You are on page 1of 42

Vụ thềm lục địa biển Bắc

Nhóm Thực Hiện:


Phạm HiềnTrang H33
Nguyễn Hồng Vân H33
Lê Thị Hải Ninh H33
Nguyễn Mạnh Cầm D32
I. GIỚI THIÊU
̣ SƠ LƯỢC VỀ VỤ VIÊC
̣

II. DIỄN BIẾN VỤ VIÊC ̣


1. Special Agreement giữa Đức và Đan Mạch và giức Đức và Hà
Lan
2. Nghị định thư giữa 3 chính phủ
3. Lâ ̣p luâ ̣n của Đức
4. Lâ ̣p luâ ̣n của Đan Mạch và Hà Lan

III. PHÁN QUYẾT CỦA TÒA

IV. KẾT LUẬN


GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ VỤ VIÊC
̣
• Vụ thềm lục địa biển bắc là vụ tranh chấp giữa Đức,
Hà Lan và Đan Mạch về việc phân chia thềm lục địa
biển bắc. Bằng 2 bản hiệp định đặc biệt giữa Hà Lan
và Đức và giữa Đức với Đan Mạch các bên đã đưa
vụ tranh chấp lên Toà án công lý quốc tế (ICJ).

• Các bên yêu cầu Toà đưa ra phán quyết về nguyên


tắc phân định thềm lục địa giữa các bên dựa trên cơ
sở xem xét 1 phần đường biên giới thềm lục địa giữa
Hà Lan_ Đức và giữa Đức _Đan Mạch được xác
định trong hai hiệp định giữa Hà Lan và Đức(12/64)
và Hiệp định Đức_Đan mạch(6/65).
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ VỤ VIÊC
̣
• Hiệp định giữa Hà Lan và Đức quy định 1 phần
đường biên giới thềm lục địa giữa hai nước là AB và
việc xác định này dựa trên ngtắc đường trung tuyến.

• Hiệp định giữa Đan Mạch và Đức quy định 1 phần


đường biên giới giữa 2 nước là CD và việc xác định
này cũng dựa trên nguyên tắc đường trung tuyến.

• Hiệp định giữa Đan Mạch và Hà Lan (31/3/66) cũng


xác định đường biên giới thềm lục địa giữa hai nước
này là EF và việc xác định này cúng hoàn toàn dựa
trên nguyên tắc đường trung tuyến.
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ VỤ VIÊC
̣
• Việc xác định đường biên giới thềm lục địa giữa Hà lan
và Đan Mạch dựa trên ngtắc đường trung tuyến như
làm cho các đường biên giới phân chia thềm lục địa
giữa Đức_Đan mạch và đường biên giới giữa Đức và Hà
Lan hội tụ ở điểm gần hơn( là điểm F chứ ko phải là
điểm E). Việc này làm cho phần thềm lục địa của Đức bị
thu hẹp lại. Đức cho rằng phần thềm lục địa mà Đức
được hưởng phải là cả tam giác CFA trong khi đó nếu
các đường biên giới hội tụ tại điểm gần hơn thì phần
thềm lục địa của Đức chỉ là phần đa giác CDFBDA.

• Trong khi đó, việc xác định đường biên giới thềm lục địa
như trên làm mở rộng phần thềm lục địa của Hà
Lan(thêm phần diện tích của tam giác FEB) và tương tự
như vậy thì Đan mạch cũng được thêm phần diện tích
tam giác FED.
DIỄN BIẾN VỤ VIỆC
1. Special Agreement giữa Đức và Đa
n Mạch và giức Đức và Hà Lan

