You are on page 1of 19

CTHD+DNTN

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 SO VỚI
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ CÔNG TY HỢP DANH VÀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1. Công ty hợp danh
1.1. Về thành viên góp vốn
Thứ nhất là, về quy định chủ thể có thể trở thành thành viên góp vốn trong CTHD:
LDN 2014 quy định “thành viên hợp danh phải là cá nhân” (điểm b khoản 1 Điều 172) nhưng không quy
định thành viên góp vốn phải là cá nhân, do đó có thể hiểu ngoài cá nhân, thì các tổ chức, pháp nhân, các hội đều có
quyền góp vốn và trở thành thành viên góp vốn trong CTHD (loại trừ những trường hợp tại khoản 3 Điều 18 LDN
2014).
LDN 2020 quy định tại điểm c khoản 1 Điều 177: “Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân”. Như vậy,
điểm bổ sung trong LDN 2020 đã cụ thể hóa rằng "thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân". Mặc dù LDN 2014
không quy định cụ thể thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân, nhưng người đọc vẫn hiểu rằng ngoài cá nhân thì tổ
chức cũng có thể trở thành thành viên góp vốn của CTHD như đã nêu ở trên. Do đó, có thể thấy rằng điểm bổ sung
này trong LDN 2020 là không cần thiết và không mang lại ý nghĩa khi áp dụng trong thực tế.
Thứ hai là, về phạm vi trách nhiệm của thành viên góp vốn trong CTHD. LDN 2014 vẫn chưa quy định
thống nhất về nghĩa vụ tài sản đối với công ty của thành viên góp vốn. Theo đó, điểm c khoản 1 Điều 172 của LDN
2014 quy định: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp
vào công ty”. Tuy nhiên, tại điểm a khoản 2 điều 182 LDN 2014 lại quy định thành viên góp vốn có nghĩa vụ:
“Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”.
Thực tế, lợi nhuận mà thành viên góp vốn được nhận là lợi nhuận được chia theo tỷ lệ phần trăm phần vốn góp trong
vốn Điều lệ của công ty hay nói một cách chính xác là vốn đã cam kết góp. Điều này gây tranh cãi về trách nhiệm tài
sản của thành viên góp vốn và gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 173 LDN
2014 còn quy định: “Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn
chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty”. Hiện nay, nội dung này đã được sửa đổi trong
LDN 2020: “Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty” (điểm c khoản 1 Điều 177). Như vậy, so với quy định về trách nhiệm
của thành viên góp vốn tại LDN 2014 thì LDN 2020 đã sửa đổi từ “số vốn đã góp” thành “số vốn đã cam kết góp”.
LDN 2020 đã thống nhất nghĩa vụ tài sản đối với công ty của thành viên góp vốn là trong phạm vi số vốn đã cam kết
góp. Đây là thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, vì nếu thành viên góp
vốn trong CTHD mới chỉ thực hiện việc dự kiến góp vốn qua cam kết mà chưa thực hiện việc góp trên thực tế thì khi
đó thành viên hợp danh chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn đã góp.
Như vậy, so với LDN 2014, LDN 2020 đã có những sửa đổi, bổ sung về hai điểm mới chính liên quan đến
thành viên góp vốn: về chủ thể có thể trở thành thành viên góp vốn và phạm vi trách nhiệm của thành viên góp vốn.
Tuy có một vài điểm mới, sửa đổi, bổ sung không cần thiết, nhưng nhìn chung, những điểm mới trên giúp làm rõ và
cụ thể hóa
hơn các quy định về thành viên góp vốn trong CTHD, góp phần bảo đảm sự minh bạch và tính công bằng trong
quyết định và quản lý công ty cũng như quyền lợi của tất cả các bên liên quan trong môi trường kinh doanh ngày
nay.
1.2. Về thành viên hợp danh

Thứ nhất là, về quyền của thành viên hợp danh trong CTHD:

LDN 2020 quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh trong CTHD tại Điều 181 như sau:

“Điều 181. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh

1. Thành viên hợp danh có quyền sau đây:

a) Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết về các vấn đề của công ty; mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu
quyết hoặc có số phiếu biểu quyết khác quy định tại Điều lệ công ty;

i) Quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

2. Thành viên hợp danh có nghĩa vụ sau đây:

a) Tiến hành quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh một cách trung thực, cẩn trọng và tốt nhất nhằm bảo đảm
lợi ích hợp pháp tối đa cho công ty;…

h) Nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.”

Tại điểm c khoản 1 Điều 181 LDN 2020 đã trích ở trên, quyền của thành viên hợp danh được quy định như
sau: “Sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty”. Tuy nhiên LDN 2014
quy định thành viên hợp danh có quyền “Sử dụng con dấu, tài sản của công ty để hoạt động kinh doanh các ngành,
nghề kinh doanh của công ty” (điểm c khoản 1 Điều 176 LDN 201412). Có thể thấy LDN 2020 đã lược bỏ đi quyền
sử dụng con dấu của thành viên hợp danh. Theo nhận định của nhiều chuyên gia và nhà làm luật, LDN 2020 ra đời
được coi là một cuộc cách mạng trong tư duy về con dấu vốn đã ăn sâu vào tiềm thức bao thế hệ doanh nghiệp tại
Việt Nam. Trên thực tế, con dấu công ty không còn “uy quyền pháp lý” như chúng ta vẫn nghĩ bấy lâu nay. Việc sử
dụng con dấu ngày càng ít phổ biến trong hoạt động kinh doanh, thay vào đó các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng xác
thực điện tử như chữ ký số. Sửa đổi này là phù hợp với xu hướng hiện đại, khuyến khích sử dụng các phương thức
xác thực điện tử an toàn và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó việc lược bỏ đi con dấu trong quy định này cũng giúp giảm
bớt gánh nặng thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, đồng thời giúp tiết kiệm thời gian và các chi phí khác.

Việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động kinh doanh không chỉ giúp doanh nghiệp chủ động thích
ứng và phát triển trong môi trường kinh tế quốc tế, mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách pháp lý giữa Việt Nam và
các nước trên thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh giao dịch thương mại điện tử ngày càng phổ biến. Tuy nhiên đây
cũng là điểm mới trong những năm gần đây, vì vậy, doanh nghiệp cần thêm thời gian để thích nghi với quy định
mới và thay đổi thói quen sử dụng con dấu từ trước đến nay.

Một điểm khác nữa đó là về việc hưởng tài sản của người thừa kế từ thành viên hợp danh đã chết. LDN
2020 quy định tại điều h khoản 1 Điều 181: “Trường hợp thành viên hợp danh chết thì người thừa kế của thành viên
được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ và nghĩa vụ tài sản khác thuộc trách nhiệm của
thành viên đó”. Trong khi đó LDN 2014 nhắc đến giá trị tài sản được hưởng chỉ trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm
của thành viên đó, không bao gồm các nghĩa vụ tài sản khác. Có thể thấy, LDN 2020 đã gộp cả “phần nợ” và “nghĩa
vụ tài sản khác” của thành viên hợp danh đã chết thành phần trừ đi trong phần giá trị tài sản thừa kế. Điều này chứng
tỏ LDN 2020 đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn, việc bổ sung thêm “nghĩa vụ tài sản khác” vào phần trừ đi giúp đảm
bảo tính công bằng giữa các thành viên còn lại và người thừa kế, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và các
bên liên quan khác.

Thứ hai là, về quy định chấm dứt tư cách thành viên hợp danh.

Khác với trường hợp thành viên hợp danh chết, trường hợp thành viên hợp danh bị mất tích hay bị hạn chế
hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì sẽ không xuất hiện quyền thừa
kế phần giá trị tài sản tại công ty, mà sẽ chỉ dẫn đến hậu quả làm chấm dứt tư cách thành viên hợp danh. Ta có thể
hiểu “chấm dứt tư cách thành viên hợp danh” tức là việc xảy ra một sự kiện pháp lý dẫn đến sự kết thúc mối quan
hệ giữa thành viên hợp danh và CTHD. Khi tư cách thành viên hợp danh bị chấm dứt thì cá nhân đó sẽ bị tước đi các
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến công ty, không bao gồm việc chịu trách nhiệm trước các khoản nợ hay trách
nhiệm tài sản liên quan có thời hạn theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 180 trong LDN 2014, một trong những trường hợp thành viên hợp danh bị
chấm dứt tư cách bao gồm “Đã chết, bị Tòa án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất
năng lực hành vi dân sự”. Tuy nhiên tại điểm b khoản 1 Điều 185 LDN 202014 đã bỏ quy định “bị Toà án tuyên bố”
trong trường hợp thành viên hợp danh mất tích. Như vậy, có thể hiểu chỉ cần sự kiện mất tích xảy ra trên thực tế,
không cần có quyết định của Tòa án là đủ để chấm dứt tư cách thành viên hợp danh. Việc thay đổi này là do việc xác
định thời điểm mất tích và thời gian chờ đợi tuyên bố của Tòa án gặp nhiều khó khăn và có thể trực tiếp ảnh hưởng,
gián đoạn đến hoạt động của công ty. Tuy nhiên điểm mới này cũng thể hiện được mặt hạn chế của nó trong trường
hợp các thành viên hợp danh lợi dụng kẽ hở của pháp luật tại quy định này để trốn tránh trách nhiệm. Vì vậy, để
tránh những hạn chế không đáng có, các đạo luật bổ sung cần có quy định cụ thể về thời điểm và thủ tục xác định
thành viên hợp danh mất tích để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.

