Professional Documents
Culture Documents
câu hỏi tiểu luận CK2 tâm thần
câu hỏi tiểu luận CK2 tâm thần
1. Phân tích các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bảo vệ của hành vi tự sát. Mô tả
cụ thể 1 trường hợp bệnh nhân có hành vi tự sát mà anh/chị đã từng điều trị
hoặc đã từng gặp. Phân tích các yếu tố nguy cơ của hành vi tự sát trong
trường hợp trên. Theo anh/chị các biện pháp dự phòng nên có trong trường
hợp trên là gì?
* Phân tích các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bảo vệ của hành vi tự sát.
Tự sát là một vấn đề được quan tâm lớn đối với sức khỏe cộng đồng; trên
toàn cầu, nó được coi là một trong 20 nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất. Mỗi
năm có khoảng 700.000 người chết vì tự sát, mặc dù những cái chết này có thể
phòng ngừa được. Phần lớn các trường hợp tự tử (~79%) được báo cáo xảy ra ở các
nước có thu nhập thấp và trung bình, nơi nguồn lực tài chính và chuyên môn để
giúp đỡ những người gặp khó khăn còn hạn chế. Tự sát không phải là một sự kiện
độc lập; đúng hơn, đó là một quá trình bắt đầu bằng ý tưởng tự sát; tiếp tục với sự
thất vọng, ý tưởng tự sát nhất thời và những kế hoạch chính xác; và cuối cùng kết
thúc bằng một nỗ lực tự sát.
Tự sát là hành vi khi một người tự làm hại bản thân với ý định kết thúc cuộc
đời của họ và kết quả là họ chết.
Ý tưởng tự sát: Khi một người có ý nghĩ về việc từ bỏ cuộc sống
Kế hoạch tự sát: Là hành vi lên kế hoạch tự làm hại bản thân với ý định kết
thúc cuộc đời của họ
Tự làm hại bản thân: Là hành vi khi một người tự làm thương tích hay làm
hại bản thân mình. Nhìn chung họ không có ý định tự giết hại bản thân.
“Khi một người nói về tự sát có nghĩa là họ đang cần sự hỗ trợ hoặc giúp
đỡ. Nhiều người suy nghĩ về tự sát là do họ đã có trải nghiệm về lo âu, trầm cảm,
tuyêt vọng và có thể cảm thấy rằng họ không còn giải pháp nào khác”
Năm 2019, trên toàn thế giới:
- Trên 700 000 người tử vong do tự sát
- Cứ 40 giây có 1 người tự sát
- 77% người tự sát là ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình
- Tự sát là 1 trong 4 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nhóm tuổi 15-29 tuổi
- 58% tự sát xảy ra trước tuổi 50
3
việc độc thân, thất nghiệp và có thu nhập thấp đến tỷ lệ tự sát ở nam giới cao hơn.
Các điều kiện tâm lý xã hội như môi trường làm việc không lành mạnh, được gọi là
yếu tố xã hội quyết định sức khỏe.
Sức khỏe tâm thần tại nơi làm việc là một khía cạnh quan trọng của sức khỏe
tại nơi làm việc, vì nó ảnh hưởng đến cả sức khỏe và năng suất của nhân viên. Vì
dụ theo đánh giá có hệ thống về nguy cơ tự tử ở nhân viên y tế, ý tưởng tự sát là
một vấn đề nghiêm trọng đối với những nhân viên ngày này. Đánh giá cho thấy
nhân viên y tế có nguy cơ tự tử cao hơn so với dân số nói chung.