2. Nghị định thư giữa 3 chính phủ

3. Lâ ̣p luâ ̣n của Đức

4. Lâp̣ luâṇ của Đan Mạch và Hà Lan


Special Agreement giữa Đức và Đan Mạch và giức Đức và Hà Lan

• Chúng tôi đề nghị ICJ quyết định những vấn đề sau: những
nguyên tắc và quy định nào của luâ ̣t quốc tế được áp dụng cho
viêc̣ phân định biên giới giữa các bên của vùng thềm lục địa biển
bắc bên ngoài biên giới từng bên được quy định bởi công ước nói
trên thông qua 9/6/1965
• Chính phủ Đan Mạch, Đức và Hà Lan sẽ phân định thềm lục địa
biển Bắc giữa 3 nước thông qua thỏa thuâ ̣n theo đúng phán quyết
mà ICJ đã đề ra
• Các bên sẽ đê ̣ trình văn bản yêu cầu lên tòa theo đúng trình tự
sau:
Memorial của Đức phải được đê ̣ trình lên tòa trong vòng 6 tháng
kể từ ngày các bên tuyên bố Special Agreement, Counter
Memorial của Đan Mạch và Hà Lan hải được đê ̣ trình trong vòng
6 tháng kể từ ngày Đức đê ̣ trình bản Memorial lên tòa. Bản trả lời
của Đức phải được gửi ngay sau Counter memorial của Đan
Mạch và Hà Lan trong khoảng thời gian tòa quy định. Ngoài ra
những văn bản bổ sung có thể được đê ̣ trình nếu các bên đề nghị.
Nghị định thư giữa 3 chính phủ
• Theo điều 31 khoản 5 quy chế ICJ thì Đan Mạch và Hà
Lan được coi là 1 bên cùng quyền lợi, và 2 bên cùng
chọn 1 thẩm phán ad hoc trong vụ viêc̣ này

• Theo điều 31 khoản 3 quy chế ICJ Đức cũng đã chọn
thẩm phán ad hoc cho mình.

• Phiên điều trần sẽ được tổ chức vào thời gian sau:
23 - 25/10/1968
28/10 - 1/11/1968
4,5,7,8,11/11/1968
Lập luận của Đức
Lâ ̣p luâ ̣n của Đức

1. The principle of the just and equitable share –


Nguyên tắc phân chia công bằng và xác đáng

2. The equidistance line – đường trung tuyến

3. The Polar sector theory – Học thuyết hình quạt


The principle of the just and equitable share
Đức chỉ ra rằng có rất nhiều thực tiễn quốc gia từ
năm 1945 cho thấy rõ việc áp dụng nguyên tắc
đó, một vài ví dụ cụ thể như sau:

• 28/9/1945, trong tuyên bố của tổng thống Mỹ


Truman về thềm lục địa của các quốc gia ven
biển có đoạn
The principle of the just and equitable share
• 19/5/1949, quốc hội Iran đã đệ trình bản dự luật
trong đó điều 2 có đoạn

• 5/6/1949, các quốc gia ven biển kề nhau Barhrein


Qatar Kuwait Abu Dhabi… đã tuyên bố phương
thức phân định chủ quyền thềm lục địa của các
nước đó theo nguyên tắc:
Năm 1958 trong khi tranh luận về việc soạn thảo
công ước luật biển, cũng có rất nhiều quan điểm
tương tự:
• Đại diện phái đoàn Anh, Kennedy:

• Đại diện phái đoàn Ý:

• Đại diện phái đoàn Mỹ:


The principle of the just and equitable share
Nguyên tắc này trở thành một học thuyết
The principle of the just and equitable share
Dựa trên các lập luận trên về nguyên tắc này,
Đức cho rằng:

Trong trường hợp lãnh thổ của môṭ số quốc gia
cùng tiếp giáp với môṭ thềm lục địa thì mỗi quốc
gia đó phải được phân chia môṭ phần công bằng
và xác đáng của thềm lục địa đó, bất kể phương
pháp xác định các ranh giới giữa các quốc gia có
liên quan như thế nào.
The equidistance line
• Art 6 . Where the same continental shelf is adjacent to the territories
of two adjacent States, the boundary of the continental shelf shall be
determined by agreement between them. In the absence of
agreement, and unless another boundary line is justified by special
circumstances, the boundary shall be determined by application of
the principle of equidistance from the nearest points of the baselines
from which the breadth of the territorial sea of each State is
measured.

• Điều 6 : Trong trường hợp các quốc gia liền kề nhau cùng nằm sát
cạnh một thềm lục địa, ranh giới sẽ được xác định dựa trên thoả
thuận giữa các quốc gia này; trong trường hợp không có thoả
thuận chung, và trừ trong trường hợp đặc biệt, đường biên giới sẽ
được áp dụng bằng nguyên tắc đường trung tuyến, từ điểm gần
nhất của đường cơ sở, mà theo đó, bề rộng lãnh hải của quốc gia
đựơc xác định.
The equidistance line

Qua đó có thể thấy rằng việc vẽ và xác


định đường trung tuyến không tuân theo
một nguyên tắc nhất định nào như việc
kẻ thẳng nó như Hà Lan và Đan Mạch
thực hiện mà đều dựa trên nguyên tắc
phân chia công bằng và xác đáng giữa
các bên có chủ quyền.
Lập luận của Đức
Trong trường hợp lãnh thổ của mô ̣t số quốc gia cùng tiếp giáp
với mô ̣t thềm lục địa thì mỗi quốc gia đó phải được phân chia
mô ̣t phần công bằng và xác đáng của thềm lục địa đó, bất kể
phương pháp xác định các ranh giới giữa các quốc gia có liên
quan như thế nào.