Theo điểm b khoản 1 Điều 185 LDN 2020: “Chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự,
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Cũng tại khoản 1 Điều 185, LDN 2020 đã bổ sung thêm về các trường hợp chấm dứt tư cách thành viên
hợp danh. Cụ thể tại điểm b, LDN 2020 đã thêm trường hợp thành viên hợp danh "có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi". Việc bổ sung này nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Có thể thấy việc thành viên gặp
khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi có thể dẫn đến việc họ đưa ra những quyết định không phù hợp với lợi
ích của bản thân và công ty, bên cạnh đó có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động chung và gây thiệt hại cho các thành
viên khác, cũng như quyền lợi của chủ nợ và các bên liên quan khác. Việc chấm dứt tư cách thành viên trong trường
hợp này sẽ giúp đảm bảo tính hiệu quả, minh bạch và giúp công ty có thể tránh khỏi những rủi ro và tổn thất tiềm
ẩn.

Bên cạnh đó, tại điểm d khoản 1 Điều 185, LDN 2020 đã thêm điểm mới về việc chấm dứt tư cách thành
viên hợp danh trong trường hợp thành viên hợp danh "Chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định theo quy định của pháp luật". Nếu thành viên hợp danh thuộc trường hợp này thì họ sẽ bị
hạn chế về hoạt động quản lý, thực hiện quyền, nghĩa vụ của bản thân với công ty. Nên Luật đã bổ sung thêm quy
định trường hợp này nhằm đảm bảo hoạt động của CTHD không bị ảnh hưởng nặng nề và nhanh chóng ổn định tình
hình kinh doanh của công ty. Việc này bảo vệ quyền lợi của các thành viên còn lại và các bên liên quan đến CTHD.

1.3. Hội đồng thành viên và triệu tập họp Hội đồng thành viên

LDN 2020 đã sửa đổi, bổ sung khá nhiều bất cập liên quan đến các vấn đề như thành lập doanh nghiệp,
quản trị công ty, giải thể và tổ chức lại doanh nghiệp.

Nhìn chung, LDN 2014 và LDN 2020 đều quy định cụ thể về Hội đồng thành viên của công ty hợp danh,
các thành viên hợp danh đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, bao gồm:

Thành lập Hội đồng thành viên: Cả LDN 2014 và LDN 2020 đều quy định công ty hợp danh phải thành
lập Hội đồng thành viên
Thành viên Hội đồng thành viên: Cả hai luật đều quy định thành viên Hội đồng thành viên phải là thành
viên hợp danh của công ty.

- Số lượng thành viên Hội đồng thành viên do Điều lệ công ty quy định. - Nhiệm vụ, quyền

hạn của Hội đồng thành viên :

+ Quyết định các vấn đề quan trọng của công ty.

+ Tổ chức quản lý hoạt động của công ty.

+ Đại diện theo pháp luật của công ty.

+ Báo cáo kết quả hoạt động của công ty với các thành viên hợp danh.

- Trách nhiệm của thành viên Hội đồng thành viên: Cả hai luật đều quy định thành viên Hội đồng thành viên có
trách nhiệm:

+ Chịu trách nhiệm liên đới về các quyết định của Hội đồng thành viên. + Bảo vệ bí mật

kinh doanh của công ty.

+ Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây ra. - Quy trình họp Hội

đồng thành viên:

+ Cả hai luật đều quy định Hội đồng thành viên phải họp định kỳ ít nhất 6 tháng một lần.

+ Hội đồng thành viên có thể họp bất thường khi cần thiết.

+ Các quyết định của Hội đồng thành viên được biểu quyết thông qua.

LDN 2020 đã kế thừa và phát huy những điểm mạnh của LDN 2014 về Hội đồng thành viên và triệu tập
họp Hội đồng thành viên của công ty hợp danh, đồng thời bổ sung thêm một số quy định mới nhằm phù hợp với
thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Do
đó, việc nắm rõ những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai luật này là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp và
các bên liên quan.

Thứ nhất là, LDN 2020 quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của Hội đồng thành viên. Điểm a, điểm h,
điểm i, khoản 3 Điều 182 LDN 2020 có bổ sung so với điểm tương tự tại khoản 3 Điều 177 LDN 2014.

Khoản 3 Điều 182 LDN 2020 quy định:

“Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ công ty không quy
định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh tán tán thành:

a) Định hướng, chiến lược phát triển công ty; …

i) Quyết định giải thể; yêu cầu phá sản công ty.”

Trong khi đó, khoản 3, Điều 177 LDN 2014 chỉ quy định:
“Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ công ty
không quy định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp
thuận:

a) Phương hướng phát triển công ty; …

i) Quyết định giải thể công ty;”

Về điểm a, thay đổi từ “Phương hướng phát triển công ty” thành “Định hướng, chiến lược phát triển công
ty”. Sự thay đổi thể hiện chuyển biến trong cách thức quản lý và phát triển của công ty. Đây là một bước tiến quan
trọng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường khả năng cạnh tranh và hướng tới sự phát triển bền vững trong
tương lai. Đưa ra các chiến lược, vạch ra các bước thực hiện cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra nhằm cụ thể hoá
phương hướng, xác định rõ mục tiêu và tầm nhìn của công ty. Sự kết hợp giữa định hướng và chiến lược giúp công
ty có một lộ trình phát triển rõ ràng, cụ thể và dễ dàng thực hiện hơn. Đồng thời đưa ra các kế hoạch hành động cụ
thể, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng bộ phận, cá nhân đi kèm với hệ thống đánh giá hiệu quả, giúp theo dõi
tiến độ thực hiện và điều chỉnh khi cần thiết, góp phần tăng tính hiệu quả trong triển khai. Nhờ vậy, việc triển khai
chiến lược sẽ hiệu quả hơn, đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra; Tăng tính cam kết và đồng thuận, thể hiện mục tiêu
chung của công ty, giúp tạo sự đồng thuận và cam kết của toàn thể nhân viên, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động. Cuối cùng, việc thay đổi xác định các cơ hội và thách thức, nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp,
xây dựng dựa trên đánh giá môi trường kinh doanh. Tạo sự linh hoạt, điều chỉnh khi cần thiết để phù hợp với sự thay
đổi của thị trường và môi trường kinh doanh, giúp công ty có thể thích ứng tốt hơn với những thay đổi, đảm bảo phát
triển bền vững trong dài hạn.

Về điểm h, sửa đổi cụm từ "quyết định thông qua báo cáo" thành "thông qua báo cáo" mang lại một số tác
dụng nhất định về mặt ngôn ngữ, tính trực tiếp, hiệu quả và phối hợp. Việc sửa đổi này đã rút gọn điều khoản, đơn
giản hóa ngôn ngữ, súc tích, dễ hiểu, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt thông tin, tránh gây nhầm lẫn. Đồng thời tăng
tính trực tiếp, tập trung vào kết quả của hành động, thể hiện sự đồng ý với nội dung báo cáo, rõ ràng hơn trong việc
truyền tải thông điệp; Tăng cường sự phối hợp, tạo sự đồng thuận và cam kết chung trong việc thực hiện các nội
dung được đề ra trong báo cáo. Nhờ vậy, việc phối hợp giữa các bộ phận, cá nhân sẽ được tăng cường, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động chung.

Về điểm i, bổ sung “quyết định giải thể công ty” sang “quyết định giải thể, yêu cầu phá sản công ty” mang
ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý và thực tế, thể hiện sự chuyển biến trong tình trạng và cách thức xử lý công ty;
Đảm bảo các chủ nợ được thanh toán các khoản nợ theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời tránh việc các công
ty lừa đảo, trốn nợ bằng cách tự giải thể. Việc thay đổi này có ý nghĩa to lớn về mặt pháp lý và thực tế, nhằm bảo vệ
quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo trật tự kinh tế - xã hội.

Có thể thấy, quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của các thành viên hợp danh của LDN 2020 đã góp phần
bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và các bên liên quan khác, nâng
cao tính minh bạch trong hoạt động của công ty hợp danh. Đồng thời khuyến khích các thành viên hợp danh thực
hiện tốt nghĩa vụ của mình.

Bên cạnh đó, vẫn còn những nhược điểm cần khắc phục:

Có thể khiến các thành viên hợp danh e ngại việc tham gia vào công ty hợp danh.

