Professional Documents
Culture Documents
Thuc Hanh Van Ban Tieng Viet 2020
Thuc Hanh Van Ban Tieng Viet 2020
Ở văn bản (1), câu cuối là câu kết đề, đồng thời
cũng là câu nêu lên chủ đề.
(2) Khuyên thanh niên
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Ðào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
(Hồ Chí Minh)
Câu cuối vừa câu kết đề vừa là câu chủ đề.
Các đặc trưng của văn bản
1. Tính hoàn chỉnh
VB hoàn chỉnh là VB có đề tài và chủ đề được triển khai trọn
vẹn, chính xác, thể hiện qua hệ thống các cấp độ đơn vị ngôn
từ bậc dưới được tổ chức đúng quy tắc và được phân bố theo
một trật tự hợp lí. Nếu tình thái chủ quan của VB xuất hiện thì
nội dung tình thái phải phù hợp với hướng triển khai chủ đề và
nhất quán trong toàn VB.
Trọn vẹn: không thiếu cũng không thừa đối với chủ đề
Chính xác: các sự việc, ý kiến dùng để triển khai nội dung VB
phải phản ánh đúng thực tế khách quan hay thực tế tâm lí con
người.
2. Tính thống nhất
VB thống nhất là VB tập trung vào việc thể hiện một hay một
vài đề tài và chủ đề có liên quan cùng với nội dung tình thái
phù hợp, nhất quán, được hiện thực hoá qua hệ thống các cấp
độ đơn vị ngôn từ chức năng dưới bậc kết hợp chặt chẽ với
nhau tạo thành một chỉnh thể.
3. Tính liên kết
Tính liên kết (LK) của VB là tính chất kết hợp, gắn bó giữa các
cấp độ đơn vị ngôn từ dưới bậc về mặt nội dung, được thể hiện
qua hình thức biểu đạt, nhằm từng bước hiện thực hoá VB.
- Tính LK được xác lập ở bình diện nội dung gọi là LK nội dung.
- Tính LK được hiện thực hoá bằng hệ thống các phương tiện
ngôn từ cụ thể gọi là LK hình thức.
LK nội dung của VB
LK nội dung thể hiện ở đề tài và chủ đề. LK nội dung quyết định
LK hình thức.
a. LK đề tài: thể hiện qua mối quan hệ giữa các ngữ đoạn biểu
thị đối tượng bàn luận trong VB.
Có hai loại LK đề tài:
- Trong VB chỉ đề cập đến một hay hai đề tài
Ta dùng phép lặp từ, thay thế bằng từ đồng nghĩa, đồng quy chiếu
hay tỉnh lược cấu trúc cú pháp của câu. LK này chỉ xuất hiện
trong VB ngắn.
- Trong VB đề cập đến nhiều đề tài
Các đề tài có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể có các loại đề tài
như: đề tài chính, đề tài phụ, đề tài toàn thể, đề tài bộ phận.
Mối quan hệ giữa các đề tài có thể là: quan hệ toàn thể - bộ
phận, cái chung – cái riêng, cùng loại, không gian, thời gian,
nhân quả…
LK nội dung của VB
b. LK chủ đề
“LK chủ đề là sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp độ
đơn vị ngôn từ dưới bậc nhằm triển khai, làm nổi bật
chủ đề của VB. Nếu LK đề tài thể hiện qua các ngữ
đoạn biểu thị đối tượng được trần thuật, miêu tả, bàn
luận, thì LK chủ đề thể hiện qua các từ ngữ biểu thị
nội dung trần thuật, miêu tả, bàn luận về đề tài.”
Chủ đề của VB có thể hiển ngôn hoặc hàm ngôn.
Trong VB khoa học, chủ đề thường hiển ngôn.
LK hình thức của VB
“Toàn bộ hệ thống các phương tiện ngôn từ có giá trị
hiện thực hoá mối quan hệ về nội dung của VB là LK
hình thức.”
Các phương thức LK hình thức của VB: lặp từ vựng,
thế đồng nghĩa, thế đại từ, liên tưởng, đối, tỉnh lược.
Tuy nhiên, ở đây có thể quan sát thấy hai hiện tượng lặp từ vựng:
‘lặp cả âm và nghĩa’ và ‘lặp nghĩa’.
(1) Lặp cả âm và nghĩa, tức là lặp lại trong một/ những phát ngôn
mới những đơn vị từ vựng đã được sử dụng ở một phát ngôn khác.
Trong thực tế, cũng giống như trong lặp ngữ âm và lặp ngữ pháp,
các đơn vị từ vựng có thể được lặp lại đầy đủ hoặc chỉ được lặp lại
một bộ phận. Vì vậy, có thể phân biệt ‘lặp hoàn toàn’ và ‘lặp bộ
phận’.
Trong trường hợp lặp từ, biện pháp chủ yếu là lặp hoàn toàn, mặc
dù cũng có thể quan sát thấy những trường hợp lặp bộ phận. Ví dụ:
(i) Lặp hoàn toàn:
Tôi nghĩ đó là chuyện buồn. Tôi chưa đến bảy mươi. Mặc dầu vậy
xin đừng kể, ngày hôm nay xin đừng kể bất cứ điều gì buồn.
(CĐTM)
(ii) Lặp bộ phận:
Tôi không ưa danh thiếp, đó là một thứ biểu hiện quy ước,
thường là giả dối. Bản thân tôi cũng ít khi gửi thiếp. (CH)
Đối với trường hợp lặp cụm từ thì lặp bộ phận thường được dùng
để tránh gây cảm giác nặng nề, hoặc để tiết kiệm lời. Khi lặp bộ
phận, người ta thường phải dùng đại từ chỉ định (này, ấy, đó …)
để tăng thêm tính liên kết giữa các câu. Tuy nhiên, đối với các tên
gọi của các tổ chức, cơ quan hay phong trào… thì không nhất
thiết phải dùng đại từ chỉ định đó. Ví dụ:
(i) Lặp hoàn toàn:
Bình thường thì các thi hài được chuyên chở bằng máy bay trong
những chiếc quan tài kẽm đặc biệt.[…]. Ở Lvov không có quan
tài kẽm cho Natalia. (CĐTM)
(ii) Lặp bộ phận:
Ban lãnh đạo Phòng thể dục thể thao quận đã xuống hiện
trường cùng công an quận, phường tiến hành lập biên bản
và điều tra sự việc. Sau đó đại diệnban lãnh đạo Phòng và
Chủ nhiệm hồ bơi Chi Lăng đã đến gia đình nạn nhân thăm
hỏi chia buồn và hỗ trợ cho gia đình số tiền là 2.000.000 đ
để lo mai táng. (Tờ trình)
(2) Lặp nghĩa
‘Lặp nghĩa’ cũng dựa trên việc ‘lặp lại’ nhưng chỉ là lặp nội
dung chứ không lặp âm thanh của của một từ, một tên gọi
hay một cụm từ. Biện pháp này không chỉ có tác dụng tạo sự
liên kết cho văn bản mà còn tránh được cảm giác đơn điệu
hoặc bổ sung những thông tin phụ (ví dụ: sư đánh giá tốt/
xấu hay diễn đạt những sắc thái nghĩa khác nhau). Thực
chất, đây là biện pháp sử dụng một đơn vị tương đương để
thay thế cho một đơn vị đã được sử dụng trong một phát
Những đơn vị có thể thay thế nhau phải là những đơn vị có
nghĩa/ giá trị tương đương nhau nên ‘từ đồng nghĩa’ thường
được dùng làm phương tiện để lặp nghĩa. Tuy nhiên, trong ngôn
ngữ, nói chung, thường ít xảy ra hiện tượng đồng nghĩa hoàn
toàn mà chủ yếu là hiện tượng gần nghĩa, nên biện pháp này có
thể thay đổi một phần ý nghĩa được lặp lại, tức là bổ sung cho
nó một nội dung nào.
Phương thức lặp đồng nghĩa có tác dụng làm cho văn bản trở
nên đa dạng và phong phú.
Ngoài từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa, còn có những phương tiện
khác cũng được dùng để lặp nghĩa như: đại từ, cách nói vòng
hay hoán dụ… Ví dụ:
(i) Lặp nghĩa dùng yếu tố đồng nghĩa:
Sinh nhật. Anh đã ra đời như thế nào nhỉ? (CĐTM)
(ii) Lặp nghĩa dùng đại từ:
Anh thì thầm. Đôi khi anh thì thầm bằng tiếng Pháp. Cô thích nhất thế.
(CĐTM)
(iii) Lặp nghĩa dùng cách nói vòng:
Nhiều người bảo chùa Bà Đanh không linh, không ai đến là sai. Mặt khác
làng Đanh Xá hy vọng rằng, cái tên ngôi chùa vắng sẽ được nhiều người
biết đến bằng cái tên ngôi chùa đệ nhất khách. (báo GDVN)
(iv) Lặp nghĩa dùng hoán dụ:
Người mẫu không chỉ có thù lao thấp hơn mà số sô diễn trong ngày, trong
tuần cũng không bao giờ bằng ca sĩ. Giỏi lắm một siêu mẫu có chừng ba
sô diễn một tuần đã là “như mơ”. Trong khi với những ca sĩ đương thời thì
một đêm chạy sô bốn điểm diễn là bình thường, hỏi sao các chân dài hiện
nay không tính đường lấn sân ca hát dù thực lực có hạn! (báoTuổi trẻ)
Thế đồng nghĩa
Thế đồng nghĩa bao gồm việc dùng từ đồng nghĩa, cách nói vòng
(nói khác đi), cách miêu tả thích hợp với từ ngữ được thay thế.
Ví dụ:
Nghe chuyện Phù Ðổng Thiên Vương, tôi tưởng tượng đến một
trang nam nhi, sức vóc khác người, nhưng tâm hồn còn thô sơ
giản dị, như tâm hồn tất cả mọi người thời xưa. Tráng sĩ ấy gặp
lúc quốc gia lâm nguy đã xông pha ra trận đem sức khỏe mà đánh
tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù
Ðổng vẫn còn ăn một bữa cơm...
(Nguyễn Ðình Thi)
Thế đại từ
Thế đại từ là dùng những đại từ (nhân xưng, phiếm định, chỉ
định) để thay cho một từ ngữ, một câu, hay một ý gồm nhiều câu
v. v... nhằm tạo ra tính liên kết giữa các phần văn bản chứa
chúng.
Ví dụ 1:
Rõ ràng Trống Choai của chúng ta đã hết tuổi bé bỏng thơ ngây.
Chú chẳng còn phải quấn quýt quanh chân mẹ nữa rồi.
(Hải Hồ)
Ví dụ 2:
Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Ðó là một truyền
thống quý báu của ta.
(Hồ Chí Minh)
Ví dụ 3:
Hơn mười ngày nay chỉ có mưa, không mưa thì trời cũng
xám xìn xịt thế kia, mà trâu thì chơi, đợi nắng lên xếp ải
được thì mạ quá lứa. Lịch cấy thì lại gấp rút quá lắm rồi,
chỉ từ nay đến hai mươi tám tháng chạp ta phải xong. Ðấy
tình hình như thế, liệu cứ khư khư với kế hoạch cũ được
không? (Vũ Thị Thường)
Ở đoạn văn này, đấy và như thế thay cho ý của toàn bộ
phần văn bản trước câu chứa chúng.
