You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ MÔN TÂM THẦN

HÀNH VI TỰ SÁT

Ths. BSCKII. Nguyễn Hoàng Yến


Giảng viên Bộ môn Tâm thần – Trường Đại học Y Hà Nội
Phòng Tâm thần Nhi – Viện Sức khoẻ Tâm thần Bạch Mai
ĐỊNH NGHĨA

• Định nghĩa cổ điển của Durkheim (1897/1951) về tự sát là “Tất cả


các trường hợp tử vong do trực tiếp hoặc gián tiếp từ một hành
động tích cực hoặc tiêu cực của chính nạn nhân, mà anh ấy biết
sẽ tạo ra kết quả này”
• Định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1998) định nghĩa tự sát là
“Hành vi tự sát của một người có liên quan cố ý khởi xướng và
thực hiện với sự hiểu biết đầy đủ hoặc mong đợi của kết cục chết
người của nó”.
Định nghĩa
• Hành vi tự sát bao gồm:
• Ý tưởng tự sát (suicidial ideation): thể hiện đơn thuần trong ý nghĩ muốn chết
nhưng chưa hành động.
• Toan tự sát (attempted suicide): bao gồm các hành vi khác nhau cố gắng để giết
mình nhưng không đạt được. Những hành vi gây nguy hiểm cho chính họ mà
không có sự can thiệp của bất kỳ ai từ bên ngoài. Những hành vi này bao gồm
cả hành động uống các thuốc được chỉ định trong y học với mục đích điều trị
nhưng vượt quá liều một cách chủ tâm.
• Tự sát hoàn thành (completed suicide): được đề cập đến bất kỳ tử vong nào do
kết quả trực tiếp hay gián tiếp của hành vi tích cực hoặc tiêu cực, được hoàn
thành bởi chính nạn nhân và cũng chính nạn nhận biết hoặc tin rằng hành vi đó
tạo nên cái chết nhưng vẫn làm.
Dịch tễ

• Tự sát là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tử vong sớm ở những
người từ 15 tuổi đến 29 tuổi (theo sau bởi nguyên nhân tử vong do tai
nạn giao thông), và đứng hàng thứ ba ở nhóm tuổi 15–44.
• Tỷ lệ tử vong do tự sát trên toàn cầu lên đến 1,4%, dao động từ 0,5% ở
các khu vực Châu Phi lên đến 1,9% ở khu vực Đông Nam Á.
• Trên toàn thế giới, các cộng tác viên của WHO cho rằng số vụ tự sát đã
hoàn thành sẽ tăng lên 1,53 triệu mỗi năm vào năm 2020.
DỊCH TỄ
CƠ CHẾ BỆNH SINH
Yếu tố nguy cơ

