You are on page 1of 39

Lập dàn ý kiểm tra thường xuyên lần 4

Đề 1: Tự bảo vệ chính mình trước tệ nạn xã


hội
Bài 1
Tự bảo vệ mình trước các tệ nạn xã hội là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cần thiết
trong cuộc sống hiện nay. Xã hội ngày càng phát triển, nhưng cũng đi kèm với đó là sự
gia tăng của các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, tệ nạn tình dục, v.v. Để bảo vệ bản
thân và gia đình khỏi những tác động tiêu cực của những tệ nạn này, chúng ta cần có ý
thức và biết cách tự bảo vệ mình.

Đầu tiên, để tự bảo vệ mình, chúng ta cần có kiến thức về các tệ nạn xã hội. Hiểu rõ về
những hậu quả và tác động tiêu cực của chúng đối với cuộc sống và sức khỏe của
chúng ta. Chỉ khi hiểu rõ về những nguy hiểm mà các tệ nạn này mang lại, chúng ta
mới có thể nhận ra tầm quan trọng của việc tự bảo vệ mình và tránh xa chúng.

Thứ hai, để tự bảo vệ mình, chúng ta cần có ý thức và quyết tâm. Ý thức là nhận thức
sâu sắc về tầm quan trọng của việc tránh xa các tệ nạn xã hội và đặt lợi ích cá nhân và
gia đình lên hàng đầu. Quyết tâm là sẵn lòng và kiên nhẫn để thực hiện những hành
động cụ thể như từ chối tham gia vào các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội, tìm
kiếm thông tin và tư vấn từ các nguồn đáng tin cậy để có thêm kiến thức và kỹ năng tự
bảo vệ mình.

Thứ ba, để tự bảo vệ mình, chúng ta cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ từ gia đình, bạn bè và
cộng đồng xung quanh. Gia đình và bạn bè có vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi
trường an toàn và lành mạnh cho chúng ta. Họ có thể cung cấp thông tin, tư vấn và hỗ
trợ để giúp chúng ta tự bảo vệ mình trước các tệ nạn xã hội.

Cuối cùng, để tự bảo vệ mình, chúng ta cần có lòng tự tin và sẵn lòng đối mặt với áp
lực từ xã hội. Đôi khi, việc từ chối tham gia vào các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã
hội có thể gặp phải sự phản đối và áp lực từ những người xung quanh. Tuy nhiên,
chúng ta cần tin tưởng vào bản thân và quyết định đúng đắn của mình, không để áp lực
xã hội làm mất đi ý thức và quyết tâm tự bảo vệ mình.

Tự bảo vệ mình trước các tệ nạn xã hội là một trách nhiệm của mỗi cá nhân. Chúng ta
không chỉ bảo vệ bản thân mà còn bảo vệ gia đình, cộng đồng và xã hội. Hãy luôn nhớ
rằng, việc tự bảo vệ mình là một hành động đúng đắn và có ý nghĩa lớn trong cuộc
sống.

I. Dàn Ý Nghị Luận Xã Hội Về Tác Hại Của


Tệ Nạn Với Đời Sống Con Người (Chuẩn)
1. Mở bài:

Giới thiệu vấn đề nghị luận: tác hại của tệ nạn với đời sống con người.
2. Thân bài:
a. Giải thích

- Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi tiêu cực, sai lệch chuẩn mực xã
hội, vi phạm đạo đức, pháp luật và gây ra hậu quả xấu đối với cuộc sống của con người.
- Một số tệ nạn đã và đang trở thành vấn nạn của xã hội: cờ bạc, ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan,…
b. Thực trạng
- Hiện nay, tệ nạn đang “bùng nổ” với tốc độ nhanh chóng và gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về lối
sống của con người trước sự cám dỗ và phát triển không ngừng của xã hội.
- Theo số liệu thống kê của tổ chức y tế thế giới, số người trong độ tuổi 15-24 sa vào tệ nạn xã hội
chiếm trên 40%.

- Tại Việt Nam, theo số liệu của Bộ Công an, thông tin về số người nghiện ma túy vào tháng
6/2017 trên cả nước là 210.751 trong đó có hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội có số người nghiện ma túy chiếm tỉ lệ cao nhất.

=> Những con số trên đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự ảnh hưởng của tệ nạn xã hội đối với
cuộc sống của con người.
c. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Sự thiếu hiểu biết, lơ là cảnh giác trước sự rủ rê, dụ dỗ của các đối tượng xấu.
+ Lối sống buông thả, thích hưởng thụ, thiếu tự chủ.

- Nguyên nhân khách quan:

+ Do điều kiện, môi trường sống, sự giáo dục: cha mẹ nuông chiều, bị bạn bè rủ rê, lôi kéo,…
+ Sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa phẩm đồi trụy.
+ Những hệ lụy tiêu cực từ nhịp sống hiện đại.
d. Tác hại

- Đối với bản thân người mắc tệ nạn xã hội:

+ Ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần, hủy hoại phẩm chất, suy thoái đạo đức.
+ Hủy hoại sức khỏe, cuộc sống: những tệ nạn như ma túy, mại dâm là con đường ngắn nhất dẫn
đến căn bệnh thế kỉ HIV.
- Đối với gia đình: Tệ nạn xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia
đình.
- Đối với xã hội:

+ Gây ra rối loạn an ninh, trật tự xã hội.


+ Cản trở sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
e. Biện pháp phòng chống tệ nạn xã hội

- Nâng cao hiểu biết về tác hại của tệ nạn.


- Tuân theo quy định của pháp luật.
- Rèn luyện lối sống giản dị, lành mạnh, sự tự chủ để không sa vào các tệ nạn xã hội.
- Tích cực tham gia tuyên truyền về phòng chống tệ nạn xã hội trong nhà trường và địa phương.
3. Kết bài:

Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Tệ nạn xã hội là mối nguy hại lớn, cần tích cực đấu tranh loại trừ.
>> Xem chi tiết Dàn ý nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với đời sống con người tại đây

II. Bài Văn Mẫu Nghị Luận Xã Hội Về Tác


Hại Của Tệ Nạn Với Đời Sống Con Người
1. Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với đời sống con người ngắn hay, mẫu số 1
(Chuẩn)

Như chúng ta đã biết, sự phát triển của khoa học - công nghệ - kĩ thuật đã góp phần nâng cao, cải
thiện cuộc sống của con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhịp sống hiện đại cũng là môi trường hấp
dẫn để các tệ nạn xã hội xuất hiện và gia tăng. Thực tế cuộc sống đã chứng minh, tệ nạn đang là
hiện tượng tiêu cực gióng lên hồi chuông báo động về lối sống của con người và gây ra những hậu
quả xấu đối với bản thân, gia đình, xã hội.

Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi tiêu cực, sai lệch chuẩn mực xã
hội, vi phạm đạo đức, pháp luật và gây ra hậu quả xấu đối với cuộc sống của con người. Những tệ
nạn nguy hiểm nhất bao gồm: cờ bạc, ma túy, mại dâm,... Trong đó, cờ bạc là hình thức cá cược,
được thua bằng tiền hoặc hiện vật; nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con nghiện vào chất gây nghiện;
còn mại dâm là hình thức mua bán, trao đổi tình dục.

Hiện nay, tệ nạn đang “bùng nổ” với tốc độ nhanh chóng và gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về lối
sống của con người trước sự cám dỗ và phát triển không ngừng của xã hội. Theo số liệu thống kê
của tổ chức y tế thế giới, số người trong độ tuổi từ 15-24 sa vào tệ nạn xã hội chiếm trên 40%. Tại
Việt Nam, theo số liệu của Bộ Công an, thông tin về số người nghiện ma túy vào tháng 6/2017 trên
cả nước là 210.751 người, trong đó hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có số
người nghiện ma túy chiếm tỉ lệ cao nhất. Những con số trên đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về
sự ảnh hưởng của tệ nạn xã hội đối với cuộc sống con người.