Tăng chi phí cho công ty do phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho các thành viên hợp danh.

Thứ hai là, về hình thức triệu tập thành viên, LDN 2020 cho phép triệu tập họp Hội đồng thành viên bằng
phương thức khác do Điều lệ công ty quy định

Khoản 2 Điều 178 LDN 2014: “Thông báo mời họp có thể bằng giấy mời, điện thoại, fax hoặc phương tiện
điện tử khác. Thông báo mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên
thành viên yêu cầu triệu tập họp.”

Trong khi đó, khoản 2 Điều 183 LDN 2020 quy định : “Thông báo mời họp Hội đồng thành viên có thể gửi
bằng giấy mời, điện thoại, fax, phương tiện điện tử hoặc phương thức khác do Điều lệ công ty quy định. Thông báo
mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên thành viên yêu cầu triệu
tập họp.”

Việc cho phép triệu tập họp Hội đồng thành viên bằng hoặc phương thức khác do Điều lệ công ty quy định
là một điểm mới của LDN 2020. Việc sử dụng hoặc phương thức khác do Điều lệ công ty quy định để triệu tập họp
Hội đồng thành viên có đã hoàn thiện hơn hơn với LDN 2014, cụ thể: Tăng tính linh hoạt và hiệu quả, cho phép các
thành viên Hội đồng thành viên tham dự họp từ xa, bất kể vị trí địa lý, đồng thời giúp tiết kiệm thời gian và chi phí
đi lại; Cho phép các thành viên Hội đồng thành viên bận rộn hoặc gặp khó khăn trong việc di chuyển tham dự họp,
mở rộng khả năng tiếp cận, thu hút được nhiều thành viên Hội đồng thành viên có chuyên môn cao từ các địa
phương khác nhau. Đồng thời cho phép ghi âm, ghi hình cuộc họp để lưu lại làm bằng chứng, nâng cao tính minh
bạch, giúp các thành viên Hội đồng thành viên dễ dàng theo dõi và giám sát hoạt động của công ty; Tăng cường tính
bảo mật của doanh nghiệp, có thể sử dụng các công nghệ bảo
mật tiên tiến để bảo vệ thông tin bí mật của công ty, hạn chế nguy cơ rò rỉ thông tin trong quá trình triệu tập và họp
Hội đồng thành viên.

Tuy nhiên, việc sử dụng phương thức khác do Điều lệ công ty quy định để triệu tập họp Hội đồng thành
viên không tránh phải một số nhược điểm: có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo tính bảo mật thông tin, ngoài ra
các thành viên Hội đồng thành viên có thể không có đủ khả năng sử dụng phương thức khác, có thể tốn nhiều thời
gian hơn so với các phương thức truyền thống như thông báo bằng văn bản. Ngoài ra việc sử dụng phương thức
khác có thể không phù hợp với quy định của pháp luật, dẫn đến việc triệu tập họp Hội đồng thành viên không hợp lệ.

Thứ ba là, về yêu cầu nội dung cuộc họp

Theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 183 LDN 2020:

“Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc thành viên yêu cầu triệu tập họp chủ tọa cuộc họp. Cuộc họp Hội đồng thành
viên phải được ghi biên bản, bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính; …

g) Họ, tên, chữ ký của các thành viên dự họp.”

Tại điểm e khoản 3 Điều 178 LDN 2014 quy định:


“Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc thành viên yêu cầu triệu tập họp chủ tọa cuộc họp. Cuộc họp Hội đồng thành
viên phải được ghi biên bản, bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính; …

g) Họ, tên, chữ ký của các thành viên dự họp.”

Việc quy định cụ thể về nội dung thông báo triệu tập giúp cho các thành viên Hội đồng thành viên được đầy
đủ thông tin về buổi họp và có thể chuẩn bị kỹ lưỡng cho buổi họp; Nâng cao tính minh bạch, cung cấp đầy đủ thông
tin về kết quả biểu quyết, bao gồm số thành viên tán thành, không tán thành và không có ý kiến. Đồng thời giúp các
bên liên quan dễ dàng đánh giá mức độ đồng thuận của các thành viên trong việc thông qua nghị quyết, quyết định.
Bên cạnh đó, LDN 2020 sửa đổi nhằm tăng cường tính trách nhiệm của Hội đồng thành viên, ghi nhận rõ ràng ý kiến
của từng thành viên, giúp họ chịu trách nhiệm cho quyết định của mình. Hạn chế tình trạng "trốn" trách nhiệm hoặc
"bỏ phiếu theo số đông". Hơn nữa, quy định cụ thể về nội dung thông báo triệu tập của LDN 2020 còn cải thiện quy
trình ra quyết định, giúp các thành viên cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định. Khuyến khích thảo luận và
tranh luận cởi mở để đạt được sự đồng thuận cao nhất. Cuối cùng, sự thay đổi này đã góp phần bảo vệ quyền lợi của
các thành viên, đảm bảo các thành viên có quyền bày tỏ ý kiến và được ghi nhận ý kiến.
Tuy nhiên, việc sửa đổi này cũng có một số hạn chế, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp; Tăng thời gian, chi
phí cho việc ghi chép và lưu trữ biên bản họp. Đồng thời gây ra tranh cãi nếu có sự khác biệt trong việc ghi nhận ý
kiến của các thành viên.

Thứ tư, về quy định trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

Khoản 4 Điều 184 LDN 2020 quy định:

“Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các nghĩa vụ sau đây:
a) Quản lý và điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh; …

e) Nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định.”

Trong khi đó, theo khoản 4 Điều 179 LDN 2014:

“Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các nhiệm vụ sau đây:
a) Quản lý và điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh; …

e) Các nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định.”

Cụ thể, LDN 2020 đã sửa đổi “nhiệm vụ” thành “nghĩa vụ”, xác định rõ trách nhiệm mà Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc hợp đồng; Có thể là
nghĩa vụ chung, là bắt buộc và việc không thực hiện nghĩa vụ có thể dẫn đến các biện pháp xử phạt. Nhấn mạnh tính
bắt buộc, phải thực hiện theo quy định; Nâng cao tính trách nhiệm nghĩa vụ gắn liền với trách nhiệm, nếu không
hoàn thành sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định, nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân trong việc thực hiện các
công việc được giao; Tăng cường tính ràng buộc, quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật, có tính ràng buộc cao
hơn.

Tuy nhiên, việc sửa đổi "nhiệm vụ" thành "nghĩa vụ" cũng có thể gây áp lực cho cá nhân, tranh chấp trong
quá trình thực hiện.

Đồng thời, tại điểm đ, khoản 4, Điều 184 LDN 2020: “Đại diện cho công ty với tư cách người yêu cầu giải
quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án; đại diện cho
công ty thực hiện quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;” được bổ sung so với điểm d, khoản 4, Điều
179 LDN 2014:
“Đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên
đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác;”

Sự thay đổi này đã quy định cụ thể hơn về các vai trò mà người đại diện có thể thực hiện thay cho công ty.
Góp phần nâng cao tính chính xác, tránh nhầm lẫn về phạm vi quyền hạn của người đại diện. Cụ thể, cho phép mở
rộng phạm vi quyền hạn của người đại diện, thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật,
không chỉ giới hạn trong việc đại diện trước cơ quan nhà nước và trong các vụ kiện. Ngoài ra, tạo điều kiện giúp các
bên liên quan dễ dàng xác định được phạm vi trách nhiệm của người đại diện, bảo vệ quyền lợi của các bên liên
quan trong các giao dịch với công ty, tăng cường tính minh bạch.

Tóm lại, LDN 2020 đã bổ sung một số quy định giúp cho việc triệu tập họp Hội đồng thành viên được thực
hiện thống nhất, chặt chẽ và hiệu quả hơn; Đảm bảo các thành viên Hội đồng thành viên có đủ thời gian và thông tin
để chuẩn bị cho buổi họp; Tạo điều kiện cho việc triệu tập họp Hội đồng thành viên được thực hiện linh hoạt, nhanh
chóng và hiệu quả hơn.

