
Trong thơ tự do vùng tạm chiếm miền Nam, cái tôi trữ tình cũng mang nhiều
sắc thái ngữ điệu cuộc đời. Chủ thể có ý thức trong việc diễn tả cạn cùng nỗi niềm
của con người bằng cách nói rất khẩu ngữ: Trong cuộc hành trình gian khổ ấy/ Tôi
làm rớt tình yêu/ xuống giòng nước/ đỏ phù sa của thời gian/ Cuồn cuộn chảy vào
đại dương/ hư vô (Trong cuộc hành trình - Đynh Hoàng Sa). Hay với chất liệu khẩu
ngữ, cái tôi thú nhận sự tồn tại chênh vênh của kiếp người, sự bấu víu cần kiếp ở
tình yêu: đâu chốn muôn thu/ mà chiều nay tay níu lấy/ chạm miền hư không/ bước
chân mình loạng choạng/ thôi hãy vin vào đời/ dù vẫn ngại ngần (Vết lệ nồng cho
một ngày vui - Hà Nguyên Thạch). Cũng có khi mượn lối nói khẩu ngữ, người nghệ
sĩ tự trào trong một chuỗi hỗn loạn tinh thần của cái tôi trữ tình:
Em có thương tôi hãy nhắm giùm đôi mắt lại
hãy nhốt tôi chật hừ trong đó
đừng thả tôi ra, lỡ dại tôi điên
tôi nói tôi cười rồi trời đất thất kinh
phải tận thế trước ngày phán xét
Chúa sẽ phạt tôi không cho tôi chết
đọa đày thêm một kiếp nữa cho nư…
(Tình ca trên biển - Lê Ký Thương)
Chất khẩu ngữ của thơ trẻ thường thể hiện tập trung ở những trợ từ: ừ, nhỉ…
Cách diễn đạt này hết sức tự nhiên, càng kéo thơ về với ngôn ngữ thường ngày. Lối
nói đầy tính chất khẩu ngữ này mới thực sự diễn tả hết cái gồ ghề, góc cạnh của
hiện thực lúc bấy giờ. Có lẽ không còn cách vận dụng ngôn từ nghệ thuật nào đắc
địa hơn là mượn chính cách nói của đời sống ngôn ngữ thường ngày để tái hiện bản
chất cuộc sống và hiện thực chiến trường: Ừ. Đã ở chiến trường/ Nhiều bom đạn
chẳng có gì lạ cả (Nguyễn Đức Mậu). Lời thơ là tiếng nói của cái tôi lạc quan, coi
mọi thứ hiểm nguy trong chiến trận là chuyện thường tình, để con người có thể vượt
qua bao thử thách. Chính cách nói tự nhiên mở đầu bằng một trợ từ - câu đặc biệt
160

“Ừ” khiến cho hiện thực chiến tranh gần như là chuyện thường, cái tưởng rất đe dọa
đến tính mạng con người lại được nhìn như một sự tồn tại hiển nhiên. Hay khi Phạm
Tiến Duật viết: Không có kính ừ thì ướt áo. Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời/ Chưa
cần thay, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng, gió lùa, khô mau thôi (Bài thơ về tiểu
đội xe không kính) thì hình ảnh người lính đã tạo được ấn tượng đẹp trong lòng
người đọc - dũng cảm, bình thản đến “lạ” và cũng hết sức ngang tàng. Quan niệm
sống của thế hệ thơ trẻ chính là biết vượt lên tất cả hiểm họa, gian nguy bằng cái
nhìn lạc quan. Hay lớp trợ từ này còn chạm khắc đậm nét cái tôi tự trào trước những
mảnh vỡ đời tư: Lá cơm nguội rụng vàng mặt phố/ Mùa đông sắp tới rồi/ Mùa đông
này ta sẽ phải chia tay/ Một chuyện chia tay có gì đâu em nhỉ/ Một chuyện tình tan
vỡ có gì đâu/ Kết thúc một năm bao giờ chả thế/ Sau mọi điều, lại chỉ có mùa đông
(Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I - Lưu Quang Vũ).
Mở rộng yếu tố khẩu ngữ còn thể hiện qua việc đưa lời tự sự vào thơ, đôi khi
tạo dựng nên những đoạn đối thoại - vốn là những câu thơ mang cấu trúc văn xuôi.
Xuất phát từ những lời gọi rất tự nhiên, xúc động của những người mẹ tìm con, thơ
trẻ thành thị miền Nam đã làm vỡ động cái tôi vò xé, oán thán. Cách xưng hô khẩu
ngữ trong các đoạn hội thoại như lời nói phát ra từ gan ruột, lại đầy chất thơ bởi đó
là nguồn mạch khởi đi từ cái tôi chan chứa yêu thương trước bất hạnh của con
người: Tội tình gì một sớm ven sông/ Lũ chúng bạo hành em/ Lưỡi lê gờm đầu súng/
Mẹ rên xiết kêu gào/ Máu trào lên uất hận/ Con tôi, tội nghiệp con tôi/ Hai ơi, con
đã đi rồi/ Vườn hoang cỏ rậm mẹ ngồi khóc con (Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa
- Võ Quê). Hình thức đối thoại kết hợp với đại từ xưng hô đầy khẩu ngữ tao - bay
càng khoét vào lòng người nỗi căm phẫn chiến tranh: Có người hỏi con mẹ đâu?/
Đang vui mẹ bỗng rầu rầu nét mi: Tổ cha bay! Hỏi làm chi?/ Con tao bốn đứa ra đi
chưa về/ Đứa vượt núi, đứa qua khe,/ Đứa lăn súng, đứa lái xe hàng đầu/ Con tao?
Hả? Con tao đâu,/ Sao con bỏ mẹ cơ cầu mần ri? (Mẹ giữa phố người - Đông
Trình). Việc tăng cường lời nói của cuộc sống đời thường thông qua những đoạn
độc thoại cũng chính là đối thoại của nhân vật trữ tình khiến cho người đọc như
đang trực diện với đối tượng được miêu tả, trực tiếp lắng nghe tiếng nói căm hận
161

của nạn nhân chiến tranh. Qua đó, người đọc ám ảnh trước hình tượng cái tôi căm
thù tận cùng gan ruột: An ninh, Quân đội, Côn Đảo, Tổng Nha…/ Những lò sát sinh
của loài man rợ/ Không thể được, không chần chừ được nữa/ Tội ác chúng bay đã
chất ngất trời xanh (Bài ca khởi nghĩa - Trần Quang Long).
Nhiều lời tự sự của nhân vật trữ tình trong thơ trẻ khiến cho ngôn ngữ thơ như
lời bộc bạch thường ngày. Tăng cường yếu tố tự sự, với việc sử dụng phong phú
cách diễn đạt của ngôn ngữ thường ngày như thế là một trong những phương thức
hiệu quả để người nghệ sĩ tự họa chân dung thế hệ: Chúng ta ra đi chiến tranh mùa
đông/ Ta kịp biết gì đâu/ Vừa hết trẻ con đã là người lính (Những bông hoa không
chết - Lưu Quang Vũ); Có người nói oan cho chiều là buồn/ tôi nghe chiều vui khi
tôi vui chiều nhớ khi tôi nhớ (Chiều khẩu đội - Nguyễn Duy)… Những lời tự sự vừa
mang tính chất cá thể vừa thể hiện được ý nghĩa khách quan. Đó là lời nói trực tiếp
của nhân vật xưng tôi và cũng có thể là lời nói gián tiếp của tác giả đại diện cho
tiếng nói của nhân vật trữ tình, hóa thân vào nhân vật trữ tình. Dù xuất hiện với tư
cách nào, lời tự sự dưới hình thức xưng tôi cũng mang lại sự gần gũi, sẻ chia của tư
duy thơ trẻ, góp phần đưa ngôn ngữ thơ gần với lời ăn tiếng nói thường ngày. Đây
là dụng ý nghệ thuật của người cầm bút, để làm giàu hơn phương thức tái tạo hiện
thực, đưa thơ ca đến gần hơn và trở lại cuộc sống. Có khi, lời tự sự của nhân vật trữ
tình thật thà, tự nhiên đến mức khiến người đọc không còn nghĩ giữa ngôn ngữ thơ
ca và ngôn ngữ đời sống là một khoảng cách: tới mùa xuân, khi cây thay lá mới/
chúng mình sẽ có thêm một đứa con/ mong nó là con gái/ nhưng nếu là con trai,
cũng được thôi em ạ/ miễn ông mãnh sau này đừng hư hỏng/ miễn khi nó lớn lên/ sẽ
không còn trận mạc (Những ngày hè cuối - Lưu Quang Vũ).

3.2.2. Yếu tố văn xuôi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường

Ngoài việc tăng cường yếu tố khẩu ngữ, việc tiếp nhận táo bạo yếu tố văn xuôi
cũng là một trong những xu hướng không thể cưỡng lại của thơ trẻ 1965 - 1975.
Hoài Thanh nhận định: “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể xem như một cuộc
xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, đập phá tan tành” [176, tr.43].
162

Cái tôi Thơ mới khao khát bộc bạch đến tận cùng gan ruột, vì thế dung lượng câu
thơ gần với văn xuôi là đủ sức chuyển tải tâm trạng của người nghệ sĩ hơn cả.
Nhưng “cuộc xâm lăng” đó không lâu và không nhiều. Mãi đến thời kì thơ 1945 -
1975 thì lời nói mới đóng vai trò chủ đạo trong thơ. Từ đó, cấu trúc văn xuôi trở
thành xu hướng tự do hóa hình thức khá phổ biến. Như vậy, đến giai đoạn 1965 -
1975, các tác giả trẻ có điều kiện đưa vào thơ nhiều ngữ điệu cuộc đời, làm phong
phú ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại nói chung, đồng thời cũng tạo ra một thế giới
ngôn từ nghệ thuật mang giọng điệu riêng qua việc tự do hóa hình thức thơ.
Phá vỡ khuôn khổ hình thức thơ cách luật, thậm chí đưa thơ tự do đi đến địa
hạt thơ văn xuôi cũng là một cách để thơ trẻ đến gần với cuộc sống. Hay nói khác
hơn, chất khẩu ngữ có quan hệ mật thiết với yếu tố văn xuôi, là chất xúc tác để đưa
yếu tố văn xuôi xâm nhập vào thế giới nghệ thuật thơ. Song ở thơ trẻ giai đoạn này,
chủ yếu mới chỉ là sự tự do hóa hình thức thơ bằng những cấu trúc văn xuôi. Bên
cạnh việc tiếp nhận yếu tố khẩu ngữ, việc đưa cấu trúc văn xuôi vào thơ như thế
cũng góp phần làm đa dạng hình thức diễn đạt, tạo nên diện mạo hiện đại của thơ ca
giai đoạn này. Đến với thơ thời chống Mỹ, cùng với số lượng tăng đáng kể của thơ
tự do, cú pháp câu thơ thực sự linh động, gần với cấu trúc của một câu văn xuôi.
Khi chất văn xuôi được tăng cường, câu thơ có xu hướng dài ra, hình thức câu kể
được ưa chuộng. Ngôn ngữ thơ gần với văn xuôi là đặc điểm đễ nhận thấy trong thế
giới nghệ thuật thơ trẻ 1965 - 1975. Đến với các thể thơ truyền thống, yếu tố vần,
nhịp được đặt lên hàng đầu. Còn khi đến với thơ trẻ giai đoạn này, sự xuất hiện yếu
tố văn xuôi đã mang lại một khuôn diện mới cho nghệ thuật ngôn từ. Con đường
đến với thế giới nghệ thuật thơ cổ điển phần nhiều thông qua những yếu tố liên kết
bên ngoài (thanh, vần, nhịp). Song đến với thơ tự do, như đã phân tích ở tính năng
thể loại, trước những tác phẩm được tổ chức theo cấu trúc văn xuôi, độc giả như
được thâm nhập trực tiếp vào mạch ngầm trong thế giới nội cảm của người nghệ sĩ
để đi vào kiến tạo tác phẩm. Các cây bút trẻ có xu hướng mở rộng câu thơ thành
những lời tự sự: Chính ủy của tôi xa quê hương hai mươi sáu năm trời (Giọt nước
mắt và nụ cười - Nguyễn Duy); những hạt muối thân quen, dù lưỡi không chạm
163

vào, lòng sao thấm thía (Muối trắng - Nguyễn Duy); Tôi chẳng muốn điệu hát buồn
là kỉ niệm về tôi, Tiếng than van tiếng nỉ non tiếng đùa tiếng khóc, Khao khát của
em không phải của người con gái... (Lưu Quang Vũ); Chúng ta đã bao nhiêu lần
chong đèn thức đợi (Tố Chân - Trần Quang Long); Ở đó, những niềm hạnh phúc,
những ngày khốn khó (Hoa máu còn hồng truớc ngôi nhà cũ - Đông Trình)…, phù
hợp với cách biểu hiện cảm xúc đắm đuối của cái tôi. Tâm can người nghệ sĩ bật
thốt thành lời nói, vì thế tự nhiên mà cảm động vô cùng. Thơ là ngôn ngữ của độc
thoại nhưng rõ ràng câu thơ gần với văn xuôi như thế đã đưa thơ trẻ xích lại lời đối
thoại, trần tình: Anh đã cho nhiều anh đã phải lãng quên/ Người ta chê anh nhiều
lưu luyến quá/ Anh gắng gượng nghe theo anh vứt bỏ/ Bao diệu kì chân thực thuộc
về anh/ (Anh đã mất chi anh đã được gì - Lưu Quang Vũ).
Hàng loạt lời thơ gần với văn xuôi theo mô hình câu kể tạo kênh giao tiếp mở;
người đọc như đang trực diện với chuỗi trạng thái tâm lí thường trực của cái tôi trữ
tình trong lòng đô thị miền Nam - bế tắc, cô đơn, nuối tiếc, oán thán, tủi hận: Anh
vừa nghe trong lòng có chút buồn bã/ len lỏi thật vô tình (Đợi giờ phục sinh - Phạm
Cao Hoàng); tôi đã mất tuổi thơ/ nhưng không có tuổi già/ tôi chỉ có tuổi yêu/ tuổi
thất tình/ tuổi mơ mộng/ tuổi làm thơ (Vẽ em lên thơ lên cuộc đời - Luân Hoán); Tôi
chết rồi đây hơn một nửa/ Những ngọn nến đời mình/ Tôi đã thổi tắt hết từ lâu/ Họa
còn chăng một chút hơi thừa (Nói một mình - Tô Thùy Yên); Tôi là một con chiên
không có nhà thờ/ Một tín đồ ngoan đạo chưa bao giờ xem lễ/ Và đọc kinh cầu
nguyện (Khát vọng của một người cô đơn - Lê Nghiêm Vũ). Khi cái tôi mang thân
phận bi thảm vùng tạm chiếm miền Nam chất vấn chiến tranh, lời đối thoại lại càng
có sức nặng như một lời buộc tội chua chát, như sự phơi bày bi kịch chiến tranh:
vinh quang đâu đời tôi đó hôm nay/ bạn bè tôi thằng hóa đá đứa mây bay/ đứa còn
kẹt ở chiến khu một cánh tay một bàn chân/ dăm ba sợi tóc/ điều không tưởng là tôi
được thoát/ nên biết cười hay khóc thế nào đây (Hồi tưởng 69 - Lan Sơn Đài).
Thơ trẻ 1965 - 1975 gần với ngôn ngữ của lời nói văn xuôi còn nhờ vào sự
xuất hiện đậm đặc hệ thống hư từ. Văn học hiện đại đã tìm cách vượt qua khỏi rào
cản từ ngữ trang trọng truyền thống để đưa vào văn chương vốn từ không chỉ thuộc
164

về giao tiếp đời thường mà chính sự xuất hiện lớp hư từ vốn mang đậm yếu tố khẩu
ngữ như thế còn kéo hình thức câu thơ gần với văn xuôi. Đối với thơ cách mạng mà
yêu cầu triết luận sắc sảo được đặt lên hàng đầu thì nghệ thuật sử dụng ngôn từ như
thế không phải là hiếm. Song không đơn thuần nâng tầm khái quát, triết luận như
cách thơ cách mạng thường sử dụng mà trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ 1965 -
1975, hệ thống từ này tồn tại trong những cấu trúc văn xuôi còn giúp ngòi bút các
tác giả cọ xát được với muôn mặt đời thường. Thơ trẻ rất thích hợp với những phụ
từ chỉ sự phủ định có khả năng nhấn mạnh thái độ, tình cảm của cái tôi trữ tình, nhất
là khi cái tôi muốn chất vấn cuộc đời: Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo
ảnh/ Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao? (Có những lúc - Lưu Quang
Vũ). Nhưng chính sự phủ định như thế đôi khi lại làm dịu đi nỗi đau trong hồn thơ:
Thôi chẳng chờ mong nữa/ Chẳng đua chen với cuộc đời này/ Xin chối từ cái bàn
tiệc đắng cay (Ngã tư tháng chạp). Bên cạnh đó, thơ trẻ còn mang cách nói tự nhiên
nhưng giàu chất triết lí nhờ phương thức liên kết ý thơ bằng lớp từ nối: chỉ, cùng,
dẫu, để, nên, nếu, nhưng, và... Lớp từ nối này thường tạo được thế tăng cấp hay
tương phản cho câu thơ. Người đọc hẳn phải bàng hoàng khi nhà thơ ngẫm nghĩ về
thế thái nhân tình, bằng những hình ảnh thơ tương phản: Quán cà - phê chạng vạng
khói bay/ Mùi khói cũ cay xè con mắt/ Ngồi quanh bàn giờ bao người lạ khác/ Cãi
ồn ào những chuyện làm ăn/ Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường/ Thân tiều
tụy ôm mặt cười lặng lẽ (Quán cà phê ngoại ô - Lưu Quang Vũ). Có lúc tác giả đặt
từ nối vào giữa hai dòng thơ khiến người đọc có cảm tưởng cái tôi nén lại đau xót,
giận hờn khi lí giải về sự tan vỡ niềm tin mà chủ thể trữ tình không phải là người
chịu lỗi: Em biết đấy, anh chẳng tin định mệnh/ Nhưng trên đời này chỉ ước mơ là
có thật/ Hai ta hãy là giấc mộng của nhau thôi (Thơ tình viết về một người đàn bà
không có tên I). Và cũng chính nhờ khả năng khẳng định mạnh mẽ của từ nối, đặc
biệt là từ nhưng mà nhiều khi thơ trẻ tạo trong công chúng văn học ấn tượng sâu sắc
về những hồn thơ không bao giờ bằng lòng với định mệnh và luôn tìm cách đứng
lên từ những tổn thất và lầm lỗi đời mình để gây dựng lại sự lạc quan trong tư
tưởng: Có những lúc tôi xuôi tay đuối sức/ Nhưng từ đáy nỗi buồn tôi thẳm thẳm/
165