• Bệnh lý tâm thần đồng mắc


- Tỉ lệ tử vong do tự sát ở những bệnh nhân rối loạn cảm xúc đơn cực và lưỡng cực so
với dân số chung gấp khoảng 10 đến 30 lần
- Khoảng 5-10% số người bị tâm thần phân liệt tử vong liên quan đến tự sát. Khoảng
40% bệnh nhân tâm thần phân liệt có toan tự sát một lần trong đời. Nguyên nhân tự
sát liên quan đến hoang tưởng, ảo giác hoặc trầm cảm.
- Khoảng 15% bệnh nhân rối loạn liên quan sử dụng rượu có tự sát hoàn thành. Yếu tố
thúc đẩy tự sát ở người có rối loạn liên quan sử dụng rượu/chất là sự mất các mối
quan hệ quan trọng, cô lập, khó khăn tài chính, giảm lòng tự trọng.
- Tỷ lệ lo âu nặng liên quan đến nguy cơ tự sát cao. Tự sát thường gặp ở những người
có mẫu thuẫn nội tâm, cảm giác đau đớn về tâm lý, tuyệt vọng, cảm giác tội lỗi
Yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ khác như:
• Giới tính: nam giới có tự sát hoàn thành cao gấp 4 lần nữ giới
• Tuổi: đối với nam giới, tuổi gặp tự sát cao nhất là 45 tuổi, ở nữ là sau 55 tuổi
• Tôn giáo: niềm tin tôn giáo, bất cứ một tôn giáo gì có liên quan đến giảm tần
số tự sát
• Tình trạng hôn nhân: có gia đình, có nhiều con cái là yếu tố giảm nguy cơ tự
sát. Nam giới ly hôn có tỷ lệ tự sát cao hơn nữ giới ly hôn
• Bệnh lý cơ thể: nguy cơ hành vi tự sát tăng cao ở những người bị mắc các
bệnh thể chất mãn tính, đặc biệt các bệnh gây nên tàn tật hoặc tiên lượng xấu.
Yếu tố bảo vệ
• Cá nhân có nhân cách, nhận thức tốt như ý thức được giá trị bản thân, cơ
chế đối phó trước khó khăn tốt, tìm kiếm học hỏi từ kinh nghiệm của người
khác để giải quyết vấn đề của cá nhân, lối sống lành mạnh như chế độ ăn
uống, giấc ngủ hợp lý, tập luyện thể dục thể thao.
• Các yếu tố hỗ trợ từ gia đình như có mối quan hệ tốt với những người trong
gia đình, sự quan tâm của cha mẹ, nhận được sự hỗ trợ từ gia đình.
• Các yếu tố văn hoá xã hội như thích nghi tốt với các giá trị văn hoá và truyền
thống
CHẨN ĐOÁN
A. Trong vòng 24 tháng qua, người đã có toan tự sát. Lưu ý: Toan tự sát là một
chuỗi hành vi tự khởi xướng của một người, tại thời điểm bắt đầu, dự kiến rằng
một loạt các hành động sẽ dẫn đến cái chết của chính họ. “Thời điểm bắt đầu” là
thời điểm mà một hành vi đã xảy ra liên quan đến việc áp dụng phương pháp.
B. Hành động không đáp ứng các tiêu chí về hành vi tự gây thương tích không
tự sát — nghĩa là, hành động này không liên quan đến việc tự gây thương tích
hướng đến bề mặt cơ thể được thực hiện để giảm bớt cảm giác / trạng thái nhận
thức tiêu cực hoặc để đạt được trạng thái tâm trạng tích cực.
C. Chẩn đoán không được áp dụng cho ý định tự sát hoặc cho các hành vi chuẩn bị.
D. Hành động không được bắt đầu trong trạng thái mê sảng hoặc nhầm lẫn.
E. Hành động không được tính chỉ vì mục tiêu chính trị hoặc tôn giáo
CHẨN ĐOÁN
• Chẩn đoán bao gồm 2 giai đoạn:
 Hiện tại: không quá 12 tháng kể từ lần tự sát gần nhất
 Thuyên giảm sớm: 12–24 tháng kể từ lần tự sát gần nhất
• Tiêu chuẩn cũng định nghĩa rõ ràng toan tự sát được xác định là một chuỗi các hành vi tự phát
của một cá nhân, tại thời điểm bắt đầu họ đã mong đợi rằng tập hợp các hành động sẽ dẫn
đến cái chết của chính mình.
• Các hành vi có thể có hoặc không gây tổn thương cho bệnh nhân.
• Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến hành vi tự sát, bao gồm lập kế hoạch kém, thiếu kiến
thức về khả năng gây chết người của phương pháp đã chọn, ý định thấp, hoặc sự can thiệp
của người khác sau khi hành vi đã được bắt đầu. Những điều này không nên được xem xét
trong việc chỉ định chẩn đoán
Phương thức tự sát
• Phương thức gây nghẹt thở
• Phương thức treo cổ
• Phương thức sử dụng thuốc độc và thuốc trừ sâu
• Phương thức sử dụng khí Cacbon Monoxit
• Phương thức dùng súng tự sát
• Phương thức nhảy cao
• Sử dụng phương pháp cắt và đâm
• Phương thức đuối nước
• Phương thức gây đói và mất nước
• Phương thức tự thiêu
Tự sát trong trầm cảm

• Trong hầu hết các nghiên cứu về những người chết do tự sát, cứ 10
người thì có khoảng 9 người có biểu hiện rối loạn tâm thần vào thời
điểm họ qua đời, trầm cảm là phổ biến nhất trong số các rối loạn này.
• Khoảng 50% những người chết do tự sát đã gặp bác sĩ đa khoa của họ
trong ba tháng trước khi chết, 40% vào tháng trước đó và 20% vào tuần
trước khi chết.
• Trầm cảm là một rối loạn rất phổ biến trong dân chúng nói chung và do
đó, việc phát hiện những người có nguy cơ tự sát có thể khó khăn. Do
đó, việc xác định các yếu tố nguy cơ chính đối với các cá nhân bị trầm
cảm tự sát là rất cần thiết nếu các bác sĩ lâm sàng xác định được
những người có nguy cơ cao nhất và can thiệp một cách thích hợp
Tự sát và loạn thần