Phép liên tưởng
Phép liên tưởng là cách sử dụng những từ ngữ chỉ những sự vật
có thể nghĩ đến theo một định hướng nào đó, xuất phát từ những
từ ngữ ban đầu, nhằm tạo ra mối liên kết giữa các phần chứa
chúng trong văn bản.
Phép liên tưởng khác phép thế ở chỗ trong phép thế thì dùng
những từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật; trong phép liên
tưởng, đó là những từ ngữ chỉ những sự vật khác nhau có liên
quan đến nhau theo lối từ cái này mà nghĩ đến cái kia (liên
tưởng).
Sự liên tưởng có thể diễn ra giữa những sự vật cùng chất cũng
như giữa những sự vật khác chất.
Liên tưởng cùng chất
Ví dụ 1 (liên tưởng theo quan hệ bao hàm):
Chim chóc cũng đua nhau đến bên hồ làm tổ. Những con
sít lông tím, mỏ hồng kêu vang như tiếng kèn đồng. Những
con bói cá mỏ dài lông sặc sỡ. Những con cuốc đen trùi trũi
len lủi giữa các bụi ven bờ.
Quan hệ bao hàm còn thể hiện rõ trong quan hệ chỉnh thể -
bộ phận (cây: lá, cành, quả, rễ...) hoặc trong quan hệ tập
hợp - thành viên của tập hợp (quân đội: sĩ quan, binh
lính......)
Ví dụ 2 (liên tưởng đồng loại):
Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
Chẫu ngồi chẫu khóc: Chàng ôi là chàng!
Ễnh ương đánh lệnh đã vang!
Tiền đâu mà trả nợ làng ngóe ơi!
Ví dụ 3 (liên tưởng về số lượng):
Năm hôm, mười hôm... Rồi nửa tháng, lại một tháng.
(Nguyễn Công Hoan)
Liên tưởng khác chất:
Ví dụ 1 (liên tưởng theo quan hệ định vị giữa các sự vật):
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
... (Tố Hữu)
Ví dụ 2 (liên tưởng theo công dụng - chức năng của vật):
Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao
(Trần Ðăng Khoa)
Ví dụ 3 (liên tưởng theo đặc trưng sự vật):
Mặt trời lên bằng hai con sào thì ông về đến con
đường nhỏ rẽ về làng. Không cần phải hỏi thăm nữa
cũng nhận ra rặng tre ở trước mặt kia là làng mình rồi.
Cái chấm xanh sẫm nhô lên đó là cây đa đầu làng. Càng
về đến gần càng trông rõ những quán chợ khẳng khiu
nấp dưới bóng đa. (Nguyễn Ðịch Dũng)
Làng được đặc trưng bằng rặng tre, cây đa,
quán chợ
Ví dụ 4 (liên tưởng theo quan hệ nhân - quả, hoặc
nói rộng ra: theo phép kéo theo như tuy... nhưng
(nghịch nhân quả), nếu... thì (điều kiện/giả thiết -
hệ quả).
Ðồn địch dưới thấp còn cách xa gần bốn
trăm thước đang cháy thật, tre nứa nổ lốp bốp như
cả cái thung lũng đang nổ cháy. Khói lửa dày đặc
không động đậy bên dưới, mà bốc ngọn mỗi lúc
một cao, ngùn ngụt, gió tạt về phía đồi chỉ huy
vàng rực, chói lòe trong nắng, hơi nóng bốc lên tận
những đỉnh núi bố trí. (Trần Ðăng)
Có khói lửa, hơi nóng là do nổ cháy.
Phép nghịch đối
Phép nghịch đối sử dụng những từ ngữ trái nghĩa vào những
bộ phận khác nhau có liên quan trong văn bản, có tác dụng liên
kết các bộ phận ấy lại với nhau. Những phương tiện liên kết
thường gặp dùng trong phép nghịch đối là:
- Từ trái nghĩa
- Từ ngữ phủ định (đi với từ ngữ không bị phủ định)
- Từ ngữ miêu tả (có hình ảnh và ý nghĩa nghịch đối)
- Từ ngữ dùng ước lệ
Ví dụ 1 (dùng từ trái nghĩa):
Gia đình mất hẳn vui. Bà khổ, Liên khổ, mà ngay chính cả y cũng
khổ. (Nam Cao)
- Đối bằng từ trái nghĩa
Ví dụ: Nhà thơ gói tâm tình của tác giả trong thơ. Người đọc mở
thơ ra, bỗng thấy tâm tình của chính mình. (Lưu Quý Kì)
Đối phủ định
Ví dụ: Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản chỉ vì tôi
tin vào ông cụ.
Đối miêu tả
Ví dụ: Con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác
người chết đói ngập phố phường. (Nam Cao
- Các từ: thoạt tiên, cuối cùng, đồng thời, bỗng nhiên, chẳng hạn,
vả lại, thậm chí, song le, sự thật, đặc biệt…
- Các kết hợp cố định hóa: tiếp theo, thứ hai, ngoài ra, hơn nữa,
mặt khác, trái lại, ngược lại, tóm lại, nhìn chung…
- Các kết hợp có xu hướng cố định hóa: nói cách khác, nói khác
đi…,trên đây, sau đó, do vậy…;thế là..
Lặp cú pháp là dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo cú pháp nào đó
(có thể nguyên vẹn hoặc biến đổi chút ít) nhằm tạo ra tính liên
kết ở những phần văn bản chứa chúng. Lặp những cấu tạo cú
pháp đơn giản và ngắn gọn để gây hiệu quả và nhịp điệu, nhờ đó
gia tăng được tính liên kết (X. ví dụ về bài đồng dao trên kia)
Ví dụ 1:
Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!
Cấu tạo ngữ pháp ở 2 câu này là:
"Ðề ngữ - dạng câu đặc biệt " (tạo sắc thái cảm thán)
Ví dụ 2:
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút
tự do dân chủ nào.
…..
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho
nhân dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
…….
(Hồ Chí Minh)
Trong ví dụ 2, cách lặp cú pháp không chỉ 2 câu (đề ngữ|chủ
ngữ - vị ngữ), mà còn cả cách tổ chức văn bản gồm 4 đoạn
văn kèm theo ở mỗi câu để giải thích ý đưa ra trong mỗi câu
ấy.
Chuyển ngữ
Về mặt cấu tạo, chuyển ngữ có thể là một từ (liên từ, giới từ).
Các quan hệ từ thường làm chuyển ngữ là: và, rồi, nhưng, song,
tuy nhiên, vì, bởi vì, nên, cho nên, giữa, với, bằng...
Chuyển ngữ còn có thể do một tổ hợp từ cố định hoá (quán ngữ)
hay có xu hướng cố định hoá tạo thành: mặt khác, trái lại, ngược
lại, bên cạnh đó, chẳng hạn như, ví dụ như, do đó, mặc dù vậy,
tóm lại, nói tóm lại v.v...
1.3. Phân loại văn bản
Dựa vào phong cách chức năng, có các loại: văn bản hành
chính, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản báo
chí, văn bản nghệ thuật.
a. Văn bản hành chính
- Văn bản hành chính là loại văn bản dùng trong các hoạt
động tổ chức, quản lí, điều hành xã hội, phục vụ giao tiếp
trong lĩnh vực hành chính - công vụ (giữa các cơ quan nhà
nước với nhau và giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân,
giữa các tổ chức với nhau, và với nhân dân, v.v.)
- Các loại văn bản hành chính gồm: văn bản quy
phạm pháp luật (hiến pháp, các bộ luật, nghị định,
chỉ chị, thông tư, v.v.), văn bản chuyên môn (gắn
với các lĩnh vực, các ngành), văn bản hành chính
thông thường (đơn từ, biên bản, đề án, hợp đồng,
báo cáo, công văn, văn bằng, chứng chỉ, v.v.).
- Đặc điểm cơ bản của văn bản hành chính: tính
quy phạm, khuôn mẫu; tính chính xác, minh bạch
và nghiêm túc; tính hiệu lực cao.
- Đặc điểm ngôn ngữ
* Về từ ngữ, sử dụng phổ biến các danh từ riêng, các tổ
hợp từ chỉ tên riêng (chỉ người, tổ chức, địa danh, tên
người gọi theo chức trách trong quan hệ hành chính - công
vụ, v.v.); sử dụng thường xuyên các quán ngữ, những từ
ngữ thuộc thể thức công vụ; sử dụng phổ biến lớp từ Hán-
Việt. Từ ngữ được sử dụng đòi hỏi chính xác, chặt chẽ, đơn
nghĩa, trung hòa biểu cảm.
* Về cú pháp và diễn đạt, chỉ sử dụng câu tường thuật và
câu cầu khiến; có thể sử dụng kết hợp câu đơn và câu phức,
dùng câu không đầy đủ thành phần ngữ pháp; có thể có
những quy định về chữ viết, cách bố trí văn bản. Văn bản
hành chính thường trình bày theo lối diễn dịch, hoặc quy
nạp.
b. Văn bản khoa học
- Văn bản khoa học là những văn bản phản ánh hoạt động trí tuệ,
nhận thức, có chức năng chủ yếu là thông báo và chứng minh,
dùng trong lĩnh vực hoạt động khoa học.
- Các loại văn bản khoa học gồm: các văn bản chuyên sâu (công
trình khoa học, chuyên luận, luận án, luận văn, v.v.); các văn bản
giáo khoa (giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu dạy học, tài liệu
tham khảo trong nhà trường, v.v.); các văn bản phổ cập khoa học
(bài báo, tài liệu phổ biến, thông báo khoa học, v.v.).
- Đặc điểm của văn bản khoa học
Văn bản khoa học có tính trừu tượng - khái quát,
bởi chức năng của nó là thông báo, chứng minh
chân lí, những tính quy luật phát hiện bằng tư duy
khoa học. Văn bản khoa học còn có tính chính xác,
khách quan và tính logíc nghiêm ngặt (duy lí) vì
nó được xây dựng bằng những phán đoán, suy lí
chính xác, lô gic.
Đặc điểm ngôn ngữ
* Về từ ngữ, các từ ngữ có nghĩa chính xác, đơn nghĩa, trung hòa
về biểu cảm; sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành, những từ
công cụ, từ có nghĩa trừu tượng.
* Về cú pháp, câu văn có kết cấu chặt chẽ, rõ ràng; sử dụng chủ
yếu câu tường thuật. Loại câu phức hợp, đặc biệt loại câu ghép
chính phụ có các cặp quan hệ từ hô ứng (chỉ quan hệ nguyên
nhân, nhượng bộ, tăng tiến, v.v.) cũng được sử dụng rộng rãi.
