You are on page 1of 12

I.

Bối cảnh lịch sử trước thềm đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ lần thứ VII
(6/1991).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày
27/06/1991 trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp
- Tình hình quốc tế:
Tình hình quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta. Đang diễn ra
cuộc tấn công quyết liệt của các thế lực thù địch đế quốc và phản động vào các
lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội nhằm tiến tới xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc; cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước
Đông Âu (1989 - 1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đang đứng trước
những thử thách nghiêm trọng và dẫn tới sự thất bại vào nửa cuối năm 1991.
- Trong nước:
Ở trong nước, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã
hội có những chuyển biến tích cực, song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Mặt
khác, trước sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động
không nhỏ tới lập trường, tư tưởng và niềm tin vào chủ nghĩa xã hội của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bối cảnh trên đây đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đề ra
đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
II. Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH
1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm Đảng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam; chỉ ra những thành công, khuyết điểm, sai lầm và
nêu ra 5 bài học lớn. Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến
lược.
1.1. Quá trình cách mạng và những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, phân tích hoàn cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra
mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc; bên cạnh đó Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số
nước, đảng cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo. Bối cảnh quốc tế
đó, vừa tạo cơ hội; vừa có nhiều thách thức đã ảnh hưởng đến Việt nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc
trưng cơ bản là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân với tất cả các nước trên thế
giới.