Một cái gì như nhựa thắm trong cây/ Một cái gì trắng xóa tựa mây bay/ Là hoa gạo
lòng tôi chẳng tắt (Có những lúc - Lưu Quang Vũ).
Cũng với cách gieo từ nối vào giữa những dòng thơ và ngay giữa một dòng
thơ, chủ thể trữ tình trong thơ vùng tạm chiếm miền Nam có thể chia sẻ được rất
nhiều về trạng thái tinh thần của con người không giải thoát mình ra khỏi cô đơn:
trong sự sống này và buổi chiều yên tĩnh đó/ những bọt sóng đã vỡ ra từ vô cùng/
anh sinh hoạt âm thầm như loài dơi khốn khổ/ trong sự vô tình của nắng, niềm bao
dung của gió/ cơn phẫn nộ của rừng/ và sự ưu tư của đá/ anh già đi bằng những nỗi
than van/ cùng mặt trời thầm thì soi mói đó (Trên đỉnh trời An Khê - Trần Thúc
Vũ). Với tâm thế của con người sống trong những đổ vỡ của niềm tin, cảm thức
hiện sinh, như đã khẳng định, càng được hiển lộ. Lí giải về hạnh phúc, các cây bút
trẻ trong lòng đô thị sử dụng lớp phụ từ phủ định để được nếm trải cảm thức đơn
độc trong một thế giới trống rỗng của thực tại chiến tranh: Em đừng hỏi ở rừng có
gì lạ/ Có gì đâu ta từ buổi lên đường/ Hôn chưa kịp em - bây giờ hôn đất/ Thay
chiếu giường bằng hầm hố cô đơn (Thư gửi người ở lại - Trần Dzạ Lữ). Hay mượn
từ ngữ phủ định, thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam tạo lập được những hình thức
diễn đạt gần với câu văn xuôi. Qua đó, cái tôi trữ tình hoảng hốt kiếm tìm ý nghĩa
của hạnh phúc khi đứng trước dự cảm mơ hồ về cái vô nghĩa của chiến tranh: Nhiều
lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì/ không biết để làm gì/ nhưng dù
không biết để làm gì đi nữa/ hãy nhớ hôn anh một lần đi/ em nhé (Trước khi đi lính
- Triều Uyên Phượng).
Với nhu cầu thâm nhập vào tận sâu những chi tiết bộn bề của đời sống, phản
chiếu một hiện thực chiến tranh sinh động với chân dung đa diện của cái tôi trữ tình
thì việc tiếp nhận yếu tố khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi là một sự lựa chọn tất yếu của
thơ trẻ 1965 - 1975. Sự tiếp nhận khá táo bạo này là minh chứng cho xu hướng tăng
cường mối quan hệ ràng rịt giữa thơ và đời.

3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp


Trong những hình thức biểu hiện của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, thủ pháp
nghệ thuật có thể xem như là một trong những thành công đáng kể để các nhà thơ
166

khắc họa chân dung hình tượng cái tôi trữ tình, qua đó khẳng định cá tính sáng tạo,
phong cách của người nghệ sĩ. Trước nhu cầu thẩm mĩ của thơ giai đoạn này, các
cây bút trẻ đã chọn lựa một số thủ pháp nghệ thuật vừa có khả năng đáp ứng được
sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của thời đại lại vừa phù hợp với cái tạng của chủ
thể sáng tác. Có thể thấy, trong thơ trẻ, đối lập và trùng điệp là những thủ pháp khá
được ưa chuộng.

3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích

Đối lập là một phương thức góp phần thể hiện tư duy nghệ thuật của người
nghệ sĩ trong cái nhìn luận giải, phân tích. Đặt những hình tượng nghệ thuật, những
vấn đề mang tính triết luận… trong thế đối lập, nhà thơ thể hiện được những dụng ý
nghệ thuật sâu sắc. Thông qua hình tượng đối lập, người đọc cảm nhận được sự
tương phản trong cái nhìn đối chiếu để từ đó đặt ra những chất vấn, tự vấn. Trong
mối quan hệ đối lập, ấn tượng cảm xúc của độc giả được tăng cường.
Không khuôn mình vào lí tưởng đẹp đẽ đầy hào sảng của cái tôi sử thi, cái tôi
trữ tình trong thơ trẻ độc thoại và đối thoại qua chân dung tự họa. Những cảm xúc
căng tràn chất sử thi không còn độc chiếm trong mạch cảm hứng của thơ trẻ giai
đoạn này. Chủ thể trữ tình đi vào tận sâu cuộc sống, chiếm lĩnh cuộc sống, thậm chí
dấn thân vào hiện thực xô bồ chi tiết. Số phận dân tộc, con người luôn là điều khiến
cái tôi thơ trẻ day diết. Chính vì vậy, tăng cường chất chính luận là nhu cầu bức
thiết của tư duy nghệ thuật. Thơ trẻ thể hiện tiếng nói trí tuệ, tiếng nói của lí lẽ. Từ
thế hệ nhà thơ lớp trước, đối lập đã là một thủ pháp được ưa chuộng. Chế Lan Viên
- nhà thơ của phong cách suy tưởng - đã sử dụng thông thuộc các mệnh đề, các ý
tưởng đối lập đặt cạnh nhau, tạo được lớp nghĩa ngôn từ mà nếu từng mệnh đề đứng
ra riêng lẻ, sẽ không thể diễn tả được thấu cùng những khái quát mang tầm triết lí:
Ta cách xa nhau một tiếng nấc, một thôi đường/ Xưa Nguyễn khóc - thì nay ta đã
hát/ Nhưng Truyện Kiều cứ để yên, không cần lau nước mắt/ Đời đang vui đời sẽ
viết thêm chương (Đọc Kiều). Hay đến với Tố Hữu, người đọc cũng khám phá được
hình tượng cái tôi trữ tình sử thi mang đậm tính chính luận được xây dựng qua kết
167

cấu đối lập: Chúng muốn đốt ta thành tro bụi/ Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm/
Chúng muốn ta bán mình ô nhục/ Ta làm sen thơm ngát giữa đầm (Việt Nam - máu
và hoa). Đến lượt lớp nhà thơ trẻ, họ cũng chọn cho mình cách tạo ra những ý tưởng
đối lập để tăng cường chất trí tuệ cho thơ. Thế hệ trẻ 1965 - 1975 không chỉ phân
tích hiện thực mà còn lí giải hiện thực, qua đó trình bày quan niệm về cuộc sống và
con người, về trách nhiệm của thế hệ với sứ mệnh dân tộc. Lẽ sống của người lính,
của hầu hết thế hệ trẻ là cái vội vã, hối hả để kịp sống vắt mình cho dân tộc, cho
nhân dân và cho chính đời mình. Bên cạnh hợp ca hào sảng của cái tôi trữ tình sử
thi, trong tâm hồn thơ trẻ còn là trăn trở, dằn vặt; là triết lí về quy luật được - mất; là
chất chồng mâu thuẫn. Vì vậy, thơ trẻ tìm đến với thủ pháp đối lập để cất dựng chân
dung cái tôi trữ tình trong những trạng huống tương phản:
Tuổi trẻ bây giờ là như thế đó
Xin tự do người ta tặng ngục tù
Xin no ấm người ta cho đói khổ
Xin tình thương người ta cho hận thù
Xin thanh bình người ta cho chinh chiến
(Thơ tôi bây giờ - Đam San)
Chủ thể khắc họa chân dung tinh thần thế hệ không ngại ngần phơi bày cái giá
chua chát của chiến tranh. Qua hàng loạt trùng phức những hình ảnh đối lập, cái tôi
trữ tình lột tả trạng thái tinh thần phức hợp của một thế hệ oán thán, thậm chí chống
đối chiến tranh. Trong cái nhìn đối lập, rất nhiều hình tượng thơ được xây dựng đầy
ám ảnh. Viết về tội ác của kẻ thù, ngòi bút thơ trẻ xoáy vào nỗi hờn căm của dân
tộc. Tội ác đó được bóc trần không chỉ qua cảm quan sử thi mà còn qua lăng kính
sử thi biến thể và cả cảm quan phi sử thi. Ở đó, thơ trẻ dừng lại trước bao nhiêu
cảnh khốn cùng mà nhân dân phải gánh chịu trước sự đàn áp dã man của quân thù.
Bắn giết, thiêu hủy, bắt bớ… thậm chí những trò mua vui hèn hạ như hãm hiếp,
mua tiết trinh, tiệc tùng trên máu và nước mắt của đồng bào ta… đều được phơi trần
dưới lăng kính bội phần căm thù của thế hệ thơ trẻ, đặc biệt là dưới ngòi bút của
phong trào sáng tác học sinh sinh viên thành thị miền Nam. Bằng thủ pháp tương
168

phản, người nghệ sĩ đã khiến người đọc cảm nhận nỗi căm thù đến tận xương tủy
của nhân dân lúc bấy giờ qua sự đối lập giữa một bên là cuộc sống con người và
một bên là sự giam cầm cuộc sống con người, một bên là sinh mạng con người và
một bên là sự coi rẻ sinh mạng con người, một bên là sự rêu rao đạo đức giả của kẻ
thù và một bên là tội ác còn vấy máu. Tất cả hình ảnh đối lập đó càng khẳng định sự
căm phẫn chính là một trạng thái cảm xúc thường trực của cái tôi trữ tình: Chúng
xây nhà tù nhiều hơn trường học/ Mỗi xã thôn đều có chỗ giam người/ Mạng sống
con người, chúng coi tựa trò chơi/ Nhân đạo của quân thù treo trên đầu lưỡi lê dính
máu (Sài Gòn ơi! Vùng lên - Trần Quang Long). Trong tư duy của thơ trẻ đô thị
miền Nam, lòng căm thù giặc không thể nguôi ngoai bằng tiếng khóc, bằng sự đau
đớn tâm can. Với những con người ngày ngày chạm mặt với nỗi đau mất mát, chỉ có
niềm căm thù sục sôi, cứng rắn vượt lên trên nỗi đau tinh thần mới có thể rửa hận
cho gia đình, cho dân tộc: Không, phải dằn tiếng nấc/ Cho giận ứ buồng tim/ Chúng
ta không thể khóc/ Khi quân thù còn bên (Đêm nào ngày nào - Trần Quang Long).
Dùng lối diễn đạt đối lập, thơ trẻ còn thể hiện mối thương cảm đối với những
sinh linh vô tội trong chiến tranh. Những tuổi thơ không có tuổi thơ, Em gái mười
lăm đã không còn thiếu nữ (Những tuổi thơ - Lưu Quang Vũ); Những gì em cần,
anh chẳng có (Từ biệt - Lưu Quang Vũ)… Chỉ có đặt hạnh phúc lẽ ra con người
phải được tận hưởng so với nỗi bất hạnh mà họ phải gánh chịu, thơ trẻ 1965 - 1975
mới lột tả đến tận cùng bi kịch của lịch sử - di chứng tinh thần mà chiến tranh đã đè
nặng lên bao mảnh đời tội nghiệp: Nhìn em để xót thương cho những tuổi thơ buồn
thảm/ Của những người cha, người mẹ, người anh/ Tuổi hoa em trong mùa đông
ảm đạm/ Trọn cuộc đời chưa thấy một ngày xanh (Ngày sinh của bé - Trần Quang
Long). Khi lật trở nhiều sự thật của chiến tranh, cái tôi trữ tình càng không tránh
khỏi những lập luận về thực chất của chiến tranh, là nỗi đau không đếm xuể xác
người: những chiếc băng ca chở kín xác người/ đẩy sâu mãi vào lòng tôi thù hận/
nhưng có băng ca nào chở hết xác dân tôi (Bài hát trái tim - Tần Hoài Dạ Vũ). Dẫu
tự nghiệm về mình, về đồng đội với bộn bề trăn trở trước hiện thực tàn khốc của
chiến tranh song đích đến và cũng chính là một trong những yếu tố tạo nên bản sắc
169

của tư duy thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là ươm niềm tin ngay trên những thành
phố chết. Chất triết luận trong việc xây dựng hình tượng cái tôi trữ tình cũng xoay
quanh trục nhận thức này. Quan niệm về sự hồi sinh của dân tộc, sự đổi đời của
thân phận người dân mất nước đưa các nhà thơ trẻ tìm đến với hình thức nghệ thuật
đối lập. Qua đó, họ muốn khẳng định sâu sắc hơn, quả quyết hơn niềm tin vào
tương lai. Hơn nữa, đây chính là cách để thơ trẻ khắc họa một cách hoàn thiện chân
dung của thế hệ mình. Như lời tạ ơn của Đông Trình với cuộc đời, cũng có được từ
nỗi xúc động đã đến lúc bật thốt thành lời: Hình như lâu nay tôi là người câm/ Lời
mẹ mớm cho, tôi không biết dùng/ Bỗng sáng nay vô vàn tiếng nói/ Giữa ngực đời,
tôi mấp máy cám ơn! (Giọt lệ mừng). Hay đó còn là giọt mừng lóe lên trong tâm
cảm của chủ thể trữ tình khi đứng trước sự hồi sinh của dân tộc. Niềm rạng rỡ,
mừng tủi của con người không thể kiềm nén trong những hình tượng đối lập đầy
sức gợi: Vực sâu, hố thẳm, ao bùn và những cánh sen tinh khiết; thành phố chết và
mầm sống. Như vậy với nghệ thuật xây dựng hình tượng thơ này, các nhà thơ trẻ
khắc họa được một cuộc sống mới của dân tộc đã bừng dậy ngay từ trong đổ nát,
đau thương. Cái tôi trữ tình thể hiện cái nhìn biện chứng về lịch sử của quê hương,
đi từ trong hoang tàn đổ nát về với bến bờ của sự hồi sinh. Ở đây, chính những hình
tượng đối lập này còn thể hiện một quan niệm của thơ trẻ bấy giờ, đó là sức mạnh
niềm tin - vẻ đẹp tinh thần vĩnh cửu - của thế hệ chống Mỹ: Ôi kiêu hãnh thay quê
hương ta/ Từ dưới vực sâu, hố thẳm, ao bùn/ Vẫn nở ngát những cánh sen tinh
khiết/ Trên lâu đài của một thành phố chết/ Sáng hôm nay mầm sống đã hồi sinh
(Hoa đã hướng dương - Đông Trình). Tuy nhiên, khi đối diện với bản thể hiện sinh
đầy bế tắc, một bộ phận nhà thơ vùng tạm chiếm miền Nam tìm đến cách nói đối
lập để thể hiện sự chua chát về một sự sống trùm phủ cái chết: hôm qua ta bỗng
chết hai lần/ té ngửa trên bờ dĩ vãng xanh/ hôm nay bỗng chết thêm lần nữa/ té sấp
trên đường tương lai đen (Những trận chết - Đynh Trầm Ca).
Trên địa hạt tình yêu, cái tôi trữ tình được biểu hiện dưới nhiều sắc thái,
nhiều dạng thức phong phú. Mỗi một dạng thức đều đi vào những điều sâu kín nhất
mà cũng phức tạp nhất trong tâm hồn nghệ sĩ. Ở một số cây bút, thủ pháp đối lập là
170