* Về kết cấu và diễn đạt, văn bản khoa học thường được
xây dựng theo một thể thức nghiêm ngặt
chẳng hạn, một bài báo có các phần: 1/ tính thời sự của
vấn đề, 2/ trình bày hệ thống nội dung vấn đề kèm theo
phân tích, lí giải, nhận xét, 3/ đưa ra những kết luận.
Diễn đạt trong văn bản khoa học phải mạch lạc, khúc
chiết, logíc.
c. Văn bản chính luận
- Văn bản chính luận là loại văn bản trình bày, giải
thích, đánh giá, bày tỏ thái độ đối với những vấn đề
nảy sinh trong đời sống chính trị - xã hội (chiến tranh,
hòa bình, lẽ sống, hạnh phúc, lao động, môi trường,
v.v.). Văn bản chính luận có chức năng thông tin, tuyên
truyền, thuyết phục, đem lại cho người tiếp nhận một
cách nhìn, một thái độ.
- Các loại văn bản chính luận gồm: các văn bản hiệu
triệu (báo cáo chính trị, cương lĩnh của một tổ chức,
tuyên ngôn độc lập, lời kêu gọi, v.v.); các văn bản bình
giá (bình luận, xã luận trên các phương tiện truyền
thông, các ý kiến tham luận đại hội, hội nghị, mít tinh,
v.v.).
- Đặc điểm của văn bản chính luận
Văn bản chính luận có các đặc điểm là tính bình giá
công khai (tính khuynh hướng), tính lập luận chặt chẽ
(thuyết phục người đọc/người nghe bằng những lí lẽ
sắc bén, những dẫn chứng xác thực, sắp xếp bằng một
trình tự mạch lạc) và tính biểu cảm (người viết/nói bộc
lộ cảm xúc chân thành, sâu sắc qua các cách diễn đạt
sinh động, giàu hình ảnh).
- Đặc điểm ngôn ngữ
* Về từ ngữ, ngoài lớp từ toàn dân, còn dùng lớp từ chính trị, lớp
từ có tính chất thuật ngữ của các ngành khoa học; có thể sử dụng
lớp từ ngữ giàu màu sắc tu từ (từ khẩu ngữ, từ sách vở).
* Về cú pháp và diễn đạt, dùng nhiều câu tường thuật và câu cầu
khiến (không dùng câu hỏi và câu cảm thán); kết hợp linh hoạt
câu ngắn và câu dài (khẳng định, đánh giá dùng câu ngắn, còn
trình bày, bàn luận dùng câu dài). Về cách diễn đạt, văn bản
chính luận, một mặt, đòi hỏi trình bày vấn đề mạch lạc, logíc,
mặt khác, có thể sử dụng các phương tiện biểu cảm (so sánh, ẩn
dụ, hoán dụ tu từ, v.v.), các biện pháp tu từ (lặp cú pháp, sóng
đôi, v.v.).
d. Văn bản báo chí
- Văn bản báo chí là loại văn bản có chức năng cung cấp
thông tin thời sự (cung cấp tin tức, phản ánh công luận,
thông tin - quảng cáo) và điều chỉnh dư luận xã hội. Như
vậy, văn bản báo chí hướng đến giao tiếp lí trí và tác
động trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo
viết (ấn phẩm), báo nói (phát thanh), báo hình (truyền
hình), báo mạng (trực tuyến).
- Đặc điểm nổi bật của văn bản báo chí là tính thời sự (tin
giờ chót, tin cuối ngày, bản tin không giờ, nhật báo, v.v.),
tính đại chúng (dành cho số đông, dành cho mỗi tầng lớp
người, từng lứa tuổi, v.v.), tính hấp dẫn (bắt mắt bằng
nhiều hình thức). Ngôn ngữ báo chí cũng hướng đến
những đặc điểm này.
- Đặc điểm ngôn ngữ báo chí
* Về từ ngữ, sử dụng phổ biến các danh từ riêng
(chỉ người, địa danh); thường sử dụng lớp từ ngữ
có cấu tạo đặc biệt thể hiện cảm xúc, có màu sắc
biểu cảm rõ rệt (đứng chân, trừng phạt kinh tế, thời
cơ và thách thức, dính líu, tiếp tay, trả đũa, thiện
chí hòa bình, v.v.); lớp từ nghề nghiệp (giật tít, săn
tin, kênh thông tin, hãng tin, đưa tin, tiết lộ, hãng
thông tấn, v.v.).
e. Văn bản nghệ thuật
- Văn bản nghệ thuật (văn bản văn chương) là loại văn bản
thực hiện chức năng thẩm mĩ thông qua hình tượng văn
học nhằm phục vụ cho như cầu nâng cao đời sống tinh
thần, bồi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn của con người. Các loại
văn bản nghệ thuật gồm trữ tình (thơ, trường ca), tự sự
(truyện ngắn, tiểu thuyết, v.v.), kịch, kí.
- Đặc điểm cơ bản của văn bản nghệ thuật: tính hình tượng,
tính hàm súc đa nghĩa, tính cá thể, tính biểu cảm và thẩm
mĩ. Do vậy, ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật cũng có
tính hình tượng, cụ thể, sinh động và mang phong cách cá
nhân.
- Đặc điểm ngôn ngữ
* Về từ ngữ, sử dụng rộng rãi các lớp từ và các biến thể
của từ (từ địa phương, từ thông tục, từ nghề nghiệp, biệt
ngữ, tiếng lóng), triệt để khai thác tính đa nghĩa của từ, các
biện pháp tu từ.
Chương 2: Thực hành phân tích văn
bản
2.1. Một số nhân tố liên quan đến nội dung văn bản
a. Người viết văn bản và đối tượng giao tiếp mà văn bản
hướng đến
Các đặc tính cá nhân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung
và hình thức của VB. Cần hiểu đối tượng giao tiếp là ai để
có thể chọn hình thức và nội dung giao tiếp cho phù hợp.
b. Hoàn cảnh giao tiếp
c. Loại hình văn bản
Chọn loại văn bản cho phù hợp với mục đích giao tiếp.
2.2. Khái quát nội dung văn bản
VB có mấy ý chính?
Thực hành các dạng bài tập ở chương 2
Chương 3: Thực hành tạo lập văn bản
3.1. Cấu tạo chung của văn bản
+ Phần đầu đề (tựa)
Hình thức
Cấu trúc
Nội dung
+ Phần mở
Hình thức
Cấu trúc
Nội dung
+ Phần thân
- Hình thức
- Cấu trúc
- Nội dung
+ Phần đóng
- Hình thức
- Cấu trúc
- Nội dung
Ba phần của văn bản thường có chức năng
như sau:
Phần Mở đầu (Nhập đề) là phần chủ yếu có chức
năng dẫn nhập và nêu chủ đề, có thể được cấu
tạo bằng một hay vài đoạn văn bản.
Phần Khai triển (Thân bài) là phần triển khai,
làm sáng tỏ chủ đề của văn bản bằng cách miêu
tả, trần thuật, trình bày hay bàn luận. Phần này
bao gồm nhiều đoạn văn, trong đó, mỗi đoạn
triển khai, làm sáng tỏ một khía cạnh nào đó của
chủ đề toàn văn bản.
Phần Kết luận là phần có chức năng đúc kết, khẳng
định lại chủ đề, đồng thời nó có thể mở rộng, liên hệ
đến những vấn đề có liên quan. Phần này có thể được
cấu tạo bằng một vài đoạn văn.
Trong những văn bản gồm ba phần như vừa nêu trên,
chủ đề của văn bản thường được phát biểu trực tiếp
trong phần Mở đầu, cụ thể là trong câu chủ đề,
thường là câu cuối hay câu áp cuối trong phần Mở
đầu. Chủ đề của văn bản cũng thường được đúc kết,
khẳng định lại ở phần Kết luận. Trong câu kết đề,
thường là câu mở đầu của phần này. Tuy nhiên, câu
kết đề cũng có thể xuất hiện ở giữa hay cuối phần
Kết luận.
Xem xét văn bản sau đây: Hoàng Lê nhất thống chí
1.a) Hoàng lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng
chữ Hán, gồm 17 hồi. Chắc chắn Ngô Thời Chí viết bảy hồi đầu,
sau nữa có Ngô Thời Du, còn ai nữa thì chưa biết. Ngô Thời Chí
và Ngô Thời Du đều là con cháu họ Ngô Thời, một dòng dõi có
tiếng đỗ đạt cao và có tài văn thơ ở làng Tả Thanh Oai, tỉnh Hà
Ðông (nay là Hà Nội).
b) Hoàng lê nhất thống chí viết vào những năm cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỉ XIX và bao quát những biến cố lớn lao xảy ra trong
lòng chế độ vua Lê, chúa Trịnh, từ thời Trịnh Sâm lên ngôi đến
lúc Quang Trung đánh đuổi quân Mãn Thanh. Hai nét căn bản
của thời đại đã được làm nổi bật: sự sụp đổ không gì cưỡng nổi
của chế độ phong kiến Lê - Trịnh và khí thế sấm chớp vũ bão
của phong trào Tây Sơn.
2.c) Lê Hiển Tông suốt bốn mươi năm làm vua, biết mình là bù
nhìn, nhưng vẫn thích thú với thân phận bù nhìn ấy. Trịnh
Sâm thì xa xỉ, kiêu căng, hoang dâm vô độ. Lê Chiêu Thống
thì đúng là hiện thân của sự bất tài và hèn hạ, nhất là sự phải
bội. Không câu nói nào xứng đáng với y bằng lời kết án của
một người trong truyện: Nước Nam ta từ khi có đế vương đến
giờ, không thấy có vua nào hèn hạ đến thế!
d) Vua chúa đã vậy, văn thần võ tướng cũng chẳng hơn gì.
Danh tướng như Ðinh Tích Nhưỡng, gia đình mười tám đời
quận công, khi nghe quân Tây Sơn ra Bắc, liền vội vàng bỏ
trốn. Văn quan làm đến chức Tham tụng như Bùi Huy Bích
mà lúc nước nhà rối ren, vua hỏi đến, không dám nói một
câu, chỉ một mực xin lui về vườn, lẩn trốn trách nhiệm.
e) Kiêu binh là chỗ dựa của nhà chúa từ xưa, hồi này lại lưu
manh hoá, trở thành một lực lượng phá hoại từ bên trong,
làm cho cơ nghiệp nhà chúa xiêu đổ.
f) Phản ánh tất cả sự suy sụp, rối ren ấy vào trong ý thức con
người là sự rời rã của các giềng mối xã hội. Quan hệ vua
tôi chẳng còn gì là thiêng liêng nữa khi Nguyễn Cảnh
Thước lột áo Lê Chiêu Thống. Quan hệ thầy trò cũng
chẳng còn sức mạnh gì đối với lương tâm một kẻ như Tuần
huyện Trang. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em trong
gia đình Trịnh Sâm chỉ là một trò cười não nuột.