1.4. Giấy chứng nhận phần vốn góp


Đối với các quy định liên quan đến giấy chứng nhận phần vốn góp, LDN 2020 đã có những sửa đổi đáng kể
so với LDN 2014, cụ thể là:
Thứ nhất là, về nội dung của giấy chứng nhận phần vốn góp của các thành viên thuộc công ty hợp danh,
khoản 4 Điều 178 LDN 2020 quy định như sau: “Tại thời điểm góp đủ số vốn đã cam kết, thành viên được cấp giấy
chứng nhận phần vốn góp. Giấy chứng nhận phần vốn góp phải bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty; …

e) Quyền và nghĩa vụ của người sở hữu giấy chứng nhận phần vốn góp; g) Họ, tên, chữ ký của người sở hữu giấy
chứng nhận phần vốn góp và của các thành viên hợp danh của công ty.”
Trong khi đó, khoản 4 điều 173 LDN 2014 quy định:
“Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp. Giấy chứng nhận
phần vốn góp phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty; …

e) Quyền và nghĩa vụ của người sở hữu giấy chứng nhận phần vốn góp; g) Họ, tên, chữ ký của người sở hữu giấy
chứng nhận phần vốn góp và của các thành viên hợp danh của công ty.”
Theo đó, LDN 2020 so với LDN 2014 đã có một số sự thay đổi đáng kể về mặt nội dung.
Trước hết, LDN 2020 đã sửa đổi từ “địa chỉ thường trú” thành “địa chỉ liên lạc”. Theo khoản 1 và khoản 2
Điều 5 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP:
“1. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Mỗi công dân chỉ được đăng ký thường trú tại một
chỗ ở hợp pháp và là nơi thường xuyên sinh sống. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu, sử dụng của công dân
hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Đối với chỗ ở hợp
pháp do thuê, mượn hoặc ở nhờ của cá nhân, tổ chức tại thành phố trực thuộc trung ương phải bảo đảm điều kiện
về diện tích bình quân theo quy định của Hội đồng nhân dân thành phố.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại Khoản 1 Điều này, thì nơi cư trú của
công dân là nơi người đó đang sinh sống và có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn.”
Có thể thấy, việc quy định địa chỉ thường trú cần được bao gồm trong nội dung của Giấy chứng nhận phần
vốn góp là không cần thiết do tính chất của nơi cư trú của công dân không bắt buộc phải là nơi thường trú, và “mỗi
công dân chỉ được đăng ký thường trú tại một chỗ ở hợp pháp”, điều này không phù hợp với bối cảnh hiện tại khi
công dân thường xuyên di chuyển địa điểm sinh sống và làm việc khác nhau. Vì vậy việc sửa đổi nội dung “địa chỉ
thường trú” sang “ địa chỉ liên lạc” trong Giấy chứng nhận phần vốn góp tạo nên sự linh hoạt trong việc cung cấp
thông tin, các thành viên có thể cung cấp địa chỉ liên lạc thuận tiện nhất, không bị ràng buộc phải cung cấp thông tin
địa chỉ thường trú khi không cần thiết.
Bên cạnh đó, điểm c, khoản 4, Điều 178 LDN 2020 đã thay đổi nội dung từ “số Thẻ căn cước công dân,
Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên” thành “số giấy tờ
pháp lý của cá nhân đối với thành viên là cá nhân” và bổ sung thêm phần “tên, mã số doanh nghiệp hoặc số giấy tờ
pháp lý của tổ chức, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức” để phù hợp với quy định trong LDN 2020 về
đối tượng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp danh là “tổ chức, cá nhân”, nội dung này không
được quy định cụ thể trong Luật 2014.
Thứ hai là, liên quan đến việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp, tại khoản 5 Điều 178 LDN 2020 quy
định “Trường hợp giấy chứng nhận phần vốn góp bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại dưới hình thức khác, thành
viên được công ty cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp”, trong khi đó, khoản 5 Điều 173 LDN 2014 quy định
“Trường hợp giấy chứng nhận phần vốn góp bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng hoặc bị tiêu hủy dưới hình thức khác,
các thành viên được công ty cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp”.
Theo đó, LDN 2020 đã bỏ phần “bị tiêu hủy” so với LDN 2014. Sửa đổi này khiến LDN 2020 ngắn gọn
hơn, hàm súc và dễ hiểu hơn do ý nghĩa của cụm “bị tiêu hủy” đã được bao hàm trong cụm “bị hủy hoại”.
Nói tóm lại, có thể thấy việc sửa đổi tại LDN 2020 đã cụ thể hóa các nội dung cần có trong Giấy chứng
nhận phần vốn góp và rút gọn những phần không cần thiết trong LDN 2014, đảm bảo tính cô đọng, minh bạch, công
bằng trong quá trình áp dụng LDN vào quản lý và điều hành Công ty hợp danh.

2. Doanh nghiệp tư nhân

2.1. Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân

Thứ nhất là, LDN 2020 đã sửa đổi quy định chủ DNTN không được đồng thời là thành viên công ty hợp
danh, cho phép chủ DNTN trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh.
Theo khoản 3 Điều 183 LDN 2014, “Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN. Chủ DNTN không
được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.” Quy định này gây tranh cãi trong quá trình áp
dụng bởi cụm từ “thành viên công ty hợp danh” được hiểu rằng chủ DNTN không được đồng thời là thành viên hợp
danh và thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Việc cấm chủ DNTN đồng thời là thành viên hợp danh của công
ty hợp danh được cho là hợp lý, xuất phát từ đặc điểm chung về chế độ trách nhiệm tài sản của hai chủ thể này, vì
khi cho phép một người đồng thời là chủ DNTN và thành viên hợp danh của công ty hợp danh sẽ dẫn đến những khó
khăn khi người này phải thực hiện nghĩa vụ ở cả công ty hợp danh và DNTN. Khác với thành viên hợp danh, thành
viên góp vốn trong công ty hợp danh chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn cam kết góp. Do đó,
nếu chủ DNTN trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh thì họ vẫn có thể đảm bảo được khả năng thực
hiện nghĩa vụ tài sản đối với cả công ty hợp danh và DNTN. Vì vậy, việc chủ DNTN không được là thành viên góp
vốn của công ty hợp danh theo quy định của LDN 2014 là không hợp lý. Đồng thời, điều này cũng có phần mâu
thuẫn với việc LDN 2014 không cấm chủ DNTN được góp vốn, nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của cổ
đông, thành viên trong công ty cổ phần và công ty TNHH.
LDN 2020 đã khắc phục điểm không hợp lý này. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 188 LDN 2020 đã quy định:
“Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN. Chủ DNTN không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành
viên hợp danh của công ty hợp danh.”0 Điều 4 LDN 2014: Giải thích từ ngữ
24. Thành viên công ty hợp danh bao gồm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
21
Theo điểm b khoản 1 Điều 172 LDN 2014: “Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.”
Quy định trên đã chỉ rõ việc chỉ có thành viên hợp danh của công ty hợp danh không được phép đồng thời
là chủ DNTN, đồng nghĩa với việc cho phép chủ một DNTN được đồng thời là thành viên góp vốn của công ty hợp
danh. Quy định này được sửa đổi là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm chung về chế độ trách nhiệm tài sản của chủ
DNTN và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh, góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh cho các chủ thể
này. Đồng thời sửa đổi này cũng bảo vệ quyền và lợi ích kinh tế của các tổ chức, cá nhân có quan hệ cho vay với
DNTN và công ty hợp danh. Bên cạnh đó, quy định này cũng bảo đảm quyền tự do kinh doanh của chủ DNTN trong
trường hợp chủ DNTN lựa chọn trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp danh, cho phép họ có cơ hội mở
rộng quy mô và cơ hội hợp tác kinh doanh, gia tăng lợi nhuận.
Thứ hai là, LDN 2020 đã bổ sung quy định mới về thực hiện quyền của chủ DNTN trong một số trường
hợp đặc biệt, quy định cụ thể tại Điều 193.
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 36 LDN 2014, chủ DNTN không phải thực hiện thủ tục chuyển
quyền sở hữu tài sản góp vốn sang cho DNTN. Theo đó, tài sản được sử dụng để đầu tư vào DNTN vẫn thuộc quyền
sở hữu của chủ DNTN. Căn cứ theo khoản 3 Điều 185 LDN 2014, chủ DNTN là người tham gia các quan hệ pháp
luật liên quan đến DNTN. Vì vậy, DNTN không thỏa mãn điều kiện để được công nhận là một pháp nhân theo quy
định tại khoản 3 và 4 Điều 74 BLDS năm 201522.
Không có tư cách pháp nhân, DNTN không có khả năng tự nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật một cách độc lập, giống các pháp nhân khác như công ty hợp danh, công ty cổ phần, hay công ty TNHH. Vì
không có tư cách pháp nhân nên tư cách pháp lý của DNTN phụ thuộc hoàn toàn vào tư cách pháp lý của chủ
DNTN. Sự tồn tại của doanh nghiệp theo đó cũng phụ thuộc hoàn toàn vào sự tồn tại của chủ doanh nghiệp. Nếu chủ
DNTN gặp phải tình huống đặc biệt, hoạt động cũng như sự tồn tại của DNTN cũng bị ảnh hưởng sâu sắc.
Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Được
thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan; …
4. Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
LDN 2014 mặc dù đã có các quy định nêu bật quyền của chủ DNTN đối với DNTN trong quản lý và điều
hành doanh nghiệp như quyền quản lý, cho thuê, bán DNTN…, nhưng lại thiếu vắng những điều luật xác định cách
thức giải quyết trong một số trường hợp đặc biệt mà chủ DNTN không thể thực hiện được quyền, trách nhiệm, nghĩa
vụ của mình. Ví dụ như khi chủ DNTN chết, bị tuyên bố là đã chết; mất tích; bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự; bị tạm giam, bị kết án tù,...
Về cơ bản, chủ DNTN có địa vị pháp lý tương tự như Chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, chỉ khác
về mức độ trách nhiệm tài sản – chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên là trách nhiệm hữu hạn; còn chủ DNTN
là trách nhiệm vô hạn23. Tuy nhiên, LDN 2014 lại không có quy định về quyền của chủ DNTN trong các trường hợp
đặc biệt tương tự như đối với chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên tại Điều 77 LDN 2014 24.
Bên cạnh đó, thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp chủ DNTN bị tạm giam, bị kết án tù,... nhưng không rõ
cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ DNTN trong những trường hợp này.
Để khắc phục hạn chế nêu trên của LDN 2014, LDN 2020 đã bổ sung quy định mới tại Điều 193 về việc
thực hiện quyền của chủ DNTN trong một số trường hợp đặc biệt, bao gồm: trường hợp chủ DNTN bị tạm giam,
đang chấp hành hình phạt tù, chết, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị tòa án cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định thuộc phạm vi ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể Điều 193 LDN 2020 quy định
như sau:
“Điều 193. Thực hiện quyền của chủ DNTN trong một số trường hợp đặc biệt
1. Trường hợp chủ DNTN bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý
hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc thì ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình.
5. Trường hợp chủ DNTN bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thuộc phạm vi ngành,
nghề kinh doanh của doanh nghiệp thì chủ DNTN tạm ngừng, chấm dứt kinh doanh ngành, nghề có liên quan theo
quyết định của Tòa án hoặc chuyển nhượng DNTN cho cá nhân, tổ chức khác.”
Điều 193 LDN 2020 ban hành là rất cần thiết, không chỉ hạn chế những rủi ro pháp lý, bảo vệ quyền lợi của
chủ DNTN khi xảy ra các trường hợp đặc biệt không thể điều
hành, quản lý doanh nghiệp mà còn tránh những biến động trong hoạt động của DNTN, gián đoạn và ảnh hưởng đến
người lao động.
Dù đã làm rõ và đưa ra được những phương án xử lý các trường hợp đặc biệt, Điều 193 LDN 2020 được
cho là còn bộc lộ một số điểm hạn chế.
Ví dụ, khoản 2 Điều 193 LDN năm 2020 đề cập trường hợp những người thừa kế không thoả thuận được ai
là chủ DNTN thì đăng ký chuyển đổi DNTN thành công ty hoặc giải thể DNTN đó. Trong trường hợp những người
thừa kế quyết định giải thể DNTN thì quyết định này là lựa chọn của những người thừa kế của chủ DNTN và nó
không thuộc một trong các trường hợp giải thể doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 207 LDN 2020. Đây là
một điểm vướng mắc cần giải quyết trong Điều 193.
Như vậy, về quyền của chủ DNTN, LDN 2020 đã có hai điểm mới, sửa đổi bổ sung quan trọng: bỏ việc
cấm chủ DNTN đồng thời là thành viên góp vốn của công ty hợp danh và ban hành quy định mới về thực hiện quyền
của chủ DNTN trong một số trường hợp đặc biệt. Dù còn có một số điểm bất cập, nhưng những sửa đổi này đã góp
phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chủ DNTN trong việc quản
lý, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với DNTN.