cách để họ thể hiện những cảm giác òa lên trong hạnh phúc tái sinh hay đó cũng
chính là nơi người đọc sẽ tìm thấy những chênh chao, hụt hẫng… khi tình yêu tạ từ
người. Sau bao gãy đổ của đời tư, sau quá nhiều được - mất trong đời, con người
không thể giấu được tiếng hạnh phúc đang ùa đến trong trái tim yêu rộn ràng. Hạnh
phúc tưởng phải lịm đi sau nhiều thăng trầm đã đến lúc phải vỡ ra thành lời yêu
thương. Cái tưởng rất mâu thuẫn trong cảm xúc lại trở nên có lí. Kết cấu đối lập như
hàm chứa một quy luật tình yêu: Trước tình em đáng lẽ phải lặng yên/ Nhưng hạnh
phúc làm anh không nén được (Những ngày chưa có em… - Lưu Quang Vũ). Có khi
bắt gặp trong thơ tình giai đoạn này điều quá đỗi giản dị cũng khiến những người
yêu nhau ngỡ ngàng hạnh phúc: Em không bước ra từ một tấm gương câm/ Không
đến từ một con tàu trong trí nhớ/ Không phải từ một giấc một dòng sông hay lùm
cây rực rỡ/ Em đến giữa một ngày trong những ngày sống thực của anh (Em - Lưu
Quang Vũ). Hạnh phúc có thật, hạnh phúc với những gì hiện hữu, hạnh phúc ở ngay
trong cuộc đời bình dị nhất mới là hạnh phúc đích thực. Có lẽ đây là quan niệm về
hạnh phúc rất trần trụi của không nhiều những tiếng thơ 1965 - 1975. Song chính
quan niệm đó đã góp phần làm đa diện hơn quan niệm tình yêu đương thời. Quả
thật, thơ tình thời chống Mỹ không chỉ có sắc hương ngọt ngào của những mối tình
vừa nhen e ấp, không chỉ có hương tình sôi nổi vụng về nén chặt mà ở đó còn có
những sắc điệu yêu thương day diết.
Có khi ngay ở hình ảnh đối lập trong tiếng thơ tình phức tạp vùng tạm chiếm
miền Nam bấy giờ, còn tìm thấy cái tôi khát khao nói được đến tận cùng những mâu
thuẫn thật khó lí giải trong cõi tình. Người đọc cảm nhận sâu sắc lời thú nhận của
người thơ về sự tồn tại một thế giới rong ruổi của gió với những thiên tình thần
thoại như thế giới tình yêu màu nhiệm, dù cho con người phủ nhận sự có mặt của
mình trong cõi nhân gian. Dẫu chạy trốn cuộc đời, chìm vào thế giới hư vô, dẫu tận
cùng cô độc song cái tôi vẫn không thể chối từ sự linh diệu của cõi yêu thanh tân:
trong cuộc đời này có lúc tôi không còn nữa/ nhưng gió vẫn muôn đời với thiên tình
thần thoại/ gió vẫn còn tự do rong chơi/ gió vẫn hồn nhiên mãi mãi/ như tình yêu
bao giờ cũng vẫn còn trẻ lại/ như mặt trời ngày nào cũng tập đi (Gió - Ngô Kha).
171

Trong đạn bom thời khốc liệt, ngỡ cái tôi tình yêu chỉ còn có thể nén lại cõi
riêng để hướng về một tình yêu quá đỗi lớn lao - tình yêu Tổ quốc. Vậy mà trong
thế giới nghệ thuật thơ tình bấy giờ, người đọc vẫn tìm thấy không ít cái tôi tình yêu
thật đến xót lòng, qua nghệ thuật xây dựng hình tượng đối lập. Nghe như là phủ
nhận song sâu thẳm đấy là lời khẳng định một cách táo bạo rằng tất cả những gì cao
rộng, mênh mông nhất trên đời đều vô nghĩa khi con người phải cách chia: Anh ơi,/
Nếu được ví cao xa thế/ Em cũng không là trời đất gì đâu/ Nhưng anh có biết
không: Trời đất/ Sẽ chả là gì, nếu thiếu nhau (Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn).
Hình thức đối lập còn đưa đến một cách bộc bạch của những trái tim nặng lòng với
nghiệp thơ. Trong nhãn quan Xuân Quỳnh - người đàn bà sinh ra vốn thuộc về thế
giới của những đam mê nghệ thuật - không còn gì trong cõi đời nếu ngày mai em
không làm thơ nữa. Người nghệ sĩ đó đã đi đến tận cùng các mặt đối lập, tận cùng
những phủ nhận: dẫu - nhưng, không, chẳng, không còn, không thể còn để khẳng
định tình yêu sâu nặng của mình đối với thơ ca. Đây là khát vọng thành thực của
một trái tim khát yêu, khát viết và khát viết để được yêu. Nếu ngày mai em không
làm thơ nữa có thể xem là chuỗi hình tượng đối lập, thể hiện niềm đam mê nghệ
thuật đến cạn cùng: Nếu ngày mai em không làm thơ nữa/ Cuộc sống trở về bình
yên/ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm/ Không nỗi khổ, không niềm vui kinh
ngạc (…) Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu/ Tấm lòng anh trong mỗi chuyến đi
xa/ Em không còn thấy nhớ những sân ga/ Những nơi đã đi, những nơi chưa hề đến/
Khát vọng anh dẫu hòa trong sóng biển/ Sóng xô bờ chẳng rộn đến tâm tư.
Thủ pháp đối lập được các nhà thơ trẻ sử dụng tương đối nhuần nhuyễn để
thể hiện những quan niệm nghệ thuật về nhiều vấn đề của cuộc sống, hay những
tâm sự riêng tư. Ở mỗi khía cạnh, các tác giả đều khai thác triệt để hiệu quả tu từ
của thủ pháp này để đưa đến cho người đọc một cách tiếp cận khá toàn diện về diện
mạo của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ. Thông qua những hình tượng đối lập, người
đọc cảm nhận thấu hơn đời sống tâm hồn không hề đơn điệu của những con người
từng ngày đối mặt với nỗi đau chiến tranh. Qua những hình tượng thơ đó, độc giả có
cái nhìn thấu đáo hơn về sắc diện tinh thần của cái tôi thơ trẻ một thời.
172

3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén

Với mong muốn khơi sâu vào tận cùng sự thật chiến tranh, các nhà thơ trẻ
khao khát thể hiện nguồn cảm xúc phức hợp, thường trực của cái tôi trữ tình trên
nhiều điểm nhìn. Vì vậy trùng điệp được sử dụng khá phổ biến trong thơ trẻ như là
một thủ pháp hiệu quả trong việc thể hiện những trạng thái cảm xúc căng trào,
những ám ảnh trong cuộc sống… Phổ biến nhất trong thơ trẻ là điệp từ và điệp ngữ,
xuất hiện với tần số cao, mang lại giá trị thẩm mĩ, góp phần khắc họa đa dạng hơn
những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.
Sự trở lại của những từ, ngữ với tần suất cao nhằm nhấn mạnh điều được phản
ánh và thể hiện nguồn cảm xúc mãnh liệt của chủ thể trữ tình có thể xem là mục
đích tối ưu của thủ pháp trùng điệp. Không ít ngòi bút thế hệ trước đã sử dụng thuần
thục kĩ thuật trùng điệp trên nhiều cấp độ: vần, nhịp, cấu trúc; mang đến cho thơ âm
hưởng luyến láy, da diết trong tình điệu và thâm trầm trong cả nghiệm suy. Đó là
khúc hát ru vừa chan chứa lời mẹ vỗ về, vừa thấm hồn dân tộc, quê hương: Nằm
trong tiếng nói yêu thương/ Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời/ Sơ sinh lòng
mẹ đưa nôi/ Hồn thiêng đất nước đã đã ngồi bên con (Nằm trong tiếng nói - Huy
Cận); là lời khẩn cầu “kính cẩn nghiêng mình” trước vẻ đẹp cao cả của nhân dân:
Cho tôi hôn đôi bàn chân em lạnh ngắt/ Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt (Người
con gái Việt Nam - Tố Hữu); là tiếng tự vấn của cái tôi đầy triết lí, nghiệm suy: Tây
Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc/ Khi lòng ta đã hóa những con tàu/ Khi Tổ quốc bốn bề
lên tiếng hát/ Lòng ta là Tây Bắc, chứ còn đâu? (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên).
Cũng có thể dễ dàng tìm thấy kĩ thuật trùng điệp trong sáng tác của các cây
bút vùng tạm chiếm miền Nam giai đoạn trước, khi cái tôi trữ tình trong thế giới
nghệ thuật thơ là hiện thân của những khối đơn độc đang đè nặng linh hồn:
Từng đêm từng đêm đời hấp hối
Nghiêng tay xin vuốt mắt giùm nhau
Từng đêm từng đêm đời tội lỗi
Cắn răng xin nguyện khúc kinh cầu
173

Từng đêm từng đêm từng đêm tối


Quên em còn biết nhớ ai đâu?
(Bóng tối - Hoàng Trúc Ly)
hay của khuôn mặt tình ái đậm đặc nồng độ yêu thương mơ mộng:
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ một đời mưa tháng sáu
(Tháng sáu trời mưa - Nguyên Sa)
Đến giai đoạn này, chính sự lặp lại một cách đầy dụng ý nghệ thuật của kĩ
thuật trùng điệp lại một lần nữa tạo ra trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ những hình
tượng đầy sức ám ảnh, những cung bậc cảm xúc căng trào. Thủ pháp này gây hiệu
ứng thẩm mĩ cao, tác động đến tâm lí tiếp nhận của độc giả. Trùng điệp còn tạo nên
nhịp điệu của thơ ca, góp phần tạo sức vang tỏa và cả điểm nhấn cho giọng điệu của
tác phẩm. Hay nói khác hơn, dưới góc độ tiếp nhận văn học, việc vận dụng thành
công thủ pháp trùng điệp tạo được ở người đọc cái nhìn xoáy sâu vào hình tượng, từ
đó có thể khám phá được chiều sâu cảm xúc, tư tưởng của người nghệ sĩ; đồng thời
hướng người đọc đến những vùng rung động thẩm mĩ.
Điệp từ thể hiện tối đa hiệu quả tu từ khi nói về nỗi đau trong chiến trường
bom đạn: một dòng thư viết vội gửi mẹ già/ một giấc mơ chợp ngủ thấy quê nhà/
một tình yêu chúng tôi chưa được sống/ một khu vườn chúng tôi chẳng kịp qua (Cơn
bão - Lưu Quang Vũ). Với dồn dập số từ một, tác giả đã tạo nên một từ mới chỉ số
nhiều, thậm chí là gấp nhiều lần một. Đó là nỗi đau tiếp nối nỗi đau của những
người lính trong chiến trận. Đó là tình yêu còn dang dở, là hụt hẫng của giấc mơ
chưa kịp đến, là tình yêu chỉ đến trong nguyện ước, là khoảng không gian bình yên
chưa kịp đặt chân. Như vậy điệp từ một đã mang lại hiệu ứng tu từ cao, qua đó hình
tượng cái tôi trữ tình như đi đến tận sâu nỗi ám ảnh về cái gọi là khuyết vắng, mất
mát của chiến tranh. Đọng lại trong tâm thức bạn đọc là một dấu hỏi dài - con người
còn lại gì đằng sau những ngày tháng đạn bom? Phải nói trong dòng chảy của thơ
174

trẻ, thơ Lưu Quang Vũ khá giàu âm vang. Nhịp điệu câu thơ không hẳn được tạo
nên từ sự ngắt nhịp, gieo vần mà hầu hết đấy là âm hưởng nhịp nhàng được mang
lại từ biện pháp trùng điệp xuất hiện với một mật độ dày đặc. Nói một cách hình
ảnh hơn, thơ Lưu Quang Vũ chật ních cấu trúc trùng điệp. Có khi sự trùng điệp còn
là biểu hiện của một thái độ khẳng định trong quan niệm của người nghệ sĩ về thơ.
Chỉ là những lời tâm sự bằng thơ nhưng thao tác sáng tạo ngôn từ theo phương thức
này đã mang lại cho quan niệm nghệ thuật của nhà thơ chất triết luận sắc sảo, giàu
sức thuyết phục: Dẫu bay đi không một lời đáp lại/ Dẫu trơ trọi trong lạnh lùng
bóng tối/ Dẫu đường dài xa ngái/ Đừng phút nào mệt mỏi, thơ ta ơi (Nói với mình
và các bạn). Lời tâm niệm của Lưu Quang Vũ cũng chính là quan niệm về ý thức
cầm bút của những người bạn thơ cùng thời. Đó là lời nhắn nhủ đối những người
lấy văn chương làm nghiệp.
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ có tâm hồn luôn khát khao khuấy động vào cái
tĩnh tại. Vì thế cảm xúc của chủ thể trữ tình cứ nhân lên thành những kết cấu trùng
điệp, tạo một phong cách thơ nồng nhiệt, hối hả: Nơi xa/ Một con tàu xuyên bóng
tối/ Đi về miền núi đá vôi/ Một vùng nước trắng xa xôi/ Một nhà ga cô quạnh/ Một
người đàn bà ướt lạnh/ Đứng chờ anh (Không đề). Đặc biệt, khi viết về đời tư, nhà
thơ thường sử dụng cấu trúc trùng điệp như là một sự giải tỏa: Dẫu anh mất nhà ga
êm đẹp đó/ Vẫn còn con tàu chuyển bánh đi xa/ Anh đã mất ngôi sao trên mái nhà/
Anh vẫn còn ngôi sao ngoài cửa sổ/ Và nếu mất em rồi anh vẫn còn đôi mắt của em
(Anh đã mất chi anh đã được gì). Và đó cũng là cách chủ thể vượt lên nỗi đau thực
tại. Thủ pháp trùng điệp không phải là mới song sức ám gợi của nó đã khẳng định
sở trường của Lưu Quang Vũ; hơn nữa, kết cấu này thích hợp với đặc điểm tâm hồn
nhà thơ - “đắm đuối” và nồng say. Ý tứ cứ tiếp nối, trùng phức lên nhau, tạo cho bài
thơ âm điệu trùng trùng lớp lớp. Thường thì cấu trúc trùng điệp thể hiện sắc thái
khẳng định mạnh mẽ. Đó lại là cái tạng riêng của Lưu Quang Vũ, ngay khi hồn thơ
bâng khuâng trong hạnh phúc bình yên. Cái tôi sợ khoảng cách, sợ sự mơ hồ: Em
như gần như xa lẩn khuất/ Anh bỗng thành chim nhạn vọng trời xanh/ Anh nhớ em
trong nỗi lá nhớ cành/ Nhớ nỗi nhớ của vườn xưa tội quá (Bài thơ khó hiểu về em).
175

Trong thơ 1965 - 1975, hình tượng người lính không chỉ được khắc họa ở tâm
trạng dứt áo ra đi, sẵn sàng lên đường không vướng bận như trong thơ của thời
kháng chiến chống Pháp. Đến thơ thời kháng chiến chống Mỹ, ngòi bút của thế hệ
trẻ đã đi vào sâu hơn những suy tư của người chiến sĩ khi bắt đầu hành trình dấn
thân cứu nước. Ở đó, có thể thấy được những ngậm ngùi, những nỗi buồn cách chia
buộc lòng nén lại, những hình ảnh của người ra đi mang không ít nỗi niềm gửi lại
quê nhà. Nhịp điệu câu thơ dồn dập như tiếng lòng hồi hộp, cháy bỏng của những
con người mang nhiệt huyết ra đi vì Tổ quốc. Lời từ tạ lên đường của người lính trẻ
vì thế dội trong tâm thức người nghệ sĩ như một điệp khúc chứa chan tình cảm: Từ
biệt tỉnh địa đầu Tổ quốc/ Từ biệt người yêu cưới chửa ấm giường/ Từ biệt căn nhà
sàn, mà ra đi, như con tàu xa bến/ Từ biệt mẹ già trong sắc áo chàm xanh (Một
người anh hùng - Ngô Văn Phú).
Với biện pháp trùng điệp, khi đến với thơ trẻ, độc giả hình dung giá trị sức
mạnh tinh thần của một thế hệ. Ý thức dấn thân của tuổi trẻ được cụ thể hóa trong
điệp từ mang in đậm dấu ấn của cả một lớp người. Đó là lời khẳng định một cách ấn
tượng về chân dung của thế hệ những người con luôn hướng lòng về ngày mai của
Tổ quốc. Với họ, chưa lúc nào trách nhiệm đối với non sông ngừng thôi thúc tâm
can: Từ buổi con đi mang tình yêu đất nước/ Mang dòng máu người cha, đi khắp
chiến trường/ chiếc áo sờn vai đi khắp quê hương/ Mang cả chiến công gởi về quê
mẹ (Vĩnh biệt - Thu Bồn). Cũng trong khoảnh khắc lắng dịu của tâm hồn, Nguyễn
Khoa Điềm đã hướng về những thanh âm thân thuộc. Từ tiếng chim gõ thời gian
vào đời đều đặn, người nghệ sĩ lắng nghe nhịp khúc trầm ấm của những hồi ức vọng
lại từ hiệu ứng trùng điệp: Ta bỗng nghe/ Tiếng nhặt khoan nhịp sênh tiền mẹ hát/
Tiếng âm ấm giọt tranh vừa nặng hạt/ Tiếng phồng căng con gà đất đầu xuân/
Tiếng chìm sâu buổi phóng cọc Bạch Đằng/ Tiếng đục vào đất đêm/ Tiếng khoan
tường xuyên phố/ Tiếng đất rang lật dưới chân cha vỡ/ Tiếng bào thai mẹ đạp dưới
hầm sâu/ Và tiếng em rơi rơi…/ Như những mảnh lá đêm, mùa chia tay Hà Nội
(Con chim thời gian - Nguyễn Khoa Điềm).
176