• Nguy cơ tự sát suốt đời là khoảng 5–5,6%; trong đó tỷ lệ cố gắng tự sát


cao hơn, dao động từ 10% đến 50%. Tự sát là nguyên nhân chính gây tử
vong sớm ở bệnh nhân rối loạn loạn thần) và là nguyên nhân tử vong thứ
ba trên toàn cầu ở nhóm 10-19 tuổi.
• Các nghiên cứu cho thấy trẻ em và thanh thiếu niên bị rối loạn loạn thần
sớm có nguy cơ tự sát cao hơn.
• Các nghiên cứu được thực hiện trên các quần thể rối loạn loạn thần người
lớn cho thấy tỷ lệ 14,8% trong vòng năm năm đầu theo dõi (González-
Pinto và cộng sự, 2007) và 12,4% trong vòng hai năm đầu theo dõi ở bệnh
nhân loạn thần đầu tiên khởi phát sớm.
Tự sát và sử dụng chất

• Sử dụng chất kích thích một cách độc lập làm tăng nguy cơ có hành vi tự
sát. Lạm dụng chất cấp tính và mãn tính có thể làm giảm khả năng phán
đoán, làm suy yếu khả năng kiểm soát xung động và làm gián đoạn các
đường dẫn truyền thần kinh, dẫn đến xu hướng tự sát thông qua việc giảm
sự ức chế.
• Ở những người lớn tuổi, tự sát có liên quan chặt chẽ trước tiên với bệnh
tâm thần và sau đó là rối loạn sử dụng chất kích thích, đặc biệt là rối loạn
sử dụng rượu. Do đó, những người trong nhóm bệnh nhân này có nguy cơ
tự tử cao hơn so với những người trẻ tuổi.
Đánh giá

• Ask Suicide-Screening Questions (ASQ)


• Behavioral Health Measure-10® (BHM-10®)
• Behavioral Health Screen (BHS)
• Columbia-Suicide Severity Rating Scale (C-SSRS)
• Outcome Questionnaire-45.2® (OQ-45.2®)
Điều trị

• Liệu pháp tâm lý


• Liệu pháp nhận thức – hành vi
• Liệu pháp hành vi biện chứng
• Liệu pháp giải quyết vấn đề
• Liệu pháp gia đình
Điều trị

• Liệu pháp hóa dược


 Thuốc chống trầm cảm: SSRIs đã được nghiên cứu nhiều nhất và đã
được chứng minh là làm giảm ý định tự sát nhưng một phân tích tổng hợp
các nghiên cứu của FDA về hiệu quả và độ an toàn đã không cho thấy giảm
tự sát trong 8-12 tuần so với giả dược
 Thuốc chỉnh khí sắc: Lithium là tác nhân dược lý duy nhất cho thấy tác
dụng tích cực nhất quán đối với tỷ lệ tự sát qua nhiều nghiên cứu
 Ngoài ra còn các thuốc chống loạn thần, thuốc giải lo âu…
DỰ PHÒNG

 Dự phòng dựa vào trường học

• Một số thử nghiệm ngẫu nhiên chỉ ra rằng các chương trình phòng ngừa được thực hiện
trong trường học có thể làm giảm nỗ lực tự sát ở học sinh.
• Chương trình nâng cao nhận thức của thanh thiếu niên đã đào tạo học sinh nhận ra ý định
tự sát ở bản thân và các học sinh khác, đồng thời khuyến khích đối phó thích ứng và tìm
kiếm sự trợ giúp.
• Chương trình cũng nâng cao nhận thức của giáo viên giúp các giáo viên có thể nhận ra
nguy cơ tự sát ở học sinh.
DỰ PHÒNG

 Dự phòng dựa vào cộng đồng

• Bằng chứng hạn chế cho thấy rằng các can thiệp ngắn hạn dựa vào cộng đồng có thể tạm
thời làm giảm các nỗ lực tự sát và tỷ lệ tử vong do tự sát ở thanh thiếu niên.
• Chương trình ngắn hạn này bao gồm nhiều cách tiếp cận khác nhau, chẳng hạn như đào tạo
người gác cổng, bao gồm đào tạo các cá nhân như giáo viên và bác sĩ chăm sóc chính để xác
định thanh thiếu niên có nguy cơ tự sát và giới thiệu họ để được giúp đỡ. Chương trình này
cũng bao gồm các đường dây nóng về giáo dục, sàng lọc và khủng hoảng.

You might also like