I. Phương pháp phân chia ranh giới thềm lục địa theo đó mỗi
điểm trên ranh giới có khoảng cách bằng nhau tới các điểm gần
nhất của đường cơ sở mà bề rô ̣ng lãnh hải của mỗi quốc gia
được tính toán (phương pháp đường trung tuyến) không phải là
tâ ̣p quán luâ ̣t quốc tế và do đó không thể áp dụng để phân định
ranh giới thềm lục địa giữa các bên

II. Phương pháp đường trung tuyến không thể sử dụng để phân
định thềm lục địa trừ khi phương pháp đó́ đã̃ được công nhâ ̣n
theo thỏa thuâ ̣n hoă ̣c xét xử trước rằng phương pháp này sẽ đạt
được mục tiêu phân chia thềm lục địa mô ̣t cách công bằng và
xác đáng giữa các quốc gia có liên quan.
The equidistance line
Đồng thời điều 6 công ước thềm lục địa không thể được coi là cấu
thành nên một tập quán quốc tế, trong khi còn có nhiều quốc gia
cũng đã phản bác nó, như vậy yếu tố thực tiễn quốc gia là không đủ
để cấu thành nên tập quán quốc tế theo điều 6 nêu trên. Phương
pháp đường trung tuyến theo điều 6 chỉ là một phương pháp phân
định, không mang tính ràng buộc các bên bắt buộc áp dụng và điều
này trên thực tế đã được chứng minh rằng không có bất kỳ một văn
bản pháp lý nào chỉ ra phạm vi áp dụng của điều 6 hay coi đây là
phương pháp ưu tiên và bắt buộc áp dụng để phân định thềm lục
địa. Hơn nữa theo điều 6 khoản 2, với địa hình đặc biệt của quốc
gia ven biển thì điều này chắc chắn cũng không thể được áp dụng.
Và bởi nó không đảm bảo được rằng nó là phương pháp thích hợp
để phân định và tạo ra một sự phân chia công bằng và xác đáng.
The Polar sector theory
Lập luận của Đức
Đề nghị quý tòa công nhận và tuyên bố:
1. Sự phân định thềm lục địa Biển Bắc giữa các bên được điều chỉnh bởi quy tắc cho phép
mỗi quốc gia có bờ biển sẽ được phân chia mô ̣t cách công bằng và xác đáng.
2. (a) Phương pháp phân chia ranh giới thềm lục địa theo đó mỗi điểm trên ranh giới có
khoảng cách bằng nhau tới các điểm gần nhất của đường cơ sở mà bề rô ̣ng lãnh hải của
mỗi quốc gia được tính toán (phương pháp đường trung tuyến) không phải là tâ ̣p quán
luâ ̣t quốc tế.
(b) Quy định tại câu thứ 2 đoạn 2 điều 6 của Công ước thềm lục địa, quy định rằng khi
không có sự nhất trí, và trừ phi mô ̣t ranh giới có địa hình đă ̣c biêt,̣ ranh giới đó sẽ được
xác định theo nguyên tắc đường trung tuyến chưa trở thành tâ ̣p quán luâ ̣t quốc tế.
(c) Ngay cả khi quy định tại (b) có thể được áp dụng giữa các bên, các địa hình đă ̣c biêṭ theo
nghĩa của quy định này sẽ loại trừ khả năng áp dụng phương pháp đường trung tuyến
trong trường hợp này
3. (a) Phương pháp đường trung tuyến không thể sử dụng để phân định thềm lục địa trừ
khi phương pháp đó đã được công nhâ ̣n qua thỏa thuận, án lê ̣ rằng phương pháp này sẽ
đạt được mục tiêu phân chia thềm lục địa mô ̣t cách công bằng và xác đáng giữa các
quốc gia có liên quan.
(b) Về viêc̣ phân định thềm lục địa Biển Bắc giữa các bên, Vương quốc Đan Mạch và
Vương quốc Hà Lan không thể dựa vào viêc̣ áp dụng phương pháp đường trung tuyến,
vì nó không mang lại kết quả phân chia công bằng.
4. Do đó, viêc̣ phân định thềm lục địa Biển Bắc giữa các bên là mô ̣t vấn đề cần phải được
giải quyết bằng thỏa thuâ ̣n. Thỏa thuâ ̣n này phải phân chia phần thềm lục địa cho các
bên mô ̣t cách công bằng và xác đáng dựa trên những yếu tố có liên quan
Lập luận của Đức
Kết luâ ̣n
(I) Khi phân chia thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biền, đô ̣
rô ̣ng vùng lãnh hải giáp biển Bắc của các quốc gia này nên được
xem là tiêu chuẩn cơ bản để xác định liêụ viêc̣ phân chia cho các
quốc gia này có công bằng và xác đáng hay không.