(*) Một chế độ mục ruỗng từ trên chí dưới như thế nhất định
phải diệt vong, phong trào Tây Sơn sẽ thổi lên cơn lốc lật
nhào chế độ đó.
g) Sự thật về phong trào này và vị anh hùng dân tộc Nguyễn
Huệ chưa được hiểu đúng đắn và dựng lên đầy đủ. Nhưng
một chân lí vĩ đại không ai chối cãi nổi đã được ghi lại một
cách thích đáng, đó là cái khí thế mãnh liệt, phi thường của
đoàn quân chính nghĩa và lãnh tụ của nó.
Chúa Trịnh mấy trăm năm lấn hiếp vua Lê, nắm cả quyền
hành trong tay, làm mưa làm gió ở Ðàng Ngoài, Tây Sơn chỉ
một lần tiến quân ra Bắc là ngôi chúa sụp đổ ngay và nhà
chúa cũng không tránh được cái chế nhục nhã. Xứ Bắc mấy
năm lùng nhùng với loạn kiêu binh, với phe đảng đánh nhau
không ngớt, Tây Sơn kéo quân ra một lần là quét sạch. Hai
mươi vạn quân Thanh hống hách, chỉ mấy ngày đã bị dẹp
tan. Dưới mắt tác giả, chiến dịch này là một bản anh hùng ca
bất diệt và hình ảnh Quang Trung đẹp như hình ảnh thần kì.
h) Hoàng lê nhất thống chí kể rất nhiều chuyện của rất nhiều
người. Chuyện rất sát sự thực, nhưng vẫn đầy đủ tính chân
thật của nghệ thuật. Người thì chưa mấy ai được xây dựng
thành tính cách đặc sắc, nhưng mỗi người đều một hành
động, một tâm lí riêng, khá sinh động. Nhiều chỗ, ngòi bút
lại pha chất hài hước khá kín đáo, có chỗ lại có không khí
trang trọng của anh hùng ca.
3.i) Hoàng lê nhất thống chí không khỏi có những hạn chế do
tư tưởng phong kiến của tác giả gây ra. Tuy nhiên, nó vẫn
mãi mãi là bức tranh hài hước về sự tàn lụi của chế độ
phong kiến cũng như mãi mãi là tiếng vọng hồ hởi của một
phong trào tiêu biểu cho sức mạnh của nông dân và sức
mạnh của dân tộc, phong trào Tây Sơn. (Văn học lớp 11
phổ thông, tập 1)
Văn bản trên có nội dung bàn luận về tác phẩm
Hoàng Lê nhất thống chí. Văn bản bao gồm ba
phần: Phần Mở đầu được cấu tạo bằng hai đoạn
văn (a) và (b), trong đó đoạn văn (a) và câu thứ
nhất của đoạn văn (b) có chức năng dẫn nhập; câu
thứ hai - câu cuối - của đoạn (b) nêu lên chủ đề
của toàn văn bản. Chủ đề bao gồm hai mặt: sự sụp
đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến Lê -
Trịnh và khí thế sấm chớp, vũ bão của phong trào
Tây Sơn. Như vậy, câu cuối của đoạn (b) là câu
chủ đề của văn bản.
Phần Khai triển (Thân bài) bao gồm các đoạn (c), (d), (e),
(f), (g) và (h). Trong các đoạn văn này, đoạn (c), (d), (e) và
(f) có chức năng triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề thứ
nhất. Ðoạn (g) triển khai, làm sáng tỏ mặt chủ đề thứ hai.
Riêng đoạn (h), mặc dù không trực tiếp đề cập đến chủ đề
của toàn văn bản, nhưng vẫn có vai trò nhất định: đoạn văn
này có nội dung bình luận thêm một cách sơ lược về giá trị
nghệ thuật của Hoàng Lê nhất thống chí. Ngoài ra những
đoạn văn vừa nêu, phần khai triển còn có câu (*). Câu văn
này không thuộc đoạn văn nào, mà nó chỉ có chức năng
đúc kết lại mặt chủ đề thứ nhất và dẫn dắt, giới thiệu mặt
chủ đề thứ hai.
Phần Kết luận được cấu tạo bằng một đoạn văn: đoạn
(i). Trong đó, câu cuối có chức năng đúc kết, khẳng định
lại chủ đề của toàn văn bản. Ðây chính là câu kết đề của
văn bản.
Bên cạnh các cấp độ đơn vị dưới văn bản, cấu trúc văn
bản có thể còn bao gồm một bộ phận khác, đó là tiêu đề
của nó.
3.2. Các bước tạo lập văn bản
+ Định hướng
+ Lập chương trình
+ Viết văn bản
+ Kiểm tra
3.3. Lập đề cương cho văn bản
3.3.1. Mục đích, yêu cầu
+ Mục đích
+ Yêu cầu
3.3.2. Một số loại đề cương thường dùng
+ Đề cương sơ lược
+ Đề cương chi tiết
3.3.3. Các thao tác lập đề cương cho văn bản
+ Xác lập các thành tố nội dung
+ Sắp xếp các thành tố nội dung
+ Trình bày đề cương
3.3.4. Một số lỗi thường gặp khi lập đề cương
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
Nhìn chung, quá trình tạo lập văn bản bao gồm
bốn giai đoạn tiếp nối nhau: định hướng, lập
chương trình biểu đạt (lập đề cương), tạo văn bản,
kiểm tra và sửa chữa văn bản (bản thảo).
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.1. Ðịnh hướng
a) Chọn đề tài hay xem xét, phân tích đề văn cho sẵn
để xác định một cách cụ thể chủ đề có liên quan.
Chẳng hạn, với đề tài Nạn phá rừng, người viết
có thể từng bước thu hẹp đề tài và xác định chủ đề
như sau:
Nạn phá rừng >Nạn phá rừng ở Việt Nam >
Nạn phá rừng ở miền Trung và Tây Nguyên Việt
Nam > Tác hại của nạn phá rừng ở miền Trung và
Tây Nguyên Việt Nam
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.1. Ðịnh hướng
b) Xác định loại hình văn bản
Xác định rõ văn bản sẽ viết thuộc loại gì, phong cách
nào? Trình bày hay nghị luận (biện luận)? Chẳng hạn với
đề tài vừa nêu, ta có thể viết thành một bài văn trình bày.
c) Xác định hướng sưu tập tư liệu và giới hạn của phạm vi tư
liệu
Tư liệu có thể sưu tập theo nhiều nguồn: báo chí, sách
vở, các phương tiện phát thanh, truyền hình hay thực tế mà
người viết chứng kiến, trải nghiệm.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.2. Lập chương trình biểu đạt
Cụ thể hoá chủ đề thành các mặt chủ đề bộ phận thuộc nhiều cấp
độ, kết hợp với việc tập hợp tư liệu cần thiết, trên cơ sở chọn lựa,
sắp xếp lại thành đề cương (dàn ý) của bài viết với hệ thống các số
mục, đề mục cụ thể
Cần thực hiện các thao tác:
a) Ðộng não để triển khai chủ đề toàn thể từng bước thành các chủ
đề bộ phận.
Với chủ đề và đề tài vừa xác định trên, ta có thể triển khai thành các
mặt:
- Nguyên nhân của nạn phá rừng.
+ Tình trạng di dân tự do.
+ Mở rộng diện tích canh tác.
+ Khai thác củi, gỗ.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.2 Lập chương trình biểu đạt
- Biểu hiện của nạn phá rừng.
+ Ðốt rừng
+ Ðốn chặt cây cối.
- Quy mô, địa điểm diễn ra nạn phá rừng.
+ Ở Tây Nguyên: bao nhiêu héc ta, thời điểm nào?
+ Ở miền Trung: bao nhiên héc ta, thời điểm nào?
- Tác hại của nạn phá rừng.
+ Nạn hạn hán, thiếu nước ở vùng hạ lưu sống ngòi vào mùa
khô.
+ Nạn lũ lụt vào mùa mưa.
- Hướng ngăn chặn phá rừng:
Biện pháp giáo dục.
Biện pháp luật pháp v.v....
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.2 Lập chương trình biểu đạt
b) Chọn lựa, sắp xếp các chủ đề bộ phận và tư liệu có liên
quan thành đề cương cụ thể.
Ở giai đoạn này cần lưu ý mấy điểm:
- Phải chọn lựa và sắp xếp các chủ đề bộ phận và tư liệu có
liên quan theo một trật tự thích hợp.
- Các số mục và đề mục phải đảm bảo tính hệ thống và tính
nhất quán. Tránh hiện tượng trùng lắp, chồng chéo giữa
các chủ đề.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
Tạo văn bản là giai đoạn người viết vận dụng kiến
thức về từ, câu, đoạn, văn bản để lần lượt hiện thực
hoá đề cương thành văn bản dưới dạng bản thảo.
a) Viết phần mở đầu
Phần mở đầu thường gồm một số nhận định khái
quát về những vấn đề sẽ được trình bày, nêu lên ở chủ
đề chung và các chủ đề bộ phận. Cần viết sao cho gọn
và hấp dẫn. Dẫn nhập bằng vài ba câu rồi nêu chủ đề
của văn bản một cách rõ ràng xác định.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
b) Viết các đoạn văn trong phần khai triển
- Câu chủ đoạn của các đoạn văn phải ngắn gọn, súc
tích. Khi nêu xong chủ đề của đoạn, phải ngắt câu.
- Các câu thuyết đoạn có thể được viết bằng câu đơn
hay câu ghép, nội dung triển khai phải bám sát chủ
đề đã nêu.
- Câu kết đoạn của các đoạn văn phải dựa trên cơ sở
sự việc, chi tiết số liệu đã nêu. Cần tránh lối khái
quát gò ép, máy móc, khiên cưỡng.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
c) Viết phần kết luận
Phần kết luận không cần viết dài (đoạn văn
gồm vài ba câu), trong đó nhất thiết phải có câu
kết đề đúc kết, khái quát lại chủ đề của cả bài. Các
câu còn lại có thể gợi mở, liên hệ sang vấn đề
khác có liên quan.
3.2.3. Tạo văn bản
Văn bản thường có ba phần: mở đầu, khai triển và
kết thúc.
VD: Đây là phần mở đầu của một bài viết về stress
và những vấn đề có liên quan:
Nhịp sống hiện nay không nới tay với ai. Tiếng
ồn, nạn kẹt xe, sự chạy đua với thời gian, những lo
lắng cho ngày mai, những sự gò ép gia tăng... Không
nhiều thì ít, chúng ta đều bị stress. Trong trí chúng
ta, điếu này có nghĩa là bị căng thẳng, làm việc quá
sức, bị đặt dưới áp lực. Thật ra, còn có nhiều điều
mà mỗi người trong chúng ta, tuy có liên hệ, nhưng
đôi khi vô tình không nhận thấy.
(Theo Trịnh Đình Khôi - Những hiểu biết về stress)
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
Phần triển khai có thể gồm một hay nhiều đoạn
văn, dài hay ngắn khác nhau tuỳ thuộc vào số
lượng các chủ đề bộ phận, mức độ phức tạp của
vấn đề trình bày. Các đoạn văn này được xếp theo
trật tự logic và liên kết với nhau về mặt hình thức.
