Professional Documents
Culture Documents
1. Lịch sử chất siêu dẫn Năm 1911
1. Lịch sử chất siêu dẫn Năm 1911
Năm 1913
Cột mốc quan trọng tiếp theo trong việc tìm hiểu cách vật chất hoạt động ở
nhiệt độ cực lạnh xảy ra vào năm 1933. Các nhà nghiên cứu người Đức
Walther Meissner và Robert Ochsenfeld đã phát hiện ra rằng một vật liệu
siêu dẫn sẽ đẩy từ trường.
Một nam châm chuyển động trong dây dẫn sẽ tạo ra dòng điện trong dây
dẫn. Đây là nguyên lý hoạt động của máy phát điện. Tuy nhiên, trong chất
siêu dẫn, dòng điện cảm ứng phản ánh chính xác trường mà lẽ ra đã xuyên
qua vật liệu siêu dẫn - làm cho nam châm bị đẩy lùi. Hiện tượng này được
gọi là nghịch từ mạnh và ngày nay thường được gọi là "hiệu ứng Meissner"
(một từ đồng nghĩa). Hiệu ứng Meissner mạnh đến mức một nam châm thực
sự có thể bay lên trên một vật liệu siêu dẫn.
Năm 1941
Trong những thập kỷ tiếp theo, các kim loại, hợp kim và hợp chất siêu
dẫn khác đã được phát hiện
- Năm 1941, niobium-nitride được phát hiện là siêu dẫn ở nhiệt độ 16 K
- Năm 1953, vanadi-silicon thể hiện đặc tính siêu dẫn ở nhiệt độ 17,5 K.
- Và vào năm 1962, các nhà khoa học tại Westinghouse đã phát triển dây
siêu dẫn thương mại đầu tiên, một hợp kim của niobi và titan (NbTi).
- Nam châm điện máy gia tốc hạt, năng lượng cao làm bằng niobium-titan
phủ đồng sau đó được phát triển vào những năm 1960 tại Phòng thí nghiệm
Rutherford-Appleton ở Anh, và lần đầu tiên được sử dụng trong máy gia tốc
siêu dẫn tại Fermilab Tevatron ở Mỹ vào năm 1987.
Năm 1957
Lý thuyết đầu tiên được chấp nhận rộng rãi về tính siêu dẫn được nâng cao
vào năm 1957 bởi các nhà vật lý người Mỹ John Bardeen, Leon Cooper và
John Schrieffer. Lý thuyết về tính siêu dẫn của họ được gọi là lý thuyết BCS
- bắt nguồn từ chữ cái đầu tiên trong họ của mỗi người - và đã mang lại cho
họ giải thưởng Nobel vào năm 1972.
Lý thuyết BCS phức tạp về mặt toán học giải thích tính siêu dẫn ở nhiệt độ
gần bằng 0 tuyệt đối đối với các nguyên tố và hợp kim đơn giản . Tuy
nhiên, ở nhiệt độ cao hơn và với các hệ thống chất siêu dẫn khác nhau, lý
thuyết BCS sau đó trở nên không đủ để giải thích đầy đủ hiện tượng siêu
dẫn xảy ra như thế nào.
Năm 1962
- Một tiến bộ lý thuyết khác đến vào năm 1962 khi Brian D. Josephson (ở
trên), một sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Cambridge, dự đoán rằng dòng
điện sẽ chạy giữa 2 vật liệu siêu dẫn – ngay cả khi chúng bị ngăn cách bởi
chất không siêu dẫn hoặc chất cách điện.
Dự đoán của ông sau đó đã được xác nhận và giúp ông giành được giải
thưởng Nobel Vật lý năm 1973. Hiện tượng xuyên hầm này ngày nay được
gọi là “hiệu ứng Josephson” và đã được áp dụng cho các thiết bị điện tử như
SQUID, một thiết bị có khả năng phát hiện ngay cả những từ trường yếu
nhất.
hạn và J là mật độ dòng tới hạn sẽ được trình bày ở các mục sau.
c
từ trường tới hạn . là hàm của nhiệt độ: , với H là từ trường tại T = 0
0
và tại T = T thì
c .
Đường cong H phụ thuộc vào T được gọi là đường cong ngưỡng. Nó là ranh giới phân chia
c
giữa trạng thái siêu dẫn và trạng thái thường. Bên trong đường cong ngưỡng thuộc trạng thái
siêu dẫn và bên ngoài đường cong ngưỡng thuộc trạng thái thường.