Sự lây lan, gia tăng không ngừng của tệ nạn xã hội xuất phát từ chính ý thức của con người. Đó là
lối sống lười nhác, sống ỷ lại, tâm lí thích hưởng thụ, lười lao động, ăn chơi, đua đòi, thiếu hiểu biết,
không làm chủ được bản thân trước những cám dỗ của cuộc sống như tò mò, thích tìm cảm giác
mới lạ, thích chứng tỏ bản thân. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khách quan như sự ảnh
hưởng tiêu cực của văn hóa phẩm đồi trụy, những hệ lụy tiêu cực từ nhịp sống hiện đại; những nhân
tố khác như do gia đình, cha mẹ nuông chiều hoặc do bị bạn bè rủ rê, lôi kéo.

Tệ nạn xã hội đã gây ra những hậu quả to lớn và nghiêm trọng đối với cuộc sống của con người.
Trước hết, đối với bản thân người mắc tệ nạn xã hội, tệ nạn sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần,
hủy hoại phẩm chất, suy thoái đạo đức. Đồng thời, hủy hoại sức khỏe của con người. Những tệ nạn
như ma túy, mại dâm là con đường ngắn nhất dẫn đến căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Đối với gia đình,
tệ nạn xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đặc biệt, đối với
xã hội, tệ nạn gây ra rối loạn an ninh, trật tự xã hội và suy thoái giống nòi. Những tác hại tiêu cực
trên đã đặt ra vấn đề cấp bách về vấn đề phòng, chống tệ nạn xã hội.

Để phòng chống tệ nạn xã hội, trước hết, mỗi một con người cần nâng cao hiểu biết về tác hại của
tệ nạn; tuân theo, chấp hành quy định của pháp luật. Đồng thời, rèn luyện lối sống giản dị, lành
mạnh, sự tự chủ để không sa vào các tệ nạn xã hội; tích cực tham gia tuyên truyền về phòng chống
tệ nạn xã hội trong nhà trường và địa phương.

Như vậy, qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định tệ nạn đã và đang gây ra những
hậu quả to lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của con
người. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần rèn luyện lối sống lành mạnh, giản
dị, rèn luyện sự tự chủ, biết điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của bản thân để không sa vào các tệ nạn
xã hội.

2. Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với


đời sống con người hay nhất, mẫu số 2
Xã hội hội ngày càng phát triển, đời sống của con người cũng ngày càng được cải thiện. Thế nhưng
song song với sự tiến bộ thì tệ nạn xã hội cũng theo đó cũng phát sinh và ảnh hưởng không nhỏ
đến cuộc sống con người. Để giữ môi trường sống lành mạnh, đảm bảo các yếu tố an ninh, trật tự,
nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy kinh tế phát triển, con người vẫn luôn hàng ngày đấu
tranh, hướng tới loại bỏ các tệ nạn ra khỏi cuộc sống . Vậy tệ nạn là gì, tác hại của nó nguy hiểm như
thế nào mà chúng lại phải cần kiên quyết đấu tranh và bài trừ nó khỏi xã hội?
Tệ nạn xã hội là những hành động đi ngược lại với chuẩn mực xã hội, trái với đạo đức, pháp luật,
đem đến những hậu quả xấu về mọi mặt. Các kiểu tệ nạn phổ biến có thể kể đến như trộm cướp,
ma túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, lừa đảo, mê tín dị đoan,
tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy,… Tệ nạn xã hội đang len lỏi vào từng ngóc ngách của xã hội,
nó không bỏ qua bất kể một tầng lớp, một lứa tuổi, một giới tính nào. Tệ nạn đã và đang trở thành
kẻ thù đáng sợ và vô cùng gian xảo, sẵn sàng đánh vỡ mọi lớp phòng vệ của con người, để dễ dàng
tấn công và đưa chúng ta vào bước đường sa ngã, dần dà làm ảnh hưởng đến đời sống bình yên
của con người, kéo lùi sự phát triển của đất nước. Tệ nạn xã hội dù lớn dù nhỏ đều gây nên những
ảnh hưởng và thiệt hại không chỉ với riêng từng cá nhân mà còn ảnh hưởng đến gia đình, cơ quan
tổ chức, mang đến những hậu quả không mong muốn.

Nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội là sự tổng hợp của nhiều yếu tố kinh tế, văn hóa, sự chênh lệch
giàu nghèo, diễn tiến tâm lý của các cá nhân, tác động quá mức từ môi trường sống,... Nguyên
nhân khách quan có thể đến từ điều kiện sống, sự giáo dục, ảnh hưởng từ những người khác, ví như
sự nghèo đói, không được giáo dục đầy đủ đã khiến con người ta quên đi mấy “đói cho sạch rách
cho thơm” để trở thành trộm cướp, lừa đảo. Hay những hành vi, văn hóa khác biệt được du nhập
từ nước ngoài như ma túy, bóng cười, đập đá, cần sa, các kiểu quan hệ tình dục kém lành mạnh,
tiệc thác loạn,… cùng với sự dụ dỗ, dẫn dắt của những kẻ có ý đồ xấu khiến nhiều bạn trẻ thiếu hiểu
biết mắc câu, trở thành con mồi hòa mình vào những cuộc ăn chơi mà không lường trước được hậu
quả. Bên cạnh đó việc để nhiều bạn trẻ sa chân vào tệ nạn cũng một phần là do sự giáo dục chưa
đầy đủ của gia đình và nhà trường khi không thể theo sát con em cũng như tuyên truyền nhắc nhở
về hậu quả và tác hại của các loại tệ nạn trong xã hội.

Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, lơ là cảnh giác trước sự rủ rê, dụ dỗ của các
đối tượng xấu, không ý thức được hành vi của mình là tệ nạn xã hội, cũng như không nhận thức
đúng đắn về tác hại của các hành vi trái đạo đức này. Có người điềm nhiên sử dụng ma túy, chất
kích thích như một phép thử cho vui, cho biết với bạn bè, đôi khi còn xem chúng là một cách thức
giải khuây. Một số cá nhân khác, việc sa chân vào tệ nạn xã hội không phải là ngẫu nhiên, tình cờ
hay do thiếu hiểu biết mà do lối sống buông thả, thích hưởng thụ, không có mục đích sống.

Hậu quả của những tệ nạn trên dù lớn, dù nhỏ cũng đều gây những ảnh hưởng xấu đối với nhiều
con người và cả đối với sự phát triển đất nước. Trộm cắp, lừa đảo đối với kẻ gây án thì sẽ trở thành
tội phạm, rơi vào vòng lao lý, chịu sự trừng phạt của pháp luật, mất đi cuộc đời trong sạch và lương
thiện, phải chịu sự ghét bỏ, kỳ thị của xã hội, ảnh hưởng đến cả con cháu sau này. Đối với người bị
mất tài sản do trộm, cướp, lừa đảo, họ sẽ phải chịu đau đớn vì mất của cải dành dụm bấy lâu. Thậm
chí lâm vào cảnh kiệt quệ, túng quẫn, mà đôi kia chính bản thân người bị hại lại trở thành người
tiếp theo sa vào tệ nạn, đó là một điều đáng buồn.

Cờ bạc, rượu bia lại trở thành một trong những nguyên nhân chính của các bi kịch trong gia đình.
Những tệ nạn xã hội này có thể gây tan vỡ hạnh phúc gia đình, nảy sinh tình trạng bạo hành. Không
chỉ vậy, việc sử dụng bia rượu, chất kích thích quá nhiều còn trở thành lưỡi hái tử thần, khi chúng
bào mòn sức khỏe, làm tổn hại gan thận, suy nhược, ức chế thần kinh, vắt kiệt thể xác con người.
Cuối cùng cuộc đời đang tươi đẹp lại trở nên mù mờ tăm tối với căn bệnh ung thư gan không thể
chữa trị, chứng loạn thần mất kiểm soát hành vi gây nên những vụ án mạng thương tâm, bế tắc
tuyệt vọng với HIV/AIDS, xấu hổ, nhục nhã với các căn bệnh giang mai, lậu,… Rồi tương lai của những
đứa trẻ sống trong gia đình có cha mẹ vướng vào tệ nạn xã hội cũng trở thành một dấu hỏi lớn, khi
mà chúng không nhận được sự giáo dục đàng hoàng, phải sống trong môi trường mà cái xấu luôn
phơi bày trước mắt. Như vậy liệu có bao nhiêu đứa trẻ có thể phát triển một cách bình thường, trở
thành một công dân lương thiện?

