You are on page 1of 17

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo phép biện chứng duy vật bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ nhân quả, vì thế giới là một chuỗi liên hệ nhân quả trong
thời gian dài vô tận. Các sự vật, hiện tượng luôn nằm trong quá trình vận động, phát
triển không ngừng. Sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố bên trong
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự ra đời của sự
vật, hiện tượng mới. Từ đó làm xuất hiện mối liên hệ nhân quả.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi suất
làm công cụ của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng
trưởng phát triển. Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi suất của nhà nước
hình thành nên nhiều quan điểm, xu hướng khác nhau về lãi suất và điều hành lãi suất.
Do đó, trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật mối quan hệ
nhân quả, việc tìm hiểu thực trạng điều chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu lãi suất
dựa trên cơ sở thị trường, chuyên đề phân tích thực trạng điều hành chính sách lãi suất
thời gian qua ở Việt Nam. Việc phân tích sẽ đúc rút ra những ưu nhược điểm nhằm
thực hiện triệt để hơn linh hoạt hơn vai trò của ngân hàng nhà nước và từ việc nghiên
cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hoà nhập
của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế.
Vì vậy, đề tài "Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân
tích thực trạng điều chỉnh lãi suất ở Ngân hàng hiện nay" cần được tiến hành.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
"Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân tích thực trạng điều
chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay ".
CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN
NHÂN - KẾT QUẢ
1.1. Khái niệm cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố, hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới
và do vậy phát hiện ra mối quan hệ nhân quả.
* Khái niệm nguyên nhân
Nguyên nhân là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.
* Khái niệm kết quả
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ, điều kiện. Nguyên cớ và điều kiện không
sinh ra kết quả, mặc dù xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Tính
khách quan của mối quan hệ nhân quả nghĩa là mối quan hệ nhân quả là cái vốn có của
sự vật, không phụ thuộc vào ý thức con người. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ, mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra.
Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân. Tính tất yếu thể hiện ở chỗ, cùng
một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ sinh ra kết quả như
nhau.
1.2. Mối quan hệ biện chứng nguyên nhân và kết quả
Trong mối quan hệ nhân - quả ấy, nguyên nhân là cái có trước và sinh ra kết
quả, kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và có sự tác động. Do đó,
nguyên nhân là cái quyết định các tính chất đặc điểm, nội dung của kết quả. Tuy nhiên,
không phải mọi quan hệ nối tiếp nào về thời gian và không gian cũng là mối liên hệ
nhân quả. Vì vậy, nếu có một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả và có liên
hệ với kết quả, nhưng là mối liên hệ bên ngoài, không cơ bản, không sinh ra kết quả
thì sự kiện đó chỉ là nguyên cớ mang tính chất chủ quan và tuy không gây ra kết quả
nhưng nguyên cớ góp phần xúc tiến gây ra kết quả. Do đó, trong thực tiễn khi xem xét
sự vật, hiện tượng ta phải phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, có thể cùng một
nguyên nhân dẫn đến nhiều kết quả, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một
kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân tác động ở những mức độ điều kiện khác
nhau: nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều với nhau dẫn đến kết quả nhanh hơn,
nếu tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí
triệt tiêu tác động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều nguyên nhân tạo ra thì tác động, vai trò của từng
nguyên nhân không như nhau. Do đó, cần phân loại và xác định vai trò của từng loại
nguyên nhân. Triết học duy vật biện chứng đưa ra nhiều hình thức nguyên nhân:
nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân
không cơ bản, nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan thường gắn liền với
những kết quả xuất hiện do có sự tham gia của con người. Nguyên nhân khách quan là
sự tác động các mặt, các yếu tố của hiện thực độc lập với ý thức của chủ thể trong quá
trình tạo ra kết quả. Nếu nguyên nhân khách quan tồn tại với tính cách là khả năng gây
ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan quyết định việc biến kết quả ấy thành hiện thực
hay không. Ngược lại, nếu nguyên nhân khách quan có thể tự phát huy tác dụng tạo ra
kết quả thì nguyên nhân chủ quan có thể làm cho kết quả đạt đến trình độ cao hơn hay
thấp hơn, nên nó sẽ tác động cùng chiều hay khác chiều với nguyên nhân khách quan.