Thơ trẻ khắc sâu hình tượng cái tôi cháy bỏng căm thù. Chủ thể trữ tình khát
vọng dấn thân đi cuối đất cùng trời để trả nỗi hận cho mẹ cha, cho dân tộc. Tiếng
thơ sôi trào căm giận đó cũng chính là tiếng lòng đau thương, tủi hờn của thế hệ trẻ.
Tất cả ùa đến dồn dập qua tần suất dày đặc những điệp ngữ: Cha trút cho con nỗi
nhục cha đau/ Cho xương con có dáng trăm cọc bêu đầu/ Cho mắt con có màu
gươm của mắt nghìn người bị chém/ Cho tay con có mười chiếc đinh của nghìn tay
bị đóng/ Cho môi con khô nỗi thèm sữa em con/ Con muốn làm người, mẹ ơi, Việt
Nam (Khoảng lớn âm vang - trích Mặt đường khát vọng). Trong thơ Hữu Thỉnh, nỗi
hờn căm quân thù cũng được đẩy lên đến cao trào bởi hàng loạt điệp từ: Một con
đường đất đỏ như son/ Một màu rừng xanh bạt ngàn hi vọng/ Một ý chí bay ra đầu
họng súng/ Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù (Trên một chiếc xe tăng).
Ngô Kha - nhà thơ của lòng đô thị miền Nam - cũng sử dụng khá thành công
thủ pháp trùng điệp. Đó là cách nhà thơ lí giải về ý nghĩa của vấn đề làm người
trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh. Lời thơ mang giá trị triết luận về ý thức của
con người sống trong những ngày đất nước chìm trong đạn lửa. Đó là nguyên cớ để
con người giải thoát mình khỏi thân phận nô lệ. Tiếng nói thơ Ngô Kha, cũng trong
mạch cảm hứng của thơ trẻ thành thị miền Nam, lấy uất hận để rửa uất hận, để dấn
thân đòi nợ máu cho đồng bào. Điệp từ bởi với hàng loạt hình tượng đau thương,
mất mát, bất hạnh… thực sự ăn sâu vào lòng căm hận của ngòi bút thơ trẻ. Có cái gì
đó vừa cay xót, mỉa mai mà cũng đầy căm phẫn. Ngô Kha đã lột tả hết nỗi khốn
cùng của thân phận nô lệ. Đây cũng là một trong những quan niệm nghệ thuật của
thơ trẻ 1965 - 1975: tình thương nào sót lại nơi đây/ em dũng cảm trong lò nung
thép/ bởi làm người nước mắt phải đun sôi/ bởi làm người nên nhục nhằn đau đớn/
bởi làm người ngựa kéo trâu cày/ bởi làm người chưa một lần hạnh phúc/ bởi làm
người đói khát tự do/ bởi làm người màu da lận đận/ bởi làm người tay còng xiềng
xích/ bởi làm người đánh mất quê hương/ bởi làm người chết đầu mũi giáo/ bởi làm
người nên phải đấu tranh (Trường ca Hòa bình). Hay qua hàng loạt lượng từ
những, Trần Quang Long đã mở ra nhiều hình ảnh đầy ám gợi về một thế giới tuổi
thơ, thân phận non nớt vô tội trong chiến tranh. Bức tranh hiện thực cùng với nhiều
177

sự thật khủng khiếp được phơi bày. Song từ đó người nghệ sĩ cũng nhìn thấy sự đổi
đời của những kiếp người hứng chịu bi kịch: Những tuổi thơ trong nhà tù, trong góc
chợ/ Những vành môi khát sữa, những bước nhớ lang thang/ Những tuổi thơ héo
tàn trong vòng nô lệ/ Những tuổi thơ ánh mắt rạng sao vàng (Ngày sinh của bé -
Trần Quang Long). Khi chứng kiến sự lụi tàn, héo mòn, lẩn khuất của thế giới hiện
thực dưới sức tàn phá của chiến tranh, hiển lộ cái tôi chao đảo trong hàng loạt kết
cấu trùng điệp: Vẫn những con bù nhìn tàn tạ/ Những con đường bụi đỏ những con
đường quanh những con đường thẳng/ Những con đường không có mặt trời lờ mờ
không có lá gân xanh/ Những thân cây khô cằn nhựa nguyên, tua tủa gai nhọn/
Những con đường đi xa dần quê hương, đi rưng rưng bên bóng con người (Dưới
bóng tôi, lờ mờ những đời người - Thái Ngọc San).
Kĩ thuật viết trùng điệp nhiều lúc còn mang lại hiệu quả thẩm mĩ bất ngờ ở thế
giới nghệ thuật thơ tình của những cây bút vùng tạm chiếm miền Nam, đặc biệt khi
chủ thể trữ tình xoáy vào nỗi thèm khát rất thành thực của con người:
Những sáng của thương những chiều của nhớ
những đêm thèm một chút ái ân
nằm đợi mãi trăng không về gọi cửa
ta cắn vào thơ buốt cả răng
(Tương tư - Lê Ký Thương)
Và với cách nói trùng điệp, cái tôi trữ tình trong những hồn thơ lạc loài giữa
cuộc sống chiến tranh ở vùng tạm chiếm miền Nam bấy giờ có thể diễn giải nỗi khát
thèm cuộc sống bứt phá, một cuộc sống không câm nín: muốn quên đi sao vẫn còn
bịn rịn/ muốn ngàn khơi sao mãi mãi nghe gần/ muốn đui mù sao mắt mãi tìm
trông/ muốn câm nín mà lòng thì thầm bày tỏ/ muốn bỏ đi sao tần ngần đứng ngó/
muốn thét gào để được hóa thân (Hồi tưởng 69 - Lan Sơn Đài). Cũng với dụng ý
bày hết tình yêu thương sâu kín, dự cảm không lành, chủ thể có khi dùng trùng phức
những lời tự thú, lộ diện cái tôi khắc khoải yêu thương như một lời trăng trối: Hãy
ngủ ngoan bằng tình thương nghe con/ Dù lớn lên con gặp nhiều phản bội/ Hãy ngủ
178

ngoan bằng tình anh nghe em/ Dù mai sau em hôn người khác/ Và quên anh đã chết
giữa rừng (Lời cho vợ con trước giờ hành quân - Lê Nhược Châu).
Như vậy, với một số thủ pháp nghệ thuật vừa khảo sát, có thể khái quát được
sự thành công của thơ trẻ trong việc tạo nên một thế giới nghệ thuật phong phú, thể
hiện sự đa dạng sắc thái giọng điệu - một yếu tố quan trọng hình thành phong cách
nhà thơ. Thơ trẻ quả đã tạo được một giọng riêng giữa nguồn thơ 1965 - 1975.

3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu


Theo M.B. Khraptchenko, “đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện
trong một môi trường giọng điệu nhất định” [81, tr.167]. Thơ là tiếng lòng, là tiếng
nói khởi nguồn từ nhu cầu giãi bày của tâm hồn nghệ sĩ. Giọng điệu chính là một
phương thức bộc lộ rõ nhất những trạng thái cảm xúc của cái tôi trữ tình. Giọng
điệu trong thơ không chỉ phản ánh lập trường xã hội, tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ
của chủ thể mà còn góp phần tạo nên cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Là phạm
trù thẩm mĩ của văn học, giọng điệu là một cơ sở không thể thiếu để định hình cá
tính sáng tạo của nghệ sĩ. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, giọng điệu “thể hiện
thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm,...” [47, tr.134]. Nói cách khác, giọng điệu trong văn học là lời văn nghệ thuật
biểu thị cảm xúc, thái độ của chủ thể trữ tình trước hiện thực cuộc sống. Và theo
Nguyễn Đăng Điệp, “không thể có giọng điệu nếu không có những rung động sâu
sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân phận con người” [36, tr.34]. Vì thế,
giọng điệu cũng là yếu tố thể hiện “hiệu suất cảm xúc” [81, tr.167] thơ trẻ và là một
biểu hiện quan trọng tạo dựng phong cách thơ trẻ.
Lực lượng sáng tác trẻ đã cùng hòa giọng, tạo nên âm hưởng của một thời đại
hào hùng. Khát vọng giải đáp những vấn đề nóng bỏng của hiện thực chiến tranh,
khám phá bản chất cuộc sống đã tác động đến giọng điệu chung của cả nền thơ bấy
giờ. Thế hệ nhà thơ trẻ có những bức chân dung tự họa với một sắc giọng mang tầm
vóc thời đại mới, tạo nên bản sắc sáng tạo riêng của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
179

trong nền thơ hiện đại. Hữu Thỉnh từng dõng dạc: Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc
đời mình. Bằng Việt cũng hùng hồn cùng tuyên ngôn: Cả thế hệ dàn hàng gánh đất
nước trên vai. Lâm Thị Mỹ Dạ thể hiện chất giọng vừa tự hào vừa đau xót trong
một tiếng lòng đồng điệu. Xuân Quỳnh lại ám ảnh cùng những đam mê, tận tụy
trong từng sắc giọng yêu thương. Trần Quang Long day diết trong từng trăn trở.
Ngô Kha lại mang sắc giọng ám ảnh va siết về bi kịch chiến tranh… “Từ cảm hứng
chủ đạo đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn cần phải hiện diện. Chính cái khác nhau
của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca khác
nhau” [38, tr.74-75]. Với biểu hiện đa dạng của cái tôi trữ tình, giọng điệu thơ trẻ
Việt Nam 1965 - 1975 mang nhiều sắc thái, cung bậc. Đây cũng là hướng nghiên
cứu của luận án không nhằm đi sâu khảo sát các sắc thái giọng điệu của từng phong
cách thơ cụ thể mà tập trung làm nổi rõ giọng điệu đặc sắc của thơ trẻ nhằm khắc
sâu hơn những biểu hiện của cái tôi trữ tình. Giọng điệu có thể được xem là bản tự
thuật của tâm trạng, thể hiện thái độ của người nghệ sĩ đối với cuộc sống. Giọng
điệu trong thơ trữ tình thấm đẫm tính chủ quan và mang đậm cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ. Chính vì vậy khám phá giọng điệu trữ tình là cách đi sâu vào thế giới
cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.

3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng

Là một yếu tố của thi pháp, giọng điệu vừa có khả năng khu biệt sự độc đáo
của từng phong cách vừa thể hiện tư tưởng người nghệ sĩ. Giọng điệu chịu sự chi
phối của điểm nhìn nghệ thuật. Bởi điểm nhìn - cái nhìn nghệ thuật “thể hiện chiều
sâu tư tưởng và sự nhạy bén của nghệ sĩ”. Vì thế thơ trẻ thể hiện phong phú những
gam giọng ứng với sự đa dạng điểm nhìn của chủ thể trữ tình. Khi cái tôi hướng đến
cái nhìn ngợi ca, tự hào trước chân dung đất nước và con người, giọng thơ hào sảng
mang đậm chất sử thi; đó là giọng thơ ngập tràn cảm xúc của một tâm hồn phơi
phới đang mở lòng bắt nhịp thời đại. Với cái tôi trải điểm nhìn đến những tầm vóc
đáng tự hào của đất nước, giọng ngợi ca, hào sảng trở thành “chủ âm”.
180

Nền thơ ca kháng chiến vốn mang sắc giọng trân trọng lịch sử oanh liệt đáng
tự hào. Ở những vần thơ đánh Mỹ của Chế Lan Viên, khi nhìn vào quá khứ, nhà thơ
đã thể hiện giọng hàm ơn và hãnh diện của một người nghệ sĩ về những con người
đã tạo nên chân dung, thần thái hào hùng của dân tộc: Khi Nguyễn Trãi làm thơ và
đánh giặc/ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn/ Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi
vào cửa Bắc/ Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng (Tổ quốc bao giờ
đẹp thế này chăng?). Đến thế hệ thơ trẻ, Nguyễn Khoa Điềm cũng cất dựng một
hình tượng đất nước qua lăng kính ngưỡng vọng. Giọng thơ không giấu nổi cái tha
thiết, tự hào về hình tượng đất nước có từ trong truyền thống: Ôi Đất Nước sau bốn
nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… (Đất nước -
trích Mặt đường khát vọng). Nhà thơ mang chất giọng tin yêu, trân trọng, hân hoan
khi nghĩ về cội nguồn dân tộc: Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về Đất
nước mình thì bắt lên câu hát/ Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác/
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông sâu. Lưu Quang Vũ miên man trong miền cảm
xúc của người lính vừa vào quân ngũ, với niềm tự hào rạng rỡ. Tác giả đưa thơ vào
vùng hân hoan, rạo rực. Giọng điệu thơ căng ra trong niềm vui lí tưởng cách mạng
và lí tưởng cuộc đời: Con đường quê hương, con đường yêu thương/ Nối với vạn
nẻo đường đất nước/ Náo nức ngày đêm xe xuôi ngược/ Đi ra tiền tuyến xa gần
(Những con đường). Với Phạm Ngọc Cảnh, giọng điệu hừng hực khí thế của tuổi trẻ
gửi vào cả tình yêu dành cho đất Mẹ. Bao trùm cả tập thơ Ngọn lửa dòng sông là
sắc giọng của niềm hứng khởi, tự hào. Gần như tác phẩm nào cũng được phả vào
giọng hào sảng của thời đại chống Mỹ. Nghĩ về quá khứ của cha ông, giọng thơ rộn
ràng trong điệu hát; nhịp điệu câu thơ như dồn dập, thể hiện cảm xúc không thể
kiềm nén trước tinh thần lạc quan đẹp đẽ của truyền thống cha ông: Nghìn đời cha
ông/ Lưng bầm vai rát/ Một lưỡi cuốc cùn/ Một dây khố nát/ Đạp lên gai rừng/ Vừa
đi vừa hát/ Máu trộn đất bùn/ Gieo từng nắm hạt (Bài ca pháo thủ).
Giọng điệu trữ tình là biểu hiện rõ nét nhất thế giới tâm hồn của người sáng
tạo. Trong cái nhìn sử thi, không chỉ có nguồn cảm hứng ca ngợi, cổ vũ mà xuất
phát từ tinh thần dân tộc, từ niềm kiêu hãnh về quê hương đất nước…, thơ trẻ 1965
181

- 1975 còn ngập tràn chất giọng sục sôi căm thù: Trận gió lốc xoáy vào lòng khẩu
đội/ Nín lặng, cúi đầu, nghiến chặt hàm răng/ Một vòng người - quấn một vòng
tang! (Viên đạn căm thù - Phạm Ngọc Cảnh). Giọng căm hờn khi đã lên đến cao
trào, người đọc bắt gặp trong thơ trẻ âm sắc của sự quả quyết. Tiếng nói đầy khí thế
khắc cả vào những cung bậc thúc giục, vang dội của tinh thần thế hệ: Mưa gầm lên
tưởng cuốn cả cây rừng/ Mây xám, mưa tuôn, kẻ thù: mưa lửa/ Trăm trận đánh đồi
xanh thành đồi đỏ/ Thành màu cờ cháy rực suốt mùa mưa… (Tiểu đội bộ binh trên
chốt mùa mưa - Nguyễn Đức Mậu). Đối mặt với nỗi đau dân tộc bị đọa đày lăng
nhục, lăng kính của các nhà thơ trẻ không đi ra khỏi mạch cảm hứng chung - rửa
sạch nỗi đau hận thù. Giọng thơ như uất nghẹn, có lúc như vỡ ra trong âm hưởng
căm hờn. Trong cái tôi dấn thân và quả quyết hành động là sắc giọng của uy quyền,
thách thức: Nào thép gai, ta xé thép gai!/ Nào xe Mỹ, ta đốt bùng xe Mỹ!/ Hồ sơ
quân sự học đường thì ta quăng vào lửa/ Ảnh Thiệu, Ních - xơn ta vạch mặt, bôi
vôi! (Xuống đường - trích Mặt đường khát vọng).
Khi thể hiện lòng căm phẫn tột cùng đối với kẻ thù, thơ trẻ dấy lên giọng điệu
của những tình cảm hân hoan mãnh liệt về một tương lai rạng ngời của dân tộc.
Theo quan niệm của cây bút trẻ, đặc biệt là các cây bút tranh đấu trong lòng đô thị
miền Nam, thơ ca là tiếng hát say sưa với niềm tự hào, kiêu hãnh. Càng đau đớn, hi
sinh thì sắc giọng ấy càng thường trực trong những trái tim rát bỏng căm thù: Định
mệnh con người không ở trong tay thượng đế/ Tiền nhân dạy ta làm chủ đời mình/
Trong gió heo may mùa thu thế kỷ/ Có ai ngờ dân tộc đã vùng lên? (Mùa thu, trên
đường về - Đông Trình).