Không chỉ tác động đến đời sống của một số cá nhân, tập thể, mà tệ nạn xã hội còn gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển đất nước. Tệ nạn ma túy, kéo theo những cuộc buôn bán, vận
chuyển, tàng trữ chất cấm với quy mô lớn, xuất hiện hàng loạt các tội phạm đặc biệt nguy hiểm,
nhà nước phải dồn nguồn lực lớn để triệt phá các băng đảng, đường dây này để đảm bảo cuộc sống
yên bình cho nhân dân.

Đối với tệ nạn mại dâm, không chỉ trở thành một hình ảnh xấu xí của xã hội, mà nó còn gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục, làm lệch lạc tư tưởng của con người, là đặc trưng cho
lối sống buông thả, lười biếng trong lao động, trở thành nguồn cơn làm tan vỡ hạnh phúc gia đình,
phá vỡ các mối quan hệ trong xã hội.

Nhìn vào những tác hại ghê gớm của tệ nạn xã hội, mỗi chúng ta cần có ý thức tránh xa, không
tham gia vào các tệ nạn xã hội, điều ấy không chỉ là bảo vệ chính bản thân mà còn là bảo vệ gia
đình, người thân khỏi những tác động xấu, đồng thời cũng góp phần vào việc giữ gìn sự yên bình
của xã hội. Quan trọng nữa là, gia đình và nhà trường phải có sự phối hợp trong việc giáo dục, nâng
cao ý thức của con trẻ về tệ nạn cũng như những hậu quả mà nó gây ra, hướng các em đến lối sống
lành mạnh, an toàn. Các phương tiện truyền thông đại chúng cũng cần có những chương trình giáo
dục, tuyên truyền về tệ nạn xã hội, nguy cơ và biện pháp phòng tránh, để đảm bảo mọi người dân,
mọi đối tượng đều có những hiểu biết nhất định về tệ nạn, tự định hướng và bảo vệ bản thân mình
tránh xa khỏi những tác nhân xấu xa.

Tệ nạn xã hội là kẻ thù vô hình và nguy hiểm vẫn luôn tiềm ẩn trong xã hội, gây ra những hậu quả
và thiệt hại với nhiều tính chất, mức độ khác nhau, có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người, bộ
mặt xã hội và sự phát triển của đất nước. Trước tình hình đó, mỗi chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ,
đóng vai trò rường cột tương lai lại càng phải ý thức được các tác hại của tệ nạn, đồng thời tránh xa,
có lối sống lành mạnh, học tập, lao động thật tốt để phục vụ cho cuộc sống của bản thân, gia đình
và xã hội. Đừng để sự thiếu hiểu biết, lối sống buông thả cắt đứt đi tiền đồ, tương lai rực rỡ của chính

bản thân nhé các bạn trẻ.


4. Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn xã hội với đời sống con người siêu hay,
mẫu số 4 (Chuẩn):

Sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã đem đến những giá những thay đổi
trong cuộc sống con người. Bên cạnh việc mang lại những điều tốt đẹp và tích cực như đời sống của
con người được nâng cao, trang thiết bị hiện đại được cải tiến,... là việc phát sinh những vấn đề tiêu
cực. Một trong số những hiện tượng thể hiện rõ điều này là sự xuất hiện của tệ nạn xã hội với hệ lụy
đáng báo động.

Tệ nạn xã hội là cụm từ dùng để chỉ những hiện tượng mang tính tiêu cực, trái với pháp luật và vi
phạm các quy chuẩn, chuẩn mực xã hội như nghiện ngập, cờ bạc, hút chích, mê tín dị đoan,... Thực
tế cuộc sống hiện nay cho thấy, các tệ nạn này đang diễn ra vô cùng phức tạp và phổ biến ở mọi
tầng lớp, đặc biệt là ở độ tuổi học sinh, sinh viên. Dù là những chủ nhân tương lai của đất nước
nhưng thế hệ trẻ lại dễ dàng rơi vào vòng xoáy cám dỗ của việc ăn chơi đua đòi và thích hưởng thụ.

Nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của tệ nạn là do những hệ lụy của quá trình công nghiệp hóa -
hiện đại hóa gây ra. Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến điều này xuất phát từ ý thức của con
người. Trước những cám dỗ, thử thách, con người không đủ bản lĩnh, tự tin để vượt qua; đồng thời,
tâm lí lười lao động, thích ăn chơi hưởng thụ là con đường ngắn nhất khiến con người đặt chân vào
thế giới u tối của tệ nạn.

Như chúng ta đã biết, tệ nạn xã hội gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với đời sống xã hội.
Trước hết, tệ nạn xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, chẳng hạn như hút chích,
nghiện ngập là con đường ngắn nhất dẫn đến căn bệnh thế kỉ mang tên HIV; rượu bia là nguyên
nhân dẫn đến các căn bệnh như viêm gan, bệnh tim mạch, viêm loét dạ dày, và hàng loạt những
vụ tai nạn giao thông thương tâm có liên quan đến việc tài xế sử dụng rượu bia khi lái xe.... Nhưng
nghiêm trọng hơn, khi sa vào tệ nạn xã hội, con người sẽ dần bị tha hóa và suy đồi về đạo đức. Khi
nghiện ngập, hút chích, những con nghiện sẽ mất dần ý thức, lí trí và tìm đủ mọi cách để thỏa mãn
nhu cầu của bản thân. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những sự việc đáng buồn xảy ra như trộm
cắp và thậm chí là giết người cướp của. Thời gian gần đây, dư luận vẫn chưa hết bàng hoàng trước
vụ việc nam ca sĩ Châu Việt Cường vì sử dụng ma túy quá liều, dẫn đến việc hoang tưởng và gây ra
cái chết cho một cô gái trẻ. Và còn có vô số những vụ thảm án xảy ra mà nguyên nhân chính là do
những ảo giác khi sử dụng ma túy. Như vậy, tệ nạn là một trong những cái nôi tiêu cực sản sinh,
hình thành, nuôi dưỡng những đối tượng nguy hiểm và gây nguy hại đến nền an ninh, trật tự xã
hội.

Từ những gì đã phân tích, có thể thấy rằng tệ nạn đã gây ra những hiểm họa khôn lường cho xã hội.
Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta cần đề ra những biện pháp, giải pháp cấp bách để hạn chế và đẩy
lùi tệ nạn xã hội. Trước hết, chúng ta cần tuyên truyền, phổ biến về tác hại mà tệ nạn gây ra đối với
bản thân, gia đình và xã hội. Đồng thời, mỗi một con người cần nâng cao ý thức để bảo vệ bản thân
trước những cạm bẫy nguy hiểm do tệ nạn gây ra. Các cơ quan chức năng cũng cần tăng cường, đẩy
mạnh các biện pháp quản lí, xử phạt để hạn chế sự phát triển của tệ nạn xã hội.

Như vậy, tệ nạn đã trở thành một trong những vấn nạn gây ra những hiểm họa khôn lường cho xã
hội. Bởi vậy, là những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần nỗ lực đấu tranh chống
lại những cạm bẫy bằng việc rèn luyện lối sống lành mạnh, tích cực cho bản thân.