2.2. Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành hình thức công ty khác

Thứ nhất là, về hình thức các công ty mà doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi. Điều 199 LDN 2014:
Doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi thành công ty TNHH, bao gồm công ty TNHH hai thành viên trở lên và
công ty TNHH một thành viên khi đáp ứng năm điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 199 và thực hiện thủ tục
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này.

Khỏan 1 Điều 205 LDN năm 2020 quy định: “Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh theo quyết
định của chủ doanh nghiệp tư nhân…” 25. Do đó, LDN 2020 đã bổ sung thêm quy định cho phép chuyển đổi doanh
nghiệp tư nhân thành công ty cổ phần, công ty hợp danh. Điều này giúp đáp ứng được nhiều nhu cầu thực tế của chủ
doanh nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ không phải thực hiện thêm một thủ tục hành chính “trung
gian” - chuyển đổi thành công ty TNHH trước, sau đó mới chuyển đổi từ công ty TNHH thành công ty cổ phần.

Thứ hai là, về thủ tục chuyển đổi. Cụ thể, khoản 2 Điều 199 LDN 2014 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp nếu có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này” và khoản 3 Điều 199 Luật này quy định: “Trong thời
hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều này, Cơ
quan đăng ký kinh doanh phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 34
của Luật này; đồng thời cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp”. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi tối đa cho cá nhân, tổ chức tham gia thị trường, khoản 2 Điều 205 LDN 2020 đã
giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp xuống còn 3 ngày thì công ty được chuyển đổi sẽ được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp.

Như vậy, về việc chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành hình thức công ty khác, LDN năm 2020 có hai
điểm mới, sửa đổi bổ sung quan trọng là: cho phép doanh nghiệp tư Điều 205. Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân
thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh
nhân được chuyển đổi thành các loại hình doanh nghiệp khác như công ty cổ phần hay công ty hợp danh, thay vì chỉ
cho phép chuyển đổi thành công ty TNHH như trước đây và giảm thời gian thực hiện thủ tục chuyển đổi. Những
điểm mới này của LDN 2020 so với LDN 2014 là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 7 LDN năm
2020 về quyền tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu
thực tế của các chủ doanh nghiệp tư nhân trong quá trình kinh doanh.

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI BỔ SUNG CỦA LUẬT
DOANH NGHIỆP 2020 SO VỚI LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
1. Công ty hợp danh
1.3. Nhận xét của nhóm
Về thành viên góp vốn, LDN 2020 đã có những sửa đổi, bổ sung về đối tượng là thành viên góp vốn và
phạm vi trách nhiệm của thành viên góp vốn. Về đối tượng có thể trở thành thành viên góp vốn, LDN 2014 quy định
về “thành viên hợp danh phải là cá nhân” (điểm b khoản 1 Điều 172), không quy định về đối tượng của thành viên
góp vốn. Trong khi đó, LDN 2020 đã bổ sung quy định về đối tượng có thể trở thành thành viên góp vốn tại điểm c
khoản 1 Điều 177: “Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân”. Xét về mặt nội dung, đây là một điểm mới không có ý
nghĩa lớn vì ngoài tổ chức, cá nhân, không còn đối tượng nào để quy định, do đó, có thể ngầm hiểu rằng LDN 2014
cũng cho phép cá nhân, tổ chức trở thành thành viên góp vốn. Tuy nhiên, nếu xét về mặt đối tượng, có thể thấy rằng
LDN 2020 đã nhấn mạnh được tầm quan trọng của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh bằng cách quy định
về đối tượng có thể trở thành thành viên góp vốn. Nói cách khác, LDN 2020 đã nhấn mạnh được sự khác biệt giữa
thành viên hợp danh và thành viên góp vốn của công ty hợp danh.

Bên cạnh việc nhấn mạnh được sự khác biệt giữa thành viên hợp danh và thành viên góp vốn của công ty
hợp danh, sự thống nhất trách nhiệm của thành viên góp vốn trong "số vốn đã cam kết góp" là một trong những điểm
quan trọng nhất của LDN 2020, tạo ra những tác động tích cực đối với hoạt động kinh doanh và quản lý pháp lý của
các công ty hợp danh. LDN 2020 đã thống nhất trách nhiệm của thành viên góp vốn trong “số vốn đã cam kết góp”.
Thay đổi này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn liên quan đến vốn thực góp và vốn
cam kết góp so với LDN 2014. Ở LDN 2014, lợi nhuận mà thành viên góp vốn nhận được được chia theo tỷ lệ phần
trăm vốn đã cam kết góp trong vốn Điều lệ, tuy nhiên, trách nhiệm của thành viên góp vốn chưa được thống nhất là
chỉ nằm trong “phạm vi số vốn đã góp vào công ty” (điểm c khoản 1 Điều 172 LDN 2014) hay “trong phạm vi số
vốn đã cam kết góp” (điểm a khoản 2 Điều 182 LDN 2014). Điều này có thể dẫn đến hiểu lầm và tranh chấp về
quyền lợi, đồng thời gây ra những tình huống mơ hồ trong việc xác định trách nhiệm của các thành viên. LDN 2020
đã thống nhất phạm vi trách nhiệm trong “số vốn đã cam kết góp”, thống nhất được quyền lợi và nghĩa vụ của thành
viên góp vốn trong công ty hợp danh. Bằng cách giới hạn trách nhiệm của các thành viên góp vốn trong "số vốn đã
cam kết góp", LDN 2020 vừa giúp công ty xác định trách nhiệm rõ ràng hơn, vừa đảm bảo rằng các thành viên góp
vốn không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại vượt quá phạm vi số vốn đã cam kết góp với công ty. Đây cũng
là một vấn đề mới cần lưu ý đối với khách hàng, đối tác của công ty hợp danh, tránh những trường hợp phát sinh
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vượt quá phạm vi số vốn thực góp của công ty vì có thể số vốn thực góp chưa đủ so với
số vốn đã cam kết góp, do đó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính khách hàng, đối
tác đó. Tóm lại, những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của LDN 2020 về thành viên góp vốn của công ty hợp danh tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho việc thành lập, hoạt động và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp của công ty hợp danh.
Đồng thời, LDN 2020 cũng làm rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn, đảm bảo sự minh bạch và
công bằng trong quan hệ pháp lý giữa các bên liên quan.