Phần này cần viết mạch lạc, các ý phát triển hợp
lý, sao cho người đọc có thể tiếp thu chúng dễ
dàng nhất.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
Đây là phần khai triển của bài báo trên:
Stress ở mức thấp có thể là chất kích thích tự nhiên,
nhưng ở mức độ cao trở thành độc hại. Stress là phản
ứng của cơ thể trước một tình huống khác thường,
hoặc khó khăn, trước sự gò ép của môi trường xung
quanh. Vì vậy đó là phản ứng, đương đầu, đối phó.
Vấn đề là ở chỗ có loại stress “tốt có lợi”, có loại stress
“xấu có hại ”.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.2.3. Tạo văn bản
Đây là phần khai triển của bài báo trên:
Một tin vui, một sự sung sướng đột ngột, làm phát sinh loại
stress tốt, giúp chúng ta tỉnh táo chuẩn bị tốt mọi việc trong
cuộc sống. Cũng còn thêm một dạng stress tốt, giúp chúng ta
giữ được bình tĩnh, gan dạ, phản ứng sáng suốt trước một thử
thách mặc dù trong lúc ấy lòng ta thật sự có một cơn giông bão.
Các hormon, nhất là andrenaline được phóng ra, kích thích cơ
thể ngay lập tức. Máu chạy nhanh trong cơ bắp và trong não,
tăng thêm sức mạnh trong cơ thể, động viên tối đa sức chú ý.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
Khi một em bé chạy băng ngang trong khi bạn lái xe, nhờ andrenaline
bạn có thể hãm xe lại nhờ phản ứng “siêu nhanh”. Hormon phóng ra
nhanh như vậy cũng có lợi trong hoạt động trí não.
Sự cần thiết phải hoàn tất một công việc vào ngày mai tạo nên loại
stress hưng phấn. Máu chảy nhiều hơn trong não, nhờ thế hoạt động
của não được thúc đẩy và hiệu năng đạt đến đỉnh cao.
Loại stress tốt như vậy giúp chúng ta tăng thêm năng lượng trong kỳ
thi hoặc trong cuộc phỏng vấn tuyển nhân viên.
Tuy nhiên, những loại kích thích như vậy nếu lên quá cao có thể trở
thành độc hại, gặm mòn nội lực. Hiện tượng này có thể so sánh với
việc tiêu hoá. Để có thể tiêu hoá được thực phẩm, dạ dày tiết axit
nhưng nếu quá nhiều axit dạ dày sẽ bị loét.
Vì sao lại đi đến chỗ quá “liều lượng ” stress, trở thành tai hại?
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
Theo bác sĩ Patrick Legeron, chuyên gia tâm thần thuộc
bệnh viện Sainte Ana Paris khi nói đến stress quá độ, chúng
ta nghĩ đến những biến cố quan trọng trong đời như: cái chết
của một người thân, bị cho nghỉ việc, đau ốm nặng, hoặc
những phiền muộn dai dẳng lo nghĩ về tiền bạc, những cuộc
xung đột vợ chồng, gánh nặng công việc chồng chất. Thực ra
những vấn đề nho nhỏ hàng ngày như: nhận được một cú
điện thoại làm bực mình, cãi nhau với con cái, người khác
sai hẹn với mình... thường là loại stress ngấm ngầm, nếu tích
luỹ sẽ có tác động làm hỏng sức đề kháng của chúng ta.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
Thông thường chúng ta trải qua ba đoạn đường phản
ứng với đối với stress:
- Giai đoạn báo động, trong đó chúng ta phản ứng với cách
tập trung để đối phó.
- Giai đoạn kháng cự, trong đó chúng ta tìm cách thích nghi
và duy trì sự cố gắng.
- Giai đoạn kiệt sức, trong đó chúng ta thấy nản lòng, cần
nghỉ ngơi, cần giúp đỡ.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
Trong phần khai triển, tác giả đã lần lượt:
a) giải thích thế nào là stress;
b) phân biệt stress có lợi và stress có hại;
c) nêu phác đồ phản ứng chung của cơ thể đối với
stress.
- Phần kết thúc thường tóm lược, tổng kết lại
những luận điểm chính đã dược trình bày trong phần
khai triển. Đối với các văn bản nghiên cứu, phần kết
luận có thể có những gợi ý mở ra hướng nghiên cứu
tiếp theo.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
Chẳng hạn, bài viết về stress trên đây kết thúc như sau:
Trong sinh hoạt nghề nghiệp, một chút stress giúp chúng ta có
hiệu lực hơn trong trí não và thể lực. Quá nhiều stress sẽ đưa đến
sự giảm sút hiệu năng, gây nhầm lẫn, thiếu tập trung, khó giải
quyết vấn đề. Stress là người bạn đồng hành mà chúng ta không
thể nào lẩn tránh, nhất là trong một thế giới xô bồ, vội vã như
ngày nay. Vấn đề là chúng ta phải tạo cho mình một cuộc sống
lành mạnh, vị tha, giàu lòng nhân ái, say mê với công việc. Có
như vậy chúng ta mới thường xuyên có được những stress tích
cực, hạn chế ở mức tối đa những stress tiêu cực.
Phần kết thúc thường tóm lược, tổng kết lại những luận điểm
chính đã trình bày trong phần khai triển. Đối với văn bản nghiên
cứu, phần kết có thể gợi ý mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo.
3.2. CÁC BƯỚC TẠO LẬP VĂN BẢN
3.3. Tạo văn bản
3.3.1. Xác định chủ đề chung và chủ đề bộ phận của văn
bản
Chủ đề chung phải được thể hiện xuyên suốt qua toàn
bộ văn bản, thông qua các chủ đề bộ phận.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Điều trị chứng lo sợ
Các nhà nghiên cứu liệt kê được không dưới 6.500 chứng lo sợ. Từ
chứng lo sợ khá phồ biến: sợ chỗ hoang vắng, đến sợ chỗ chật hẹp đóng
kín, sợ chỗ cao quár sợ máy bay, thang máy...
Có người sợ môi trường: nước, gió, giông, bão, đêm tối... Cũng có người
sợ động vật, như nhện rắn... Lại có người sợ một vài dạng sinh hoạt xã
hội, biểu hiện qua sự rụt rè nơi công cộng e thẹn đỏ mặt sợ bắt tay người
khác phái, sợ ăn trong nhà hàng sợ người khác nhìn soi mói, sợ nói
trước công chúng...
Đối với một số người, sự lo sợ như vậy làm họ căng thẳng, cảm thấy mất
thể diện, xấu hổ, có thể kinh hoảng, khiến họ bị thiệt thòi trong đời sống
xã hội, gia đình hoặc nghề nghiệp. Lâu dần những người hay lo sợ như
vậy, không để ý tìm người khác giúp sức giải quyết, đã để mọi việc diễn
tiến theo chiều hướng tiêu cực, vì họ không nghĩ rằng chứng sợ hãi đó
thật ra cũng là một dạng bệnh.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Theo bác sĩ Gérard Apperfolder, chuyên gia trong
vấn đề này, hấu hết những chứng rối loạn lo sợ như
vậy bắt đầu trong khoảng từ 10 đến 35 tuổi xảy đến
với những người hay lo lắng, thụ động, đã từng gặp
điều gì sợ hãi trong lúc tuổi thơ.
Nhờ máy quét hình (scanner) các nhà nghiên cứu
đã phát hiện mội sự bất thường nơi vùng xám ở giữa
não. Ở những người bị xáo động ám ảnh liên tục
không kìm hãm được, một vài vùng não, đặc biệt nhất
là những nhăn xám ở giữa, có chiều hướng rung động
quá mức.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Hiện nay có 4 phương pháp điều trị chứng lo sợ này:
1. Dùng thuốc chống trầm cảm
Trong những năm 1960, một số bệnh nhân trầm cảm được cho dùng thuốc
này, và tình trạng cải thiện sau vài tuần điều trị. Từ đó đưa đến ý nghĩ
dùng loại thuốc này để điều trị chứng thần kinh gây ám ảnh.
Tại Pháp, 3 dược liệu: clomipramine, fluoxétine và fluvoxamine đã đươc
công nhận. Ba dược liệu khác sẽ được cho phép: paroxétine, citalopram,
và sertraline (một dược liệu mới) đang được áp dụng tại Mỹ. Cứ hai bệnh
nhân, có một người khỏi hẳn hoặc bớt nhiều.
2. Trị liệu bằng tâm lý
Phương pháp này cũng dùng đến thuốc trầm cảm, nhưng có kèm theo sự
khuyến khích, động viên của chuyên gia tâm lý, tập cho bệnh nhân quen
dần với điều mà họ sợ. Kết quả đạt được từ 70 đến 90%. Tuy nhiên không
phải dạng sợ hãi nào cũng có thể điều trị bằng cách tập cho quen (như sợ
rắn..)
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
3. Trị liệu bằng phân tâm học
Phương pháp này dùng điều trị chứng sợ hãi trong các mối giao
tiếpt sinh hoat xã hội. Bệnh nhân không dùng thuốc chống trầm
cảm, nhưng được cho dùng các loại thuốc ngăn ngừa tim đập loạn
hoặc run tay. Trong việc điều trị có sự giúp đỡ của nhà phân tâm
học để giải quyết phần vô thức đã đưa bệnh nhân đến chỗ lo sợ.
Phải bắt đầu áp dụng thử trong 1-2 tháng triển thế nào, rồi mới
theo đuổi phương pháp này từ 6 tháng đến vài năm.
4. Trị liệu bằng cách đương đầu với thực tế
Phương pháp này áp dụng cho các chứng lo sợ ở mức độ nhẹ, thông
thường. Kết hợp với việc dùng thuốc chống trầm cảm, bệnh nhân
tập nhìn vào khía cạnh thực tế của sự việc, lập lại trong trí những
câu trấn an, hoặc nghĩ đến những hình ảnh êm dịu, rồi trực tiếp
đương đầu với sự việc làm mình lo sợ.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Việc sớm điều trị chứng lo sợ là hết sức cần thiết. Cho
đến nay, việc kết hợp các phương pháp kể trên có thể đem
lại kết quả từ 70 đến 90%. Rất ít trường hợp tái phát, chỉ
khi nào bệnh nhân gặp tình trạng căng thẳng quá độ.
(Đinh Trực - Điều trị chứng lo sợ)
Chủ đề chung được nêu ở phẩn mở đầu: chứng lo sợ
như là một dạng bệnh lý. Chủ đề này được phát triển bởi
các chủ dể bộ phận:1) Các biểu hiện của chứng lo sợ; 2)
Những tác động tiêu cực của chứng lo sợ; 3) Căn nguyên
của chứng lo sợ; 4) Những liệu pháp điều trị chứng lo sợ.
Phần kết thúc, ngoài việc thâu tóm những ý chính, còn
có chức năng cố kết chủ đề chung và các chủ đề bộ phận
(đoạn "Việc sớm .... căng thẳng quá độ”).