(II) Sự phân chia thềm lục địa công bằng nhất giữa các quốc gia có
bờ biển sẽ là mô ̣t sự phân chia dựa trên bề rô ̣ng lãnh hải giáp
với biển Bắc của các quốc gia đó.

(III) Về viêc̣ phân định ranh giới thềm lục địa giữa các bên, không
thể áp dụng được phương pháp đường trung tuyến, bởi vì
phương pháp này không thể phân chia được mô ̣t phần công
bằng và̀ xác đáng cho Công hòa Liên bang Đức.

(IV) Đường ranh giới phân chia thềm lục địa giữa các bên phải được
quyết định qua thỏa thuâ ̣n theo phán quyết của Tòa.
Lâp̣ luâṇ của Đan Mạch và Hà Lan
Counter-memorial của Hà Lan mong tòa công nhâ ̣n và tuyên bố:
• Việc phân định giữa các bên về các vùng kể trên của thềm lục địa
trong biển bắc đc điều chỉnh bởi các nguyên tắc và quy phạm của
luật quốc tế đc nêu ở điều 6 khoản 2 của công ước Giơnevơ về
thềm lục địa năm 1958.

• Giữa các bên đang tranh chấp, biên giới giữa các nước đc phân
định bằng việc áp dụng nguyên tắc cách đều từ những điểm gần
nhất của các đường cơ sở từ chiều rộng của lãnh hải của mỗi nước
đc xác định, trừ phi các đường biên giới khác đc thừa nhận trong
các trường hợp đặc biệt.

• Các trường hợp đặc biệt thừa nhận đường biên giới khác ko đc
thiết lập, biên giới giữa các bên đc phân định bằng cách áp dụng
nguyên tắc cách đều đc nêu trong đơn đệ trình trước đó.
Lâp̣ luâṇ của Đan Mạch và Hà Lan
Đại diện chính phủ Đan Mạch và Hà Lan, trong
bản tuyên bố chung mong tòa công nhâ ̣n và
tuyên bố:

Nếu các nguyên tắc và qui phạm của luật quốc tế


được đề cập trong bản đệ trình 1 của Counter-
memorial tương ứng ko được áp dụng giữa các
bên, biên giới sẽ được phân định giữa các bên
trên cơ sở các quyền riêng của mỗi bên về thềm
lục địa gần kề với bờ biển mỗi nước và nguyên
tắc là đường biên giới giữ lại cho mỗi nước các
điểm của thềm lục địa mà nằm gần bờ biển của
nước đó hơn là bờ biển của nước khác.
Lâp̣ luâṇ của Đan Mạch và Hà Lan
• Đại diện chính phủ Đan Mạch, tại phiên tòa 11/11/1968
Cố vấn chính quyền Đan Mạch tuyên bố rằng họ xác
nhận các bản đệ trình đã đc thể hiện trong bản ghi nhớ
(Counter memorial) và trong bản kháng cáo chung và
rằng những bản đệ trình đó là đồng nhất với những bản
của chính quyền Hà Lan.

• Đại diện chính phủ Hà Lan tại phiên tòa 11/11/1968


Quan tâm đến việc phân định giữa CHLB Đức Vương
quốc Hà Lan về các đường ranh giới của các vùng thuộc
thềm lục địa trong biển bắc thuộc về mỗi nước nằm bên
ngoài phần biên giới đc phân định bởi Thoả ước
1/12/1964.
Lâp̣ luâṇ của Đan Mạch và Hà Lan
Mong tòa công nhâ ̣n và tuyên bố:
• Hai special agreement liên quan đã được kí kết giữa CHLB
Đức và Vương Quốc Đan Mạch; giữa CHLB Đức và Vương
quốc Hà Lan, các bên đã đề trình lên toà án những sự khác
biệt chính liên quan đến “phân định vùng thềm lục địa biển
Bắc giữa các bên” với trường hợp đặc biệt các vùng đó, tình
hình của những vùng tiếp giáp bờ biển, mà đã có những thoả
thuận đặc biệt phân định thềm lục địa giữa CHLB Đức và Đan
Mạch 9/6/1965; CHLB Đức và Hà Lan 1/12/1964.