Về thành viên hợp danh, LDN 2020 quy định rõ hơn về đặc điểm, quyền và nghĩa vụ của các thành viên hợp
danh, cũng như các trường hợp chấm dứt tư cách của thành viên hợp danh. Sự thay đổi quan trọng trong LDN 2020
đối với quyền của thành viên hợp danh là việc loại bỏ quyền sử dụng con dấu. Trước đây, LDN 2014 cho phép thành
viên hợp danh sử dụng con dấu và tài sản của công ty để hoạt động kinh doanh các ngành, nghề của công ty. Tuy
nhiên, trong LDN 2020, quyền sử dụng con dấu và tài sản của thành viên hợp danh đã được thay thế bằng quyền sử
dụng tài sản của công ty để kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty. Sự thay đổi này có thể được hiểu
như một nỗ lực của pháp luật để tăng cường tính minh bạch và quản lý trong hoạt động kinh doanh của các công ty.
Đồng ý với quan điểm của Thạc sĩ Mai Thị Chúc Hạnh - giảng viên khoa Luật trường đại học Ngoại thương, nhóm
tác giả cho rằng việc bỏ cụm từ “con dấu” trong Điều 181 của LDN năm 2020 là bước tiến quan trọng trong tư duy
con dấu ăn sâu trong tiềm thức của Việt Nam. Điều này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hiểu rõ và áp
dụng quy định pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng tài sản của các công ty hợp danh, loại bỏ đi sự chồng chéo
trong các khái niệm, bởi có thể hiểu con dấu là tài sản của doanh nghiệp, do đó, thay thế từ “sử dụng con dấu, tài
sản” sang “sử dụng tài sản” còn giúp thể hiện rõ ràng và đầy đủ ý chí của nhà làm luật khi ngày nay, dấu của doanh
nghiệp không còn chỉ bao gồm con dấu mà còn nhiều loại hình khác, đặc biệt là chữ ký số, 1 loại dấu điện tử được
chính thức quy định tại LDN 2020. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với quy định của LDN 2014.

Thay đổi của LDN 2020 so với LDN 2014 về thành viên hợp danh không chỉ tập trung vào quyền lợi của
thành viên hiện tại mà còn đi sâu vào việc xử lý tài sản sau khi một thành viên hợp danh qua đời. Điểm này đề cập
đến cách mà LDN 2020 và LDN 2014 xử lý việc chia tài sản của thành viên hợp danh đã mất. Trong LDN 2020,
việc quy định rõ ràng và cụ thể tại Điều 181 khắc phục một số vấn đề chưa được nắm bắt đầy đủ trong LDN 2014.
Điều này đặc biệt quan trọng khi xử lý tài sản của thành viên hợp danh đã qua đời, đảm bảo sự công bằng và minh
bạch giữa các bên liên quan. Tính công bằng được thể hiện thông qua việc LDN 2020 bổ sung “nghĩa vụ tài sản
khác” vào quy định về việc trừ đi các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khi chia tài sản của thành viên hợp danh đã qua
đời. Điều này giúp đảm bảo rằng các chủ nợ và bên liên quan khác cũng được xem xét trong quá trình xử lý tài sản.
Ngoài ra, việc quy định cụ thể và rõ ràng trong LDN 2020 cũng giúp tránh được những tranh chấp và không rõ ràng
trong việc xử lý tài sản của thành viên hợp danh đã qua đời. Sự minh bạch này cũng tạo ra một môi trường pháp lý
ổn định và tin cậy, giúp nâng cao lòng tin của các bên liên quan đối với hệ thống pháp luật và doanh nghiệp.

Về thay đổi trong trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp danh, điểm b khoản 1 Điều 180 LDN 2014
quy định một số trường hợp mà tư cách của thành viên hợp danh có thể bị chấm dứt, bao gồm cả trường hợp "bị Tòa
án tuyên bố là mất tích", tuy nhiên, LDN 2020 đã loại bỏ yêu cầu này và chỉ cần sự kiện mất tích xảy ra trên thực tế,
không cần có quyết định của Tòa án. Việc này giúp đảm bảo tính linh hoạt và nhanh chóng trong việc xử lý tình
huống, tránh được sự trì hoãn và gián đoạn đến hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, LDN 2020 đã bổ sung thêm các
trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp danh. Việc này bao gồm trường hợp thành viên gặp khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi, cũng như trường hợp họ chấp hành hình phạt tù hoặc bị cấm hành nghề theo quy định
của pháp luật. Việc bổ sung này nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của các bên liên quan và
đảm bảo rằng các thành viên hợp danh không chỉ có trách nhiệm pháp lý mà còn có trách nhiệm đạo đức và khả
năng quản lý. Tuy nhiên, LDN 2020 cung cấp sự rõ ràng và cụ thể hơn về các trường hợp chấm dứt tư cách thành
viên hợp danh đồng nghĩa với việc giảm đi tính linh hoạt và sự sáng tạo trong hoạt động kinh doanh của các thành
viên. Các quy định nghiêm ngặt có thể gây hạn chế và làm chậm quá trình ra quyết định, đặc biệt là khi xử lý các
trường hợp phức tạp. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng phản ứng, ra quyết định nhanh chóng và linh hoạt của
doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh biến động. Tóm lại, LDN 2020 giúp quy định cụ thể đối tượng, vai trò,
quyền lợi, nghĩa vụ và các trường hợp chấm dứt tư cách thành viên của thành viên hợp danh, tăng cường quyền lực
cũng như ảnh hưởng của các thành viên hợp danh trong việc quản lý, điều hành công ty. Điều này cũng phản ánh
được tinh thần hợp tác và chia sẻ giữa các thành viên hợp danh cũng như sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các
bên liên quan.

Về Hội đồng thành viên và triệu tập họp Hội đồng thành viên, LDN 2020 đã có một số thay đổi liên quan
đến trách nhiệm của Hội đồng thành viên, hình thức triệu tập thành viên, yêu cầu nội dung cuộc họp và phạm vi
quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Về Hội đồng thành
viên, LDN 2020 quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm của Hội đồng thành viên tại điểm a, điểm h, điểm i, khoản 3
Điều 182 LDN 2020 so với điểm tương tự tại khoản 3 Điều 177 LDN 2014. Bên cạnh đó, LDN 2020 cho phép triệu
tập họp Hội đồng thành viên bằng phương thức khác do Điều lệ công ty quy định, tức là hình thức thông báo mời
họp được mở rộng hơn. Yêu cầu về nội dung cuộc họp cũng được mở rộng, theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều
183 LDN 2020. Những thay đổi này chủ yếu nhằm nâng cao tính tính linh hoạt, minh bạch trong bối cảnh mới. Về
quy định trách nhiệm của Chủ tịch hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc , LDN 2020 đã sửa đổi
“nhiệm vụ” thành “nghĩa vụ”, xác định rõ trách nhiệm mà Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc phải thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc hợp đồng. Nghĩa vụ bao quát hơn nhiệm vụ, nghĩa vụ có tính
bắt buộc cao hơn, việc không thực hiện nghĩa vụ có thể dẫn đến các chế tài xử phạt, do đó, ràng buộc được trách
nhiệm của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám dốc. Đồng thời, điểm đ, khoản 4, Điều 184 LDN
2020 được thay đổi, bổ sung so với điểm d, khoản 4, Điều 179 LDN 2014 đã góp phần tích cực để mở rộng phạm vi
quyền hạn cho Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc và Tổng giám đốc. Tóm lại, LDN 2020 đã kế thừa được
những ưu điểm của LDN 2014, bổ sung một số quy định nhằm nâng cao tính minh bạch, linh hoạt, từ đó, nâng cao
hiệu quả trong hoạt động của Hội đồng thành viên và triệu tập họp Hội đồng thành viên.