5. Dòng tới hạn
Dòng cực đại đạt được trong trạng thái siêu dẫn được gọi là dòng tới hạn. Nói cách
khác, dòng tới hạn trong trạng thái siêu dẫn là dòng điện lớn nhất khi điện trở của chất siêu
dẫn xem như bằng 0. Kí hiệu . Khi trong dây siêu dẫn có dòng điện I lớn hơn dòng tới hạn
thì trạng thái siêu dẫn bị phá vỡ.
Ngoài khái niệm dòng tới hạn, người ta còn sử dụng khái niệm mật độ dòng tới hạn
để thay thế. Đó là giá trị dòng tới hạn trên một đơn vị diện tích bề mặt vật dẫn. Đơn vị thường
dùng là A/cm . Giá trị phụ thuộc rất mạnh vào từ trường và đường kính của dây siêu dẫn.
2
loại I và loại II
Chú ý: λ, ξ vµ κ là 3 thông số vĩ mô đặc trng trong trạng thái SD.
( ) -> Độ thấm sâu của từ trường vào trong chất SD
( ) -> Khoảng cách các vùng có nS thay đổi rất chậm trong từ trường.
( ) -> Tiêu chuẩn để phân biệt SD loại I và II
- Chất siêu dẫn khi đặt trong từ trường rộng, ở một giá trị nhất định sẽ mất tính chất siêu dẫn.
2
T
- Từ trường làm phá hủy tính chất siêu dẫn gọi là từ trường tới hạn ( H c ). H c =H 0 (1− 2
)
Tc
H 0 là từ trường ở 0K
H c là từ trường ở TK
- Trạng thái siêu dẫn ổn định trong phạm vi từ trường và nhiệt độ xác định
- Trạng thái dẫn điện bình thường ổn định hơn ở nhiệt độ cao và từ trường cao.
- Khi dòng điện qua chất siêu dẫn vượt quá một giá trị tới hạn thì tính chất siêu dẫn sẽ bị phá
hủy.
- Mật độ dòng điện tương ứng với từ trường tới hạn được gọi là mật độ dòng tới hạn J c .
Với B=μ0 I /2 πr
Từ đó I c =2 πr Bc /μ 0 được gọi là quy tắc Silsbee, dòng điện tối thiểu trong vật liệu không phá
hủy tính siêu dẫn.
2 Bc
Vì vậy, mật độ dòng tới hạn là J c =
μ0 r
3. Sơ đồ pha:
Tại T c, xảy ra quá trình chuyển từ trạng thái bình thường sang trạng thái siêu dẫn. Nhiệt độ
này của vật liệu thay đổi theo khối lượng đồng vị.
1
Tc
√M
T c √ M =hằng số
Tức là √ M 1 T c =√ M 2 T c = √ M 3 T c
1 2 3
Khi một vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ T > T c, được đặt trong từ trường rộng, các đường cảm ứng
từ đi qua cơ thể của nó, nhưng khi nó nguội đi dưới nhiệt độ tới hạn tức là T < T c, những
đường cảm ứng từ này bị đẩy ra khỏi vật liệu siêu dẫn.
Điều này được gọi là hiệu ứng Meissner, là tính chất đặc trưng của chất siêu dẫn.
“Chất siêu dẫn loại trừ toàn bộ từ thông bên trong nó”
Với B=μ0 ( H + M )
M
Khi B=0 hoặc = χ =−1
H
Độ cảm ứng âm cho thấy vật liệu hoạt động như vật liệu nghịch từ B=0 , không tuân theo điện
trở suất bằng 0 ( ρ=0)
Đối với vật liệu có điện trở suất bằng 0 thì cảm ứng từ không nhất thiết phải bằng 0; B=0
không phải là tính chất đặc biệt của chất siêu dẫn. Lực đẩy mạnh mẽ này của từ trường bên
ngoài được gọi là hiệu ứng bay lên.
Nhiệt độ tới hạn của chất siêu dẫn nguyên tố thấp hơn so với hợp chất siêu dẫn.
T c cao nhất được tìm thấy là 138K trong trường hợp của Hg-Tl-Ba-Ca-Cu-O
Từ phương trình London B ( x ) =B ( 0 ) e− x/ λ đó là khoảng cách mà các đường sức từ xuyên qua
L
√
λ L là độ sâu thâm nhập ¿ (
m
n q 2 μ0
)
Trong đó, độ dài kết hợp là phạm vi trong trong chất siêu dẫn trong đó các electron siêu dẫn
vẫn ở trạng thái cũ trong từ trường thay đổi theo không gian.
Điện trở suất của chất siêu dẫn đột ngột giảm về 0 cho thấy các electron trong vật liệu đột
ngột chuyển sang trạng thái giống nhau (10−4 cm) một trật tự tầm xa.