3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin

Chính cái tôi trữ tình ắp đầy khát vọng đã tạo nên giọng yêu tin đằm thắm
trong thơ trẻ. Khi cảm hứng hô hào, cổ vũ, thậm chí lòng căm giận đã lên đến đỉnh
điểm, con người thơ chạm vào những không gian của yêu tin, hứa hẹn. Giọng thơ vì
thế chuyển sang một gam khác, thể hiện cái tôi đầy ắp niềm tin vào sự đổi đời của
dân tộc và sự thay đổi thân phận con người: Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa/
182

Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa/ Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa/ Thì tin
yêu ngay thẳng đón ta vào/ Ta nghẹn ngào, Đất nước Việt Nam ơi. (Đất nước -
Nguyễn Khoa Điềm). Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Đức Mậu cũng bàng bạc
giọng yêu tin, lời thơ như ngân nga trong nguồn cảm xúc dâng trào về hình ảnh
ngày vui chiến thắng, một ngày mai đất nước là những bài ca: Cây phong lan giữa
vùng bom đạn, mơ ngày mai đôi bờ mở hội, những khuôn mặt dáng người hồ hởi,
cây đàn vang vọng mãi âm thanh…
Trong tư duy thơ trẻ, niềm hướng vọng lớn lao nhất của con người thời chiến
là sự đoàn tụ, viên thành. Vì thế trải trên hầu hết tác phẩm thơ ca là niềm tin. Ngay
trong cảm quan về mất mát, đau thương cũng đã hàm sắc giọng của sự hồi sinh
mãnh liệt: Những bạn bè đã chết/ Cũng sẽ trở về như những bông hoa/ Cắt xuân
trước, tháng giêng sau lại mọc/ Những bông hoa không chết bao giờ (Những bông
hoa không chết bao giờ - Lưu Quang Vũ). Ở những bài thơ đậm chất sử thi, khi
ngòi bút thơ trẻ biểu hiện thế giặc trong cơn hấp hối của sự tan rã, tàn lụi, giai điệu
yêu tin càng có chỗ để neo đậu, chắp cánh cho hồn thi sĩ thăng hoa, về với bến đỗ
của quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, chiến tranh - không thế lực nào, không điều
gì có thể xóa đi niềm tin của con người. Thơ trẻ bấy giờ mang sắc giọng của lí
tưởng sống vốn ăn sâu vào tâm thức của lớp người đã phải trả giá quá đắt cho
những tháng ngày tang tóc: Đạn bom giặc hãy trả lên đầu giặc/ Người Việt Nam
hãy về với Việt Nam/ Đây bát cơm mẹ già đang đợi chờ con/ Đây đồng ruộng mênh
mông dang vòng tay đón/ Êm ấm làm sao, nghĩa đồng bào rộng lớn/ Tha thiết làm
sao tiếng gọi quê hương/ Khoác súng lên vai, kèn trỗi lên đường/ Một đời mới khai
sinh mùa xuân mới (Bài ca khởi nghĩa - Trần Quang Long).
Ngay cả tâm tưởng của con người khi hướng về khoảng kí ức ngày xưa cũng
ấm áp trong cái nhìn tin yêu. Giọng nồng ấm yêu thương dịu dàng của tình mẫu tử
trong thế giới hồi tưởng của Hoàng Nhuận Cầm ắp đầy những điều yên lành, xao
động tâm tư. Tứ thơ mở ra một câu chuyện đẹp về hình tượng người mẹ trong tình
yêu nồng ấm với cái chấm nôi hiền thật bé, ở đó giọng dịu ngọt là gam chủ đạo: Cái
chao nôi đủ thành con sóng bể/ Mẹ đã nghiêng nôi - chấm vào giữa trời xanh/
183

Chấm theo cả những khát khao đẹp nhất/ Con ngước nhìn lên trời cao xanh ngút
mắt/ Mẹ hiện ra như mây trời trong khúc hát đầu tiên (Má và mẹ).
Từ cảm hứng lạc quan, các cây bút còn tạo nên một cung bậc giọng điệu khác,
làm nên nét duyên cho thơ trẻ giai đoạn này. Cái tôi trữ tình trong cái nhìn trẻ trung,
tươi tắn đã tạo nên giọng thơ mang hơi hướng của sự tinh nghịch, dí dỏm. Nguyễn
Duy khám phá cái mái tăng của mình là một bầu trời vuông. Nguyễn Đức Mậu lại
có cả ngăn yêu thương cho mảnh trời riêng; giọng thơ thoảng niềm vui ngạc nhiên
trước những điều giản dị trong chiến trường: Người nằm nghiêng súng cũng nằm
nghiêng/ Người ngồi ngủ, súng ôm ghì trước mặt (Đơn vị ngủ rừng theo đội hình
đánh giặc). Chính từ sự gắn bó cùng đời sống chiến trận với cái nhìn của người
trong cuộc mà chất giọng lạc quan pha chút dí dỏm nhẹ nhàng như thế đã tự nhiên
đi vào thơ trẻ.
Không chỉ có niềm tin vào tương lai của cuộc chiến đấu, ngày mai của dân tộc
hay khoảng kí ức của đời người mới là mạch cảm hứng chủ đạo tạo nên sắc giọng
yêu tin, khát vọng trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Nét trong trẻo, đằm thắm
trong những mối tình thời chống Mỹ cũng nhen lên trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ
âm sắc của giọng điệu nồng ấm, khao khát. Tình yêu giai đoạn này cũng thanh
thoát, dịu nhẹ như không gian chiều, trong giọng thơ đằm thắm: Chiều xuống cánh
chim bay/ Như nụ cười thoáng gặp/ Như vầng trăng mới mọc/ Như mối tình mới yêu
(Chiều - Lưu Quang Vũ). Hay có khi chất giọng trong trẻo, da diết của Lưu Quang
Vũ lại bắt nhịp cho tác giả thổ lộ những tâm sự kín đáo: Giấc mơ lạ về theo cơn gió
lạ/ Cơn gió quen thầm thỉ giấc mơ quen/ Cầm tay nhau run rẩy cả trời đêm/ Trong
mắt ướt một vì sao thoáng hiện (Mùa gió). Chất giọng trong vườn thơ tình yêu của
thời cả nước lên đường nhìn chung ấm áp, nồng nàn. Nỗi nhớ cũng phả nét thanh
khiết, giản dị đến yên lòng: Nhớ em khi đang sang sông/ Nghe em là sóng bập bùng
đưa chân (Nhớ - Nguyễn Duy).
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh, chia cắt có khi là vĩnh viễn song hầu hết cái
tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 sống cùng thế giới tình yêu với những cung
bậc trong trẻo, đằm thắm, dịu nhẹ. Giọng thơ tình vì thế là hòa âm của những giai
điệu dịu dàng, thanh thoát. Với cái nhìn về tình yêu thuở đầu trong sáng, lãng mạn,
184

Dương Hương Ly - nhà thơ đại diện cho đội ngũ sáng tác trên tiền tuyến lớn miền
Nam - đã phối giọng trong trẻo, khỏe khoắn vào những lời tình tứ: Một tiếng chim
ngân/ Một làn gió biển/ Một sớm mai xuân trước cửa hầm dã chiến/ Thấy trời xanh
xao xuyến ở trên đầu/ Ta vẫn thầm hái hoa tặng nhau (Bài thơ tình yêu). Hầu hết
vườn thơ tình yêu giai đoạn 1965 - 1975 ngào ngạt sắc hương của lời tin yêu đằm
thắm mà cũng không kém phần da diết. Không chỉ hứa hẹn mà còn là trao gửi yêu
tin. Hướng về tình cảm lớn lao của dân tộc, những con người yêu nhau trong thời
khốc liệt vẫn gieo vào nhau niềm tin giản dị đến nao lòng. Ấp ủ trong những trái tim
yêu vẫn là khát vọng và niềm tin cháy bỏng về ngày mai gặp mặt. Dẫu muôn trùng
cách trở song chờ đợi họ vẫn là điểm đến của tình yêu: Cơn dông là đôi mắt em
cười/ Chiều lạ quá, chiều ơi lay động mãi/ Giá lại phải băng qua trăm ngả đường
phá hoại/ Thì hẳn chỗ cuối cùng, anh gặp vẫn là em (Những đoạn thơ tình viết giữa
hai cuộc chiến tranh phá hoại - Bằng Việt).
Với cái tôi trữ tình đa đoan, lật trở nhiều nỗi niềm riêng tư thì giọng điệu bi
quan, giằng xé có khi cũng không phải là chuỗi giọng ám ảnh một đời. Đó chỉ là
chặng đổ vỡ lòng tin tạm thời để về sau, lạc quan lại bừng sáng trong giọng điệu
đậm chất suy tư. Khi những vết tổn thương đời tư đã lành lặn, giọng xốn xang hạnh
phúc ngỡ òa lên nức nở:
Bỗng một ngày em tới em ơi
Anh gặp biển khơi gặp nhà ga bóng mát
Anh thấy chân trời tuổi thơ bát ngát
Em dạy anh nhìn cái thật của đời
Hiểu bao điều lòng anh vẫn non tươi
Chẳng còn là đám mây rách rưới
Từ nay có nhau từ nay không còn bóng tối
(Những ngày chưa có em… - Lưu Quang Vũ)
Cái tôi trong thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ không tránh khỏi chông chênh.
Nhưng tận sâu tâm thức cái tôi chẳng bao giờ chịu ở với bờ yên là phút khát vọng
185

thành màu trên khung vải (Người con giai đến phòng em chiều thu…). Về bản chất,
thơ trữ tình chính là nơi gửi gắm khát vọng thành thực của con người. Đi qua những
bức tường gạch vỡ, những bãi nền đổ nát, những tháng ngày rơi vãi, cái tôi mới có
những suy cảm về hạnh phúc giản dị là thế. Chính mâu thuẫn trong đời sống nội
tâm tạo nên sự thống nhất trong tư tưởng nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Hầu như
cuộc đời người nghệ sĩ hiến dâng cho nghệ thuật, cho lẽ sống, cho tình yêu bằng cái
nhìn biện chứng: Đời sống là bờ/ Những giấc mơ là biển/ Bờ không còn nếu chẳng
có khơi xa (Giấc mơ của anh hề). Có lẽ thật hiếm ngòi bút nào trong địa hạt thơ tình
thời chống Mỹ lại đi đến tận cùng bản sắc tình yêu như bút thơ Lưu Quang Vũ.
Những bông hoa không chết bao giờ không chỉ là suy nghiệm của Lưu Quang Vũ
về chiến tranh, về cái chết của đồng đội trong đối cực mất - còn nghiệt ngã của
chiến tranh mà đó còn là bản tự thuật của hạnh phúc trở về, của tình yêu vĩnh cửu.
Giọng thơ tình mê đắm ấy vẫn không nguôi với “di chúc tình yêu”. Nhân hậu biết
bao khi đó chính là sắc giọng của ước mơ một đời chưa thỏa nguyện, là lòng yêu
còn đương khát, là hạnh phúc dở dang: Em cần gì giếng lạnh/ Tâm hồn anh cô
quạnh dưới lòng sâu/ Ngẩng lên biền biệt mây cao/ Cuộc đời thăm thẳm/ Tình anh
như cỏ lau/ Tìm nhau trên đất vắng/ Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh/ Hoa cúc nở vàng
trên cánh tay/ (Không đề). Khi hạnh phúc tái sinh, giọng thơ ấm áp trong lời tâm
niệm hàm ơn cuộc sống: Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất/ Dẫu chỉ riêng điều đó
là có thật/ Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời (Em - Lưu Quang Vũ).

3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn

Mang tâm thế tự nghiệm, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 luôn dằn vặt
và không nguôi đi tìm lời giải đáp về nhiều vấn đề bức thiết của đời sống chiến
tranh. Nhất là vấn đề thân phận dân tộc, số phận con người, cái còn lại đằng sau
những vinh quang, mất - còn… Chính vì thế, bên cạnh sắc điệu hoan ca, lạc quan,
đẫm yêu tin, thơ trẻ còn dành một khoảng ngẫm suy trong sắc giọng suy tưởng, chất
vấn. Ở đó, cái tôi trữ tình trải nghiệm cùng những điều lớn lao gắn chặt với sinh
mệnh dân tộc đến những điều tưởng rất đời thường.
186

Chiến tranh trong nhãn quan của thế hệ thơ trẻ đâu chỉ là đường ra trận mùa
này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật), không chỉ là chiến công thành điệp khúc suốt mùa
thu (Hoàng Nhuận Cầm) mà đó còn là tổn thất, thương tật, di chứng. Dù trong dòng
chung của thơ thời kháng chiến chống Mỹ, những ngẫm suy như thế không phải là
tư tưởng chủ đạo song đó là sắc diện rất thật của cái tôi trữ tình. Trong tư duy thơ
trẻ miền Nam, hằn sâu vào cuộc sống là nỗi buồn chiến tranh. Cảnh tượng chới với
của con người bị bỏ lại phía sau những trận càn đã trở thành niềm đau dai dẳng, đâu
đâu cũng chỉ còn là dấu vết của thương tổn chiến tranh. Giọng điệu hẫng hụt gieo
vào những dòng thơ tự do với biên độ câu thơ dài ngắn đan xen càng tạo nên chất
trầm buồn, day trở: giữa lòng quê/ cuộc chiến bỏ quên người/ xe lăn đi/ đất mở rộng
cơn đau/ đường gai chạy qua đồng máu chảy (Hành trình - Ngô Kha).
Sự thật của cuộc chiến là những vành khăn tang, những vòng trắng. Trong
lòng đô thị miền Nam, với cái tôi thơ trẻ, sự thật nghiệt ngã chiến tranh là những gì
họ phải chứng kiến hàng ngày, là hình ảnh tội nghiệp của những người hoảng hốt
trong nỗi đau vĩnh viễn mất người thân: khi trời đổ mưa/ tôi thấy người chị/ tay cầm
cây nhang/ với vầng mây cô đơn trải làm khăn chế/ tôi thấy người lính trẻ/ chĩa
súng dài trên mặt nước/ với giòng sông/ tôi thấy đứa bé mồ côi/ ngước nhìn ảnh
cha/ với tương lai trên chiến địa (Mùa đông chiến tranh ở Huế - Ngô Kha).
Những nghiệm suy về bức tranh xót đau của cuộc sống đạn lửa có khi còn
phối vào thơ trẻ âm điệu của niềm bi quan, tuyệt vọng. Trở đi trở lại trong hồn thơ
là nỗi ám ảnh về cái chết, về sự ra đi, về những âm thanh tức tưởi của con người.
Đây là cung bậc cái tôi nếm trải đến tận cùng hiện thực đổ vỡ của chiến tranh.
Giọng thơ chùng xuống, thao thiết với niềm đau thấm thía. Giọng bi quan trải thấm
trên hàng loạt hình tượng thơ đầy ám gợi: Bây giờ con sống đây/ Bên những người
đã chết/ Bên những người đang chết/ Cuộc sống mù lòa giữa mặt trời đen/ con
mang máng thấy mình còn sống/ Khi ngồi âm thầm đếm nhịp trái tim/ Và con đếm
nhịp trái tim/ Trong cơn hấp hối (Thưa mẹ, trái tim - Trần Quang Long). Hay với
cái tôi phủ định, chối bỏ “thiên đường của thế giới tự do” vùng đô thị, thế giới nghệ
thuật thơ là âm hưởng của giọng vỡ lẽ ê chề trước bi hài kịch chất chồng mâu thuẫn
187

giữa “kiếp sống con người và bài học tô son”. Trước những “sách vở buồn thiu như
cơm nguội” bấy giờ, thơ trẻ chỉ còn tái tê sắc giọng của “những điều trông thấy”:
Thấy mẹ già khóc từng buổi chợ/ Thấy em thơ vá áo vá quần/ Thấy cha tháng ngày
còm cõi/ Thấy mẹ buồn nước mắt rưng rưng (Hòa bình ở Sài Gòn - Nguyễn Tường
Giang). Cũng trong vùng thơ tạm chiếm miền Nam, song mang nặng cảm thức bi
quan về chiến tranh, các nhà thơ đi ra ngoài khuynh hướng cách mạng của thời đại
đã thể hiện một hình tượng cái tôi trữ tình đa đoan trong những hợp âm não nề.
Giọng điệu thơ thảng thốt, suy sụp, tột cùng bẽ bàng khi người thơ chạm vào nỗi
đau đơn độc:
tôi đã về
chiều nay không còn ai
cổng ngoài kia đã khép
chỉ còn lại một tôi
cầm lòng nghe mưa chết
không còn ai
không còn ai
(Mùa mưa này không còn ai - Phạm Cao Hoàng)
Thơ trẻ có một sự chuyển đổi chất giọng trong trẻo hồn hậu sang bè trầm của
giọng buồn. Dấu ấn đời tư có khi hằn vào thơ viết về dân tộc sự xót xa, hoài nghi…
trong tuyệt vọng. Đó là giọng điệu chất vấn trong niềm thổn thức của cái tôi trữ
tình: Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơi/ Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ
nhỏ?/ Đến bao giờ đến bao giờ nữa/ Việt Nam ơi? (Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ).
Trong hoàn cảnh chống chọi với những cơn sốt rừng già, không ít người lính trong
thời chống Mỹ đã ra đi và bỏ lại đằng sau những lời đính hẹn dở dang, những mỏi
mòn trông đợi. Cái tôi ngẫm ngợi về sự ra đi đột ngột của người lính trẻ, giọng thơ
buồn thương, tiếc hẫng: Gió đi giật cục bàng hoàng/ Mây đỉnh núi chít khăn tang
ngang trời/ Bao người yêu đã chết rồi/ Còn đau chưa nói được lời yêu nhau (Người
đang yêu - Nguyễn Duy).
188