ĐỀ 2 : thực hiện lối sống xanh


I. Dàn ý Nghị luận về Thực hành lối sống xanh
1. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề cần nghị luận: thực hành lối sống xanh.
2. Thân bài
a. Giải thích
- Lối sống xanh là lối sống thân thiện với môi trường, hòa hợp với tự nhiên.
- Đây là lối sống tích cực trong xã hội hiện đại.
b. Phân tích, bình luận
- Tự nhiên và con người luôn có mối quan hệ mật thiết. Hiện nay môi trường bị ô nhiễm
nặng nề nên con người cần thực hiện lối sống xanh.
- Lối sống xanh được thể hiện ở việc sử dụng những đồ dùng có khả năng tái chế hoặc
thân thiện với môi trường, trồng cây gây rừng, khai thác vừa phải các nguồn tài
nguyên,…
- Sống xanh mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống:
+ Bảo vệ sức khỏe con người.
+ Duy trì môi trường sống lành mạnh cho các thế hệ sau.
+ Nâng cao sức khỏe tinh thần.
+…
- Mặt trái của vấn đề:
+ Lối sống xanh chưa được áp dụng một cách rộng rãi vì nhiều người chưa có ý thức
bảo vệ môi trường.
+ Nếu không thực hiện lối sống xanh, môi trường sẽ bị hủy hoại bởi rác thải, tài nguyên
cạn kiệt và con người sẽ diệt vong.
c. Bài học rút ra
Con người cần chung tay thực hiện lối sống xanh bằng nhiều hình thức.
3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của vấn đề.
1. Nghị luận về Thực hành lối sống xanh mẫu 1
Trong cuốn sách “Sống xanh”, tác giả Jen Chillingsworth đã viết “Ăn sạch – Uống lành –
Sống bền vững”. Quả thực, cung cách sống của con người có mối quan hệ mật thiết với
môi trường xung quanh. Đứng trước thực trạng Trái Đất hiện nay, nhiều người lựa
chọn lối sống xanh để bảo vệ tương lai của chính mình và thế giới xung quanh.
Định nghĩa một cách đơn giản, sống xanh chính là lối sống thân thiện với môi trường,
hòa hợp với tự nhiên. Trong xã hội hiện đại xô bồ, sống xanh được coi là lối sống tích
cực, mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta.
Từ xưa đến nay, con người luôn sống dựa vào tự nhiên. Cả một nền văn minh tân tiến
của chúng ta được xây dựng trên cái nền thô sơ của Trái Đất. Mẹ Thiên Nhiên đã ban
tặng cho con người vô vàn tài nguyên quý giá để phát triển đời sống, bồi đắp văn hóa.
Loài người làm sao có thể tồn tại đến ngày nay nếu thiếu đi đất, nước, ánh sáng, gió
hay những cánh rừng? Thế nhưng, Mẹ đang bị chính con người bức tử. Dân số đông
đúc dẫn đến lượng rác thải quá nhiều, tham vọng tiền bạc khiến con người không
ngừng vắt kiệt tự nhiên. Càng phụ thuộc vào công nghệ hiện đại, con người càng xa rời
thiên nhiên. Những tòa nhà cao ốc, những con đường tắc nghẽn vì xe cộ hay những
làn khói nhà máy đen kịt đang bao trùm Trái Đất. Hiện trạng này đã rung lên hồi chuông
báo động. Hơn bao giờ hết, con người cần thay đổi cách sống và sống xanh là lối sống
hữu ích, được nhiều người lựa chọn.
Lối sống xanh được thể hiện cụ thể trong việc sử dụng những đồ dùng có khả năng tái
chế hoặc thân thiện với môi trường, khai thác vừa phải tài nguyên, ăn uống lành
mạnh,… Mục tiêu của cách sống này là đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của con người
nhưng không làm suy kiệt thiên nhiên. Có lẽ, điều này không còn là một xu hướng mà
nên trở thành trách nhiệm của mỗi công dân toàn cầu.
Nhờ hình thành lối sống xanh mà cuộc sống của con người đã cải thiện rõ rệt. Ô nhiễm
môi trường, khí thải nhà kính được giảm thiểu. Thực phẩm, đồ dùng sinh hoạt, phương
tiện di chuyển,… không rơi vào tình trạng lãng phí. Sức khỏe con người vì thế cũng
được bảo đảm. Đời sống bận rộn khiến chúng ta làm quen với đồ hộp ăn liền hay các
loại cốc, bát, đũa dùng một lần. Những thứ ấy có vẻ tiện lợi nhưng về lâu dài sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của chúng ta. Quay về với những đồ đạc có xuất xứ lành
tính sẽ giúp nâng cao sức khỏe thể chất con người. Bảo vệ tự nhiên đồng nghĩa với
bảo vệ sức khỏe của chính mình và các sinh vật khác. Không chỉ vậy, nhiều người phải
thừa nhận rằng lối sống xanh có tác động tích cực đến tinh thần của họ. Dành thời gian
cho cây cối hơn là máy tính, chăm sóc động vật, sống tối giản giúp tâm trí con người
thoải mái. Duy trì sống xanh còn đem đến môi trường sống lành mạnh cho các thế hệ
sau. Vì tương lai của con em mình, ta cần thực hiện trách nhiệm gìn giữ môi trường
ngay hôm nay. Sống xanh – sống lành.
Nếu không thực hiện lối sống này, chẳng mấy chốc thế giới của chúng ta sẽ là bãi phế
thải khổng lồ. Con người và biết bao loài sinh vật khác sẽ tuyệt chủng vì sức nóng và ô
nhiễm. Tiền bạc hay công nghệ của laptop, tivi không thể cứu được ta. Điều đáng buồn
là hiện nay sống xanh vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Ở bất kì đâu, từ các thành phố
lớn đến những khu ổ chuột, con người vẫn đang từng ngày phá hoại tự nhiên.
Hiện thực hóa việc sống xanh không hề khó. Ta có thể áp dụng nó ngay trong sinh hoạt
hằng ngày như tiết kiện điện, lựa chọn những đồ dùng dễ tái chế và dễ phân hủy, hạn
chế dùng các chất tẩy rửa làm từ hóa chất. Trong ăn uống, ta có thể sử dụng thực
phẩm hữu cơ được nuôi trồng tự nhiên. Ngoài ra, chúng ta cần phải điều chỉnh thói
quen trong nấu nướng và ăn uống, hạn chế việc lãng phí thức ăn. Tiết kiệm điện, nước,
lựa chọn thời trang bền vững thay vì chạy theo phong trào “Shoppee hall” sẽ tiết kiệm
nguồn tài nguyên cho Trái Đất.
Tóm lại, có rất nhiều cách để giúp chúng ta sống xanh và sống lành. Hãy lựa chọn cho
mình phương pháp sống xanh phù hợp để nâng cao chất lượng đời sống và bảo vệ
ngôi nhà chung của chúng ta.
ĐỀ 3 Đấu tranh cho bình đẳng giới
Dàn ý về đấu tranh cho bình đẳng giới
1. Mở bài
Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài
a. Giải thích
- Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng.

- Đấu tranh cho bình đẳng giới là việc làm cần thiết để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

b. Phân tích, bàn luận:


- Bình đẳng giới được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như tôn trọng giới tính hay sở
thích cá nhân của người khác, tạo điều kiện để con người phát huy hết khả năng và
theo đuổi đam mê,…

- Việc đấu tranh cho bình đẳng giới có ý nghĩa:

+ Đem lại cho con người những quyền lợi chính đáng.

+ Thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

+ Giúp con người yêu thương và thấu hiểu nhau hơn.

+…

- Để xây dựng xã hội thực sự bình đẳng, cần sự chung tay của cả cộng đồng.

- Mặt trái của vấn đề:


+ Những người không tôn trọng quyền bình đẳng giới, định kiến về giới tính còn nặng
nề.

+ Một số người có hiểu biết chưa đúng hoặc cố tình lợi dụng quyền bình đẳng giới.

3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của vấn đề vừa bàn luận

Bài 1
Cuộc sống ngày càng phát triển nên vấn đề "Trọng nam khinh nữ" trong xã hội hiện đại
ngày càng giảm đi. Người phụ nữ trong xã hội mới có vai trò tương đương với người
chồng. Họ cũng có cơ hội để khẳng định mình trong cuộc sống, được ra ngoài xã hội
làm việc và kiếm ra tiền. Chính vì vậy, trong gia đình tiếng nói của người phụ nữ cũng
trở nên có uy lực nhiều hơn.