Vì vậy, muốn tạo ra kết quả trước hết phải tạo ra nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra
nó. Ngược lại, muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân và sự chuyển
hóa giữa nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn với
tính chất của sự vật hiện tượng là tính khách quan, tính tất yếu, tính phổ biến. Theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng nguyên nhân của sự vật không phụ thuộc vào việc con
người có nhận thức được nó hay không, không có sự vật hiện tượng nào là không có
nguyên nhân. Con người chỉ có thể phát hiện và vận dụng mối liên hệ khách quan của
nhân quả chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
các nhà khoa học, xã hội học là vạch ra được những mối liên hệ nhân quả để có một
phương pháp phân tích khoa học, phân biệt các loại nguyên nhân và tìm ra nguyên
nhân của các sự vật. Trong mối liên hệ nhân quả, kết quả do nguyên nhân gây ra phụ
thuộc vào những điều kiện nhất định, những điều kiện này là những hiện tượng cần
thiết cho một biến cố nào đó xảy ra nhưng bản thân chúng không gây ra những biến cố
ấy. Tuy nhiên, nếu thiếu chúng thì nguyên nhân không thể gây nên những kết quả
được. Vì vậy, trong những điều kiện nhất định thì những nguyên nhân nhất định sẽ tạo
ra những kết quả nhất định. Những điều kiện thế nào thì kết quả thế ấy hay nói cách
khác đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp, đa dạng và cùng một
sự việc xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, khi chúng ta giải quyết
một vấn đề nào đó trước hết phải từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp giải quyết
đúng đắn, thích hợp, đồng thời phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đạt được để
nâng cao nhận thức, tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển. Do đó, trong nhận thức và hành
động của con người cần phải xem xét hiện tượng một cách toàn diện và tích cực để
chống lại các quan điểm siêu hình, chật hẹp, phiến diện, và áp đặt mối quan hệ nhân
quả. Trong hoạt động thực tiễn phải phân tích sâu sắc những hạn chế của yếu tố chủ
quan và đề ra những giải pháp khắc phục, để trên cơ sở đó tác động một cách có hiệu
quả làm biến đổi những nguyên nhân khách quan theo hướng có lợi.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT Ở NGÂN HÀNG
HIỆN NAY
2.1 Nội dung lãi suất ngân hàng
2.1.1 Những khái niệm về lãi suất
Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn.
Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó có
những người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn, thị trường tài
chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần
vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các công cụ nợ đều
đạt được mục đích của mình; người thừa vốn vừa bảo đảm được vốn vừa thu được
lợi, người thiếu vốn vừa dược đáp ứng đủ cho đàu tư. Từ thị trường đó, lãi suất được
hình thành như giá cả của một loại hàng hoá (ở đây là vốn), nó là chi phí mà người
đi vay phải trả cho người cho vay để được quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân
theo quy luật cung cầu, xác định trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu về vốn vá cung về
vốn trên thị trường.
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.
2.1.2 Cơ chế xác định lãi suất
Từ những khái niệm trên về lãi suất ta có thể mô hình hóa những yếu tố tham
gia vào việc hình thành nên lãi suất trong nên kinh tế
Ngân hàng trung
ương

Tài chính gián tiếp


(NHTM)
Lãi suất

Người Người đi
cho vay vay

Tài chính trực tiếp


Lãi suất

2.1.2.1 Những yếu tố thuộc lực lượng thị trường


Thành phần thuộc nhóm này gồm :
- Người cho vay: những người dư thừa vốn.
- Người đi vay: những người cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng.
- Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những chủ thể
tham gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để cho vay nhằm
mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị trí, lợi thế mà tài chính
trực tiếp không có được.