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Chủ đề chung và chủ đề bộ phận thường được trình
bày ngay trong phần mở đầu, bởi những câu được gọi là
câu luận đề. Câu luận đề thường nằm ở cuối phần mở đầu
và có những nhiệm vụ sau đây:
- Nêu chủ đề chung
- Liệt kê các chủ đề bộ phận
- Trong trường hợp cần thiết, có thể giới thiệu một cách tổng
quát cách thức tổ chức văn bản.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Có thể nhận biết câu luận để nhờ các đặc điểm sau đây:
Về vị trí, câu luận đề thường đứng cuối phần mở đầu.
Về mặt nội dung, nếu văn bản được mở đầu theo phương
pháp quy nạp (đi từ các hiện tượng riêng lẻ, cá biệt đến
những vấn đề chung, trừu tượng) thì câu luận đề là câu có
nội dung rộng nhất, khái quát nhất trong phần mở đầu; còn
nếu văn bản được mở đầu theo phương pháp diễn dịch (đi
từ những vấn đề chung, khái quát đến những vấn đề riêng,
cụ thể) thì câu luận đề lại là câu có nội dung cụ thể nhất,
hẹp nhất.
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Hãy chú ý đến cách nêu chủ đề chung và chủ đề bộ phận trong đoạn văn
sau đây:
Làng, họ - những vấn đề của quá khứ và hiện tại
Một trong những tổ chức chính trị - xã hội mang đặc sắc Việt Nam là tổ
chức làng, họ. Trong lịch sử lâu dài, làng, họ đã là một chỗ dựa vững
chắc cho người Việt Nam thích ứng với nền sản xuất lúa nước ở đồng
bằng và đương đầu với những thử thách gay go của miền đất nhiều bảo
lụt, thiên tai, của nạn ngoại xâm thường đe doạ ập tới. Việc lựa chọn
làm cho làng định hình, ít khác nhau, ít thay đổi qua thời gian và không
gian. Do đó, tổ chức làng, họ tạo ra trong cuộc sống những mẫu người,
những cung cách làm ăn, ứng xử, sống thành nếp. Ngày nay, khi tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô rộng lớn chúng ta phải xét
duyệt lại các tổ chức cũ, những giá trị cũ, thẩm định lại những khả
năng thích ứng, hiện đại hoá để phù hợp thực tế ngày nay và tương lai.
(Trần Đình Hượu - Đến hiện đại từ truyền thống)
3.3.1. XÁC ĐỊNH CHỦ ĐỀ CHUNG VÀ CHỦ ĐỀ
BỘ PHẬN CỦA VĂN BẢN
Chủ đề chung là vấn đề làng họ Việt Nam. Các chủ đề
bộ phận được nêu trong câu luận đề ở cuối đoạn văn, đó là
các vấn đề:
1) Xét duyệt lại các tổ chức cũ
2) Xét duyệt lại các giá trị cũ
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Mục đích của văn bản là tác động tới nhận thức của người
đọc, thuyết phục họ tin vào những điều được trình bày. Lập
luận có thể hiểu là chiến lược trình bày vấn đề, là cách sắp xếp
nội dung sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Luận điểm cần nêu rõ, trình bày vấn đề gì, ý kiến về vấn đề đó
ra sao.
Luận chứng cần có những lí lẽ và dẫn chứng cần thiết, phối hợp
chúng một cách bài bản để chứng minh cho luận điểm được
nêu.
Các lí lẽ và dẫn chứng thuyết minh, phục vụ cho luận điểm
thường được gọi là luận cứ, yêu cầu của luận cứ là xác thực.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Luận chứng phổ biến là diễn dịch và quy nạp.
Diễn dịch là xuất phát từ các chân lí chung, các phổ niệm,
các lí lẽ thông thường đã được kiểm nghiệm… mà suy ra các
chân lí cụ thể, các biểu hiện cụ thể. Quy nạp là cách suy luận
xuất phát từ những biểu hiện cụ thể, riêng biệt để đi đến những
nhận định tổng quát. Cũng có thể phối hợp diễn dịch và quy nạp.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Các lỗi về lập luận
- Luận điểm không rõ ràng, nói lan man mà không nêu
được các ý kiến, các nhận định, đánh giá của mình về vấn
đề được đặt ra trong văn bản.
- Hệ thống lí lẽ không được xếp theo một lo gic thích
hợp, tiện đâu nói đó.
- Dẫn chứng thiếu chính xác, không đán tin cậy hoặc
không phù hợp với luận điểm được nêu.
- Văn bản đầy rẫy những luận điểm, những nhận định rất
đại ngôn mà thiếu các luận cứ cụ thể.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Chuyển đoạn (CĐ): là việc dùng các từ, ngữ, kết cấu thích hợp để
liên kết các luận điểm, các ý lại với nhau.
Các loại chuyển đoạn:
Về cấu tạo
- Chuyển đoạn là từ, ngữ: tuy nhiên, dù sao, may thay, ngược lại, tiếc
rằng, nhưng, có điều, bởi vậy, số là, về một phương diện nào đó,
hơn thế nữa, nói chung, thực ra, một mặt, mặt khác, trước hết….
- CĐ là câu hay vế câu: chúng tôi không khỏi tự hỏi, đó chẳng qua là
một cách nói để, ở đây chúng tôi chỉ, người ta đã bàn nhiều đến,
như mọi người đều biết, những điều vừa trình bày trên có thể
khiến chúng ta nghĩ rằng…., nhưng chúng tôi không quên rằng,
quan niệm như thế vô hình trung là, bây giờ tôi xin chuyển sang
vấn đề khác, nhưng điều đó là hoàn toàn phụ thuộc vào.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Về nội dung
CĐ về trình tự: trước tiên, thoạt tiên, thoạt đầu, trước
hết, sau đó, tiếp theo, một là hai là, cuối cùng, sau hết, rốt
cuộc, sau nữa….
CĐ về quan hệ tương đồng: ngoài ra, bên cạnh đó, vả
lại, hơn nữa, thậm chí, tương tự, một mặt, mặt khác…
CĐ về quan hệ tương phản: nhưng, tuy thế, tuy nhiên,
trái lại, ngược lại, thế mà, thế nhưng, có điều
CĐ quan hệ nhân quả: bởi thế, vì vậy, vì thế, cho nên,
đó là lí do tại sao, vì lí do trên, bởi vậy mà…
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Sau đây là những cách nêu luận cứ phổ biến
nhất, thường gặp trong các loại văn bản khác
nhau:
1. Nêu những dẫn chứng thực tế, có tính chất
"người thật việc thật"
Đây có lẽ là cách nêu luận cứ đơn giản, dễ
dàng nhất. Một cách đơn giản, bạn chứng minh
luận điểm bằng những dẫn chứng lấy ra từ vốn
sống thực tế hay hiểu biết của bản thân. Ưu điểm
của loại dẫn chứng này là hấp dẫn người đọc và
thường để lại những ấn tượng lâu bền.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Hoạt động đi lại chủ yếu của người nông nghiệp Việt Nam là đi
gần - từ nhà ra đồng, từ nhà lên nương, và trong phạm vi khoảng
cách đó họ dùng sức người mà vận chuyến mọi thứ phục vụ cho
sản xuất và sinh hoạt. Chính vì vậy mà trên thế giới không một
ngôn ngữ nào có số lượng từ chỉ hoạt động vận chuyển trong
khoảng cách gần đa dạng và phong phú như tiếng Việt. Trong khi
tiếng Pháp chỉ có porter, tiếng Nga có Hecmu, tiếng Anh có to
carry và phần nào to take, thì trong tiếng Việt, ngoài từ mang với
nghĩa khái quát, còn có hàng loạt từ chỉ những cách thức vận
chuyển rất riêng biệt: mang trong tay là cầm, mang gọn trong tay
là nắm, mang trong tay qua trung gian (sợi dây, cái túi...) là xách,
mang trong một hoặc hai bàn tay lá bốc, mang bằng hai bàn tay
một vật nặng là bê.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
phương pháp này có hai điểm yếu:
Thứ nhất, trong so sánh với các cách nêu luận cứ khác
thì tính thuyết phục của phương pháp này không cao,
vì vậy không nên lạm dụng.
Thứ hai, bạn phải chắc rằng dẫn chứng được nêu thật
sự phù hợp và có ích cho luận điểm của bạn. Chẳng
hạn, nhằm chứng minh nam giới giỏi ngoại ngữ hơn
phụ nữ, bạn nêu dẫn chứng nhà nghiên cứu Phan Ngọc
biết rất nhiều ngoại ngữ. Dẫn chứng này hoàn toàn
chính xác nhưng lại không có sức thuyết phục vì Phan
Ngọc không thể đại diện cho toàn bộ nam giới nói
chung.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
2. Sử dụng số liệu thống kê
Số liệu thống kê là loại luận cứ hết sức thuyết phục, đặc biệt
trong các văn bản khoa học, thương mại, hành chính, báo chí...
Khi đưa ra các con số, cần nêu rõ xuất xứ của chúng: là số liệu
điều tra trực tiếp hay lấy từ nguồn tư liệu tin cậy nào.v.v... Ví dụ,
khi nêu tác hại trầm trọng của chứng đột quỵ, tác giả đã đưa ra
những con số thống kê làm giật mình người đọc như sau:
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Tai biến này xảy ra nhiều ở các nước phát triển cũng như
đang phát triển: ở Pháp, mỗi năm có khoảng 360.000 người
mắc bệnh (là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba sau
các bệnh ung thư và bệnh tim mạch); ở Mỹ có 500.000 người
mắc bệnh vào năm 1985. Tại Khoa thần kinh của bệnh viện
Chợ Rẫy, tai biến mạch máu não chiếm 1/4 tổng số bệnh
nhân nội trú hàng năm, trong đó xuất huyết não chiếm
40,42%, nhóm nhũn não 59,58% (nam chiếm 60%, nữ chiếm
40%)
(Theo BS. Bùi Minh Tạng - Người lớn tuổi và chứng đột
quỵ)
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
3. Trích dẫn các luận điểm, ý kiến đáng tin cậy của các
tác giả khác
Trích dẫn là phương pháp rất thông dụng, thường gặp
trong các văn bản thuộc thể loại nghị luận; đặc biệt đối với
các văn bản khoa học như luận văn, tiểu luận, báo cáo... thì
việc trích dẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong cách
luận chứng.
Có hai cách trích dẫn: trích dẫn trực tiếp và trích dẫn gián
tiếp
a. Trích dẫn trực tiếp: Tư liệu được trích dẫn nguyên văn,
đặt trong dấu ngoặc kép. Các thông tin về tác giả, nguồn
xuất xứ của tư liệu cũng được nêu rõ.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập
năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý
nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do.
(Hồ Chí Minh - Tuyên ngôn độc lập)
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
b. Trích dẫn gián tiếp: Tư liệu trích dẫn
không cần phải chính xác từng câu chữ so với
nguyên gốc mà chỉ cốt truyền đạt được ý tưởng
căn bản. Nhưng các thông tin về xuất xứ của tư
liệu cũng cần được nêu rõ. Ví dụ:
Còn trong tác phẩm nổi tiếng Nguồn gốc các
loài, E. Darwin đã khẳng định rằng tất cả các
giống gà nuôi trên thế giới đều bắt nguồn từ loài
gà rừng Đông Nam Á.
(Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam)
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
Khi chúng ta trích dẫn ý kiến của người khác thì yêu cầu cốt
tử là phải bảo đảm tính chính xác, tuyệt đối không được tự ý
thay đổi hay xuyên tạc nội dung căn bản của ý kiến trích dẫn:
1. Nếu trích dẫn trực tiếp, không được tự ý thêm bớt từ ngữ của
câu trích dẫn.
2. Nếu có lý do chính đáng để lược bỏ một phần nào đó ý kiến
trích dẫn (chẳng hạn, vì câu trích quá dài, đoạn lược bỏ là
không cần yếu đối với luận điểm .v.v...) thì cần sử dụng dấu
lược bỏ [...] ở vị trí các yếu tố bị lược bỏ. Ví dụ:
Nhà triết học Nga nổi tiếng v.v Nalimov cũng nhận xét: "
Tham vọng làm chủ tự nhiên vô hạn độ đang đẻ ra một loạt
hiện tượng tiêu cực ngày càng tăng [...] môi trường bị ô
nhiễm.
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
3. Nếu có lí do chính đáng để thêm từ ngữ nào đó vào ý kiến trích
dẫn (chẳng hạn để nhấn mạnh, giải thích…) thì từ ngữ được thêm
vào đó phải được đặt trong ngoặc đơn và phải nói rõ lời đó là của
ai.
VD: Theo nhà nhân chủng học nổi tiếng người Nga N.N.
Chebokrsarov, “ngay từ sơ kì đồ đá cũ (khoảng 50-30 vạn năm
trước Công nguyên – T.N.T) đã xuất hiện hai trung tâm hình thành
chủng tộc: sớm hơn là miền Đông Bắc Phi và Tây Nam Á, ít nhiều
muộn hơn là miền Đông Nam Á. Những con người muộn hơn nữa
thuộc loại hiện đại Homo Sapiens dần dần phân bố rộng rãi khắp
nơi trên trái đất… họ tuy còn giữ lại nhiều đặc điểm trung tính
nhưng đồng thời cũng tiếp tục thích nghi với những điều kiện tự
nhiên khác nhau để phân hoá thành các chủng tộc ngày nay.”
3.3.2. XÂY DỰNG LẬP LUẬN PHỤC VỤ
CHỦ ĐỀ VĂN BẢN
4. Nếu trích dẫn gián tiếp thì có thể tóm lược nội
dung hay diễn giải lại ý kiến được chọn trích dẫn,
nhưng phải chú ý là không được làm thay đổi nội dung
cơ bản của nó.
Chẳng hạn, thay vì viết: Hồ Chủ tịch đã nói "Không
có gì quý hơn độc lập, tự do", chúng ta có thể viết Hồ
Chủ tịch đã từng nói rằng trên đời này độc lập, tự do
là quý nhất.
Khi sử dụng các số liệu thống kê hoặc trích dẫn ý
kiến từ các nguồn tư liệu khác, cần phải có những chú
thích thích hợp.
3.4. KIỂM TRA, SỬA CHỮA VĂN BẢN
Kiểm tra sửa chữa bản thảo là giai đoạn người viết
đọc lại bản thảo, phát hiện lỗi sai và sửa chữa để
bài viết hoàn chỉnh hơn. Ở giai đoạn này, người
viết vừa đọc lại, vừa suy ngẫm xem xét, xác định
lỗi sai và sửa chữa.
3.4. Viết đoạn văn, văn bản – sửa chữa, hoàn thiện văn bản
3.4.1. Các thao tác viết đoạn văn
3.4.2. Sửa chữa, hoàn thiện văn bản
Một số lỗi thường gặp trong đọan văn/ văn bản
+ Lạc chủ đề
+ Thiếu hụt chủ đề
+ Lặp chủ đề
+ Lỗi đứt mạch
+ Lỗi mâu thuẫn về ý
+ Các câu thiếu sự liên kết hoặc liên kết lỏng lẻo
+ Lỗi cấu tạo văn bản
- Không tách đoạn
- Tách đoạn tuỳ tiện
- Không chuyển đoạn, liên kết đoạn.
3.3. Lập đề cương cho văn bản
3.4. Viết đoạn văn, văn bản – sửa chữa, hoàn thiện văn bản
Mục đích
- Rèn luyện kĩ năng viết các đoạn văn trong văn bản.
- Đoạn văn là đơn vị cơ sở để tổ chức văn bản, do đó, biết
viết đoạn văn sẽ biết viết văn bản.
Yêu cầu
- Các câu trong đoạn phải nhất thể hóa về nội dung, nghĩa
là tập trung thể hiện cùng một đích.
- Sự triển khai ý qua các câu phải mạch lạc, chặt chẽ, hợp
lôgic.
- Đoạn văn phải được tách ra rõ ràng, mạch lạc.
- Đảm bảo các chuẩn mực về hình thức, cấu tạo, cách thức
diễn đạt của ngữ pháp đoạn văn.
3.4. VIẾT ĐOẠN VĂN, VĂN BẢN
Khái niệm đoạn văn
Đoạn văn là đơn vị cơ sở để tổ chức văn bản, thường gồm một
số câu gắn bó với nhau trên cơ sở một chủ đề bộ phận, cùng nhau
phát triển chủ đề đó theo định hướng giao tiếp chung của văn bản.
Đoạn văn có thể dài hay ngắn khác nhau, có thể gồm nhiều câu
hoặc chỉ một câu.
Trong định nghĩa vừa nêu, cần lưu ý mấy điểm:
Thứ nhất là về khái niệm tập hợp. Nếu đoạn văn là một tập
hợp thì câu chính là phần tử.
3.4. VIẾT ĐOẠN VĂN, VĂN BẢN
Khái niệm đoạn văn
Thứ hai là tính liên kết trong đoạn văn. Trong đoạn văn,
tính liên kết cũng thể hiện ở cả hai bình diện: liên kết nội
dung và liên kết hình thức như ở cấp độ văn bản.
Thứ ba là sự hoàn chỉnh tương đối của đoạn văn. Một đoạn
văn được xem là hoàn chỉnh khi nội dung biểu đạt của nó
mang tính tự nghĩa và xác định.
Thứ tư là về khái niệm chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ nhất
mà đoạn văn diễn đạt. Ðiều này có nghĩa là những chuỗi
câu dưới đoạn chỉ có chức năng triển khai chủ đề của
đoạn; dưới đoạn không còn chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ
hơn.
3.4. VIẾT ĐOẠN VĂN, VĂN BẢN
(a) Chị Sáu như say sưa với cảnh vật thiên nhiên. Chị hát
theo một con chim đang hót. Chị rướn đôi tay bị còng chụp
một con bướm bay qua. Chị chẳng để ý gì đến bọn lính
tráng với súng gươm tua tủa quanh mình.
Ðoạn văn (a) có chủ đề: trạng thái say sưa với cảnh vật
thiên nhiên (của chị Sáu). Chủ đề này được nêu trong câu
thứ nhất. Các câu còn lại triển khai, làm sáng tỏ chủ đề đó.
3.4. VIẾT ĐOẠN VĂN, VĂN BẢN
Nội dung nghĩa của các câu đan xen rối rắm.
Trong các ví dụ đã dẫn, thuộc kiểu lỗi thứ nhất là đoạn (a),
(e). Thuộc kiểu lỗi thứ hai là các đoạn (d), (f). Thuộc kiểu lỗi
thứ ba là đoạn (c). Tất nhiên, bên cạnh ba kiểu lỗi sai chính
vừa nêu, trong bài viết của học sinh, cũng xuất hiện hiện
tượng phức hợp hai, ba kiểu lỗi. Ðoạn văn (b) thuộc trường
hợp này : nội dung nghĩa giữa các câu vừa mâu thuẫn, vừa
rời rạc, tản mạn.
2. LỖI LIÊN KẾT LÔ GÍCH
3 loại lỗi: nội dung nghĩa câu rời rạc, nội dung nghĩa câu
mâu thuẫn, nội dung nghĩa của câu đan xen, rối rắm
- Ðối với kiểu lỗi nội dung nghĩa của các câu rời rạc
(b) Hình ảnh quân xanh màu lá cho thấy người lính Tây
Tiến phải chịu nhiều thiếu thốn, gian khổ về vật chất, da
xanh xao như màu lá. Nhưng họ không hề yếu đuối về mặt
ý chí, tinh thần, mà trái lại, vẫn dữ oai hùm. Hơn thế nữa,
họ còn biết mộng mơ lãng mạn, mơ về Hà Nội với dáng
kiều thơm.
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi phương tiện nối
(e) Trong hoàn cảnh trước cách mạng tháng tám, trong
dòng thơ văn của dân tộc ta, nói về thơ thì ai cũng biết đến
Xuân Diệu. Thế nhưng tâm hồn ông lại chứa đựng hai tâm
trạng luôn trái ngược nhau là : ông rất yêu đời, rất thiết
tha với cuộc sống nhưng cũng rất chán nản hoài nghi, cô
đơn.(BVHS).
(e) Nói về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, ai cũng biết đến Xuân Diệu. Thơ ông trong
thời kì này thể hiện hai tâm trạng trái ngược nhau. Một
mặt, ông rất yêu đời, thiết tha với cuộc sống ; nhưng mặt
khác, ông lại cảm thấy bi quan, hoài nghi, cô đơn.
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi thế đại từ
(a) Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, tác giả dựng lên một
cảnh đời bất hạnh của Chí Phèo. Họ không chỉ chịu áp bức
về vật chất mà tinh thần của họ cũng không kém phần khốn
khổ. Chí Phèo muốn được làm người lương thiện nhưng
không được...(BVSV).
(a) Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng thành
công hình tượng Chí Phèo, một nạn nhân khốn khổ của chế
độ thực dân nửa phong kiến. Chí Phèo không những bị bóc
lột về mặt vật chất, mà còn bị đè nén, áp bức về mặt tinh
thần, trở thành một tên lưu manh mất hết tính người. Ðến
khi Chí Phèo thức tỉnh, khao khát được trở lại làm người
lương thiện, thì Chí nhận ra rằng, mình không thể nào thực
hiện được cái ước muốn hết sức bình thường, chính đáng
ấy.
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi thế đại từ
(c) Trong thời kì kháng chiếng chống Pháp, có rất nhiều
nhà văn nhà thơ đã nói lên lòng yêu quê hương đất nước,
nói lên tình đồng đội, đồng bào ... hay nhớ lại những cuộc
chiến đấu của những người lính. Trong đó, nhà thơ Quang
Dũng đã sáng tác bài Tây Tiến để nhớ lại những ngày
chiến đấu cùng đồng đội. (BVHS).
(c) Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nhiều nhà văn,
nhà thơ đã viết về tình cảm quê hương đất nước, tình đồng
chí, đồng bào, hay viết về những kỉ niệm của đời lính...