Bình đẳng giới là gì? Có nghĩa trong một gia đình, trong xã hội người phụ nữ có vị trí,
vai trò quan trọng như người chồng của mình. Không chịu sự quản lý học phục tùng lệ
thuộc đời mình vào người đàn ông như thời phong kiến nữa.

Người đàn ông và xã hội phải tôn trọng người phụ nữ tạo điều kiện cho họ có cơ hội
phát triển, nam nữ bình quyền thông qua bộ luật dân sự của nhà nước Việt Nam.

Điều này cũng đã được thể hiện rõ ràng trong luật Bình đẳng giới. Tuy nhiên, trong
cuộc sống thực tế nói là bình đẳng giới có nghĩa chỉ là quyền bình đẳng của người phụ
nữ, mà là sự bình đẳng của cả hai giới.

Trong thực tế cuộc sống, tuy xã hội hiện đại ngày nay người phụ nữ đã có cơ hội thể
hiện mình nhiều hơn, được ra ngoài xã hội làm việc cống hiến sức lực, trí tuệ của mình
cho xã hội tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đóng góp không nhỏ tới sự phồn
vinh thịnh vượng của cuộc sống gia đình. Nhưng trên thực tế thì sự bình đẳng giới này
mới chỉ ở mức tương đối mà thôi, chưa thể nào hoàn toàn bình đẳng được.

Trong mọi cuộc đấu tranh người phụ nữ vẫn luôn chịu phần thiệt thòi thất bại nhiều
hơn, việc mất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn thể hiện trong nhiều mặt ở cuộc sống xã
hội Việt Nam chúng ta. Một xã hội đã bị tư tưởng phong kiến thống trị hàng nghìn năm
chưa dễ dàng xóa bỏ mọi tư tưởng cũ trong một sớm một chiều.

Trong mỗi gia đình thường thì các thành viên đều cùng nhau làm việc. Người vợ và
người chồng cùng nhau ra ngoài kiếm tiền rồi cùng nhau chia sẻ việc nhà, nội trợ và
chăm sóc con cái. Cũng cùng nhau thừa hưởng thành quả từ công sức lao động của cả
hai người.

Nhưng trên thực tế người phụ nữ phải làm việc nhiều hơn đàn ông gấp nhiều lần.
Người phụ nữ hiện đại đi làm ra ngoài kiếm tiền, nhưng hết giờ làm thì phải chợ búa,
cơm nước, chăm sóc con cái, rồi dọn dẹp nhà cửa. Trong khi đó, người đàn ông ngoài
công việc ở cơ quan về nhà chẳng phải động tay vào việc gì, bởi tư tưởng đàn ông vào
bếp không phải là đàn ông, không đáng mặt đàn ông, đã nhiễm và ý thức hệ của nhiều
người đàn ông gia trưởng của nước ta.

Trong cuộc sống gia đình để quyết định những công việc gì quan trọng hầu hết đều do
người đàn ông quyết định, người đàn ông là người có tiếng nói nhiều hơn, còn người
phụ nữ nhiều khi không được tham gia góp ý, không được nói lên tiếng nói của mình.
Đó chính là tư tưởng bất bình đẳng ở một số đàn ông có lối sống cổ hủ phong kiến.

Trong vấn đề sinh sản, người vợ luôn là người phải tự lo cho mình các biện pháp kế
hoạch hóa gia đình, phòng tránh mọi biện pháp để bảo vệ an toàn cho chính mình, còn
người đàn ông thường ít quan tâm tới vấn đề này bởi cho đó là việc của phụ nữ. Sự bất
bình đẳng nằm trong suy nghĩ của người đàn ông trong những vấn đề tế nhị này, bởi
công việc phòng tránh kế hoạch hóa sinh sản, bảo vệ sức khỏe là việc làm dành cho cả
hai người đòi hỏi hai người cùng thực hiện.

Trong xã hội vấn đề ý thức hệ, trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong mỗi gia đình dù
ít hay nhiều. Ông bố nào cũng thích có con trai, người bà nội nào cũng muốn có cháu
trai để duy trì nòi giống của dòng họ mình, để có thể ra oai với đời….Chính vì vậy, việc
mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay là khá nghiêm trọng, theo báo cáo của cục
thống kê thì cứ 120 bé trai được sinh ra thì chỉ có 100 bé gái, vậy thì lệ chênh lệch này
hiện nay là hai mươi bé trai.

Việc mất cân bằng giới tính này do con người nước ta vẫn thi nhau đẻ con trai, tìm mọi
biện pháp can thiệp khoa học để sinh bằng được con trai. Có những nhà nếu như
không sinh được con trai thì chồng sẽ ra ngoài kiếm con, rồi mẹ chồng bắt con dâu để
bằng được cháu trai nếu không sẽ cho con trai mình ly dị vợ. Những suy nghĩ cổ hủ đó
thể hiện sự bất bình đẳng giới trong thực tế cuộc sống.

Có nhiều ngành nghề đặc thù người tuyển dụng hầu như chỉ muốn tuyển nam giới, bởi
nam giới mới có thể đảm bảo được công việc. Tuy không trọng nam khinh nữ nhưng do
tính chất công việc họ vẫn cần nam giới làm việc nặng nhọc hoặc có cường độ áp lực
công việc lớn.

Trong cuộc sống hiện đại, con người ta hướng tới sự bình đẳng giới nhiều hơn để cuộc
sống có thêm những niềm vui trọn vẹn, mỗi thành viên trong gia đình cần có ý thức tôn
trọng người phụ nữ, người vợ người mẹ của mình. Nếu sinh con gái thì không nên cố
gắng sinh con trai bởi con nào cũng là con chỉ cần các con khỏe mạnh, ngoan ngoãn
thì bậc làm cha làm mẹ sẽ cảm thấy hạnh phúc.
Người phụ nữ có những thiên chức không ai có thể thay thế được đó chính là thiên
chức làm mẹ. Chính vì vậy, khi người phụ nữ mang thai, hoặc nuôi con nhỏ người đàn
ông có trách nhiệm phải thương yêu chăm sóc vợ mình thật chu đáo. Tránh gây những
áp lực khiến người phụ nữ bị căng thẳng, gây bệnh trầm cảm. Ngoài ra, người phụ nữ
hiện đại cũng phải ra ngoài làm việc lo lắng kinh tế trong gia đình người đàn ông cần
chia sẻ việc nhà với vợ mình để cuộc sống được cân bằng, hạnh phúc hơn.

Trong gia đình cần nhất là sự quan tâm, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa hai vợ chồng,
giữa các thành viên trong gia đình để cuộc sống được hạnh phúc vẹn tròn đó chính là
sự bình đẳng giới tuyệt vời nhất và là sự tiến bộ xã hội.