Những thành phần này tham gia vào việc xác dịnh lãi suất tuân theo theo
quy luật thị trường. Khi nhu cầu về vốn được đáp ứng bằng cung về vốn ở mức toàn
dụng vốn thì lãi suất cân bằng được hình thành. Những biến động của các biến số
kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến hành vi của các thành phần này, thay đổi cung cầu
về vốn và lãi suất cân bằng được điều chỉnh cho phù hợp
2.1.2.2 Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ
Thành phần: Duy nhất là NHTW. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành tiền, quản
lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối cùng, xây dựng chính
sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ mang tính quyền lực nhà
nước hoặc các công cụ mang tính thị trường. NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất để tác
động vào lượng tiền cung ứng và các biến số kinh tế vĩ mô khác nhằm đạt được các
mục tiêu của chính sách tiền tệ:
- Ổn định tiền tệ
- Tạo việc làm
- Tăng trưởng kinh tế
Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất của
NHTW ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính sách lãi suất đúng
đắn nhằm hướng dẫn phân bổ hợp lí nguồn vốn, huy động được tất cả các nguồn lực
tiềm năng trong nền kinh tế, kích thích đầu tư, phù hợp tỷ giá và tạo thuận lợi cho hoạt
động ngoại thương, mang lại đà phát triển vững mạnh cho nền kinh tế là một yêu cầu
bức thiết luôn được đặt ra cho mỗi quốc gia cũng như các nhà hoạch định chính sách
của nó.
Các học thuyết, nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng, NHTƯ có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động (qua hệ thống NHTM) lên lãi suất.
Cơ chế tác động trực tiếp: NHTƯ sử dụng lãi suất với vai trò là một công cụ
trực tiếp của chiính sách tiền tệ. NHTƯ với hành động mang tính chủ quan áp đặt
một khung lãi suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay hoặc trần- sàn lãi suất và
buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo. Công cụ này mang tính cưỡng bức với sự
đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, đặc trưng của cơ chế kiểm soát lãi suất.
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang tính thị trường-
của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của hệ thống ngân
hàng.
Các công cụ đó là:
- Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ. Các ngân
hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các khoản tiền gửi của
họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ
của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác động mạnh mẽ lên khả năng cho
vay của các tổ chức tín dụng và cho cả hệ thống tài chính.
Thí dụ, khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ bắt
buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng ủa cá tổ chức tín dụng và buộc các ngân
hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại, khi NHTW muốn đẩy mạnh
tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức tín dụng có thể mở rộng
tín dụng và hạ lãi suất cho vay.
- Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTWcho các tổ
chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng thương mại. Đây
là lãi suất phạt đối với ngân hàng thương mại khi thiếu hụt khả năng thanh toán.
NHTW thông qua lãi suất tái chiết khấu tác động vào lãi suất thị trường.
Thí dụ, việc NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương
mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng thương
mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho những khoản tăng
thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái
chiết khấu của NHTƯ cho phép các ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất
cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán
chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ ngắn hạn.
NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách mua vào các
chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới làm giảm lãi suất.
Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các chứng khoán có
giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ.
- Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán,
trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong
tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng.
Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp,
trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho vay), NHTƯ
bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất ngắn hạn. Khi bán thế
chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra khỏi thị trường tiền tệ và do đó tạo ra
sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
2.1.3 Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất
trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí
vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có
những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế.
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông,
thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay
cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới nhiều nền kinh tế vĩ mô khác.
2.2. Thực trạng điều chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay
2.2.1. Thực trạng thị trường tài chính trong thời gian gần đây
Lãi suất:
Năm 2022 là năm đặc biệt khi dự báo về kinh tế vĩ mô trong nước, quốc tế gần
như đảo lộn trong bối cảnh có nhiều cú sốc xảy ra, như xung đột và lạm phát cao trên
thế giới. Nhiều ngân hàng trung ương thay đổi chính sách tiền tệ từ nới lỏng sang thắt
chặt. Đặc biệt, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất 7 lần liên tục lên gần 5%,
đánh dấu mức tăng cao nhất trong 40 năm qua. Các biến động toàn cầu đã gây ảnh
hưởng lớn đến bức tranh chung của kinh tế Việt Nam. Cụ thể, để ứng phó với các biến
động từ FED, Từ tháng 9-2022 do lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, đồng USD lên giá
mạnh, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng 2 lần các mức lãi suất điều hành với
tổng mức tăng 2%/năm sau 8 tháng đầu năm 2022 duy trì các mức lãi suất điều hành.