• theo sự phân định thềm lục địa vùng nằm ngoài và tới hướng
biển bị ảnh hưởng đó bởi các đường giới hạn do dó đã được
thiết lập. Các bên không đề nghị toà hoạch định các đường
biên giới tương lai này mà yêu cầu toà án chỉ ra những qui tắc
và qui phạm nào của Luật quốc tế sẽ được áp dụng trong
trường hợp này. Các bên sẽ tự hoạch định trên cơ sở phán
quyết của Toà.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA
Phán quyết của tòa được thông qua với 16 phiếu thuâ ̣n
và 6 phiếu trống với nô ̣i dung chủ yếu như sau:
• Học thuyết “phân chia theo tỉ lệ đường bờ biển” là
không hợp lý.
• Công ước Geneve 1958 không có tính ràng buộc về mặt
pháp lý đối với cộng hòa liên bang Đức
• Quy tắc đường trung tuyến không phải là nguyên tắc
sẵn có trong hệ thống học thuyết cơ bản về thềm lục địa
• Nguyên tắc đường trung tuyến không phải là nguyên tắc
của luật tập quán quốc tế.
• Cách giải quyết của tòa, các nguyên tắc nên được áp
dụng
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA
Theo báo cáo ngày 20/2/1969 ICJ:

73) Đối với những nhân tố khác thường được xem là cần thiết trước khi cân
nhắc 1 quy định quy ước để trở hành quy phạm chung của luâ ̣t quốc tế, có thể
thâ ̣m chí không cần phải trải qua khoảng thời gian nào đáng kể, mà chỉ cần sự
đại diêṇ tham gia công ước rô ̣ng khắp là đủ, với điều kiêṇ phải bao gồm cả sự
tham gia của những quốc gia có lợi ích đă ̣c biêṭ bị tác đô ̣ng.

74) Về nhân tố thời gian, tòa ghi nhâ ̣n đã trên 10 năm trôi qua kể từ khi công
ước được kí kết và không dưới 5 năm kể từ khi công ước có hiêụ lực 6/1964, đã
gần 3 năm vụ này được xét xử và gần 1 năm kể từ khi những cuô ̣c đàm phán
phân định thềm lục địa giữa Đức, Đan Mạch và Hà Lan thất bại hoàn toàn
trên vấn đề áp dụng nguyên tắc đường cách đều. Mă ̣c dù khoảng thời gian
ngắn không nhất thiết và bản thân nó cũng không phải là vâ ̣t cản cho sự hình
thành mô ̣t quy phạm mới của luâ ̣t tâ ̣p quán quốc tế trên cơ sở bắt nguồn từ 1
quy phạm hoàn toàn quy ước, nhưng 1 điều kiêṇ không thể thiếu là trong
khoảng thời gian này, tuy ngắn ngủi, thì thực tiễn quốc gia bao gồm cả thực
tiễn của những nước có lợi ích đă ̣c biêṭ bị ảnh hưởng, nên rô ̣ng rãi và nhất
quán hết mức có thể với điều khoản viêṇ dẫn, và ngoài ra nên diễn ra theo cách
thể hiêṇ sự công nhâ ̣n chung liên quan tới 1 quy phạm của luâ ̣t hoă ̣c nghĩa vụ
pháp lý.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA
75) Tòa phải xem xét liêụ ngoài công ước Giơnevo về thềm lục đia
năm 1958 thì thực tiễn quốc gia trong viêc̣ phân định thềm lục
địa có thỏa mãn yêu cầu này không