Nỗi đau mất mát không chỉ là câu chuyện bi kịch chiến tranh mà đó còn là
những thương tổn tinh thần, vì thế, có thể thấy suy tư, trải nghiệm là chất giọng thể
hiện chiều sâu tư tưởng của thơ trẻ. Thường xuất hiện trong thơ những câu hỏi tu từ
vừa như chất vấn vừa là tự vấn. Nhất là ở mảng đời riêng tư, giọng thơ đầy dằn vặt
qua câu hỏi mang màu sắc hoài nghi, trăn trở: Em nơi đâu? bao năm tháng qua rồi/
Người ta bảo rằng em đã chết/ Người ta bảo quên đi đừng phí sức/ Hãy chấp nhận
những vách tường có sẵn/ Em làm gì có thật mà mong (Thơ tình viết về một người
đàn bà không có tên III - Lưu Quang Vũ). Có lúc đối mặt với không gian tròng
trành, hiểm trở, cái tôi như rơi vào vô vọng; giọng thơ buồn chao chát: Đây cửa
sông, nơi anh ra biển/ Nơi anh về. Mong anh được bình yên/ Được bình yên trở lại
cùng em/ Nhưng anh chỉ trở về trong những ngày bão tố (Một vùng cửa sông -
Xuân Quỳnh). Khi nỗi cô đơn và hụt hẫng đã tột cùng thì con người mang vào thơ
chất giọng tự trào. Nhưng chủ thể càng tỏ ra bất cần, giọng thơ lại càng cay đắng:
Anh như thằng bờm/ Chẳng thiết trâu bò chẳng thiết lim/ Chỉ nhận nắm xôi cười
ngặt nghẽo (Ngã tư tháng chạp - Lưu Quang Vũ). Trong suốt hành trình rong ruổi
giữa nhân gian, người nghệ sĩ vẫn khắc khoải với những ước vọng không thỏa. Cái
tôi đành gửi câu hỏi còn bỏ ngỏ về bản ngã đích thực của con người vào “di chúc
tình yêu”. Giọng thơ rơi vào nỗi mong mỏi kiếm tìm, đầy chất nghiệm sinh: Lẽ sống
và lẽ chết của anh/ Ta đi mãi về nhau tìm mãi bản thân mình/ Cuộc tìm kiếm suốt
đời không tới đích (Di chúc tình yêu - Lưu Quang Vũ). Khi cuộc sống là những
ngày hứng chịu cái nghèo cay cực, khi tiếng máy bay uy hiếp lưng trời, con người
rơi vào cảm giác tủi phận trong tình yêu. Nhà thơ không giấu nổi giọng cay đắng
xót lòng khi choán hết tâm can là ám ảnh áo cơm: Có tình yêu nào không cần cơm
áo? Em ơi…/ Em đã thấy sáng nay từng mảng cuộc đời/ Buộc vào nhau bằng những
manh áo mỏng/ Những bát cơm không đủ níu lòng/ Đi giữa trời/ Rét mướt (Đi giữa
rừng súng máy - Trần Phá Nhạc).
Trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, bắt gặp không ít giọng suy nghiệm
của cái tôi trữ tình cô đơn trong trống rỗng: Có một quảng đời tôi để trắng/ Sống
cho qua/ Qua/ Cho qua luôn những tháng ngày còn của một đời/ Những tình nghĩa
189

không tròn/ Những hận thù không trả/ Những dự định không thành/ Những nét mặt
nhòe tan trong kí ức/ Cũng cho qua (Nói một mình - Tô Thùy Yên). Cái tôi gắn với
cái nhìn về tình yêu như là một số phận chung đôi bi thảm: cây buồn lá đến rơi thôi/
hồn dang cánh muộn thu đời nhá nhem/ mối đùn đất đắng cay em/ bù nhau chưa đủ
lệ hoen ngày vàng/ chung thân tôi - địa ngục nàng (Phúc âm riêng của hai người -
Du Tử Lê). Ý thức hiện sinh giữa một thực tại muôn vàn bế tắc, giữa cuộc sống
ngột ngạt đã mang đến những trạng thái tình yêu đượm buồn, giọng thơ tự trào, in
đậm cái tôi cô độc - cô độc hiện sinh: Ta về theo dấu chân mưa/ Hắt hiu phố chợ,
ngày vừa xế tan/ Em đi, vỡ một cung đàn/ Hoàng hôn từ đấy mênh mang một trời
(Lệ mưa - Trần Dzạ Lữ). Hay với cảm thức cô đơn đi cùng cái chết như một sự giải
thoát, con người tình yêu hiện sinh thu mình trong thế giới của tình tự, cô độc, tôi
đơn độc giữa tha nhân; giọng thơ bình thản nhưng đắng cay như lời tự thú: Như con
thú nhận mũi tên tẩm độc/ Một phút thương em trải mấy thu sầu/ Ta muốn lánh mọi
người - nghe tình khóc/ Một mình nằm chết lặng giữa hang sâu (Ngồi dưới trăng
tan - Hạc Thành Hoa). Với cái tôi tình yêu mang nỗi bi lụy thường trực, trong thế
giới nghệ thuật thơ giằng xé gam giọng não nùng, ai oán: sao thiên thu không là
chôn sâu? Nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu/ tôi đứng như xe tang ngừng ngập/
và một họ hàng khăn trắng buồn đau (Thiên thu - Nguyễn Tất Nhiên).

3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm

Thế giới riêng tư trong thơ trẻ 1965 - 1975 đối diện với những góc khuất bi
kịch. Như đã khẳng định, đây hoàn toàn không phải là trạng thái tinh thần chủ đạo
của người nghệ sĩ, song chính sự xuất hiện của cái tôi chông chênh với cảm giác
mất mát trong thơ trẻ giai đoạn này đã hình thành thanh âm dự cảm xót đau.
Trong các nhà thơ trẻ, phải nói Xuân Quỳnh đã đi đến cùng những tiên cảm
về hạnh phúc trần thế. Ngay trong chặng sống hạnh phúc, bình yên nhất, hồn thơ ấy
cũng rung lên sắc giọng phấp phỏng, chênh chao: Mùa thu nay sao bão mưa nhiều/
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng/ Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em lạc
loài giữa sâu thẳm rừng anh (Tự hát). Cái tôi rơi vào trạng thái trơ trọi giữa không
190

gian đầy bão gió, không gian hoang lạnh. Giọng thơ chính là tiếng hớt hải của chủ
thể đi tìm mình trong cõi sâu hút của tình yêu. Bởi mang trái tim quá sức vì chăm
chút yêu thương, bởi khát khao thâu hết cõi nhớ cõi yêu về với thiên chức của người
phụ nữ và cũng bởi mang trái tim đa đoan, thơ Xuân Quỳnh ăm ắp thanh âm dự cảm
cách ngăn. Nhiều khi người thơ không thể đặt hết niềm tin vào người mình yêu.
Trong tôi là giọng đan cài mâu thuẫn. Nhớ mong rồi chất vấn, tự nhủ rồi lại tự vấn:
Dẫu nhớ em xa quá không gian/ Chớ thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn bè
đông đủ cả/ Anh đi con đường này không anh? (Viết trên đường 20).
Ngẫm nghiệm trước cái chênh vênh của tình yêu diệu vợi, giọng thơ Xuân
Quỳnh thao thiết với nghìn nỗi lo âu: Anh, con đường xa ngái/ Anh, bức vẽ không
màu/ Anh, nghìn nỗi lo âu/ Anh, dòng thơ nổi gió…/ Mà em người đời thường/ Biết
là anh có ở (Anh). Có lẽ bản chất của tình yêu là khao khát vươn đến sự hoàn thiện,
vì thế trong những câu chuyện tình tứ giản dị, sáng trong của người phụ nữ vẫn
không giấu được cảm thức e ngại, thậm chí không hài lòng khi được người yêu bày
tỏ lời khen. Điều tưởng nghịch lí trong hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng trở nên có lí.
Có lí một cách duyên dáng, nũng nịu. Cái tôi cứ thành thật trong giọng ưu tư, lo
lắng: Em sợ lời khen của anh/ Như sợ chiều về, hắt tối/ Nhiều khi ngồi buồn một
mình/ Trách anh sao mà nông nổi (Anh đừng khen em). Qua nhiều lần vay trả để có
lại yêu thương, sau nhiều đổ vỡ, phải nói trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, Lưu
Quang Vũ là nhà thơ đã để lại nhiều nhất những cung âm dự cảm, lo âu, phấp phỏng
về những điều quá mỏng manh trong hành trình con người kiếm tìm hạnh phúc. Hay
có thể khẳng định giọng điệu dự cảm, tiên liệu chính là âm bản của thăng trầm trong
cuộc đời người nghệ sĩ đa đoan này. Đến với thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang
Vũ, người đọc hẳn đến được vùng cảm xúc không bình lặng với giọng thảng thốt
trong dự cảm chia xa, giọng hối hả trước bao dự định còn dang dở: Riêng lòng anh
anh không quên đâu/ Chỉ sợ trời mưa đổi mùa theo gió/ Cây lá với người kia thay
đổi cả/ Em không còn màu mắt xưa (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa).
Trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ, thiên nhiên là nơi đồng hành với nhiều ẩn ức
của con người và đó cũng là khoảng không gian thành hình những dự cảm của
191

người nghệ sĩ. Hồn thơ Nguyễn Duy từng khắc khoải trước cái phẳng lặng của ngày
mai, giọng thơ thảng thốt trong nỗi niềm khát gió: Trái đất sẽ ra sao khi một ngày
nào kia không còn gió nữa/ lá cây bỗng hết xào xạc/ mây dừng lại và sao thôi nhấp
nháy/ mùi hương hoa rụng xuống gốc cây hoa/ hạt phấn chết im lìm trong vỏ lép
(Gửi từ vùng gió Phan Rang). Bên cạnh đó, giọng nghiệm sinh về hạnh phúc dễ tan
vỡ của kiếp người còn được gửi vào không gian mưa. Hầu hết trong thơ Lưu Quang
Vũ là những cơn mưa tàn nhẫn, mưa tựa hạnh phúc mong manh. Đắm mình trong
màu mưa tâm trạng nên sau mỗi lần rạn vỡ, cái tôi nhà thơ cảm thấy rát đau vô
cùng: Mưa trên đường xa, mưa trên cửa sổ tâm hồn/ Ôi tuổi thanh xuân trôi qua
bằng những đêm trăn trở (Những ngày chưa có em...). Không gian đẫm mưa ấy kéo
theo một chuỗi thời gian nhiều nếm trải. Ở đó, tuổi thanh xuân của đời người lại
được đo bằng khoảng thời gian nặng trĩu ưu tư. Mưa vừa là không gian tâm trạng,
vừa là dấu hiệu thời gian trôi chậm đến nao lòng. Giọng thơ vì thế giằng xé, trắc trở:
Mưa cướp đi ánh sáng của ngày/ Đường chập choàng trong mối lo khó gỡ/ Thức
chẳng yên nên dở dang giấc ngủ/ Hạnh phúc con người mong manh mưa sa (Anh
chỉ sợ rồi trời sẽ mưa).
Sống trong hiện thực máu và súng luôn là mối đe dọa kinh hoàng, những
tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái tôi
căm hận, oán thán; những tưởng xâm chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm đau
chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ sĩ
vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn
là tiên liệu về một khoảng thời gian định mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn
song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái tôi
cô độc như lạc đi trong nước mắt của chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại một
mình/ em có biết chăng đời tôi rồi sẽ có một sớm mai nào/ ra đi không ngày trở lại/
tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về/ âm thầm khóc trong chiếu chăn/ những giọt lệ vàng
thánh thiện như nước mắt chim khuyên (Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc
San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam
- cũng mang sắc giọng dự cảm trong tình yêu. Ở hồn thơ của một người đang rơi
192

vào tuyệt vọng, mây trời u ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ; giọng thơ như
hỏi như than: Anh sẽ lui về thành thị cũ/ soi mắt em trong tấm gương mờ/ ngó qua
mái ngói mây trời đục/ biết đến đêm này khuya có mưa (Bên hồ Thủy Ngữ). Cái tôi
mang cảm thức hiện sinh đeo đuổi âu lo, như là sự phản tỉnh tự do, là “dấu hiệu
trung thực của hiện sinh” trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam kéo theo những
sắc giọng khắc khoải đầy dự cảm. Bắt gặp rất nhiều trong sáng tác của họ giọng
điệu mang nặng cảm thức về thân phận định mệnh: Em đã chết lẽ nào em đã chết/
Chết trên xe lửa trúng mìn chết vô tình cho lịch sử/ Và phải anh còn sống đêm nay
như những đêm nào/ Thấp thỏm đi dây trên lằn ranh sống chết chông chênh (Những
người chết vô tình cho lịch sử - Tô Thùy Yên); ôi em mưa lạnh núi sông/ ngày đi vỡ
nát cánh đồng tình yêu/ trong xa biển sóng thủy triều/ bóng em đâu thấy bọt bèo
giạt trôi (Mưa thu trên quê hương - Thế Viên). Ngay trong cái nồng nàn, tình tứ,
người thơ vẫn không giấu được sắc giọng hoài nghi, vồ vập trong nỗi sợ dở dang,
tiếc nuối: trao hết cho nhau, tình vẫn còn ngờ/ vẫn chưa đủ vẫn còn như thiếu thốn/
chân bước chậm sao đường về vẫn ngắn/ hôn nát nhàu cả mặt vẫn chưa buông (Dỗ
giấc người bất hạnh - Du Tử Lê). Hay giọng tiên cảm về tương lai tuyệt vọng cũng
là sắc giọng thường trực trong thế giới thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, khi cái
tôi trữ tình đứng giữa cảm giác thời gian đồng hiện - ngay trong hiện tại đã phấp
phỏng những ngày đang đón đợi người thơ phía trước, khi cái tôi thơ trẻ vùng tạm
chiếm miền Nam đối mặt với bi kịch đời tư: anh lang thang từ mùa xuân/ và cánh
đồng cỏ nhọn/ những đồi cao lẫn khuất trong anh/ như thể đó mùa hạ sau sắp nở/
anh cũng già nua cùng tuyệt vọng/ như nắng mai (Trên đỉnh trời An Khê - Trần
Thúc Vũ); Ta làm chim tuyệt vọng bỏ quên trời/ Nên cánh vỗ như tay chào vĩnh
biệt/ Nên hót điệu khàn khàn thống thiết/ Em có chiêm bao thấy ngậm ngùi? (Giữa
trần gian tuyệt vọng - Nguyễn Tất Nhiên). Cũng có khi thơ trẻ vang tỏa cung giọng
phức hợp của trạng thái cái tôi vàng võ ưu phiền trước hố thẳm đau thương:
Anh sống làm quen cùng cái chết
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Chìm mãi xuống em và mất tích
Như mặt trời rã trong nước loang
193