Qua đó, giai đoạn quý 3/2022, lãi suất huy động và cho vay tại các NH tăng chóng
mặt, cụ thể:

Việc NHNN tăng lãi suất điều hành nhanh sẽ gây hệ lụy tạo ra tỷ lệ cho vay tiêu
dùng và vay kinh doanh cao hơn, làm chậm nền kinh tế bằng cách buộc các nhà sản
xuất kinh doanh phải cắt giảm chi tiêu do giá cả đầu vào tăng. Tỷ lệ gia tăng của giá cả
sinh hoạt đã vượt qua biên độ tăng lương, sức mua hộ gia đình ngày càng suy yếu,
gieo mầm mống cho một nền kinh tế suy thoái.
GDP:
Đến hết năm 2022, GDP có mức tăng cao nhất trong 12 năm qua: Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) năm 2022 của Việt Nam lần đầu tiên vượt 400 tỉ USD. Đặc biệt,
GDP năm 2022 của Việt Nam ghi nhận mức tăng cao nhất trong vòng 12 năm qua với
mức tăng 8,02% so với năm trước.

Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy, con số 8,02% là so sánh với năm 2021, khi mà
GDP của 2021 chưa đạt được mốc 3%. Do vậy, để đạt được mức tăng trưởng GDP ấn
tương này, một phần cũng là do mức nền so sánh (năm 2021) thấp. Nhưng, sự tăng
trưởng GDP kể trên cũng là những cố gắng to lớn và kiên trì của Đảng và nhà nước,
tập trung vào tiêu dùng nội địa, xuất khẩu và giải ngân FDI, đẩy mạnh đầu tư công…
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm
toàn nền kinh tế (GDP), khu vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất (gần 57%); tiếp đến là
khu vực công nghiệp và xây dựng (góp hơn 38%) và khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản đóng góp (5,11%). Năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng (tức dòng chảy khu vực dịch vụ) tăng 19,8% so với 2021, loại trừ yếu tố
giá vẫn tăng 15,6%. Nếu so với 2019 - thời điểm trước dịch - cũng tăng 15%. Xuất
khẩu Việt Nam 9 tháng đầu năm thực sự tốt nhờ kinh tế các nước đối tác chính phục
hồi, thặng dư thương mại hàng hóa trên 10 tỷ USD. Mảng này chỉ yếu dần kể từ tháng
10 nên cả năm ước đạt hơn 371 tỷ USD, vẫn tăng 10,6%.
Và trong số động lực tăng trưởng, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
được nhắc tới như là điểm cộng góp vào mức tăng GDP. Vốn FDI cam kết dù giảm
11% nhưng vốn giải ngân năm nay đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5%, mức cao nhất 5
năm qua.
2.2.2. Kết quả điều chỉnh lãi suất ở Ngân hàng hiện nay
a) Lãi suất huy động vốn
So với đầu năm, lãi suất niêm yết tại các ngân hàng đã tăng thêm 3-3,5%/năm cho các
kỳ hạn dài, trong khi các kỳ hạn ngắn cũng đã tăng thêm khoảng 2%/năm.
* Khối NHTM Nhà nước:
Lãi suất niêm yết: Sau khi NHNN điều chỉnh trần lãi suất ngày 24/10/2022, các
NHTM Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất niêm yết, theo đó mức lãi suất niêm yết tương
đương nhau (riêng Agribank cao hơn tối đa 0,3%/năm tại kỳ hạn KKH và có kỳ hạn
<1 tháng, Agribank và BIDV cao hơn 0,1% đối với các kỳ hạn từ 6-<9 tháng).
Lãi suất theo chính sách khách hàng: Đối với kỳ hạn từ 1 –dưới 6T, các ngân hàng
áp dụng lãi suất tối đa bằng trần lãi suất của NHNN (6%/năm). Đối với các kỳ hạn từ 6
tháng trở lên: Agribank giao GĐ Chi nhánh chủ động quyết định lãi suất, các NHTM NN
khác đang áp dụng lãi suất đến 8% đối với kỳ hạn từ 6-<12 tháng; 8,5% đối với kỳ hạn từ
12 tháng trở lên đối với thẩm quyền giám đốc chi nhánh, trên mức lãi suất này do TSC phê
duyệt.