1.2. Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra mục tiêu tổng quát và những phương hướng
chủ yếu trong thời kỳ quá độ
- Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ
bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính
trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt
tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
- Cương lĩnh đã nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng CNXH là:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
+ Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực
hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 bước đầu đã vẽ ra
toàn bộ bức tranh của xã hội tương lai, mặc dù chưa hoàn chỉnh, nhưng Đảng ta đã
vạch ra những nguyên tắc, phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quá độ là một thời kỳ lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ và thách thức to lớn,
những quan điểm, định hướng phát triển cần được tiếp tục hoàn thiện từ thực tiễn.
Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Một số điểm mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
Từ thực tiễn có nhiều thay đổi về bối cảnh thế giới và trình độ phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tháng 01/2011 của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh
năm 2011.
2.1. Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm
- Về quá trình cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh năm 2011 nêu khái quát những thắng lợi vĩ đại đã đạt được trong
hơn 80 năm qua (1930 – 2010), khẳng định những thắng lợi vĩ đại và những thành
quả từ thắng lợi vĩ đại đó mang lại.
- Về những bài học kinh nghiệm lớn
Cương lĩnh năm 2011 cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991, có một
số bổ sung, phát triển:
Bổ sung vấn đề “tham nhũng” vào nội dung bài học thứ hai “Quan liêu, tham nhũng,
xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. (Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI đã xác
định đây là một nội dung trong ba vấn đề cấp bách hiện nay).
Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” chứ
không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh năm 1991.
2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Về bối cảnh quốc tế: Đây là nội dung có nhiều điểm bổ sung, phát triển mới, do bối
cảnh thế giới đã thay đổi so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Kế
thừa những dự báo về tình hình thế giới từ Đại hội Đảng khóa X đã được thực tế
khẳng định tính đúng đắn của các dự báo đó, Cương lĩnh năm 2011 viết gọn hơn theo
hướng không đi sâu vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta,
nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Với tinh thần đó, Cương lĩnh năm 2011
đã đưa ra 6 nhận định tình hình thế giới và dự báo trong vài thập kỷ tới:
Một, về đặc điểm, xu thế chung: Cương lĩnh năm 2011 nhận định: Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
Hai, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Cương lĩnh năm 2011 đưa ra ba nhận
định rất cơ bản: Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào
hòa bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với
phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới,
giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế có những bước hồi phục.
Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp
nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội.
Ba, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản: Cương lĩnh năm 1991 nhận định “Trước
mắt, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển kinh tế”. Thực tế 2 thập kỷ qua và dự
báo tới đây chủ nghĩa tư bản không chỉ còn tiềm năng phát triển kinh tế, mà đang phát
triển và phát triển không chỉ về kinh tế, mà còn phát triển các lĩnh vực khác, như giáo
dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và có những điều chỉnh cả về
xã hội, nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Do đó, Cương lĩnh năm
2011 đã nhận định, đánh giá đúng mức hơn về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa
tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột
và bất công”. Cương lĩnh năm 2011 bổ sung nhận định “khủng hoảng kinh tế, chính
trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.
Bốn, nhận định về các nước đang phát triển, kém phát triển: Cương lĩnh năm 2011
viết theo hướng chặt chẽ hơn, chính xác hơn với tình hình thực tế: “Các nước đang
phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống
nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ
quyền quốc gia, dân tộc”.
Năm, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài
người: Kế thừa Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung hai vấn đề
toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người là “chống khủng bố” và “ứng
Bổ sung thêm 2 đặc trưng “dân chủ, công bằng” vào mục tiêu tổng quát là “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điểm mới của Cương lĩnh năm 2011 so
với văn kiện Đại hội Đảng khóa X là chuyển từ “dân chủ" lên trước từ “công bằng”
trong mục tiêu tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều
kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta
là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. phó với biến đổi khí hậu toàn
cầu”, thay đổi từ “bệnh tật” thành từ “dịch bệnh”.
Sáu, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại: Cương lĩnh
năm 2011 xác định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các
nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. (Cương lĩnh năm 1991
xác định: Loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật
tiến hoá của lịch sử).
- Về mục tiêu tổng quát. Cương lĩnh năm 2011 đã nêu khái khát hơn các đặc trưng
của xã hội XHCN. Cụ thể:
Điều chỉnh một số cụm từ trong đặc trưng của xã hội XHCN cho đúng thực tế như “do
nhân dân làm chủ” thay thế cho “do nhân dân lao động làm chủ”; bổ sung cụm từ
“quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” thay thế cho “chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu”; bổ sung từ “pháp quyền” vào sau từ “nhà nước”, thêm nội dung “do
Đảng Cộng sản lãnh đạo” vào sau cụm từ “nhà nước pháp quyền”.
Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 đã nêu: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới."
Tóm lại, hiện nay, khi đánh giá thành tựu 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới,
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tháng 01 năm
2021 đã tiếp tục khẳng định: “đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo.”
Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ
quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3. Những thành tựu đạt được và hạn chế
3.1. Thành tựu
Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế nhìn chung năm sau cao hơn năm trước,
quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện. Năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được chỉ
đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt và đạt những kết quả tích cực, nhất là xóa đói, giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định; trật tự, an
toàn xã hội được bảo đảm.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy và trở thành động lực phát triển
đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố vững chắc hơn. Xây dựng Đảng
được triển khai đồng bộ, toàn diện, gắn xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức
với đạo đức.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, đạt nhiều kết
quả thiết thực, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị đạt kết quả khả
quan, bộ máy bước đầu được tinh giản, chính phủ liêm chính, kiến tạo, xây dựng được
củng cố.
Đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu nổi bật. Vị thế, uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những kết quả trên khẳng định sự
đúng đắn, phù hợp thực tiễn của các phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta
3.2. Hạn chế
Hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, cũng như hơn 30 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn
những hạn chế, bất cập.
Việc thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
còn rất chậm. Từ Đại hội VIII đến Đại hội XI đề ra mục tiêu đến 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định:
không đạt được mục tiêu đề ra. Do đó việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh còn rất khó khăn.
Nhân dân chưa thật sự làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều
lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang
tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ,
gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa
vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động
chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Việc
hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm. Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế
hoạt động chưa hiệu quả. Kinh tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế
tập thể chậm được củng cố. Kinh tế tư nhân còn nhỏ bé. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài còn nhiều hạn chế, chủ yếu là công nghệ lạc hậu. Các loại thị trường hoạt động
còn thiếu hiệu quả.
Việc xây dựng văn hóa, con người còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Đạo đức, lối sống
có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo
nàn, đơn điệu. Môi trường văn hóa thiếu lành mạnh. Một số loại tội phạm có
chiều hướng gia tăng.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa
cao. Cơ chế bao cấp biến tướng, trá hình vẫn tồn tại. Chúng ta không đạt mục tiêu trở
thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Kinh tế tri thức chưa được quan tâm
phát triển. Bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học còn nhiều bất cập. Văn hóa, xã hội
còn có những mặt bất cập; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chưa thực sự
trở thành quốc sách hàng đầu. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện,
còn có mặt, nhất là đạo đức, nhân cách chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng Đảng về đạo
đức chưa đạt mong muốn và yêu cầu. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, cải cách
hành chính chưa được như mong muốn và chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Niềm
tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ được nâng lên nhưng chưa bền vững. Chưa
kiểm soát tốt quyền lực trong bộ máy Đảng và chính quyền, mô hình, phương thức
kiểm soát quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng chưa rõ. Nội dung, phương
thức của đảng cầm quyền, mô hình bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả còn
chưa thật rõ.
Việc giải quyết các mối quan hệ lớn còn lúng túng, bị động, thiếu nhất quán. Chưa
được quán triệt và thực hiện trong mọi kế hoạch và công việc của các bộ, ngành, các
địa phương, cơ quan, đơn vị.