Tình trạng hôn nhân cũng được phát hiện là có ảnh hưởng đến nguy cơ tự
sát. Trong các nghiên, cho thấy những người đã ly hôn có nhiều khả năng cảm thấy
mệt mỏi với cuộc sống, nghĩ về cái chết và tham gia vào việc tự sát. Những người
ly hôn có nhiều khả năng có suy nghĩ về “cuộc sống không đáng sống”, trầm cảm
nặng, rối loạn hoảng sợ và lo âu cũng như lòng tự trọng thấp,…chúng được biết
đến là những yếu tố nguy cơ dẫn đến tự sát. Tuy nhiên, cũng có những phát hiện
trái ngược nhau. Ví dụ, một nghiên cứu ở Hoa Kỳ cho thấy các chuyên gia chăm
sóc sức khỏe đã kết hôn có nguy cơ tự tử cao hơn những người chưa kết hôn. Điều
này có lẽ là do các vấn đề liên quan đến chất lượng cuộc sống hôn nhân, như được
quan sát trong một nghiên cứu được thực hiện ở Trung Quốc, nơi người ta phát hiện
ra mối liên hệ đáng kể với việc tự sát với xung đột hôn nhân và cãi vã với bạn đời
trong tháng qua.
Bên cạnh đó các vấn đề như thu nhập thấp hơn, trình độ học vấn thấp hơn và
trình độ nghề nghiệp thấp hơn có thể là những yếu tố nguy cơ dẫn đến cảm giác
mệt mỏi với cuộc sống và nghĩ về cái chết cũng như có hành vi tự sát. Các yếu tố
kinh tế xã hội, chẳng hạn như trình độ học vấn, thu nhập và việc làm, là các biến số
có liên quan với nhau, trong đó quan trọng nhất có thể là trình độ học vấn. Những
người có trình độ học vấn cao hơn thường có việc làm tốt hơn và do đó, họ có
nhiều khả năng có thu nhập cao hơn. Tiếp xúc với điều kiện làm việc tồi tệ có liên
quan đến sức khỏe tâm thần kém, có thể là dấu hiệu báo trước về hành vi tự sát. Vì
vậy, trình độ học vấn có thể đóng vai trò như một yếu tố cơ bản dẫn đến tự sát.
Các yếu tố bảo vệ chống lại nguy cơ tự tử:
Yếu tố bảo vệ là một đặc điểm hoặc thuộc tính làm giảm khả năng cố gắng
hoặc hoàn thành việc tự tử. Các yếu tố bảo vệ là những kỹ năng, điểm mạnh hoặc
nguồn lực giúp con người đối phó hiệu quả hơn với các sự kiện căng thẳng. Chúng
6
tăng cường khả năng phục hồi và giúp cân bằng các yếu tố rủi ro. Các yếu tố bảo vệ
có thể được coi là cá nhân hoặc môi trường bên ngoài.
Nhiều yếu tố có thể làm giảm nguy cơ tự tử. Tương tự như các yếu tố rủi ro, một
loạt các yếu tố ở cấp độ cá nhân, mối quan hệ, cộng đồng và xã hội có thể bảo vệ
con người khỏi tự tử, nó bao gồm:
Các yếu tố bảo vệ cá nhân
Những yếu tố cá nhân này bảo vệ khỏi nguy cơ tự sát:
Kỹ năng đối phó và giải quyết vấn đề hiệu quả
Lý do sống (ví dụ: gia đình, bạn bè, vật nuôi, v.v.)
Ý thức mạnh mẽ về bản sắc văn hóa
Các yếu tố bảo vệ mối quan hệ
Hỗ trợ từ đối tác, bạn bè và gia đình
Cảm giác được kết nối với người khác
Các yếu tố bảo vệ cộng đồng
Cảm thấy được kết nối với trường học, cộng đồng và các tổ chức xã
hội khác
Có sẵn dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và hành vi nhất quán và
chất lượng cao
Các yếu tố bảo vệ xã hội:
Giảm khả năng tiếp cận các phương tiện tự tử gây chết người ở những
người có nguy cơ
Sự phản đối về văn hóa, tôn giáo hoặc đạo đức đối với việc tự tử
Tăng các yếu tố bảo vệ có thể giúp giảm nguy cơ tự tử. Tăng cường các yếu
tố này phải là một quá trình liên tục để tăng khả năng phục hồi khi có các yếu tố rủi
ro gia tăng hoặc các tình huống căng thẳng khác. Tuy nhiên, sự phản kháng tích
cực đối với việc tự tử không phải là vĩnh viễn, vì vậy các chương trình hỗ trợ và
duy trì việc bảo vệ chống lại việc tự sát cần được tiếp tục.
