You are on page 1of 11

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo phép biện chứng duy vật bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thế
giới đều tồn tại trong mối liên hệ nhân quả, vì thế giới là một chuỗi liên hệ nhân quả
trong thời gian dài vô tận. Các sự vật, hiện tượng luôn nằm trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng. Sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu
tố bên trong sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới. Từ đó làm xuất hiện mối liên hệ nhân quả.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi suất
làm công cụ của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng
trưởng phát triển. Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi suất của nhà
nước hình thành nên nhiều quan điểm, xu hướng khác nhau về lãi suất và điều hành
lãi suất.
Do đó, trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật mối quan
hệ nhân quả, việc tìm hiểu thực trạng điều chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu
lãi suất dựa trên cơ sở thị trường, chuyên đề phân tích thực trạng điều hành chính
sách lãi suất thời gian qua ở Việt Nam. Việc phân tích sẽ đúc rút ra những ưu nhược
điểm nhằm thực hiện triệt để hơn linh hoạt hơn vai trò của ngân hàng nhà nước và
từ việc nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá
trình hoà nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế.
Vì vậy, đề tài "Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân
tích thực trạng điều chỉnh lãi suất ở Ngân hàng hiện nay" cần được tiến hành.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
"Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân tích thực trạng
điều chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay ".
NỘI DUNG
Chương 1
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN - KẾT QUẢ
1.1. Khái niệm cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố, hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng
mới và do vậy phát hiện ra mối quan hệ nhân quả.
* Khái niệm nguyên nhân
Nguyên nhân là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.
* Khái niệm kết quả
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ, điều kiện. Nguyên cớ và điều kiện
không sinh ra kết quả, mặc dù xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Tính
khách quan của mối quan hệ nhân quả nghĩa là mối quan hệ nhân quả là cái vốn có
của sự vật, không phụ thuộc vào ý thức con người. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ,
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định
gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân. Tính tất yếu thể hiện ở
chỗ, cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ sinh ra
kết quả như nhau.
1.2. Mối quan hệ biện chứng nguyên nhân và kết quả
Trong mối quan hệ nhân - quả ấy, nguyên nhân là cái có trước và sinh ra
kết quả, kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và có sự tác động.
Do đó, nguyên nhân là cái quyết định các tính chất đặc điểm, nội dung của kết quả.
Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ nối tiếp nào về thời gian và không gian cũng là
mối liên hệ nhân quả. Vì vậy, nếu có một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết
quả và có liên hệ với kết quả, nhưng là mối liên hệ bên ngoài, không cơ bản, không
sinh ra kết quả thì sự kiện đó chỉ là nguyên cớ mang tính chất chủ quan và tuy
không gây ra kết quả nhưng nguyên cớ góp phần xúc tiến gây ra kết quả. Do đó,
trong thực tiễn khi xem xét sự vật, hiện tượng ta phải phân biệt nguyên nhân với
nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, có thể cùng một
nguyên nhân dẫn đến nhiều kết quả, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một
kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân tác động ở những mức độ điều kiện khác
nhau: nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều với nhau dẫn đến kết quả nhanh
hơn, nếu tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn,
thậm chí triệt tiêu tác động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều nguyên nhân tạo ra thì tác động, vai trò của từng
nguyên nhân không như nhau. Do đó, cần phân loại và xác định vai trò của từng
loại nguyên nhân. Triết học duy vật biện chứng đưa ra nhiều hình thức nguyên
nhân: nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và
nguyên nhân không cơ bản, nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan thường gắn liền với
những kết quả xuất hiện do có sự tham gia của con người. Nguyên nhân khách quan
là sự tác động các mặt, các yếu tố của hiện thực độc lập với ý thức của chủ thể trong
quá trình tạo ra kết quả. Nếu nguyên nhân khách quan tồn tại với tính cách là khả
năng gây ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan quyết định việc biến kết quả ấy thành
hiện thực hay không. Ngược lại, nếu nguyên nhân khách quan có thể tự phát huy tác
dụng tạo ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan có thể làm cho kết quả đạt đến trình
độ cao hơn hay thấp hơn, nên nó sẽ tác động cùng chiều hay khác chiều với nguyên
nhân khách quan. Vì vậy, muốn tạo ra kết quả trước hết phải tạo ra nguyên nhân và
điều kiện sản sinh ra nó. Ngược lại, muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ
nguyên nhân và sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn với
tính chất của sự vật hiện tượng là tính khách quan, tính tất yếu, tính phổ biến. Theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng nguyên nhân của sự vật không phụ thuộc vào việc con
người có nhận thức được nó hay không, không có sự vật hiện tượng nào là không có
nguyên nhân. Con người chỉ có thể phát hiện và vận dụng mối liên hệ khách quan
của nhân quả chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của các nhà khoa học, xã hội học là vạch ra được những mối liên hệ nhân quả để có
một phương pháp phân tích khoa học, phân biệt các loại nguyên nhân và tìm ra
nguyên nhân của các sự vật. Trong mối liên hệ nhân quả, kết quả do nguyên nhân
gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định, những điều kiện này là những hiện
tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra nhưng bản thân chúng không gây ra
những biến cố ấy. Tuy nhiên, nếu thiếu chúng thì nguyên nhân không thể gây nên
những kết quả được. Vì vậy, trong những điều kiện nhất định thì những nguyên
nhân nhất định sẽ tạo ra những kết quả nhất định. Những điều kiện thế nào thì kết
quả thế ấy hay nói cách khác đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp, đa dạng và cùng
một sự việc xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, khi chúng ta
giải quyết một vấn đề nào đó trước hết phải từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp
giải quyết đúng đắn, thích hợp, đồng thời phải biết khai thác, vận dụng các kết quả
đạt được để nâng cao nhận thức, tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển. Do đó, trong
nhận thức và hành động của con người cần phải xem xét hiện tượng một cách toàn
diện và tích cực để chống lại các quan điểm siêu hình, chật hẹp, phiến diện, và áp
đặt mối quan hệ nhân quả. Trong hoạt động thực tiễn phải phân tích sâu sắc những
hạn chế của yếu tố chủ quan và đề ra những giải pháp khắc phục, để trên cơ sở đó
tác động một cách có hiệu quả làm biến đổi những nguyên nhân khách quan theo
hướng có lợi.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT Ở NGÂN HÀNG HIỆN NAY
1.1 Nội dung của lãi suất ngân hàng
1.1.1 Những khái niệm về lãi suất

Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn.
Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng
lúc đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn,
thị trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người
thừa vốn sang người cần vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng
hoặc mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình; người thừa
vốn vừa bảo đảm được vốn vừa thu được lợi, người thiếu vốn vừa dược đáp
ứng đủ cho đàu tư. Từ thị trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của
một loại hàng hoá (ở đây là vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho
người cho vay để được quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật
cung cầu, xác định trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu về vốn vá cung về vốn
trên thị trường.
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.
1.1.2 Cơ chế xác định lãi suất
Từ những khái niệm trên về lãi suất ta có thể mô hình hóa những yếu
tố tham gia vào việc hình thành nên lãi suất trong nên kinh tế
Ngân
Ngânhàng
hàngtrung
trung
ương
ương

Tài
Tàichính
chínhgián
giántiếp
tiếp
(NHTM)
(NHTM)
Lãi suất
Lãi suất

Người
Người Người
Ngườiđi đi
cho vay
cho vay vay
vay

Tài
Tàichính
chínhtrực
trựctiếp
tiếp
Lãi
Lãisuất
suất

1.1.2.1 Những yếu tố thuộc lực lượng thị trường


Thành phần thuộc nhóm này gồm :
- Người cho vay: những người dư thừa vốn.
- Người đi vay: những người cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng.
- Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những
chủ thể tham gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn
để cho vay nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị
trí, lợi thế mà tài chính trực tiếp không có được.
Những thành phần này tham gia vào việc xác dịnh lãi suất tuân
theo theo quy luật thị trường. Khi nhu cầu về vốn được đáp ứng bằng cung
về vốn ở mức toàn dụng vốn thì lãi suất cân bằng được hình thành. Những
biến động của các biến số kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến hành vi của các
thành phần này, thay đổi cung cầu về vốn và lãi suất cân bằng được điều
chỉnh cho phù hợp
1.1.2.2 Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ
Thành phần: Duy nhất là NHTW. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành
tiền, quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối
cùng, xây dựng chính sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công
cụ mang tính quyền lực nhà nước hoặc các công cụ mang tính thị trường.
NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lượng tiền cung ứng và các
biến số kinh tế vĩ mô khác nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền
tệ:
- Ổn định tiền tệ
- Tạo việc làm
- Tăng trưởng kinh tế
Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi
suất của NHTW ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính
sách lãi suất đúng đắn nhằm hướng dẫn phân bổ hợp lí nguồn vốn, huy động
được tất cả các nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế, kích thích đầu tư, phù
hợp tỷ giá và tạo thuận lợi cho hoạt động ngoại thương, mang lại đà phát triển
vững mạnh cho nền kinh tế là một yêu cầu bức thiết luôn được đặt ra cho mỗi
quốc gia cũng như các nhà hoạch định chính sách của nó.
Các học thuyết, nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng,
NHTƯ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động (qua hệ thống NHTM) lên lãi
suất.
Cơ chế tác động trực tiếp: NHTƯ sử dụng lãi suất với vai trò là một
công cụ trực tiếp của chiính sách tiền tệ. NHTƯ với hành động mang tính
chủ quan áp đặt một khung lãi suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay
hoặc trần- sàn lãi suất và buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo. Công cụ
này mang tính cưỡng bức với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, đặc
trưng của cơ chế kiểm soát lãi suất.
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang tính thị
trường- của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của
hệ thống ngân hàng.
Các công cụ đó là:
- Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ.
Các ngân hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các
khoản tiền gửi của họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là
bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng và cho cả
hệ thống tài chính.
Thí dụ, khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự
trữ bắt buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng ủa cá tổ chức tín dụng và
buộc các ngân hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại, khi
NHTW muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các
tổ chức tín dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay.
- Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTWcho
các tổ chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng
thương mại. Đây là lãi suất phạt đối với ngân hàng thương mại khi thiếu hụt
khả năng thanh toán. NHTW thông qua lãi suất tái chiết khấu tác động vào
lãi suất thị trường.
Thí dụ, việc NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng
thương mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời
ngân hàng thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi
phí cho những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng
lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các
ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi
suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua
bán chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ
ngắn hạn. NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách
mua vào các chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới
làm giảm lãi suất. Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách
bán ra các chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng
lãi suất trên thị trường tiền tệ.
- Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng
khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời
điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng.
Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế
chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức
chovay), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi
suất ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra
khỏi thị trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
1.1.3 Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác

Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ
nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày
trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi
người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền
kinh tế.
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu
thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn,
kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt động
ngân hàng.
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới nhiều nền kinh tế vĩ mô khác.
1.2. Thực trạng điều chỉnh lãi suất ở ngân hàng hiện nay
1.2.1. Bối cảnh lãi suất hiện nay

You might also like