Lãi suất tiền gửi online: So với lãi suất tiết kiệm tại quầy, Agribank áp dụng
chính sách khách hàng ưu tiên cộng thêm 0,5%/năm tương đương các NHTM NN
(VCB: +0,3-0,4%/năm; BIDV và Vietinbank: +0,5-0,6%/năm. Nhóm NHTMCP cao
hơn phổ biến ở mức 0,5-0,8%/năm.
* Khối NHTM Cổ phần:
Các NHTM CP đã điều chỉnh tăng mặt bằng lãi suất niêm yết sau động thái tiếp
tục nới trần lãi suất HĐV của NHNN. Hiện nay, lãi suất kỳ hạn dưới 6T của các
NHTM CP hầu hết đã áp dụng sát hoặc bằng trần lãi suất theo QĐ của NHNN
(6%/năm), lãi suất HĐV các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên niêm yết phổ biến trên mức
9,0%/năm. Trong khi ở nhóm ngân hàng nhỏ, mức lãi suất 10%/năm đã quay trở lại.
b) Lãi suất cho vay
- Lãi suất VND: Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước đối với các
khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 8,1-9,5%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn
bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 4,4%/năm, thấp hơn mức lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4,5%/năm).
- Lãi suất USD: Lãi suất cho vay USD bình quân của NHTM trong nước đối với
các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 2,9-4,1%/năm đối với ngắn hạn; 5,0-
5,4%/năm đối với trung và dài hạn.
c. Thị trường mở
- Hoạt động OMO của NHNN: khối lượng trúng thầu OMO trong tháng 11/2022
là 130.073 tỷ đồng, kỳ hạn 14 ngày, lãi suất 6%/năm. Số dư toàn thị trường tại thời
điểm 22/11/2022 là 69.792 tỷ đồng.
- NHNN tiếp tục phát hành tín phiếu trong tháng 10/2022, doanh số trúng thầu
toàn thị trường là 211.298 tỷ đồng; số dư toàn thị trường ngày 22/11/2022 là 40.000 tỷ
đồng, kỳ hạn 7-28 ngày, lãi suất 4,5-6%/năm, trong đó của Agribank là 14.000 tỷ
VND.
d. Thị trường liên ngân hàng
Ngày 24/10/2022, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh loạt lãi suất điều hành, theo
đó trần lãi suất tiền gửi CKH từ 01 tháng đến dưới 06 tháng tăng thêm 100 đpt lên
6%/năm; Riêng quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô áp dụng mức lãi suất
tối đa cho tiền gửi kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 06 tháng là 6,5%/năm. Với khoản tiền
gửi KKH và CKH dưới 01 tháng, trần lãi suất được nâng từ 0,5% lên 1%/năm.
Trên thị trường có sự phân hóa theo nhóm: Có dấu hiệu thiếu thanh khoản cục bộ
đối với một số ngân hàng cổ phần nhỏ; Theo đó, vẫn thường xuyên có nhóm ngân
hàng phải đấu thầu OMO tại NHNN để lấy nguồn thanh khoản. Trong khi đó, các
ngân hàng lớn như Big4 đang dư thừa thanh khoản và vẫn thường xuyên tham gia đấu
thầu tín phiếu NHNN.
Nguyên nhân do một số thông tin bất lợi trên thị trường, khiến các ngân hàng
hướng tới giảm hạn mức thậm chí ngừng giao dịch đối với các ngân hàng có thông tin
bất lợi. Tại thời điểm 21/11/2022, lãi suất VND VNIBOR chốt ở mức: từ qua đêm:
5,87%/ năm; 1 tuần: 6,15%, 2 tuần: 6,88%; 1 tháng: 8,98%.
Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đến ngày 04/11/2022
LSBQ LNH VND LS LIBOR USD
LSBQ
Kỳ hạn LSBQ %+/ so %+/ so 1 %+/ so %+/ so
(%/nă
(%/năm) 1 tháng năm tháng 10 đầu năm
m)
Qua đêm 5,84 -1,77 +5,08 3,811 +0,752 +3,747
LSBQ LNH VND LS LIBOR USD
LSBQ
Kỳ hạn LSBQ %+/ so %+/ so 1 %+/ so %+/ so
(%/nă
(%/năm) 1 tháng năm tháng 10 đầu năm
m)
1 Tuần 6,15 +1,20 +5,20
2 Tuần 6,88 +0,53 +5,46
Thán 8,98 +2,20 +7,65 3,979 +0,137
1 +3,878
g
Thán 9,02 +0,32 +7,26 4,692 +0,232
3 +4,483
g
Thán 9,64 +1,55 +6,67 5,172 +0,253
6 +4,833
g
Thán 8,50 -1,76 +5,36
9
g
Thán 5,566 +0,121
12 +5,225
g
e. Thị trường ngoại hối
Tỷ giá trung tâm ngày 23/11/2022 của NHNN là 23.672 VND/USD, giảm 21
điểm so với đầu tháng. Tỷ giá trung tâm cao nhất ở mức 23.697 VND/USD vào ngày
01/11/2022 và thấp nhất vào ngày 23/11/2022.
Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng trong tháng 11 tiếp nối đà giảm từ đầu tháng
trước bối cảnh đồng USD có dấu hiệu hạ nhiệt trên thị trường quốc tế sau thông tin
tích cực về tình hình lạm phát của Mỹ trong tháng 10, đồng thời NHNN bơm ròng tiền
khá mạnh từ đầu tháng. Tính riêng trong tháng 11, tỷ giá tăng 1,4% so với đầu tháng;
tăng 2,4% so với đầu năm.
- Yếu tố thúc đẩy giá trị đồng USD giảm trong thời gian tới: FED sẽ bớt thắt chặt
chính sách tiền tệ trong kỳ họp vào tháng 12 sau khi CPI của Mỹ có những chuyển
biến tích cực.
- Dự báo: Tỷ giá sẽ tiếp tục chịu áp lực do NHNN có ít dư địa hỗ trợ tỷ giá hơn
trước nếu đồng USD mạnh lên trong những tháng cuối năm 2022 (dự trữ ngoại hối
giảm còn khoảng 89 tỷ USD). Dự báo Việt Nam Đồng có thể mất giá khoảng 8-10%
so với USD trong năm 2022
2.3. Dự báo Chính sách điều chỉnh lãi suất của NHNN trong thời gian sắp tới
a. Giảm lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, tạo điều kiện cho khách
hàng tiếp cận vốn vay
Liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất điều hành, Ngân hàng nhà nước quyết
định giảm lãi suất điều hành trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, tiềm ẩn
nguy cơ suy thoái, xung đột Nga-Ukraine tiếp tục kéo dài.
Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại với nhiều bất trắc, lạm phát dù đã có dấu
hiệu hạ nhiệt và qua đỉnh nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao tại nhiều nền kinh tế.
Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023: IMF (01/2023):
2,9%; WB (01/2023): 1,7%; trong khi dự báo lạm phát được điều chỉnh tăng: IMF
(01/2023): 6,6% (trước đó dự báo 6,5%) và 4,3% năm 2024 (trước đó là 4,1%).
Ở trong nước, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu
do cầu thế giới chậm lại, các vấn đề tồn tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất
động sản chưa thể sớm giải quyết.
Một số chỉ số kinh tế giảm so với cùng kỳ như sản xuất công nghiệp, xuất nhập
khẩu, giải ngân FDI, khiến nhu cầu tín dụng của nền kinh tế tăng chậm.
Một số tổ chức dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 là 5,8-7,2%. Lạm phát tiếp
tục duy trì ở mức cao nhưng đã có xu hướng chậm lại trong 2 tháng đầu năm, lạm phát
CPI so với cùng kỳ tháng 1 và 2 giảm từ 4,89% xuống 4,31%, bình quân là 4,6%; lạm
phát cơ bản từ 5,21% xuống 4,96%, bình quân 5,08%. Năm 2023, các tổ chức quốc tế
dự báo lạm phát bình quân khoảng 3,0-5,5%.
Việc điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, theo NHNN là giải pháp linh
hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để thực hiện mục tiêu phục hồi tăng
trưởng kinh tế của Quốc hội và Chính phủ, qua đó định hướng giảm mặt bằng lãi suất
thị trường, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Đồng thời, việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên xuống 5,0%/năm tạo điều kiện để doanh nghiệp và
người dân tiếp cận vốn vay với chi phí thấp hơn trong các lĩnh vực ưu tiên theo chủ
trương của Chính phủ.
b. Khai thông thanh khoản thị trường thông suốt
Những tháng đầu năm 2023, thị trường tiền tệ ổn định, thanh khoản hệ thống tổ
chức tín dụng dồi dào, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của nền kinh tế.