Tài liệu tham khảo:
Rezaei Z, Mohammadi S, Aghaei A, Pouragha H, Latifi A, Keshavarz-
Mohammadi N. Assessment of risk factors for suicidal behavior: results from
7
Khoảng 06 tháng nay, bệnh nhân biểu hiện ăn kém, không muốn ăn, cảm
giác ăn không ngon miệng, người mệt mỏi, không muốn làm gì, cảm thấy chán nản,
giảm quan tâm với mọi chuyện xung quanh, bệnh nhân ít muốn giao tiếp nói
chuyện với mọi người kể cả là với chồng và con của bệnh nhân. Bệnh nhân cảm
thấy mình kém cỏi, cảm thấy mình vô dụng, không thể giúp đỡ gì được cho gia
đình, bệnh nhân cảm thấy tự ti, cảm thấy có lỗi với mọi người do mình không cẩn
thận để bị tai nạn, rồi không làm được gì và trở thành gánh nặng cho gia đình. Bệnh
nhân cảm xúc không ổn định hay nằm khóc một mình. Bệnh nhân ngủ kém, khó
vào giấc ngủ, ngủ không sâu giấc, có đêm bệnh nhân thức trắng. Sáng bệnh nhân
dậy sớm. người gầy sút cân 10 kg/ 03 tháng. Bệnh nhân suy nghĩ nhiều đến cái
chết, bệnh nhân muốn giải thoát cho mình và để mình không trở thành gánh nặng
cho gia đình, bệnh nhân chưa có hành vi tự sát. Bệnh có xu hướng tăng nặng, bệnh
nhân chưa khám hay điều trị tại đâu, bệnh nhân được gia đình đưa đến khám và
nhập viện tại bệnh viện Tâm Thần Thái Bình.
Bệnh nhân được chẩn đoán: Giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng
loạn thần có ý tưởng tự sát.
Bệnh nhân được điều trị hóa trị, tâm lý liệu pháp và kết hợp phục hồi chức
năng.
Các yếu tố nguy cơ của hành vi tự sát trong trường hợp của bệnh nhân:
trên bệnh nhân chúng ta có thể thấy các yếu tổ nguy cơ là:
Bệnh nghiêm trọng như đau mãn tính: bệnh nhân bị tai nạn lao động
và phải phẫu thuật cắt cụt chi ( chân trái ). Tổn thương này là vĩnh
viễn đối bệnh nhân và có thể xuất hiện các tình trạng đau khi thay đổi
thời tiết ảnh hướng đến sinh hoạt và cuộc sống của bệnh nhân.
Các vấn đề hoặc mất mát về công việc/tài chính: Do bị tổn thương cắt
cụt chi nên việc vận động, di chuyển của bệnh nhân chưa quen thuộc,
khó khăn, giảm khả năng lao động khiến bệnh nhân không thể tiếp tực
duy trì công việc trước kia của bệnh nhân, bệnh nhân mất công việc,
mất nguồn thu, ảnh hướng đến nhu cầu sinh hoạt và cuộc sống của
bệnh nhân và gia đình, bệnh nhân cần phải tìm kiếm công việc mới
nhưng việc tìm công việc mới khó khăn cần bệnh nhân phục hồi và
học việc mới.
9
Sử dụng chất: bệnh nhân buồn chán, thất vọng có thể sử dụng chất như
bia, rượu, thuốc lá ( khả năng ít đối với đối tượng là nữ làm công
nhân, nhưng vẫn có thể có )
Cảm giác tuyệt vọng: Bệnh nhân cảm thấy tuyệt vọng, thất vọng về
bản thân, cảm thấy tương lại mờ mịt với mình, không biết mình có thể
làm được gì, cảm thấy mình vô dụng. Bệnh nhân thu mình lại, không
muốn tiếp xúc với mọi người xung quanh, không nói chuyện với cả
người thân của mình.