Đề 4: Nghị luận về tôn trọng sự khác biệt


1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: quan điểm cần phải biết tôn trọng sự
khác biệt.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn các dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng
lực của bản thân.
2. Thân bài
a. Giải thích
Sự khác biệt: những cá tính, nét riêng, đặc trưng của một người, một sự vật nào đó mà
khi chỉ cần nhắc về đặc điểm đó ta sẽ hình dung ra ngay người, vật ấy.
Mỗi người, mỗi vật đều có những nét đặc trưng riêng, sự khác biệt riêng, chúng ta cần
biết tôn trọng những đặc điểm đó.
b. Thân bài
Người biết tôn trọng sự khác biệt là người biết lắng nghe những quan điểm, chia sẻ,
góc nhìn của người khác một cách trân trọng và tỉ mỉ. Chúng ta có thể đồng ý hoặc
không đồng ý với quan điểm của người khác nhưng không tìm cách vùi dập hoặc coi
thường suy nghĩ của họ.
Từ những quan điểm, góc nhìn của người khác, chúng ta biết chọn lọc và rút ra ý nghĩa
từ quan điểm đó làm bài học cho chính bản thân mình, việc rút ra bài học từ quan điểm
của người khác giúp chúng ta có bài học và hoàn thiện bản thân mình hơn.
c. Chứng minh
Học sinh tự lấy dẫn chứng về những người biết tôn trọng người khác, tôn trọng sự khác
biệt của người khác để minh họa cho bài làm văn của mình.
d. Phản đề
Bên cạnh đó vẫn còn có nhiều người không biết tôn trọng quan điểm của người khác,
sự khác biệt của người khác, luôn cho mình là nhất, quan điểm của mình là đúng và
người khác là sai,… chúng ta không nên học theo những người này bởi đây là lối suy
nghĩ chưa đúng đắn.
e. Liên hệ bản thân
Mỗi chúng ta có những sự khác biệt và người khác cũng vậy. Hãy biết tôn trọng người
khác, tôn trọng chính mình để xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái, con người hòa
đồng với nhau hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề cần nghị luận: quan điểm cần phải biết tôn trọng sự khác biệt.
Bài 1:
Trái Đất mà chúng ta đang sống được xây dựng bởi sự phong phú của tự nhiên.
Những cánh rừng bạt ngàn, những đại dương vô tận hay sa mạc mênh mông đều có vẻ
đẹp riêng làm nên diện mạo đa dạng cho thế giới. Và con người cũng vậy, chúng ta
sống trong một xã hội nhưng giữa người với người luôn tồn tại những khác biệt nhất
định. Do đó, ta cần phải học cách chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt ấy.
Sự khác biệt chính là những nét riêng làm nên bản sắc của con người. Khác biệt tồn tại
ở nhiều cấp độ từ tập thể cho tới cá nhân. Nó có thể nằm ở ngoại hình, thói quen hay
quan điểm, lối sống, cung cách ứng xử. Tôn trọng sự khác biệt là một trong những yếu
tố cơ bản để xây dựng một xã hội văn minh và hạnh phúc.
Theo quan niệm của phương Đông, mỗi con người là một tiểu vũ trụ. Bao trùm lấy
chúng ta là vũ trụ to lớn. Trong dải ngân hà bao la, ta không thể tìm thấy hai ngôi sao
hoàn toàn trùng khớp. Đến những quả trứng mà Leonardo Da Vinci vẽ còn có tròn méo
khác nhau nên suy cho cùng, khác biệt chính là quy luật tất yếu của tạo hóa. Chính vì
vậy, ta cần ý thức và tôn trọng điều hiển nhiên này.
Tiếp theo, bất cứ ai cũng đều có xu hướng kết thân với những người có cùng quan
điểm, sở thích, tính cách. Tuy nhiên, nếu con người ai cũng giống ai như những bản
photocopy thì đời sống sẽ thật nhàm chán! Những điểm trái chiều giữa chúng ta tạo
nên sự phong phú cho đời sống. Nhờ có sự khác biệt mà chúng ta – những người
không hoàn hảo, được bù trừ lẫn nhau, cùng nâng đỡ nhau để phát triển. Điều này đòi
hỏi ở ta sự kiên nhẫn, sự đồnh cảm để đánh giá người khác khách quan và chấp nhận
sự “trái dấu” ở mọi người. Tôn trọng sự khác biệt chính là tôn trọng quyền con người.
Việc tôn trọng sự khác biệt còn là biểu hiện của tình thương, lòng nhân ái, giúp gắn kết
con người. Ví dụ như trong cuộc sống gia đình, thấu hiểu những khác biệt giúp xóa
nhòa khoảng cách thế hệ. Ở ngoài xã hội, khi biết tôn trọng những điều riêng tư của
người khác, chúng ta cũng nhận được sự tôn trọng tương tự. Đừng bao giờ “dán nhãn”
ai đó chỉ vì họ có khuôn mặt, màu da, giọng nói, thói quen ăn uống hay bất cứ điều gì
khác bản thân ta. Những hành động như vậy sẽ gây tổn thương tinh thần và xúc phạm
danh dự nghiêm trọng.
Hãy thử nhìn vào lịch sử phát triển của con người và xem sự khác biệt đã tạo nên
những điều tuyệt vời nào? Trong suốt quãng đời niên thiếu của mình, Edison đã bị trêu
chọc bởi sở hữu chiếc đầu to hơn các bạn cùng trang lứa. Mỗi khi cậu bé thắc mắc
điều gì, cô giáo và các bạn đều cười nhạo cậu. Điều này đã khiến Edison cảm thấy khó
hiểu và buồn bã. May mắn thay, người mẹ của Edison đã trân trọng mọi khác biệt ở
con mình, thấu hiểu tính hiếu kì của cậu. Không có người mẹ tuyệt vời ấy, thế giới
không thể có nhà bác học thiên tài Edison về sau. Tỷ phú Jack ma cũng từng nói về giá
trị của sự khác biệt: “Nếu hơn 90% đám đông nói “Có” với việc duyệt một bản đề xuất, tôi
chắc chắn sẽ vứt nó vào thùng rác. Nếu có nhiều người nghĩ rằng bản đề xuất là tốt, chắc
chắn có nhiều người hẳn đã đi theo hướng đó, và cơ hội không còn thuộc về chúng tôi”.
Khác biệt, vốn là điều tự nhiên nhưng ngay trong xã hội hiện đại vẫn tồn tại những con
người bảo thủ, cố chấp, luôn áp đặt định kiến của mình lên người khác khiến cuộc sống
trở nên ngột ngại và tù túng. Ngoài ra, trong một số trường hợp, một số người lại lợi
dụng cụm từ “khác biệt” để biện minh cho những toan tính, sự ích kỉ của cá nhân,
không tôn trọng tập thể xung quanh. Điều ta cần làm là kết hợp hài hòa giữa quan điểm
cá nhân với tinh thần tập thể, dùng bản sắc của mình tô điểm màu sắc cho cuộc sống
thay vì lợi dụng hay chà đạp sự khác biệt.
“Để trở nên không thể thay thế, người ta phải luôn khác biệt” – Coco Chanel. Hãy luôn tự
hào vì những điểm độc nhất trên con người chúng ta, nâng niu chính mình và yêu
thương những người xung quanh.

Trong cuộc sống, mỗi người có một quan điểm sống, một tư tưởng sống khác nhau tạo
nên sự đa dạng cho xã hội. Chúng ta ngoài việc bảo vệ quan điểm của mình thì cũng rất
cần phải biết tôn trọng sự khác biệt của người khác. Sự khác biệt chính là những cá tính,
nét riêng, đặc trưng của một người, một sự vật nào đó mà khi chỉ cần nhắc về đặc điểm
đó ta sẽ hình dung ra ngay người, vật ấy. Mỗi người, mỗi vật đều có những nét đặc trưng
riêng, sự khác biệt riêng, chúng ta cần biết tôn trọng những đặc điểm đó. Người biết tôn
trọng sự khác biệt là người biết lắng nghe những quan điểm, chia sẻ, góc nhìn của người
khác một cách trân trọng và tỉ mỉ. Chúng ta có thể đồng ý hoặc không đồng ý với quan
điểm của người khác nhưng không tìm cách vùi dập hoặc coi thường suy nghĩ của họ.
Từ những quan điểm, góc nhìn của người khác, chúng ta biết chọn lọc và rút ra ý nghĩa
từ quan điểm đó làm bài học cho chính bản thân mình, việc rút ra bài học từ quan điểm
của người khác giúp chúng ta có bài học và hoàn thiện bản thân mình hơn. Bên cạnh đó
vẫn còn có nhiều người không biết tôn trọng quan điểm của người khác, sự khác biệt
của người khác, luôn cho mình là nhất, quan điểm của mình là đúng và người khác là
sai,… chúng ta không nên học theo những người này bởi đây là lối suy nghĩ chưa đúng
đắn. Mỗi chúng ta có những sự khác biệt và người khác cũng vậy. Hãy biết tôn trọng
người khác, tôn trọng chính mình để xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái, con người
hòa đồng với nhau hơn. Sự khác biệt làm đa dạng hóa xã hội, giúp cho cuộc sống con
người thêm đa màu sắc hơn, từ đó giúp con người phát triển tốt hơn. Hiểu được tầm
quan trọng của sự khác biệt, mỗi người hãy sống và thích nghi với những sự khác biệt
mới mẻ để cảm nhận được trọn vẹn cuộc sống nhiều hơn nữa.