Về giấy chứng nhận phần vốn góp, LDN 2020 đã có những thay đổi cho phù hợp với đối tượng của thành
viên góp vốn. LDN 2020 thay đổi “địa chỉ thường trú” thành “địa chỉ liên lạc”, đây là một điều cần thiết để phản ánh
sự phát triển của công nghệ thông tin và sự thay đổi trong cách mà các doanh nghiệp hoạt động. Điều này cho phép
các thành viên góp vốn chỉ cần cung cấp thông tin liên lạc hiện tại của họ mà không cần ràng buộc bởi một địa chỉ
cố định. Điều này rất hữu ích trong trường hợp các thành viên di chuyển thường xuyên hoặc có nhu cầu thay đổi địa
chỉ. Việc thay đổi này xuất phát từ hạn chế của địa chỉ thường trú trong việc xác định thông tin của bị đơn và cách
thức thông báo triệu tập khi tranh chấp xảy ra. Trước đây, tình trạng “bỏ đi” khỏi địa chỉ thường trú để lấy lý do
“chưa nhận được giấy triệu tập” khá phổ biến, gây ảnh hưởng đến tiến độ xử lý của các cơ quan chức năng. Thay
“địa chỉ thường trú” thành “địa chỉ liên lạc” sẽ khắc phục được hạn chế đó, ràng buộc thông tin liên lạc với đối
tượng góp vốn, từ đó, tạo điều kiện liên lạc thuận lợi hơn trong trường hợp cần thiết, tránh được những lý do không
đáng có.

Bên cạnh đó, bổ sung thông tin về số giấy tờ pháp lý của cá nhân hoặc tổ chức trong quá trình xác định
thông tin của thành viên góp vốn là một bước tiến quan trọng. Thay vì yêu cầu các thành viên góp vốn cung cấp "số
Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác", LDN 2020
đơn giản hóa quy trình bằng cách yêu cầu "số giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên là cá nhân". Điều này
loại bỏ sự phức tạp và hạn chế của việc liệt kê các loại giấy tờ cụ thể và thay vào đó tập trung vào yêu cầu cung cấp
một giấy tờ pháp lý hợp lệ để xác nhận danh tính. Bằng cách này, LDN 2020 đã cung cấp một cơ sở pháp lý chắc
chắn hơn cho việc xác định danh tính của các thành viên góp vốn, bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Bổ sung thông tin
về "tên,
mã số doanh nghiệp hoặc số giấy tờ pháp lý của tổ chức, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức" là một
bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác và minh bạch của thông tin liên quan đến các tổ chức tham
gia. Việc này giúp rõ ràng hóa quy trình xác thực và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý pháp lý của công ty
hợp danh. Điều kiện được cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp được quy định ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn trong
LDN 2020 do ý nghĩa của cụm “bị tiêu hủy” đã được bao hàm trong cụm “bị hủy hoại”. Do đó, có thể thấy rằng,
những điểm mới, sửa đổi, bổ sung về giấy chứng nhận phần vốn góp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giao dịch,
chuyển đổi, bảo vệ và thực hiện quyền lợi của các thành viên góp vốn. Đồng thời, LDN 2020 cũng làm rõ hơn về
nội dung, hình thức và điều kiện cấp lại của giấy chứng nhận phần vốn góp, đảm bảo sự minh bạch và công bằng
trong quan hệ pháp lý giữa các bên liên quan, giảm thiểu tranh chấp và bất đồng về tài chính giữa các bên liên quan.

LDN năm 2020 nhìn chung đã có những điểm sửa đổi tích cực, tuy nhiên, khung pháp lý về mô hình công
ty này vẫn chưa khắc phục hết những điểm yếu của LDN 2014, còn một số rào cản đối với nền kinh tế thị trường và
cam kết hội nhập của Việt Nam. Điều này xuất phát khung pháp lý về công ty hợp danh vẫn tồn tại một số điểm hạn
chế, bất cập chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư và tạo sự tương thích với
thông lệ quốc tế. Công ty hợp danh vẫn chưa được xác định hình thức pháp lý rõ ràng với công ty hợp vốn đơn giản,
gây khó khăn đến quan hệ kinh doanh thương mại của thương nhân trong bối cảnh hội nhập đòi hỏi có sự đồng bộ hệ
thống pháp luật quốc gia với thông lệ quốc tế; đồng thời việc mở rộng các hình thức tổ chức kinh doanh sẽ góp phần
tăng cường quyền tự do kinh doanh của thương nhân. Chính vì vấn đề không tách bạch rõ ràng hình thức pháp lý của
công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản này đã dẫn đến những khó khăn trong việc chuyển đổi hình thức công
ty giữa chúng. LDN 2020 vẫn đang quy định hình thức công ty theo kiểu “hai trong một”, vì vậy, quyền tự do kinh
doanh của nhà đầu tư trong việc lựa chọn các loại hình doanh nghiệp phù hợp với năng lực về nguồn vốn, nhân
công của mình để khởi sự kinh doanh bị hạn chế. Đó cũng là lý do mô hình công ty hợp danh trong LDN dường như
không được nhà đầu tư ưa chuộng như những loại hình doanh nghiệp khác.

Ngoài ra, việc không cho phép pháp nhân có thể trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh ít
nhiều tạo nên sự kém hấp dẫn của mô hình công ty này. Việc chỉ cho phép cá nhân là thành viên hợp danh đã hạn
chế quyền tự do kinh doanh và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Hoa Kỳ, công ty hợp danh là một tổ chức
kinh doanh được thành lập bởi ít nhất hai thành viên hợp danh, có thể là các cá nhân hoặc công ty. Mỗi thành viên
hợp danh phải chịu trách nhiệm cá nhân, liên đới và vô hạn đối với tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ của công ty 28.
Như vậy, thành viên hợp danh có thể là một công ty. Luật Công ty 2006 Nhật Bản cũng cho phép cả pháp nhân trở
thành thành viên hợp danh trong Gomei Kaisha, là công ty hợp danh được thành lập theo pháp luật về thương mại
Nhật Bản29. Việc cho phép pháp nhân có thể trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh là hợp lý. Khi
đó, pháp nhân có thể cử một nhóm người đại diện để tham gia quản lý, nếu không có quy định khác trong điều lệ,
quyền và nghĩa vụ của pháp nhân sẽ tương đương với một thành viên hợp danh trong công ty. Việc cho phép pháp
nhân tham gia vào công ty hợp danh có thể gây ra mất đi tính cá nhân hóa trong việc chịu trách nhiệm, bởi vì cơ cấu
pháp lý của công ty hợp danh đặt trách nhiệm cá nhân lên hàng đầu. Tuy nhiên, có một số cách để giải quyết vấn đề
này và đảm bảo tính cụ thể và cá nhân hóa trong việc chịu trách nhiệm của pháp nhân. Một cách để giải quyết vấn đề
này là thông qua việc giới hạn trách nhiệm của pháp nhân khi tham gia vào công ty hợp danh. Điều này có thể được
thực hiện bằng cách rõ ràng quy định trong hợp đồng hoặc điều lệ của công ty, xác định rõ ràng trách nhiệm và
phạm vi của pháp nhân trong việc chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, quy định cụ thể về cơ chế quản lý và kiểm soát
chặt chẽ đối với pháp nhân trong công ty hợp danh, bao gồm việc chỉ định người đại diện của pháp nhân như đã nêu
trên, xác định rõ vai trò và quyền hạn của họ, cũng như thiết lập các cơ chế kiểm soát và giám sát để đảm bảo tính
minh bạch và công bằng. Bằng cách thực hiện các biện pháp trên, có thể giải quyết vấn đề liên quan đến tính cụ thể
và cá nhân hóa trong việc chịu trách nhiệm của pháp nhân trong công ty hợp danh, đồng thời đảm bảo sự minh bạch,
công bằng và bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên liên quan. Từ đó, loại hình công ty hợp danh có thể thu hút được
nhiều đối tượng tham gia hơn so với quy định hiện hành. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trên thực tế, ở Việt Nam, việc
xác định trách nhiệm của tổ chức rất khó để thực hiện do việc kê khai tài sản không trung thực, biển thủ tham ô tài
sản vẫn đang xảy ra. Việc xác định trách nhiệm vật chất ở các nước được quản lý rất chặt chẽ, do đó, áp dụng các
biện pháp kiểm soát có thể tạo điều kiện để pháp nhân trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Điều này
phản ánh bất cập trong việc quản lý tài sản của cá nhân, tổ chức trong công ty ở Việt Nam, do đó, đòi hỏi cơ chế xác
định và kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo tính minh bạch trong môi trường kinh doanh nước ta.