(Hải phận - Tô Thùy Yên)


“Giọng điệu chủ yếu không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại
trong tác phẩm văn học những sắc điệu khác nhau” [81, tr.169]. Sự thể hiện cái tôi
trăn trở về số phận con người trong chiến tranh đã hình thành trong thơ trẻ chất đằm
sâu, trầm buồn; đậm tâm sự cá nhân mà giàu sức ám ảnh; nồng nàn mà rất thâm
trầm trên nền cảm xúc và suy tưởng. Với cảm thức của cái tôi chiêm nghiệm thân
phận đời tư, thấm thía nỗi đau chiến tranh, đối mặt với bi kịch riêng tư, quả thật thơ
trẻ 1965 - 1975 có khi đã phá vỡ giọng điệu sử thi - vốn là “chủ âm” của bản hòa ca
cách mạng, tạo sắc giọng riêng tây, rất thành thực của chủ thể sáng tạo. Từ đó, góp
phần hòa phối nên bản tự thuật đa giọng điệu của thơ trẻ giai đoạn này. Thực tế
chiến trường ác liệt và không khí chiến đấu của những năm 1965 - 1975 đã tạo điều
kiện cho thơ trẻ bắt nhịp với cảm hứng sáng tạo. Trong dàn hòa ca đó, thơ trẻ đã
xuất hiện nhiều giọng riêng và nhiều sắc giọng đa dạng, hợp thành giọng điệu đặc
trưng của thơ 1965 - 1975. Dù đó là giọng ngợi ca hào sảng, giọng tin yêu đằm
thắm, giọng suy tưởng trầm buồn hay giọng tiên cảm xót xa thì bật lên trên hết vẫn
là chất đắm đuối trong những hồn thơ mặn mà với hiện thực đời sống. Với sự thể
hiện giọng điệu nghệ thuật, thơ trẻ càng khắc sâu hơn sự đa diện của cái tôi trữ tình,
vốn được xem là biểu hiện sắc nét của chân dung tinh thần thơ 1965 - 1975.
Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 được thể hiện thông qua một số
phương thức nghệ thuật khác nhau: thể thơ, thủ pháp nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng
điệu. Dù chưa phải hoàn toàn là những sáng tạo đặc sắc, song qua thế giới nghệ
thuật ngôn từ được kết tinh từ ý thức trách nhiệm của ngòi bút, từ quan niệm về thơ
và từ chất liệu sống dồi dào, thế hệ thơ trẻ đã thể hiện ý thức trong việc tìm tòi
những hình thức biểu đạt phù hợp. Lực lượng thơ trẻ đã có ý thức khai thác tối đa
hiệu quả thẩm mĩ của các phương thức biểu hiện nhằm thể hiện khá sinh động các
dạng thức của cái tôi trữ tình; đồng thời phần nào khẳng định cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ và thể hiện được phong cách của một thế hệ.
194

KẾT LUẬN

1. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975, với những dạng thức biểu hiện
phong phú, đã tạo cho thơ 1945 - 1975 một chân dung tinh thần, một phong cách
thời đại. Đặt vấn đề nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975,
luận án đi sâu khám phá những dạng thức, biểu hiện của cái tôi trữ tình trong xu
hướng vận động. Đồng thời, luận án khảo sát chân dung cái tôi trữ tình ở những
vùng thơ khác nhau để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh
đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ…, cái tôi trữ tình cũng mang những diện mạo
riêng. Dù có thể quan niệm về thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với nội hàm được mở
rộng như trong luận án chưa thật thỏa đáng, nhất là ở phương diện luận giải thuật
ngữ thơ trẻ song đây cũng là mong muốn của tác giả luận án trong việc khôi phục
khuôn mặt vốn đa diện của thơ Việt Nam 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 -
1975. Từ đó góp phần mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá văn
học không còn “trượt theo quán tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 -
1975 chỉ là sự hợp thành của văn học miền Bắc và vùng giải phóng.
2. Các nhà thơ trẻ đến với thơ chính từ ý thức dấn thân của thế hệ, từ nỗi lòng
đau đáu trải nghiệm thấm thía nỗi đau chiến tranh, từ những trăn trở, dằn vặt trước
những số phận bi kịch; vì thế cái tôi trữ tình biểu hiện một cách đa dạng thế giới
nhận thức, tình cảm của người nghệ sĩ. Bên cạnh cái tôi công dân mang cảm quan
sử thi, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 còn là sự thể hiện sắc nét cái tôi sử
thi biến thể, cái tôi phi sử thi với nhiều sắc thái biểu hiện phong phú. Đó là cái tôi
giàu suy nghiệm trong những quan niệm nghệ thuật về thơ, trong những luận giải về
chân dung tinh thần thế hệ; là cái tôi thấm nghiệm thực trạng chiến tranh, tự nghiệm
số phận riêng tư với những nỗi niềm phức tạp… Việc nhận diện cái tôi trữ tình được
biểu hiện sinh động như thế góp phần đúc kết khá toàn diện tư duy nghệ thuật thơ
trẻ, đồng thời khám phá được tận sâu đời sống nội cảm người nghệ sĩ trước bức
tranh hiện thực đa âm sắc.
195

3. Đến với thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, độc giả nhận diện được những biểu
hiện phong phú của cái tôi trữ tình thông qua một số phương tiện nghệ thuật. Bằng
năng lực sáng tạo, bằng quan niệm sắc sảo về sứ mệnh của thơ ca, dù trong những
điều kiện hạn hẹp tất yếu của hoàn cảnh sáng tác, thơ trẻ vẫn thể nghiệm trên con
đường làm mới hình thức biểu hiện nhằm khắc chạm một cách sắc nét chân dung
cái tôi trữ tình. Tương ứng với từng biểu hiện của cái tôi trữ tình, các cây bút lựa
chọn những hình thức biểu hiện phù hợp với thế giới quan, nhân sinh quan và
phong cách sáng tạo; đưa người đọc khám phá sâu vào bản chất của cái tôi trữ tình
giai đoạn này.
4. Thơ trẻ 1965 - 1975 là “mạch riêng giữa nguồn chung” thơ 1945 - 1975 với
diện mạo phong phú của cái tôi trữ tình. Dẫu là cái tôi đậm chất sử thi hay là cái tôi
đậm tâm sự cá nhân cũng là tiếng lòng chân thật của lớp nhà thơ đến với chiến
trường sống và viết, đến với muôn mặt cuộc đời bằng hồn thơ giàu rung động, bằng
những ngẫm suy đậm tinh thần thế hệ, bằng những nghiệm sinh hiển lộ ý thức đào
sâu vào bản ngã và bằng một bút lực dồi dào. Cảm hứng sử thi là âm hưởng xuyên
suốt hầu hết thế giới nghệ thuật thơ trẻ trong chiều sâu nhận thức mới. Tuy nhiên
cảm hứng khơi sâu vào bản chất cuộc sống giàu chất liệu hiện thực qua dạng thức
cái tôi sử thi biến thể và cái tôi phi sử thi với cảm thức về thân phận con người đầy
nhân bản mới tạo nên bản sắc của thơ trẻ 1965 - 1975. Nhìn nhận một cách thỏa
đáng về diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 cũng không nằm ngoài ý
nghĩa khẳng định đầy đủ, sâu sắc hơn thuộc tính của một giai đoạn thơ vốn có nhiều
biến động trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.
196

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN


ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Bùi Bích Hạnh (2006), “Cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu của Lưu Quang Vũ”,
Tạp chí Khoa học Đại học Huế, (31), tr.41-47.
2. Bùi Bích Hạnh (2009), “Thơ Lưu Quang Vũ và những biểu hiện của cái tôi trữ
tình”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, (17), tr.64-68.
3. Bùi Bích Hạnh (2010), “Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với
những ưu tư đời thường”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Đà Nẵng,
(5), tr.226-230.
4. Bùi Bích Hạnh (2010), “Quan niệm về thơ - Chân dung tự họa của thơ trẻ Việt
Nam 1965 - 1975”, Đường biên, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.127-140.
5. Bùi Bích Hạnh (2011), “Cái tôi tình yêu trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975,
Tạp chí Khoa học và giáo dục Đại học Sư phạm - Đại học Huế, (3), tr.58-67.
6. Bùi Bích Hạnh (2011), “Chân dung tự họa - biểu hiện của cái tôi tự nghiệm
trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học
Đà Nẵng, (6), tr.187-192.
7. Bùi Bích Hạnh (2012), “Cái tôi trải nghiệm nỗi đau chiến tranh trong thơ Việt
Nam 1965 - 1975”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (3), tr.60 - 72.
8. Bùi Bích Hạnh (2012), “Thơ tự do - Một trong những phương thức biểu hiện cái
tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, (8/1),
tr.33-39.
9. Bùi Bích Hạnh (2012), “Giọng điệu của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, (8/2), tr.12-20.
197

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt
1. Aristote (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
2. M. Arnauđốp (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Phan Thị Vàng Anh - Trần Thị Thắng (tuyển chọn), (2006), Văn chương một
thời để nhớ, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương
diện sự vận động của cái tôi trữ tình), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Phạm Đình Ân (1983), “Tâm hồn, một thực thể thẩm mỹ của thơ ca trữ tình”,
Văn học, (1), tr68-77.
6. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(1945 - 1975), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Thu Bồn (1970), Tre xanh, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
8. Thu Bồn (1972), Mặt đất không quên, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
9. Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
10. Tôn Thất Bút (1972), “Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm nay”,
Nghiên cứu văn học, (11), tr.43-59.
11. Phạm Ngọc Cảnh (1976), Ngọn lửa dòng sông, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
12. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
13. Hoàng Nhuận Cầm (1983), Những câu thơ viết đợi mặt trời, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
14. Trúc Chi (1999), 30 năm một nền thơ cách mạng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
15. Chim Trắng (1970), Tên em rực rỡ vô cùng, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
16. Chim Trắng (1974), Một góc quê hương, Nxb Văn nghệ giải phóng, Hà Nội.
17. Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), Triết học Tây Âu TK XVII - XVIII, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
198

18. Lâm Thị Mỹ Dạ (1983), Bài thơ không năm tháng, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
19. Lâm Thị Mỹ Dạ (1988), Hái tuổi em đầy tay, Nxb Đà Nẵng.
20. Lâm Thị Mỹ Dạ - Ý Nhi (1974), Trái tim nỗi nhớ, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Hồng Diệu (1987), “Những chặng đường thơ Anh Ngọc”, Văn học, (6), tr12-
17.
22. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Xuân Diệu (1961), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Phạm Tiến Duật (1981), Ở hai đầu núi, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
25. Cao Thế Dung (1969), Thi ca và thi nhân, Quần chúng xuất bản.
26. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học văn hóa - tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
27. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp, TP.
Hồ Chí Minh.
28. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Chủ nghĩa hiện sinh - Lịch sử, sự hiện diện ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Duy (1973), Cát trắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
30. Nguyễn Duy (1981), Phóng sự 30 - 4 - 75, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
31. Nguyễn Duy (1984), Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
32. Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
33. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du - Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
34. Trần Trọng Đăng Đàn (1999), Góp mấy dòng vào văn học, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
35. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb Văn học,
Hà Nội.
36. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
199

37. Phan Cự Đệ (chủ biên), Tuyển tập lý luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ
XX, Nxb Đà Nẵng, TP. Đà Nẵng.
38. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Đại
học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
39. Nguyễn Khoa Điềm (1975), Mặt đường khát vọng, Nxb Văn nghệ giải phóng,
Hà Nội.
40. Nguyễn Khoa Điềm (1981), Đất và khát vọng, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
42. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Descartes, Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
44. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Văn học,
Hà Nội.
45. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
46. Hà Minh Đức (chủ biên) (2008), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Nguyễn Mộng Giác (1972), “Nhìn lại 15 năm văn học miền Nam”, Bách khoa,
(361&362), tr40-51.
48. Nguyễn Mộng Giác (1974), “Nghĩ về thơ, truyện 1974”, Bách khoa, (421-
422), tr25-33.
49. Bằng Giang (1969), Từ Thơ mới đến thơ tự do, Nxb Phù Sa, Sài Gòn.
50. Huyền Giang (1995), “Có những quan niệm về con người cá nhân của phương
Đông không?”, Văn học, (6), tr1-3 & tr49-52.
51. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1998), Địa chí Văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh (tập 2), Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
52. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn học, Hà
Nội.
53. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
200

54. Tế Hanh (1998), “Chữ và nghĩa trong thơ”, Văn học (12), tr18-22.
55. Tế Hanh - Khái Vinh (1971), “Thơ miền Nam, tiếng hát của quê hương”, Văn
học, (5), tr29-36.
56. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hóa - vấn đề và suy nghĩ, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Hạnh, Lê Đình Kỵ (1976), Cơ sở lí luận văn học, tập 4, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
58. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học - Vấn đề và
suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Hegel (1996), Mĩ học - những văn bản chọn lọc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
60. Hegel (2005), Mĩ học, Nxb Văn học, Hà Nội.
61. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.
62. Đỗ Đức Hiểu (1989), Phê bình văn học hiện sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, Hà
Nội.
63. Nguyễn Hữu Hiệu (giới thiệu và trình bày) (1970), Con đường sáng tạo, Nxb
Quế Sơn Võ Tánh, Sài Gòn.
64. Lê Hoàng - Nguyễn Công Khế - Lê Văn Nuôi (Chủ biên) (1993), Tiếng hát
những người đi tới, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
65. Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh (1998), Tuyển tập thơ 1945 - 1975, Nxb
Hội nhà văn, TP. Hồ Chí Minh.
66. Lê Thị Bích Hồng (2008), “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ
trong chiến tranh giải phóng”, Diễn đàn văn nghệ, (184), tr 13-16.
67. Lê Thị Bích Hồng (2010), Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
68. Lê Thị Bích Hồng (2010), Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
201

69. Dương Thúy Hồng (2008), “Quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ”, Diễn
đàn văn nghệ, (5), tr7-9.
70. Bùi Công Hùng (1974), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ ở miền
Nam”, Văn học, (2), tr15-23.
71. Bùi Công Hùng (1985), “Nhạc điệu của thơ Việt Nam hiện đại trong 40 năm
qua”, Văn học, (5-6), tr53-59.
72. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
73. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
74. Mai Hương (1981), “Nghĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ trong thơ chống Mỹ”,
Văn học, (1), tr92-98.
75. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Văn hóa thông tin, (tập 1), Hà Nội.
76. Tố Hữu (2003), “Đối với tôi, làm thơ là làm cách mạng bằng thơ”, Văn học,
(2), tr3-6.
77. Roman Jakobson (2001), “Chủ âm”, Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội, tr196-204.
78. Trần Nhâm Khang, Hoàng Bội Ngọc (1961), Cấu tứ trong thơ trữ tình, Nxb
Văn học, Hà Nội.
79. Nguyễn Huy Khánh (1976), “Hai mươi năm văn học yêu nước tại các thành thị
miền Nam (1954 - 1975)”, Văn học, (6), 32-46.
80. Lệ Khánh (1966), Vòng tay nào cho em, Hà Giang xuất bản, Sài Gòn.
81. M.B. Khraptchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
82. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
83. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
84. Phùng Hữu Lan (1966), Trung Quốc triết học sử, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.
202

85. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Văn học, (6), tr 103-
109&152.
86. Mã Giang Lân (1997), "Cái tôi trong thơ trữ tình", Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
87. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
88. Mã Giang Lân (2004), Văn học Việt Nam 1945 - 1954, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
89. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90. Thích Quảng Liên (1965), Sử cương triết học Ấn Độ, Nxb Bồ Đề, Sài Gòn.
91. Nguyễn Thế Lịch (2000), “Ngữ pháp của thơ”, Ngôn ngữ, (12), tr 54-60.
92. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
93. Nguyễn Văn Long (2005), “Thơ kháng chiến chống Mỹ trong tiến trình thơ
Việt Nam hiện đại”, Văn nghệ, (22), tr12-13.
94. Trần Quang Long (1975), Thưa mẹ - trái tim, Nxb Văn nghệ giải phóng, Hà
Nội.
95. Vân Long (Sưu tầm và tuyển chọn) (1995), Xuân Quỳnh - Thơ và đời, Nxb
Văn hóa, Hà Nội.
96. A. Lu - Kin, V.C. Xca - Che - Rơ - Sic - Cốp (1984), Nguyên lý Mỹ học Mác -
Lê Nin, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lê Nin, Hà Nội.
97. Trường Lưu (1999), “Mấy đặc điểm của văn học những năm kháng chiến
chống Mỹ”, Văn nghệ Quân đội (9), tr98-108.
98. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Dương Hương Ly (1971), Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ, Nxb Giải phóng,
Hà Nội.
100. Dương Hương Ly (1986), Bài thơ hạnh phúc, Nxb Đà Nẵng.
101. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, (tập 3), Hà
Nội.
203