Thiếu khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe: Có thể bệnh nhân
không được điều trị tích cực trong việc phục hồi chức năng ( lắp chân
giả, tập phục hồi chức năng) làm cho bệnh nhân cảm thấy mình đã hết
hi vọng, không còn cơ hội, cảm thấy bản thân trở nên vô dụng, hết
tương lai. Không được tham gia các chương trình trị liệu tâm lý.
Căng thẳng của sự hòa nhập với cộng đồng: Bệnh nhân lo lắng, sợ hãi,
e ngại khi tiếp xúc với mọi người trong tình trạng này, sợ mọi người sẽ
nhìn nhiều vào chân mình, cảm thấy tự ti về bản thân.
Phân biệt đối xử: sợ mọi người không chào đón mình, sợ mọi người xa
lánh bản thân mình.
Kỳ thị liên quan đến việc tìm kiếm sự giúp đỡ: Sợ mọi người không
giúp đỡ mình, không nhận những người bị khuyết như mình vào làm
việc, không cho mình cơ hội.
Dễ dàng tiếp cận các phương tiện tự tử gây chết người ở những người
có nguy cơ: có thể dễ dàng tiếp cận các dụng cụ dao, kéo,… vật sắc
nhọn hoặc có thể là các thuốc bảo vệ thực vật nguy hiểm như thuốc
diệt cỏ…hay các thuốc các loại gây nên hành vi tự sát thành công.
Phương tiện truyền thông miêu tả không an toàn về việc tự tử: dễ dàng
tiếp cận các thông tin tiêu cực trên mạng xã hội, truyền thông “bẩn”..
Các biện pháp dự phòng nên có trong trường hợp của bệnh nhân này
tương ứng bao gồm:
Các yếu tố bảo vệ cá nhân
10
Kỹ năng đối phó và giải quyết vấn đề hiệu quả: cần thực hiện các buổi,
các trương trình hỗ trợ bệnh nhân và người thân trong việc đối phó và
giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Lý do sống (ví dụ: gia đình, bạn bè, vật nuôi, v.v.): Cần tư vấn giải
thích cho bệnh nhân biết và hiểu được các vấn đề đối với bệnh nhân và
người nhà của bệnh nhân khi bệnh nhân tự sát, cho bệnh nhân biết lý
do sống là gì( ví dụ: con của bệnh nhân, gia đình bệnh nhân ai sẽ là
người chăm sóc khi bệnh nhân mất, các con bệnh nhân sẽ cảm thấy
sao khi mẹ của bệnh nhân làm như vậy, điều này ảnh hưởng như thế
nào với tất cả mọi người? đó sẽ là một sang chấn với mọi người nó sẽ
ảnh hướng tới cơn bệnh nhân và người nhân bệnh nhân, ám ảnh họ, in
vào trong ký ức của họ có thể sẽ theo họ mãi cuộc đời của họ….)
Ý thức mạnh mẽ về bản sắc văn hóa: sử dụng các phương pháp chánh
niệm, giải thích theo các quan niệm của tôn giáo về giá trị của cuộc
sống, để bệnh nhân hiểu và tôn trọng, quý trọng bản thân.
Các yếu tố bảo vệ mối quan hệ
Hỗ trợ từ đối tác, bạn bè và gia đình: cần huy động các nguồn trợ giúp
từ người thân, bạn bè và hàng xóm để giúp đỡ bệnh nhân và gia đình
giải quyết các khó khăn. Cần có người luôn ở bên cạnh, giúp đỡ bệnh
nhân trong hoạt động hàng ngày, cũng như đồng thời theo dõi, quản lý
giúp bệnh nhân tránh xa các vật dụng huy hiểm có nguy cơ thực hiện
hành vi tự sát, tránh các chất kích thích…
Cảm giác được kết nối với người khác: Thường xuyên liên lạc với
người thân, bạn bè để trao đổi, chia sẻ. Tạo cho bệnh nhân cảm giác
thân thuốc, gần gũi ấm áp, cảm thấy mình không bị bỏ rơi, bị cô độc…
Các yếu tố bảo vệ cộng đồng
Cảm thấy được kết nối với trường học, cộng đồng và các tổ chức xã
hội khác: Giúp bệnh nhân tham gia vào các hoạt động mới, các tổ chức
xã hội lành mạnh, tích cực phù hợp với bệnh nhân. Tham gia vào các
nhóm giúp đỡ cộng đồng bao gồm những người cùng cảnh ngộ hay có
cùng vấn đề tâm lý có thể chia sẻ các kinh nghiệm để giải quyết các
vấn đề, lan tỏa năng lượng tích cực cho bệnh nhân.