Trong số những nhà văn, nhà thơ ấy, Quang Dũng là một
cây bút tiêu biểu. Ông đã sáng tác bài thơ Tây Tiến, ghi lại
những kỉ niệm và những tình cảm sâu sắc của ông về đoàn
quân Tây Tiến.
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Sử dụng sai phương tiện lặp từ vựng
biểu hiện : phương tiện lặp (từ, ngữ) thiếu yếu tố tạo tiền
đề hay thiếu sự đồng nhất về nội dung biểu đạt với yếu tố
tạo tiền đề. Danh ngữ giai đoạn này trong ví dụ (d) và
danh ngữ Những nhà văn lãng mạn này trong ví dụ (f)
thuộc kiểu lỗi này.
(d) Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong nền văn học
Việt Nam. Ông sáng tác thơ là chính. Nhưng trong giai
đoạn này thơ ông bộc lộ tâm trạng rất yêu đời, rất thiết
tha với cuộc sống, nhưng đồng thời lại cũng rất chán nản,
cô đơn và hoài nghi.”(BVHS).
(f) Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và lãng mạn ở
Tây Âu chính là tiếng nói của giai cấp quý tộc
phong kiến đã suy tàn, là thái độ thứ nhất chống
lại cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai
sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó. Những
nhà văn lãng mạn này không những chủ trương
lí thuyết duy tâm, phản động về mặt nghệ thuật,
mà còn trực tiếp tham gia những phong trào
chính trị chống lại Cách mạng Pháp...(P.C.Ð -
PTTM).
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi lặp từ vựng
Tùy vào biểu hiện sai cụ thể, chúng ta có thể điều chỉnh yếu
tố tạo tiền đề hay điều chỉnh yếu tố liên kết, sao cho các
phương tiện liên kết đồng nhất với nhau về nội dung biểu
đạt.
(d) Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt
Nam. Ông sáng tác thơ là chính. Nhưng trong giai đoạn này
thơ ông bộc lộ tâm trạng rất yêu đời, rất thiết tha với cuộc
sống, nhưng đồng thời lại cũng rất chán nản, cô đơn và hoài
nghi.”(BVHS).
(d) Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong nền văn học hiện đại
Việt Nam. Trong giai đoạn sáng tác trước năm 1945, ông
làm thơ là chính. Thơ ông trong giai đoạn này thể hiện hai
tâm trạng trái ngược nhau : yêu đời, thiết tha với cuộc sống,
nhưng lại bi quan, hoài nghi, cô đơn.
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi lặp từ vựng
(f) Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và lãng mạn ở Tây Âu chính là
tiếng nói của giai cấp quý tộc phong kiến đã suy tàn, là thái độ
thứ nhất chống lại cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai
sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó. Những nhà văn lãng mạn
này không những chủ trương lí thuyết duy tâm, phản động về
mặt nghệ thuật, mà còn trực tiếp tham gia những phong trào
chính trị chống lại Cách mạng Pháp...(P.C.Ð -PTTM).
(f) Chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ và lãng mạn ở Tây Âu chính là
tiếng nói của giai cấp quý tộc phong kiến đã suy tàn, là thái độ
thứ nhất chống lại cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai
sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó. Những nhà văn thuộc
khuynh hướng sáng tác này / khuynh hướng lãng mạn này
không những chủ trương lí thuyết duy tâm, phản động về mặt
nghệ thuật, mà còn trực tiếp tham gia những phong trào chính
trị chống lại Cách mạng Pháp...
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Sử dụng sai phương tiện thế đồng nghĩa :
Biểu hiện thường thấy của kiểu lỗi này là phương tiện
thế thiếu sự đồng nhất về nội dung biểu đạt với yếu tố tạo
tiền đề. Chẳng hạn như ví dụ (g) đã dẫn.
(g) Càng về sau, con đường xuống dốc của những
khách chinh phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất
hiện trong thơ Thế Lữ, con người đó đã hấp dẫn khá đông
thanh niên trong một thời lịch sử. (P.C.Ð -PTTM).
3. LỖI LIÊN KẾT HÌNH THỨC
Cách sửa lỗi thế đồng nghĩa :
(g) Càng về sau, con đường xuống dốc của những
khách chinh phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất
hiện trong thơ Thế Lữ, con người đó đã hấp dẫn khá đông
thanh niên trong một thời lịch sử. (P.C.Ð -PTTM).
Càng về sau, con đường xuống dốc của khách chinh
phu thật thảm hại. Tuy nhiên, lúc mới xuất hiện trong thơ
Thế Lữ, khách chinh phu đã hấp dẫn khá đông thanh niên
trong một thời lịch sử.
Chương 4: Thực hành soạn thảo văn bản khoa học
4.1. Tóm tắt một tài liệu khoa học
4.1.1. Mục đích, yêu cầu
4.1.2. Những cách tóm tắt thường dùng
+ Tóm tắt thành đề cương
+ Tóm tắt thành văn bản hoàn chỉnh
4.1.1. Mục đích, yêu cầu
b1. Mục đích của tóm tắt văn bản khoa học
- Lưu trữ tài liệu dưới dạng ngắn gọn nhất để sử dụng
(trích dẫn) khi cần thiết.
- Giới thiệu, trình bày, báo cáo.
- Rèn luyện để nâng cao năng lực ngôn ngữ.
- Trong nhà trường, tóm tắt vừa hệ thống hóa kiến thức vừa
rèn luyện các thao tác tư duy khoa học.
b2. Yêu cầu văn bản tóm tắt
- Ngắn gọn, cô đọng: ép nén thông tin vào một đơn vị ngôn
ngữ hết sức súc tích, ngắn gọn. Văn bản tóm tắt phải ít lời
nhiều ý.
- Chính xác, trung thực: nội dung nêu trong văn bản tóm tắt
phải là nội dung cốt lõi của văn bản gốc.
- Phù hợp với mục đích tóm tắt; cần diễn đạt các nội dung
tóm tắt theo cách riêng của mình.
4.1. Tóm tắt một tài liệu khoa học
Tóm tắt VB là trình bày lại nội dung của văn bản gốc
theo một mục đích đã định trước. VB tóm tắt bao giờ cũng
ngắn hơn VB nguyên gốc.
Trước khi tóm tắt, cần xác định mục đích của việc tóm
tắt.
Tóm tắt tài liệu khoa học có nhiều mục đích khác
nhau: lưu tài liệu ở dạng ngắn gọn nhất, giới thiệu một
công trình khoa học trên báo. Cũng có thể chỉ cần tóm tắt
một phần, một luận điểm nào đó để phục vụ cho một ý
kiến nào đấy.
Những cách tóm tắt thường sử dụng: tóm tắt thành đề
cương chi tiết và tóm tắt thành văn bản hoàn chỉnh.
4.1. Tóm tắt một tài liệu khoa học
4.1.2. Những cách tóm tắt thường dùng
a. Tóm tắt thành đề cương
Nội dung cần tóm tắt:
- Tên tài liệu: Tiêu đề viết giữa dòng, khổ lớn, kiểu khác để
phân biệt với các phần của văn bản. Tiếp theo ghi tên tác
giả, xuất xứ của văn bản (trích ở đâu, nếu là cả quyển thì
tên sách là gì, nhà xuất bản nào, nơi xuất bản và năm xuất
bản)
- Phần mở đầu: xác định đối tượng nghiên cứu, lí do và mục
đích nghiên cứu, tình hình nghiên cứu, nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu.
4.1. Tóm tắt một tài liệu khoa học
a. Tóm tắt thành đề cương
- Phần triển khai: triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ bằng
một hệ thống đề mục ở nhiều tầng bậc khác nhau. Nếu văn
bản không có đề mục thì người tóm tắt phải tự tìm ra đề
mục bằng cách tìm các câu chủ đề trong đoạn văn. Trường
hợp một ý được diễn đạt bằng nhiều đoạn thì phải tóm tắt
các đoạn đó thành một câu khái quát.
Có thể sử dụng chữ số Ả Rập để đánh dấu đề mục như sau:
1.
1.1.
1.2.
4.1. Tóm tắt một tài liệu khoa học
a. Tóm tắt thành đề cương
- Phần kết luận: tóm tắt những kết quả nghiên cứu, những
đóng góp đáng kể, nêu phương hướng ứng dụng.
Trường hợp nội dung kết luận nằm trong một đoạn, ta
có thể dựa vào các câu chủ đề của đoạn. Còn trường hợp
nội dung kết luận nằm ở câu thì ta tìm cách tóm lược nội
dung cơ bản của các câu trong nguyên bản.
b. Tóm tắt thành văn bản hoàn chỉnh
Ta cần bám sát vào ba phần chính trong bố cục của tài
liệu. Lời tóm tắt phần mở đầu và phần kết luận có thể lấy
từ các câu chủ đề của các đoạn trong hai phần đó rồi chỉnh
sửa từ ngữ cho hợp lí. Nếu các phần đó không có câu chủ
đề thì chúng ta bắt buộc phải tìm cách diễn đạt ý khái quát
đó bằng một hoặc vài câu khác.
4.2. Tổng thuật các tài liệu khoa học
4.2.1. Mục đích, yêu cầu
4.2.2. Cách tổng thuật các tài liệu khoa học
4.3. Viết luận văn, tiểu luận khoa học
4.3.1. Lập đề cương nghiên cứu
4.3.2. Trình bày lịch sử vấn đề
4.3.3. Cấu trúc thường gặp của luận văn, tiểu luận khoa học
4.3.4. Ngôn ngữ trong luận văn, tiểu luận khoa học
4.2.2. Cách tổng thuật các tài liệu khoa học
Khái quát là yêu cầu cơ bản của việc tổng thuật. Để tổng
thuật cần các bước sau:
- Đọc và suy ngẫm tất cả các tài liệu cần tổng thuật để nắm
được các nhà nghiên cứu, các công trình có liên quan đến đề
tài tổng thuật.
- Khái quát hoá để rút ra các mặt nội dung cơ bản của vấn đề.
- Lần lượt nêu các khía cạnh nội dung đã khái quát bằng cách
nêu những tác giả, tác phẩm chủ yếu (nêu vấn đề được nhiều
tác giả và nhiều công trình bàn đến). Sau đó, nêu những luận
điểm cơ bản được trình bày trong các tài liệu. Nếu tổng thuật
từ nhiều tài liệu thì cần nêu những quan điểm chung cũng
như những khác biệt giữa các quan điểm ấy. Cần trích dẫn
câu, đoạn ngắn để làm cho bản tổng thuật sinh động.
5. VIẾT TIỂU LUẬN VÀ BÁO CÁO KHOA HỌC
Những điểm cần lưu ý
Luận văn và báo cáo khoa học là những văn bản khoa
học.
Phần lập đề cương cần chú ý:
• bố cục và nội dung cần nêu được tính thời sự của việc
nghiên cứu (bối cảnh chung về lí thuyết, thực tiễn…);
• lí do chọn đề tài;
1 người, nữ