102. C.Mác - Ph.Ăngghen – V.I.LêNin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb
Chính trị Quốc gia, (tập 3), Hà Nội.
103. Đông Mai (1993), Xuân Quỳnh - một nửa cuộc đời tôi, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
104. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1988), Văn học Việt Nam 1945-1975, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
105. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
106. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - Tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
107. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) - Nguyễn Văn Long (đồng chủ biên) (2004),
Lịch sử văn học Việt Nam, (tập III), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
108. Nguyễn Đức Mậu (1973), Cây xanh đất lửa, Nxb Văn học, Hà Nội.
109. Nguyễn Đức Mậu (1975), Áo trận, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
110. Nguyễn Đức Mậu (1976), Mưa trong rừng cháy, Nxb Văn học Giải phóng, Hà
Nội.
111. Nguyễn Đức Mậu (2001), “Thế hệ nhà thơ áo lính trong chiến tranh”, Văn
nghệ Quân đội, Hà Nội.
112. Nguyễn Đức Nam (chủ biên) (1985), Thơ Việt Nam 1945-1985, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
113. Lê Thành Nghị (2001), “Văn học viết về chiến tranh cách mạng - đòi hỏi và
thách thức của thời gian”, Nhà văn, (12), tr126-131.
114. Lê Tôn Nghiêm (1970), Lịch sử triết học Tây phương, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
115. Anh Ngọc (1977), Hương đất màu cờ, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
116. Anh Ngọc (1984), Ngàn dặm và một bước, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
117. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì”, Văn học, (1), tr18-24.
118. Nguyễn Hữu Ngô (Sưu tầm và biên soạn) (2005), Trần Quang Long - Cuộc
đời và tác phẩm, Nxb Thuận Hóa, Huế.
204

119. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
120. Phan Thị Thanh Nhàn (1973), Hương thầm, Nxb Văn học, Hà Nội.
121. Phan Thị Thanh Nhàn (1977), Chân dung người chiến thắng, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
122. Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Thị Minh Khanh, Thúy Bắc (1969), Tháng
giêng hai, Nxb Văn học, Hà Nội.
123. Vương Trí Nhàn (2001), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Văn nghệ, TP.
Hồ Chí Minh.
124. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí
Minh.
125. Vương Trí Nhàn (2005), Cây bút đời người, Nxb hội Nhà văn, Hà Nội.
126. Thụ Nhân (1968), Chủ nghĩa hiện sinh, Thế Sự xuất bản, Sài Gòn.
127. Ý Nhi (1978), Đến với dòng sông, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
128. Nhiều tác giả (2004), Giáo trình triết học Mác - LêNin, Nxb Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội.
129. Nhiều tác giả (1973), Gởi miền Bắc, Nxb Văn nghệ giải phóng, TP. Hồ Chí
Minh.
130. Nhiều tác giả (1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
131. Nhiều tác giả (2005), Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
132. Nhiều tác giả (1983), “Những ý kiến ngắn về thơ hiện nay”, Văn học, (1),
tr141-153.
133. Nhiều tác giả (1965), Quê hương chiến thắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
134. Nhiều tác giả (1965), Quê ta anh hùng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
135. Nhiều tác giả (1977), Sức bền của đất, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
136. Nhiều tác giả (2005), Thái Ngọc San - khát vọng và tình ca để lại, Nxb Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh.
205

137. Nhiều tác giả (1984), Thơ ca chống Mĩ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
138. Nhiều tác giả (1971), Thơ ca miền Nam 1955 - 1970, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
139. Nhiều tác giả (1970), Thơ chọn lọc, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
140. Nhiều tác giả (1968), Thơ chống Mỹ cứu nước, Nxb Văn học, Hà Nội.
141. Nhiều tác giả (2006), Thơ miền Nam trong thời chiến, Nxb Thư Ấn Quán, Hoa
Kỳ.
142. Nhiều tác giả (2008), Thơ tự do miền Nam, Nxb Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ.
143. Nhiều tác giả (1981), Thơ Văn nghệ Quân đội 1957 – 1982, Hà Nội.
144. Nhiều tác giả (1976), Thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
145. Nhiều tác giả (1985), Thơ Việt Nam (1945 - 1985), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
146. Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
147. Nhiều tác giả (1976), Từ điển triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
148. Nhiều tác giả (1969), Văn học miền Nam trong lòng miền Bắc, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
149. Nhiều tác giả (2006), Vẻ đẹp văn học cách mạng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
150. Nhiều tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
151. Lê Huy Oanh (1969), “Phong trào thơ siêu thực tại Pháp”, Văn (142), tr.56-89.
152. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
153. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
154. Ngô Thế Oanh (2003), Thu Bồn Thơ và trường ca, Nxb Đà Nẵng.
155. Võ Phiến (1972), “Nhìn lại 15 năm văn nghệ miền Nam”, Bách khoa, tr39-42.
156. Ngô Văn Phú (1972), Khúc hát về một con đường, Nxb Quân đội Nhân dân,
Hà Nội.
157. Ngô Văn Phú (1978), Tháng năm mùa gặt, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
158. Thạch Phương (1974), “Một chặng đường khởi sắc của thơ yêu nước - tiến bộ
ở các đô thị miền Nam”, Văn học, (4), tr43-53.
206

159. Vũ Quần Phương (1979), “Một đóng góp của thơ trong quân đội vào nền thơ
Việt Nam: Sự đổi mới thi liệu - Xu hướng tiếp cận với đời sống”, Văn học, (6),
tr102-109.
160. Vũ Quần Phương - Văn Thảo Nguyên (1969), Cỏ mùa xuân, Nxb Văn học, Hà
Nội.
161. N.G Pospolov (1998), Dẫn luận nghiên cứu Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
162. Bùi Minh Quốc (1978), Đôi mắt nhìn tôi, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
163. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
164. Xuân Quỳnh (1971), Gió Lào cát trắng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
165. Xuân Quỳnh (1978), Lời ru trên mặt đất, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
166. Xuân Quỳnh (1984), Sân ga chiều em đi, Nxb Văn học, Hà Nội.
167. Xuân Quỳnh (1984), Tự hát, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
168. Nguyên Sa (1967), Một bông hồng cho văn nghệ, Nxb Trình bầy, Sài Gòn.
169. Nguyên Sa (1963), Thơ Nguyên Sa, Đằng Giao trình bày, Sài Gòn.
170. Thái Ngọc San (1985), Khát vọng, Nxb Thuận Hóa, Huế.
171. Thái Ngọc San (2005), Khát vọng và tình ca để lại, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
172. J.P.Sartre (1946), Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân đạo, Nxb Ga
Giêm.
173. J.P.Sartre (1999), Văn học là gì, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
174. Phạm Văn Sĩ (1976), Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
175. Lê Văn Sơn (1999), “Đặc điểm tư tưởng thẩm mỹ của thơ ca yêu nước và cách
mạng từ 1858 đến 1945”, Văn học, (9), tr73-82.
176. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học, Hà Nội.
177. Trần Đăng Suyền (2002), “Phong cách thơ Phạm Tiến Duật”, Văn học, (3),
tr33-38.
178. Trần Đình Sử (1995), “Thời trung đại - cái tôi trong các học thuyết, trong đời
sống và trong văn học”, Văn học, (7), tr1-4.
207

179. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
180. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
181. Trần Đình Sử (2003), Lí luận và phê bình Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
182. Vũ Văn Sỹ (1999), “Nguyễn Duy - Người thương mến đến tận cùng chân
thật”, Văn học, (10), tr68-74.
183. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam (1945-1995), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
184. Vũ Văn Sỹ (2000), “Thơ Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân
tộc”, Văn học, (13), tr43-52.
185. Vũ Văn Sỹ (2005), Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
186. Trần Hữu Tá (Nghiên cứu - Sưu tầm - Tuyển chọn) (2000), Nhìn lại một chặng
đường Văn học, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
187. Tạp chí Bách Khoa (1967/245-246, 248,251), (1971/340-341, 352-353),
(1972/361-384), (1973/395-401).
188. Tạp chí Đối diện (1970/12, 13,17,27), (1971).
189. Tạp chí Đứng dậy (1975/68).
190. Tạp chí Khởi hành (1969 - 1973).
191. Tạp chí Tin Văn (1967/245-246, 248, 251).
192. Tạp chí Văn (1965/25-42), (1966/69), (1968/98-99,105,122), (1969/123-
124,131,135,139).
193. Tạp chí Ý thức (1969/2,4), (1970/3,6).
194. Trần Nhựt Tân (1971), Dư vang nghệ thuật, Nxb Hạnh, Sài Gòn.
195. Hoài Thanh (1978), Chuyện thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
196. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
197. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
198. Trần Khánh Thành (1982), “Vài nét về hướng sáng tạo trong ngôn ngữ thơ
Việt Nam hiện đại”, Văn học, (2), tr42-50.
208

199. Ngô Thảo (1993), Chiến trường sống và viết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
200. Ngô Thảo (1995), “Bốn thế hệ nhà văn”, Văn học, (9), tr21-23.
201. Trần Đức Thảo (2004), Sự hình thành con người, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà
Nội.
202. Thanh Thảo (1978), Dấu chân qua trảng cỏ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
203. Thanh Thảo (1985), Khối vuông rubic, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
204. Mật Thể (1971), Phật giáo Khái luận, Nxb Minh Đức, Sài Gòn.
205. Nguyễn Đình Thi (1956), Mấy vấn đề văn học, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
206. Nguyễn Ngọc Thiện (1974), “Chỗ mạnh và chỗ yếu của thơ Phạm Tiến Duật”,
Văn học, (4), tr81-90.
207. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, Nxb Văn học, Hà Nội.
208. Hữu Thỉnh (chủ biên) (1997), Việt Nam - Nửa thế kỷ văn học, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
209. Hữu Thỉnh (2000), “Nhập cuộc và hành động - Vẻ đẹp của thơ ca kháng
chiến”, Văn học, (2), tr7-8.
210. Hữu Thỉnh - Lâm Huy Nhuận (1975), Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội
Nhân dân, Hà Nội.
211. Hoàng Trung Thông (Chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu
nước, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
212. Vũ Duy Thông (1996), “Cảm hứng lãng mạn qua hình tượng Tổ quốc trong
thơ hiện đại”, Văn học, (5), tr36-39.
213. Vũ Duy Thông (1998), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
214. Lưu Khánh Thơ (biên soạn) (1997), Lưu Quang Vũ - Thơ và đời, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
215. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ - Tài năng và lao động nghệ thuật,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
216. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
209

217. Lưu Khánh Thơ (biên soạn) (2007), Đối thoại tình yêu Xuân Quỳnh - Lưu
Quang Vũ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
218. Lưu Khánh Thơ (tuyển chọn) (2008), Lưu Quang Vũ di cảo nhật ký - thơ, Nxb
Lao động, Hà Nội.
219. Bích Thu (1995), “Chân dung người lính trong thơ”, Sông Hương, (3).
220. Lý Hoài Thu (2006), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.
221. Trần Thức (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, (tập 4), Nxb Trẻ, TP.
Hồ Chí Minh.
222. Trần Thức (chủ biên) (2005), Viết trên đường tranh đấu, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
223. Đặng Tiến (2009), Thơ - Thi pháp và chân dung, Nxb Phụ Nữ, TP. Hồ Chí
Minh.
224. Phan Trọng Thưởng (1991), “Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học
trong điều kiện chiến tranh 1945-1975”, Văn học, (1), tr68-73.
225. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
226. Đông Trình (1972), Rừng dậy men mùa, Đối diện xuất bản.
227. Đông Trình (1982), Tên gọi mới của hạnh phúc, Nxb Hội Văn học nghệ thuật
Quảng Nam - Đà Nẵng.
228. Vương Trọng (1979), Khoảng trời quê hương, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
229. Lý Chánh Trung (1971), “Tìm hiểu thế hệ hai mươi”, Đối diện, (25), tr.35-64.
230. Nguyễn Văn Trung (1967), Lược khảo văn học, (tập 1), Trung tâm học liệu -
Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
231. Nguyễn Văn Trung (1968), Lược khảo văn học, (tập 2), Trung tâm học liệu -
Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
232. Nguyễn Văn Trung (1970), Lược khảo văn học, (tập 3), Nxb Nam Sơn, Sài
Gòn.
233. Thanh Tâm Tuyền (1956), Tôi không còn cô độc, Người Việt xuất bản.
234. Phạm Việt Tuyền (1973), Tôi đọc thơ, Phong trào Văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
210

235. Trần Dạ Từ (1971), Thủa làm thơ yêu em, Nxb Thương yêu, Sài Gòn.
236. Huỳnh Hữu Ủy, “Nghệ thuật và vấn đề thời tính trong văn học”, Văn (142),
tr2 - 14.
237. Chế Lan Viên (1971), “Thơ ở nước chúng tôi đang đánh Mỹ”, Suy nghĩ và
bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội, tr139-143.
238. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
239. Bằng Việt (1977), Đất sau mưa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
240. Bằng Việt (2003), Thơ (Tuyển 1961 - 2001), Nxb Văn học, Hà Nội.
241. Lưu Quang Vũ (1993), Bầy ong trong đêm sâu, Nxb Hội Nhà văn Việt Nam,
Hà Nội.
242. Lưu Quang Vũ - Bằng Việt (1968), Hương cây - Bếp lửa, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
243. Phong Vũ (1981), “Tuổi trẻ với sáng tác văn học”, Văn học, (4), tr104-112.
244. Tần Hoài Dạ Vũ - Nguyễn Đông Nhật (2007), Phác thảo chân dung một thế
hệ, Nxb Đà Nẵng.
245. Lê Anh Xuân (1975), Hoa dừa, Nxb Văn nghệ Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
246. Lê Anh Xuân (1981), Thơ Lê Anh Xuân, Nxb Văn học, Hà Nội.
II. Tiếng Anh
247. Hazel E. Barnes (1959), The literature of Possibility, University of Nebraska
Press, Lincoln.
248. René Wellek and Austin Warren (1970), Theory of literature, Penguin Books,
Endland.
249. V. M. Zhirmunsky (1985), Selected Writings Linguistics Poetics, Progress
publishers, Moscow.
III. Website
250. Cao Thoại Châu, “Phạm Cao Hoàng, đẳng cấp thi sĩ”,
http://www.luanhoan.net/gocchung/html/gc6.htm
251. Nguyễn Bảo Hưng, “Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ biểu tượng?”,
http://chimviet.free.fr/vanhoc/nguyenbaohung/nbhngn053a_nguyentatnhien.htm
211

252. Du Tử Lê, “Vị trí và ảnh hưởng thơ Nguyên Sa trong văn học Việt”,
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/nguyensa_ttt_by_dtl.html
253. Nguyễn Vy Khanh, “Thi ca miền Nam 1954 - 1975”, http://www.daovien.net/t5928-
topic
254. Hoàng Lan, “Thơ Việt một hành trình chưa ngừng nghỉ”,
http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&art
workId=10233
255. Trần Văn Nam, Trong dòng cảm thức văn học miền Nam phân định thi ca
hải ngoại, http://giaocam.saigononline.com/…VSTranVanNam/…
256. Trần Văn Nam, “Những dấu hiệu hiện đại hóa thơ hải ngoại”,
http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/dauhieuhiendaithohaingoai.htm
257. Phạm Văn Nhàn, “Luân Hoán, nhà thơ thế hệ chiến
tranh”, http://www.vanchuongviet.org/index.php?
comp=tacpham&action=detail&id=16116
258. Chân Phương, “Cái mới đi về đâu”, http://www.dactrung.com/Bai-bv-755-
Cai_Moi_di_Ve_dau.aspx
259. Đỗ Lai Thúy, “Thơ như là mỹ học của cái khác”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c269/n10711/Tho-nhu-la-my-hoc-cua-cai-khac.html
260. Đặng Tiến, “Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn”, http://bichkhe.org/home.php?
cat_id=147&id=2416
261. Nguyễn Văn Trung, “Nhìn lại tư trào hiện sinh tại miền Nam”,
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4057-
nhin-lai-tu-trao-hien-sinh-tai-mien-nam.html
262. Mai Vũ (sưu tầm và giới thiệu), “Chứng từ Thanh Tâm Tuyền”,
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=11639

You might also like