77) Điều mấu chốt cần phải nhấn mạnh là ngay khi 1 số ví dụ về
hoạt đô ̣ng của các quốc gia không phải thành viên công ước
nhiều hơn cả trong thực tế, thì chúng cũng không đủ để tạo
thành opinio juris. Vì để có kết quả như vâ ̣y cần phải đạt được 2
điều kiên:̣ không chỉ cần đủ hành đô ̣ng để có 1 thực tiễn ổn định,
mà những hành đô ̣ng ấy còn phải được tiến hành như 1 bằng
chứng của 1 niềm tin rằng hành đô ̣ng ấy là nghĩa vụ bắt buô ̣c
theo yêu cầu của 1 quy phạm pháp luâ ̣t đang tồn tại. Sự cần thiết
phải có niềm tin ấy, nghĩa là sự tồn tại của 1 nhân tố chủ quan
được ngụ ý trong khái niêm ̣ opinio juris sive necessitatis. Vì vâ ̣y
các quốc gia liên quan phải cảm thấy họ đang tuân thủ điều tạo
nên 1 nghĩa vụ pháp lý. Bản thân tính thường xuyên hoă ̣c thâ ̣m
chí thói quen của các hành đô ̣ng thôi vẫn chưa đủ.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA
• Tòa cho rằng trong số các cases Hà Lan và Đan
Mạch đưa ra, việc áp dụng nguyên tắc đường
trung tuyến trong các trường hợp này ở những
điều kiện khác với trường hợp toà đang xem xét,
do đó, nó không thể là chứng cớ quan trọng cho
việc áp dụng một nguyên tắc nhất quán và rộng
rãi.Mặt khác, tòa cũng lập luận, mặc dù có thực
tiễn thực hiện quy tắc đường trung tuyến trong
phân chia thềm lục địa, nhưng không có bằng
chứng chứng minh các nước đó khi thực hiện
hành động cho rằng họ cảm thấy họ thực hiện dựa
trên sự cho rằng đó là luật.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA
79) Sau cùng có vẻ như trong hầu hết các vụ được trích dẫn thì
sự phân định có liên quan đều là phân định thềm lục địa nằm giữa
2 quốc gia chứ không phải ở bên sườn các quốc gia gần kề. Tòa án
chỉ đơn giản cho rằng chúng không đủ thuyết phục để coi là bằng
chứng cho 1 thực tiễn ổn định thể hiêṇ trong những hoàn cảnh mà
tòa đang xem xét, theo đó nguyên tắc đường cách đều là 1 nguyên
tắc băt buô ̣c của luâ ̣t tâ ̣p quán quốc tế, đă ̣c biêṭ trong trường hợp
có liên quan đến sự phân định giữa các quốc gia liền kề
81) Vì vâ ̣t tòa kết luâ ̣n rằng nếu công ước Giơnevơ không tuyên
bố nguyên tắc đường cách đều là nguyên tắc bắt buô ̣c để phân
định thềm lục địa giữa các quốc gia liền kề trong luâ ̣t tâ ̣p quán
quốc tế thì công ước đó không có hiêụ quả pháp lý hình thành 1
quy phạm như vâ ̣y, cũng như thực tiễn quốc gia cho đến nay chưa
đủ để có kết luâ ̣n
83) Vì vâ ̣y các bên quốc gia không có nghĩa vụ phải áp dụng cả
công ước 1958 vốn không đối lâ ̣p với luâ ̣t của cô ̣ng hòa liên bang
lẫn biêṇ pháp phân định lấy đường trung tuyến làm mốc như là 1
quy phạm bắt buô ̣c của luâ ̣t tâ ̣p quán.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA

Nói tóm lại, thực tiễn chung của các quốc gia nên
được công nhâṇ là có bằng chúng prima facie có
thể chấp nhâṇ là luâṭ . Dĩ nhiên bằng chứng này
còn phải được bàn luâṇ thâm ̣ chí kiểm tra chính
bản thân thực tiễn ấy, nếu nó chứng to sự không
chắc chắn và mâu thuẫn. Ngoài ra có thể có tranh
cãi về viê ̣c kiểm tra opinio juris đối với các quốc
gia đang được nói đến hay chỉ các bên của 1 vụ
nào đó mà thôi
KẾT LUẬN

Tâ ̣p quán quốc tế được tạo nên bởi thực tiễn quốc
gia. Xét về mă ̣t số lượng của thực tiễn cần thiết để
tạo nên 1 quy phạm tâ ̣p quán thì số lượng các
quốc gia tham gia hoạt đô ̣ng thực tiễn quan trọng
hơn hâ ̣u quả hoă ̣c thời lượng của các hoạt đô ̣ng
thực tiễn đó. Tình trạng không thống nhất phổ
biến trong thực tiễn quốc gia sẽ ngăn cản hình
thành mô ̣t quy phạm tâ ̣p quán. Mô ̣t quốc gia sẽ
không bi ràng buô ̣c bởi mô ̣t quy phạm tâ ̣p quán
nếu quốc gia đó liên tục phản đối quy phạm ấy
ngay từ khi bắt đầu hình thành.
The end…

You might also like