11
Có sẵn dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và hành vi nhất quán và
chất lượng cao: Tạo điều kiện, cho bệnh nhân được tham gia điều trị
tâm lý cá nhân.
12
2. Anh/chị hãy phân tích các yếu tố tâm lý xã hội có thể dẫn đến tình trạng mất
ngủ ở con người? Anh/chị hãy mô tả cụ thể về 1 trường hợp (1 người/1 người
bệnh) bị mất ngủ và phân tích các nguyên nhân tâm lý xã hội có thể dẫn đến
vấn đề này ở họ? Anh/chị đã hướng dẫn/giúp đỡ họ giải quyết/kiểm soát các
yếu tố đó ra sao và kết quả như thế nào?
Định nghĩa
Mất ngủ là một trạng thái không thỏa mãn về số lượng và/hoặc chất lượng
của giấc ngủ, rối loạn này tồn tại một thời gian dài. Mức độ chênh lệch thực tại so
với cái thường được xem như là số lượng bình thường của giấc ngủ không được coi
là điều kiện đầu tiên trong chẩn đoán mất ngủ, bởi vì một số người nào đó (gọi là
những người ngủ ít) có số lượng ngủ tối thiểu nhưng không coi họ là những người
có chứng mất ngủ. Ngược lại, có những người ngủ kém, trong khi đó số lượng giấc
ngủ xét về mặt chủ quan và/hoặc khách quan đều trong giới hạn bình thường.
Trong những người mất ngủ, khó đi vào giấc ngủ là than phiền thường gặp
nhất, sau đó đến khó duy trì giấc ngủ và thức dậy sớm. Tuy nhiên, thường có sự kết
hợp của nhiều than phiền. Điển hình, mất ngủ phát triển ở thời điểm có stress đời
sống tăng lên và có khuynh hướng gặp nhiều hơn ở phụ nữ, những người đứng tuổi
và tâm lý bị rối loạn và những người bị bất lợi về mặt kinh tế xã hội. Khi mất ngủ
nhiều làn, dẫn đến mối lo sợ mất ngủ tăng lên và bận tâm về hậu quả của nó. Điều
đó tạo thành một vòng luẩn quẩn có khuynh hướng duy trì rối loạn của cá nhân.
Đến giờ ngủ, bệnh nhân có triệu chứng mất ngủ mô tả bản thân họ có cảm
giác căng thẳng, lo âu, buồn phiền hoặc trầm cảm và dường như tư duy của họ trải
dài ra. Họ thường nghiền ngẫm cách đạt được giấc ngủ đầy đủ, những vấn đề cá
nhân, trạng thái sức khỏe, và cả cái chết. Thường thường họ cố gắng đối phó với sự
căng thẳng của họ trong uống thuốc hoặc rượu. Vào buổi sáng, họ thường nói về
cảm giác mệt mỏi về cơ thể và tâm thần; ban ngày họ cảm thấy trầm cảm, lo âu,
căng thẳng, cáu kỉnh và lo lắng về bản thân.
13
thực quản (GERD), tuyến giáp hoạt động quá mức, bệnh Parkinson và bệnh
Alzheimer.
