Professional Documents
Culture Documents
Cơ cấu bộ phận phù hợp nhất với các công ty lớn tham
gia vào một số hoạt động khác nhau.
Để phân quyền thành công, điều quan trọng là các hoạt
động của một bộ phận càng độc lập càng tốt với các
hoạt động khác.
7-10
Trước khi thảo luận về các yếu tố được xem xét để xác định cách đo lường
khả năng sinh lời của bộ phận, chúng ta phải quyết định xem mục đích
chính là đo lường thành quả của bộ phận hay của nhà quản trị bộ phận. Các
thông điệp được truyền tải từ hai thước đo này có thể hoàn toàn khác nhau.
Nếu mục đích là để đánh giá nhà quản trị bộ phận thì chỉ những khoản mục
nào do nhà quản trị trực tiếp kiểm soát mới được đưa vào thước đo thành
quả tài chính của bộ phận.
Tuy nhiên, trụ sở chính của công ty cũng sẽ quan tâm đến việc đánh giá
hoạt động kinh tế của một bộ phận cho các mục đích ra quyết định, chẳng
hạn như quyết định mở rộng, thu hẹp và thoái vốn. Trong trường hợp này,
sẽ là thích hợp để đánh giá các bộ phận như thể chúng là các công ty độc
lập.
7-11
CÁC THƯỚC ĐO LỢI NHUẬN BỘ
PHẬN
(Alternative Divisional Profit Measures)
Có những lập luận chặt chẽ cho hai thước đo lợi nhuận của bộ phận - một
để đánh giá thành quả của quản lý và một để đánh giá thành quả kinh tế
Để đo lường thành quả của nhà quản trị, việc áp dụng nguyên tắc có thể
kiểm soát cho thấy rằng lợi nhuận có thể kiểm soát (controllable profit)
là thước đo thích hợp nhất.
Những chi phí không thể kiểm soát được liên quan đến một bộ phận và
sẽ tránh được nếu bộ phận đóng cửa, được khấu trừ từ lợi nhuận có thể
kiểm soát để tạo ra phần đóng góp vào lợi nhuận của bộ phận (divisional
profit contribution).
Chi phí trụ sở chính được phân bổ là một ước tính của chi phí mà bộ
phận sẽ phải gánh chịu nếu nó hoạt động như một công ty riêng biệt. Do
đó, các công ty có thể thích sử dụng lợi nhuận ròng của bộ phận
(divisional net profit before taxes) khi so sánh hoạt động kinh tế của bộ
phận với các công ty tương tự.
7-12
CÁC THƯỚC ĐO LỢI NHUẬN BỘ
PHẬN
(Alternative Divisional Profit Measures)
7-13
bảng Anh?
Nhà quản trị Công ty thì sao?
7-19
Tại sao ROI được ưa thích hơn so với lợi nhuận còn lại?
Skinner (1990) đã tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng các
công ty thích sử dụng ROI hơn bởi vì:
◦ ROI một tỷ lệ, nó có thể được sử dụng để so sánh giữa các bộ phận
và xác nhận lại khi quy mô của các bộ phận hoặc công ty khác nhau.
◦ Lý do thứ hai có thể xảy ra cho sự ưa thích đối với ROI là các nhà
đầu tư và các nhà đầu tư tiềm năng có xu hướng sử dụng ROI làm
thước đo thành quả tổng thể của công ty.
◦ Hơn nữa, các nhà quản trị nhận thấy các thước đo tỷ lệ phần trăm lợi
nhuận như ROI thuận tiện hơn, vì chúng cho phép so sánh lợi nhuận
của một bộ phận với các thước đo tài chính khác (chẳng hạn như tỷ
lệ lạm phát, lãi suất và tỷ lệ ROI của các bộ phận khác và các công
ty có thể so sánh ngoài tập đoàn).
7-23
GIÁ TRỊ KINH TẾ TĂNG THÊM
(EVA(TM))
(Economic Value Added (EVA(TM)))
Trong những năm 1990, lợi nhuận còn lại đã được tinh chỉnh, cải thiện và đổi tên thành giá trị
kinh tế tăng thêm (EVA(TM)) bởi tổ chức tư vấn Stern Stewart và nó đã đăng ký EVA (TM) như
nhãn hiệu của nó
Stern Stewart đã phát triển EVA (TM) với mục đích tạo ra một thước đo tài chính tổng thể
khuyến khích các nhà quản trị cấp cao tập trung vào việc phân phối giá trị của cổ đông
(delivery of shareholder value).
Nguyên tắc quản lý nhằm tối đa hóa giá trị của cổ đông này còn được gọi là quản trị dựa trên
giá trị (value-based- management (VBM)).
EVA (TM) có thể được định nghĩa là:
Chi phí vốn được đưa vào trong tính toán trên vì các thước đo lợi nhuận truyền thống bỏ qua
chi phí vốn cổ phần (tức là chi phí cơ hội của các quỹ do các cổ đông cung cấp).
Stern Stewart đã tuyên bố rằng họ đã phát triển khoảng 160 điều chỉnh kế toán có thể cần
được thực hiện để chuyển lợi nhuận kế toán thông thường thành một thước đo hợp lý của EVA
(TM) , nhưng họ đã chỉ ra rằng hầu hết các tổ chức sẽ chỉ cần sử dụng khoảng mười điều
chỉnh.
7-24
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN NÀO NÊN BAO GỒM TRONG CƠ
SỞ ĐẦU TƯ
(Determining Which Assets Should Be Included in the
Investment Base)
Chúng tôi phải xác định những tài sản nào cần đưa vào cơ
sở tài sản của một bộ phận để tính toán ROI, lợi nhuận
còn lại và EVA(TM).
◦ Nếu mục đích là để đánh giá thành quả của nhà quản trị bộ
phận thì về mặt lý thuyết, chỉ những tài sản có thể truy
nguyên trực tiếp đến bộ phận và có thể kiểm soát được bởi
nhà quản trị bộ phận mới được đưa vào cơ sở tài sản
◦ Nếu mục đích là để đánh giá thành quả kinh tế của bộ phận,
nhiều công ty được phân bổ tài sản của doanh nghiệp cho các
bộ phận khi so sánh khả năng sinh lời của bộ phận với các
công ty tương đương trong cùng ngành.
7-25
Lý tưởng nhất, các thước đo thành quả tài chính của bộ phận nên báo cáo
lợi nhuận kinh tế (economic income ) hơn là lợi nhuận kế toán
(accounting profit).
Các thước đo thành quả tài chính được mô tả trong chương này được sử
dụng làm đại diện cho thu nhập kinh tế. Điểm yếu chính của chúng là
chúng có cái nhìn lạc hậu và định hướng ngắn hạn
Có lẽ cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi nhất để giảm thiểu những hậu
quả bất thường có thể phát sinh từ việc dựa quá nhiều vào các thước đo
thành quả tài chính ngắn hạn là bổ sung chúng bằng các thước đo phi tài
chính nhằm đo lường những yếu tố quan trọng đối với sự thành công và
lợi nhuận lâu dài của tổ chức.
Việc kết hợp các thước đo phi tài chính tạo ra nhu cầu liên kết các thước
đo tài chính và phi tài chính về thành quả. Thẻ điểm cân bằng (balanced
scorecard (BSC)) xuất hiện vào những năm 1990 để đáp ứng yêu cầu này
7-29