Một vấn đề quan trọng nữa liên quan đến việc huy động vốn của công ty hợp danh. So sánh với các loại
hình loại hình doanh nghiệp khác thì công ty hợp danh có khả năng huy động vốn thấp hơn rất nhiều. Về nguyên tắc,
sự thay đổi trong cơ cấu nhân sự sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của loại hình công ty đối nhân, do đó, công ty
hợp danh không được phép phát hành cổ phiếu. Việc công ty hợp danh không được phép phát hành cổ phiếu là một
hạn chế lớn đối với khả năng huy động vốn của họ. Với mô hình tổ chức của công ty hợp danh, trong đó các thành
viên góp vốn phải chịu trách nhiệm cá nhân, liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của công ty, việc
phát hành cổ phiếu có thể tạo ra những rủi ro pháp lý lớn và không phù hợp với tính chất của doanh nghiệp này. Tuy
nhiên, trái phiếu là chứng khoán nợ, chỉ ghi nhận quyền chủ nợ của nhà đầu tư với tổ chức phát hành trái phiếu.
Người nắm giữ trái phiếu chỉ được trả lại số tiền ghi trên trái phiếu và lãi khi đến hạn, không có quyền quyết định
các vấn đề của công ty hợp danh. Một ưu điểm lớn của việc phát hành trái phiếu là không làm thay đổi cơ cấu nhân
sự của công ty hợp danh. Các nhà đầu tư chỉ đơn thuần là chủ nợ và không có quyền tham gia vào quản lý hoặc
quyết định trong công ty. Điều này giúp duy trì tính đối nhân của công ty, một yếu tố quan trọng để giữ vững sự linh
hoạt và tính cạnh tranh của công ty hợp danh trong thị trường. Do đó, quyền phát hành trái phiếu không ảnh hưởng
đến tính đối nhân của công ty hợp danh. Cho phép công ty hợp danh phát hành trái phiếu để huy động vốn là cần
thiết, tạo ra hành lang pháp lý thoáng hơn cho công ty hợp danh và đảm bảo công bằng giữa các hình thức tổ chức
kinh doanh.

Tóm lại, LDN 2020 đã có những sửa đổi, bổ sung về công ty hợp danh giúp đáp ứng nhu cầu thực tiễn về
hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư đối với mô hình công ty này, tạo điều kiện cho mô hình công ty hợp
danh phát triển, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cũng như tâm lý kinh doanh tại Việt Nam. Các quy định về
công ty hợp danh trong LDN 2020 tuy đã được sửa đổi theo hướng tích cực, vẫn còn tồn tại một vài rào cản và xung
đột lợi ích khiến cho mô hình này chưa thực sự thu hút được hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Việc tiếp tục hoàn
thiện mô hình pháp lý về công ty hợp danh là cần thiết, nhằm góp phần xóa bỏ rào cản về đầu tư, kinh doanh không
phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường
đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
2. Doanh nghiệp tư nhân

2.3. Nhận xét của nhóm

2.3.1. Nhận xét của nhóm về những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của LDN 2020 so với LDN 2014 về quyền
của chủ doanh nghiệp tư nhân

Thứ nhất, nếu như LDN 2014 quy định chủ doanh nghiệp tư nhân không thể là thành viên của công ty hợp
danh thì LDN 2020 chỉ không cho phép chủ thể này trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh như đã nêu
ở phần 2.1. Nói cách khác, phạm vi quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân đã được mở rộng khi chủ thể này có thể là
thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Phản ứng từ các chuyên gia và doanh nghiệp về điều chỉnh này nhìn
chung là tích cực. Tuy nhiên, nhóm tác giả cho rằng bên cạnh những thuận lợi, nội dung sửa đổi này vẫn còn một số
hạn chế.

Về mặt thuận lợi, điểm mới này cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân được tham gia nhiều tổ chức kinh tế
hơn là chỉ giới hạn trong doanh nghiệp của chính họ. Theo luật quy định, “Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập
một doanh nghiệp tư nhân” (khoản 3 Điều 188 LDN 2020), nên khi thêm quy định về giới hạn chủ thể này không
được phép tham gia nhiều tổ chức kinh tế khác như LDN 2014 đã khiến họ có ít cơ hội kinh doanh, tìm kiếm sự hợp
tác và lợi nhuận. LDN 2020 vẫn quy định chủ doanh nghiệp tư nhân không thể tham gia công ty hợp danh với tư
cách là thành viên hợp danh, nhưng họ vẫn có thể là thành viên góp vốn. Quy định này là phù hợp bởi chủ nhân
nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình trước mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, nên không thể đồng thời là thành viên hợp danh, người cũng có trách nhiệm vô hạn trước hoạt động
kinh doanh và mọi khoản nợ của công ty hợp danh theo quy định của pháp luật; quy định như vậy đảm bảo họ có
trách nhiệm tập trung cao nhất cho doanh nghiệp của mình35. Tuy nhiên, thành viên góp vốn trong công ty hợp danh
chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi góp vốn của mình, nên LDN 2014 không cho phép chủ doanh nghiệp tư
nhân tham gia vào công ty hợp danh ngay cả với tư cách là thành viên góp vốn không thật sự hợp lý khi họ có đủ tài
sản để vừa chịu trách nhiệm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp của mình, vừa có thể góp vốn một cách
hợp pháp vào doanh nghiệp khác nhằm tối ưu hóa lợi ích hay mở rộng quan hệ. Mặt khác, công ty hợp danh có thể
mở rộng quy mô kinh doanh nhờ việc mở rộng đối tượng huy động vốn. Theo báo cáo, về tổng thể, tỷ lệ đóng góp
của các doanh nghiệp tư nhân còn thấp so với tổng thể các doanh nghiệp mặc dù chiếm hơn 97% tổng số doanh
nghiệp tại Việt Nam bởi quy mô nhỏ lẻ, khả năng kinh doanh hạn chế và cạnh tranh thấp36.

Vì vậy, quy định mới này trong LDN 2020 có thể góp phần khuyến khích sự hợp tác và đầu tư giữa các chủ

doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, mở ra cơ hội mở rộng quy mô, tăng sức cạnh tranh của doanh

nghiệp tư nhân, thậm chí có tiềm năng phát triển thành mô hình kinh doanh phức tạp hơn trong tương lai.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, việc chủ doanh nghiệp tư nhân tham gia góp vốn vào công ty
hợp danh cũng tiềm ẩn một số hạn chế như sau: Đầu tiên, bản chất tài sản của doanh nghiệp tư nhân là không tách
biệt rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân góp vốn đầu tư vào một doanh nghiệp
khác, không thể loại trừ nguy cơ chủ doanh nghiệp tư nhân sử dụng tài sản của doanh nghiệp tư nhân để đi góp vốn.
Điều này không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp tư nhân mà còn có thể ảnh hưởng tới các đối tác của
doanh nghiệp tư nhân đó. Ví dụ, chủ doanh nghiệp tư nhân X đem một số máy móc của doanh nghiệp tư nhân mình
đi cam kết góp vốn vào công ty hợp danh Y, trong khi máy móc đó vẫn đang sử dụng để sản xuất đơn đặt hàng của
đối tác. Trước thời hạn hoàn thành góp vốn, công ty hợp danh Y yêu cầu sử dụng luôn số máy móc đó để phục vụ
hoạt động sản xuất của công ty. Nếu chủ doanh nghiệp tư nhân X đồng ý, rất có thể tiến độ sản xuất cho đơn đặt
hàng của đối tác doanh nghiệp tư nhân sẽ bị chậm trễ vì thiếu máy móc. Mặt khác, công ty hợp danh khi nhận vốn
góp của chủ doanh nghiệp tư nhân cũng có thể chịu rủi ro. Vì chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô
hạn trước mọi hoạt động của doanh nghiệp, nên phần vốn góp là tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân có thể bị sử
dụng để thực hiện các nghĩa vụ như bồi thường thiệt hại, trả nợ khi doanh nghiệp bị phá sản,...; điều này ảnh hưởng
trực tiếp đến dòng vốn, hoạt động kinh
doanh của công ty hợp danh. Vì vậy, nhóm tác giả kiến nghị khi pháp luật cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân có thể
góp vốn vào công ty hợp danh cần có quy định chặt chẽ về việc phần vốn góp của chủ doanh nghiệp tư nhân không
được liên quan đến tài sản của doanh nghiệp tư nhân; và đưa ra văn bản hướng dẫn để xử lý trường hợp chủ doanh
nghiệp tư nhân có phải sử dụng phần vốn góp trong công ty hợp danh của mình để trả các khoản nợ khi doanh
nghiệp tư nhân phá sản hay không.

Thứ hai, so với LDN 2014, LDN 2020 đã bổ sung thêm nội dung về thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp
tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt như chủ sở hữu bị tạm giam, chết mà không có người thừa kế, bị hạn chế
hoặc mất năng lực hành vi dân sự,... Chủ doanh nghiệp tư nhân đối với một doanh nghiệp tư nhân có vai trò gần như
tương tự với chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên, (ở đây không đề cập đến phạm vi chịu trách nhiệm
pháp lý, mà về mặt quản trị, điều hành doanh nghiệp). Tuy nhiên, LDN 2014 lại không có quy định về quyền của
chủ doanh nghiệp tư nhân trong các trường hợp đặc biệt như đối với chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên tại
Điều 77. Chính vì thế đã xảy ra tình trạng doanh nghiệp tư nhân gặp phải tạm ngưng hoạt động dù việc sản xuất kinh
doanh vẫn đang tốt, hoặc thậm chí là giải thể vì chủ doanh nghiệp vắng mặt khi rơi vào các

You might also like