III. Nội dung Chiến lược ổn định và phát triển ổn định kinh tế - xã hội đến năm
2000 (Châu - Thùy)
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua nhằm đạt mục tiêu tổng quát là ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời
sống nhân dân và tạo điều kiện phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) đến năm 2000 được đặt mục tiêu tăng khoảng gấp đôi so với
năm 1990.
● Thực trạng kinh tế xã hội.
1. Nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển, bắt đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ mức độ rất thấp.
2. Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc khôi phục và phát triển sau
chiến tranh, nhưng nền kinh tế vẫn còn nặng tính chất tự cấp, tự túc, kỹ thuật và
cơ sở hạ tầng kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối và hiệu suất lao động thấp.
3. Khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, đi kèm với lạm phát nghiêm trọng, sản
xuất bấp bênh, tăng thất nghiệp, tiền lương không đủ sống, trật tự an toàn xã hội
không đảm bảo, và nhiều tệ nạn xã hội khác.
4. Những vấn đề trên có nguồn gốc từ lịch sử và hậu qmuả chiến tranh, nhưng chủ yếu
do sai lầm chủ quan, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và
trong cơ chế quản lý kinh tế. Những sai lầm này đã kìm hãm lực lượng sản xuất và
gây thiệt hại đến sự phát triển.
5. Đại hội VI của Đảng đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh
tế - xã hội, và đã có những thành tựu quan trọng trong việc hình thành nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, chuyển sang cơ chế thị trường và giảm lạm phát.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi vẫn chưa vững chắc và còn nhiều khó khăn và khuyết
điểm.
Trên cơ sở nhận định thực trạng trên, chiến lược đề ra nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, vượt qua khủng hoảng và tình trạng nghèo đói, cải thiện đời sống của
nhân dân và tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn trong thời kỳ mới.
● Các lợi thế và nguồn lực phát triển.
1. Nguồn nhân lực và con người Việt Nam:
- Nước ta có nguồn lao động dồi dào, với truyền thống yêu nước, cần cù, sáng
tạo và khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ.
- Tận dụng nguồn nhân lực và nhân tố con người làm thế mạnh của đất nước.
2. Tài nguyên thiên nhiên:
- Nước ta có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng.
- Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và tài nguyên sinh vật thuận lợi cho phát triển
nông-lâm-ngư nghiệp và xuất khẩu nông sản.
3. Vị trí địa lý:
Nước ta nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động và trên các tuyến giao thông
quốc tế quan trọng => mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển
thương mại và dịch vụ hàng hải, hàng không, du lịch.
4. Cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học - kỹ thuật:
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật tuy thiếu đồng bộ và phần lớn lạc hậu về công
nghệ, song là vốn ban đầu để đi lên, trong đó có một số cơ sở quan trọng
- Nguồn vốn trong dân và các đơn vị kinh tế có thể khai thác và phát huy
hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân cùng với mạng lưới đào
tạo và nghiên cứu có tiềm năng.
- So với yêu cầu phát triển, chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm về kinh
tế thị trường, thiếu những nhà kinh doanh và quản lý giỏi, những nhà khoa học
và công nghệ có tài năng, những công nhân lành nghề
5. Các nguồn lực ngoài nước:
Việt Nam có thể tận dụng khả năng về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý của bên ngoài thông qua quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học, xu thế hoà bình
và hợp tác quốc tế => phát huy sức mạnh trong nước.

● Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng cơ bản và lâu dài đã nêu trong
Cương lĩnh của Đảng, Chiến lược đến năm 2000 được xây dựng theo các
quan điểm phát triển dưới đây:
1. Phát triển kinh tế-xã hội THEO CON ĐƯỜNG củng cố độc lập dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người,
Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm
3. Khuyến khích tự lực tự cường, đầu tư vào sức sản xuất và tạo điều kiện cho
mỗi người Việt Nam phát huy ý chí.
4. Tạo ra một môi trường kinh doanh tự do và bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập
hợp pháp.
5. Thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước và khai thác lợi thế cạnh tranh.
6. Mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia khác và tận dụng lợi thế của đất
nước.
7. Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với ổn định chính trị và củng cố quốc phòng.

● Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế-xã hội, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém
phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, và
tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2000 tăng gấp đôi so với năm
1990.

Mục tiêu này bao gồm:


+ Một là: Vượt qua khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế-xã hội, đẩy lùi lạm
phát, ổn định đời sống nhân dân, cải thiện văn hoá và y tế, đẩy mạnh cải cách
kinh tế và quản lý, chống tham nhũng.
+ Hai là: Xoá nạn đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, tăng
cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Ba là: Củng cố hạ tầng kinh tế-xã hội, phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao
năng lực khoa học và công nghệ.
+ Bốn là: Củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự và môi trường hoà bình,
ổn định, hợp tác cho phát triển kinh tế.

IV. Tại sao Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường đi lên CNXH trong khi chế độ
CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng và sụp đổ
đầu thập niên 90?
Sau khi chế độ XHCN ở Liên xô, Đông Âu sụp đổ, một số cán bộ, đảng viên
hoang mang, dao động, niềm tin suy giảm, một số quay ngược lại, cá biệt có
người từ bỏ lý tưởng, ý thức hệ. Một số cán bộ trung, cao cấp, thậm chí cán bộ lý
luận ngại ngùng khi nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin, sợ bị cho là giáo điều, bảo thủ. Có
ý kiến cho rằng, đổi mới phải là đổi hướng, phải từ bỏ CNXH, từ bỏ chủ nghĩa Mác-
Lênin. Đòi đa nguyên, đa đảng. Một số ý kiến cố tình khai thác, khoét sâu vào những
yếu kém, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, quản lý của ta trong quá khứ để xuyên
tạc, vu cáo, bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta. Họ cố tình quy kết một cách sai trái những
yếu kém, khuyết điểm đó là do chủ nghĩa Mác-Lênin, do Đảng Cộng sản, do định
hướng XHCN. Ý kiến khác cho rằng không cần phải định hướng XHCN, chỉ cần dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là được. Họ cho rằng đi vào CNXH là
đi vào vết xe đổ Liên Xô, Đông Âu, là sự không tưởng, viển vông, theo họ, đã thực
hiện kinh tế thị trường thì không thể định hướng XHCN. Định hướng XHCN là sự cản
trở quá trình phát triển.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy không còn sự giúp đỡ của Liên Xô và các
nước XHCN như trước, nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa
học - công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển
được. Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ
vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát
triển kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là khả năng thực tế mà chúng ta
đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Mặt khác, không chỉ có thời cơ mà còn có cả những thách thức, những nguy cơ.
Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là
những trung tâm kinh tế kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn,
kỹ thuật và công nghệ hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong
những lúc chúng ta gặp khó khăn, buộc chúng ta phải chấp nhận những điều
kiện có lợi cho họ, hòng lái chúng ta đi chệch khỏi định hướng XHCN. Mặc dù
“hòa bình, hợp tác, phát triển” là xu hướng của thời đại nhưng còn một xu hướng
khác đối lập là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu toan của các thế lực cường
quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên nhiều khu vực của thế
giới đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển, đảo, xâm phạm độc lập,
chủ quyền của nước khác. Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần
có sự nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có
những chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu.
Chúng ta thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững
những vấn đề có tính nguyên tắc về mục tiêu chiến lược và mềm dẻo linh hoạt về sách
lược. Đấu tranh không phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển sự hợp tác. Phải biết
khéo lợi dụng những mâu thuẫn trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn
giữa các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự hợp tác vừa có lợi, vừa
bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu nhất, bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta hội nhập vào kinh tế
khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động hai chiều tích cực và
tiêu cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi kinh tế khu vực và kinh
tế thế giới ổn định phát triển, tác động tiêu cực khi kinh tế thế giới và kinh tế khu
vực rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Chúng ta cần có chính sách sử dụng tốt mặt tích
cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực, giữ cho nền kinh tế nước ta ổn định và phát
triển. Đây là bài học thực tế đã xử lý trước những tác động tiêu cực của cơn khủng
hoảng tài chính - tiền tệ và khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới trong thời
gian qua.
Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời
cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy cơ, chúng ta có
thể “phát triển rút ngắn” lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo
quan điểm của Lênin, Người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút
ngắn” và chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày
nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước
ta.
Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng, Việt Nam
đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, có đủ sức lực và
trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, cùng thời đại, nhất định thực hiện được mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

You might also like