- Rối loạn liên quan đến giấc ngủ: Chứng ngưng thở khi ngủ đôi khi khiến bạn
ngừng thở vào ban đêm, làm gián đoạn giấc ngủ. Hội chứng chân không yên gây
ra sự thôi thúc khó chịu mạnh mẽ cử động chân khi cố gắng chìm vào giấc ngủ.
Điều này có thể khiến bạn không ngủ được hoặc ngủ lại được.
- Chất kích thích: Caffeine, nicotin và rượu, Cà phê, trà, cola và các đồ uống khác
có chứa caffeine là chất kích thích. Uống chúng vào buổi chiều muộn hoặc buổi
tối có thể khiến bạn khó ngủ vào ban đêm. Nicotine trong các sản phẩm thuốc lá
là một chất kích thích khác có thể làm gián đoạn giấc ngủ. Rượu có thể giúp bạn
chìm vào giấc ngủ nhưng nó ngăn cản các giai đoạn ngủ sâu hơn và thường dẫn
đến việc thức dậy vào giữa đêm.
Ví dụ:
Bệnh nhân 16 tuổi là con thứ ½ trong gia đình, có quá trình sản khoa, phát triển thể
chất tâm thần vận động bình thường. Bệnh nhân không có tiền sử chất thương sợ
não, viêm não-màng não, không có tiền sử sử dụng các chất kích thích, chất tác
động tâm thần. Bệnh nhân hiện đang học lớp 10, học lực từ lớp 1 đến lớp 10 luôn
đạt danh hiệu học sinh giỏi. Bệnh nhân sống cùng ba mẹ bệnh nhân. Ba mẹ bệnh
nhân làm công chức nhà nước. Cuộc sống gia đình không hòa thuận, ba mẹ hay cãi
nhau trước mặt con cái, ba mẹ cãi nhau to tiếng hàng xóm xung quanh đều biết,
khiến bệnh nhân cảm thấy xấu hổ khi ra ngoài và bệnh nhân không thích ba mẹ
mình. Cách nhập viện 1 tháng ông nội bệnh nhân mất. Ông là người thương yêu
bệnh nhân nhất.
Khoảng 1,5 năm nay theo lời kể của bệnh nhân do áp lực học tập và thời gian học
tập bệnh nhân ngủ kém, ngủ ít, ngày ngủ khoảng 3-4 tiếng, ngủ không sâu giấc.
Đêm bệnh nhân hay lo lắng, suy nghĩ về việc học của mình, về định hướng tương
lại của mình, sợ kết quả không cao như mong muốn của gia đình, sợ bị ba mẹ
mắng, bẹnh nhân khó vào giấc ngủ. Tình trạng này kéo dài từ đó đến nay. Khoảng 1
tháng nay, ông nội bệnh nhân mất, người mà thương yêu bệnh nhân nhất, bệnh
nhân cảm thấy trống rỗng, buồn chán, cảm thấy tương lai mờ mịt, bệnh nhân không
tập trung được vào việc học tập, không muốn làm gì. Bệnh nhân càng khó ngủ hơn.
Mỗi khi lên giường đi ngủ bệnh nhân lại nghĩ về ông, các hình ảnh về ông lại ùa về,
hình ảnh về những cuộc cãi vã của ba mẹ bệnh nhân khóc lóc và không ngủ được,
16
sáng dậy bệnh nhân mệt mời, ăn uống kém. Ngày nay bệnh nhân được gia đình đưa
đến khám và điều trị tại bệnh viện.
17
sẽ họp và tìm cách giải quyết. Ba mẹ bệnh nhân không còn đặt nặng áp
lực học tập cho bệnh nhân. Bệnh nhân đã không còn ghét ba mẹ như
trước kia. Và nỗi buồn về mất mát người thân đã giảm, bệnh nhân
không còn đau buồn như trước. Bệnh nhân hòa đồng, vui vẻ. Sắp xếp
công việc phù hợp, cân đối giữa nghỉ ngơi và học tập…
o Bệnh nhân ngủ ngon hơn trước, đêm ngủ 5-6 tiếng, ngủ sâu giấc. Sáng
dậy tỉnh táo