Thị trường ngoại tệ ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu
ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ.
Từ tháng 1/2023, NHNN đã mua được ngoại tệ từ các Tổ chức tín dụng bổ sung
dự trữ ngoại hối nhà nước và đưa lượng tiền lớn VND vào lưu thông.
Ngày 13/3/2023, tỷ giá trung tâm ở mức 23.638 VND/USD, tăng khoảng 0,1%
so với cuối năm 2022; tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng
khoảng 23.555 VND/USD, giảm 0,1% so với cuối năm 2022; tỷ giá niêm yết mua/bán
của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương ở mức 23.400/23.740VND/USD,
tương đương mức cuối năm 2022.
c. Nhiều ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất tiền gửi và cho vay
NHNN cũng đã triển khai các giải pháp đồng bộ để ổn định mặt bằng lãi suất,
phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người
dân.
Cụ thể, thứ nhất, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng duy trì mặt bằng lãi suất
huy động ổn định, hợp lý, phù hợp với khả năng cân đối vốn, khả năng mở rộng tín
dụng lành mạnh và năng lực quản lý rủi ro; không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của
thị trường tiền tệ và mặt bằng lãi suất thị trường; nghiêm cấm tổ chức tín dụng thực
hiện các biện pháp kỹ thuật để lách vượt trần lãi suất huy động, nghiêm cấm cạnh
tranh không lành mạnh trong huy động vốn; theo dõi các trường hợp tổ chức tín dụng
tiếp tục tăng lãi suất và có biện pháp xử lý đối với các tổ chức tín dụng này.
Thứ hai, chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ lãi suất tiền gửi để giữ
ổn định mặt bằng lãi suất thị trường.
Thứ ba, trong tháng 2/2023, các ngân hàng thương mại đã tiếp tục đồng thuận
giảm lãi suất tiền gửi để có điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp, nền
kinh tế phục hồi sản xuất kinh doanh.
Theo đó, các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi từ 0,2-
0,5%/năm đối với kỳ hạn 6 đến 12 tháng.
Đến nay mặt bằng lãi suất dần ổn định. Hiện lãi suất tiền gửi phát sinh mới của
các ngân hàng thương mại khoảng 6,7%/năm và lãi suất cho vay phát sinh mới của các
ngân hàng thương mại ở mức khoảng 9,4%/năm. Trong đó nhiều ngân hàng thương
mại đã giảm lãi suất tiền gửi và cho vay.
d. Dự đoán năm 2023, Tăng trưởng tín dụng khoảng 14-15%
Dự đoán chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2023 cho từng tổ chức tín dụng với
mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2023 khoảng 14-15%, có điều chỉnh
phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.
Đồng thời, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát tăng trưởng tín dụng
trong cả năm với tốc độ hợp lý, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính
phủ, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả.
Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Tính đến ngày 9/3/2023, huy động vốn của hệ thống tổ chức tín dụng tăng
0,45% và tín dụng toàn hệ thống tăng 1,12% so với cuối năm 2022.
e. NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường để điều chỉnh các mức
lãi suất điều hành
NHNN sẽ không chủ quan với áp lực lạm phát gia tăng trong bối cảnh lạm phát
2 tháng đầu năm 2023 đã tăng sát mức mục tiêu 4,5%; lạm phát toàn cầu được dự báo
tiếp tục duy trì ở mức cao; các ngân hàng trung ương lớn tiếp tục tiến trình thắt chặt
chính sách tiền tệ, điều chỉnh tăng và neo giữ lãi suất ở mức cao.
Đặc biệt là động thái của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong cuộc
họp tới đây (ngày 21-22/3/2023) trước mức độ ảnh hưởng của sự kiện Ngân hàng
Silicon Valley Bank (SVB) phá sản tại Mỹ.
NHNN cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến tiền tệ trong nước, quốc tế, dự báo
lạm phát và lãi suất thị trường để tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng có các giải pháp
tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục
hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

You might also like