Cần phải biết tôn trọng sự khác biệt - Mẫu 3

Tôn trọng sự khác biệt là văn hóa ứng xử tối thiểu cần phải có của một người sống trong
xã hội này. Tôn trọng sự khác biệt cũng chính là sức mạnh của trí tuệ. Vì tâm đắc với
điều này mà tôi khá nể nhạc sỹ Quốc Trung khi mới đây, bình về phát ngôn gây sốc của
Thanh Lam, Quốc Trung điềm đạm: "Với một cá nhân có thực tài và bản lĩnh luôn bình
thản và đón nhận những ý kiến đánh giá khác nhau…”, và "Thế hệ trẻ Việt Nam ngày
nay cần được rèn luyện về bản lĩnh và văn hóa ứng xử với những lời khen chê”.

Một nghệ sĩ cũng như một người trọng văn hóa ứng xử, hơn bất kỳ ai phải hiểu rõ điều
đó. Nhìn sự việc một cách tích cực, hành động và phát ngôn của nhạc sỹ này cho thấy
sự liêm chính trong học thuật vẫn được tôn trọng. So sánh trường hợp Quốc Trung với
những trường hợp "bình loạn, ném đá cho hả” cho thấy rõ hơn sự khác biệt mang tính
văn hóa trong việc ứng xử với những bất đồng ý kiến…

Tôn trọng sự khác biệt bởi vậy, là biểu hiện của khoa học, văn hóa, lòng nhân ái và tính
nhân đạo. Nhưng vì sự khác biệt chỉ là tính chất, không phải mục đích cho nên tôn trọng
sự khác biệt đơn thuần chỉ là tôn trọng tính chất đa dạng, mà mục đích cuối cùng đều
dành cho sự phát triển đi lên, hướng tới "chân lý, hoàn thiện và hoàn mỹ”.

Nhiều người trên khắp nước từng phê phán và muốn phải "trừng phạt” hai ca sỹ trẻ "đào
ngũ” do không tham gia chương trình biểu diễn ở Lào mới đây. Họ lí giải rằng những
người mang danh xưng nghệ sỹ lớn, giảng viên ĐH mà bất chấp nhiệm vụ để chạy sô thì
đó là một vết nhơ của nền nghệ thuật, và họ sẽ không còn uy tín để giảng dạy được. Mặc
dù vậy, hai nghệ sỹ lại nhận được sự đồng cảm của nhiều đồng nghiệp. Họ đã xin lỗi mọi
người về những "sai sót” không thể tha thứ đó. Có thể nói quyết định xin lỗi đó lại là một
dấu hiệu tích cực cho nghệ thuật. "Khác biệt tiêu cực” ở họ đã được chính họ điều chỉnh
tích cực.

Vậy là, điều quan trọng để thành công trong cuộc sống không hẳn là tài năng hay kinh
nghiệm, mà chính là thái độ. Thái độ đúng ở đây là thái độ cầu thị và thái độ khiêm tốn.

Người lớn có đức này sẽ truyền được được cho thế hệ con cháu, nhưng quan trọng hơn,
họ biết tôn trọng sự khác biệt của chính con em mình, để có thể làm người bạn lớn của
chúng. Đó là mối quan hệ vô giá.

Ngay từ nhỏ, nhiều trẻ đã bộc lộ những khác biệt về văn hóa so với cha mẹ. Các bậc phụ
huynh sống và làm việc trong những cơ quan khác nhau, có những người bạn khác nhau
và họ ít khi nghĩ rằng chính thái độ tôn trọng người khác ở họ lại có ảnh hưởng đến các
con nhiều như vậy. Những hành động độ lượng và tôn trọng người khác của cha mẹ
trong cuộc sống hàng ngày chính là một thông điệp hoàn hảo giúp con cái học được cách
tôn trọng và đánh giá cao những khác biệt giữa mỗi người.

Tôi hiểu rằng khuyên mình sống và ứng xử thế nào cho có văn hóa vốn không dễ. Diễn
đàn này cần có sự vào cuộc của các nhà văn hóa, nhà văn hay giáo sư nổi tiếng. Nhưng
nền giáo dục của chúng ta cũng cần bổ sung môn "văn hóa ứng xử” cho trẻ em để phù
hợp với thời đại mới.

Một gia đình, một cá nhân có thể may mắn giàu có lên trong một năm hay dăm ba năm
gì đó. Nhưng để biết cư xử có văn hóa, cần gấp nhiều nhiều lần thời gian như thế, với
sự tu luyện, học hỏi, quan sát không ngừng. Tôn trọng sự khác biệt của mình, chắc chắn
sẽ hạn chế làm người khác tổn thương chỉ vì những định kiến và nông nổi.

Đề 5: Sự cần thiết của việc học ngoại ngữ

Dàn ý nghị luận về tầm quan trọng của việc học


I. Mở bài:
- Con người ai cũng trải qua việc học, nhưng không phải ai cũng có ý thức xác định
mục đích và mục đích đúng đắn của việc học.

- Mỗi thời đại, con người có mục đích học tập không giống nhau. Tổ chức UNESCO đã
đề xướng... nhằm xác định mục đích học tập có tính toàn cầu.

II. Thân bài:


1. Giải thích và làm rõ tầm quan trọng của việc học

- Học để biết:

• Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc
sống "trường đời".
• "Học để biết" là mục đích đầu tiên của việc học. "Biết" là tiếp thu, mở
mang, có thêm kiến thức về đời sống, tự nhiên, xã hội và con người. Con
người từ chỗ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, biết sơ sài đến biết
sâu sắc, biết một lĩnh vực đến hiểu biết về nhiều lĩnh vực đời sống...
• Nhờ học, con người có những hiểu biết phong phú, tự làm giàu kho tri thức
khoa học của mình, tạo được vốn sống sâu sắc...
• Quan trọng hơn, qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết về
bản chất con người và tự nhận thức bản thân, "biết người", "biết mình",
biết giao tiếp, ứng xử với nhau sao cho "Đắc nhân tâm"...

- Học để làm: "Học để làm" là mục đích tiếp theo của việc học. "Làm" là vận dụng kiến
thức có được vào thực tế cuộc sống. Đây là mục đích thiết thực nhất của việc học –
"Học đi đôi với hành".

• Làm để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống
của bản thân và góp phần tạo nên của cải cho xã hội.
• Ví dụ: Người nông dân, kĩ sư, bác sĩ... đều mang kiến thức đã học được áp
dụng vào thực tế, để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
• Học mà không làm thì kiến thức có được không có ích, không bền vững,
không được sàng lọc.

- Học để chung sống:


• Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc học. "Chung sống" là
khả năng hòa nhập xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử... để tự thích nghi với
mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp của con người trong quá trình
sống để không bị tụt hậu, lạc lõng. Đây là hệ quả tất yếu của việc "biết",
"làm".
• Bởi lẽ, "con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội". Bản chất, giá trị,
nhân cách của con người được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử
thách trong các mối quan hệ đó.

- Học để tự khẳng định mình:

• Là mục đích sau cùng của việc học. "Tự khẳng định mình" là tạo được vị
trí, chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá
nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ có thể khẳng định mình khi có
hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống.
• Từ việc học, mỗi người có cơ hội khẳng định tri thức mình tích lũy được;
khẳng định khả năng lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm
chất...
2. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:

- Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, đầy đủ, toàn
diện.

- Mục đích học tập này thực sự đáp ứng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu giáo dục, đào
tạo con người trong thời đại ngày nay. Mục đích này không chỉ dành riêng cho học sinh,
sinh viên mà còn dành cho tất cả những ai là người học. Vì thế, có thể coi đây là mục
đích học tập chung, có tính chất toàn cầu.

- Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học thấy rõ những sai lầm nhận thức
về việc học: học không có mục đích; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ với người khác;
học vì bằng cấp; học vì thành tích; học mà không có khả năng làm, không biết chung
sống, không thể khẳng định mình. Ví dụ: Học sinh không biết viết đơn xin nghỉ học
đúng quy cách; kĩ sư giỏi, được đào tạo bài bản mà không chế tạo được những công
cụ trong sản xuất nông nghiệp; có học vị, bằng cấp nhưng cách ứng xử thì vụng về, lối
sống lại thiếu văn hóa...

3. Bài học về nhận thức và hành động của bản thân:

- Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học:
không chỉ học ở một giai đoạn mà phải học suốt đời; không chỉ học trong nhà trường
mà cần phải học ngoài xã hội; người dạy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn dạy
"làm người"...

- Mục đích học tập này giúp người học:

- Xác định rõ mục đích, động cơ và thái độ học tập.

- Ra sức học tập và rèn luyện, trang bị kiến thức về mọi mặt để có trình độ chuyên môn
vững vàng, có khả năng hội nhập quốc tế.

- Học phải đi đôi với hành để khẳng định mình. Sống có ích cho cuộc đời và cho gia
đình, xã hội.

III. Kết bài:

- Khẳng định vai trò của học tập: học để không bị ngu dốt, nghèo nàn và lạc hậu. Học
để khẳng định sự thành đạt của cá nhân và sự tiến bộ của nhân loại.

• Liên hệ bản thân: Đã xác định được mục đích đúng đắn cho việc học của
mình chưa? Cần phải làm gì để đạt được mục tiêu ấy?
Bài 1
Học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà mỗi người cần phải xác định cho
mình, đặc biệt là với mỗi học sinh. Để việc học đạt hiệu quả mỗi người nên xác định
cho mình một động cơ học tập đúng đắn. Vậy động cơ học tập là gì? động cơ học tập
có vai trò quan trọng như thế nào với mỗi người?

Chúng ta hiểu động cơ học tập là việc xác định nhiệm vụ, mục tiêu học tập đúng đắn.
Trên cơ sở có mục tiêu học tập đó, mỗi người sẽ có ý thức phấn đấu để hoàn thành
mục tiêu và đạt được kết quả cao trong học tập. Mỗi người sẽ có mỗi động cơ học tập
khác nhau, không ai giống ai cả. Dù động cơ học tập khác nhau nhưng đều giống nhau
ở mục tiêu và kết quả đạt được, đó là kết quả học tập tốt. Trên thực tế không phải ai
cũng xác định được mục tiêu học tập cả, có người có ý thức, trách nhiệm thì luôn luôn
xác định được mục tiêu học tập đúng đắn, phấn đấu để đạt được mục tiêu đó. Trường
hợp này thì lại thường rơi vào những người có sự chăm chỉ và có kết quả học tập tốt.
Ngược lại những người có lực học kém, thường xuyên ỷ lại vào người khác sẽ không
có động cơ học tập rõ ràng, hậu quả là việc học đã kém lại càng kém hơn, thành tích
học tập không được như mong muốn.

Động cơ học tập hình thành từ khi nào? Chúng ta không thể ép học sinh mầm non, tiểu
học mới chập chững đi học đã xác định được mục tiêu, động cơ học tập ngay được.
Động cơ học tập hình thành trong quá trình lâu dài, được tích lũy dần dần và chỉ thực
sự rõ ràng khi học sinh đã có những nhận thức, suy nghĩ đúng đắn, chính xác về việc
học của mình. Có những bạn hình thành động cơ học tập từ rất sớm ngược lại lại có
những người trải qua rất nhiều những thay đổi, biến động, đả kích về tinh thần hoặc
nhiều lý do khác mới hình thành cho mình được động cơ học tập… Với động cơ học
tập chúng ta có thể chia nó làm hai loại: một là động cơ bên trong hai là động cơ bên
ngoài. Động cơ bên trong chính là mục tiêu phấn đấu mà người học đề ra để mình đạt
được; động cơ bên ngoài là những ảnh hưởng, tiêu chí của xã hội đặt ra và nó cũng có
tác động không nhỏ đến người học, là yếu tố thúc đẩy mỗi người hình thành được mục
tiêu cho mình.
Như chúng ta đều biết động cơ học tập có vai trò vô cùng quan trọng với mỗi người.
Nhờ có động cơ học tập người học có phương hướng, mục tiêu học tập để từ đó hoàn
thành được giấc mơ của mình. Chẳng hạn một người có động cơ học tập là đạt học
bổng để đi nước ngoài du học thì họ sẽ luôn có ý thức phấn đấu, nỗ lực để hoàn thành
được mục tiêu đó. Nếu có được những động cơ học tập phù hợp, việc học sẽ không
còn áp lực với mỗi học sinh, chúng sẽ thấy đó là điều thú vị cần phải chinh phục được.
Từ đó, kết quả học tập sẽ được cải thiện rất nhiều.

Để có được động cơ học tập mỗi người cần phải xác định được tầm quan trọng của
việc học, mục tiêu rõ ràng ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh đó việc hỗ
trợ của cha mẹ, thầy cô và bạn bè xung quanh cũng là những yếu tố cần thiết giúp mỗi
người học nhận thức được đúng đắn nhiệm vụ của mình. Cha mẹ cũng không nên quá
áp đặt, so sánh để tạo áp lực cho con cái. Mà hãy dành sự nhẫn nại, kiên trì, giảng giải
từ từ để con em hiểu được tầm quan trọng của học tập.

Với mỗi học sinh xác định được động cơ học tập là điều vô cùng quan trọng, đó là
bước đệm và là tiền đề để mỗi người có hướng phấn đấu trong học tập, hoàn thành
được những mục tiêu đề ra, chinh phục được con đường học vấn của mình.

Bài làm mẫu 2

Học tập là mục tiêu suốt đời của mỗi người. Chúng ta hiện nay đang phấn đấu xây
dựng một xã hội học tập, nhằm phát huy tối đa khả năng cũng như quyền được học tập
của mỗi người. Có một câu ngạn ngữ của người Gruzia "Học tập là hạt giống của kiến
thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc".

Thật vậy! Kiến thức không phải tự nhiên mà có. Đó là tích lũy hiểu biết của nhân loại,
của cộng đồng, của nhiều thế hệ thông qua quá trình học tập mà thành. Học tập chính
là quá trình tích lũy kiến thức! Câu ngạn ngữ trên đã có một ví von rất hay khi đưa ra
hình ảnh "hạt giống" để nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập. Hạt giống sẽ nảy nở
phát triển thành cây. Quá trình học tập cũng như gieo hạt giống cho trí não và tâm hồn.
Kiến thức nhiều cũng là kết quả tích lũy hạt giống để hứa hẹn một mùa bội thu. Kiến
thức tốt, đầy đủ, phong phú sẽ gieo những hạt giống cho tương lai của mỗi con người.
Tuy nhiên cần phải hiểu thấu đáo hơn câu ngạn ngữ này ở nghĩa bao quát của nó Hạt
giống chuẩn bị không tốt, cây sẽ phát triển èo uột, cũng giống như kiến thức nông cạn ít
ỏi khiến chúng ta gặp vô vàn khó khăn, lúng túng và bế tắc trong công việc. Và một
người học tập được điều hay lẽ phải thì cũng chính là tích lũy hạt giống tốt, còn kiến
thức lệch lạc, sai lầm thì như hạt giống xấu làm hủy hoại tư duy và tâm hồn, sẽ không
tránh khỏi gây tác hại cho đời sống. Cũng như vậy, chỉ trên nền tảng một kiến thức đầy
đủ mới có tương lai hạnh phúc. Bởi vậy, trong đời sống, ta gặp không ít những tấm
gương đổi đời nhờ kiến thức.

Tuy nhiên mối quan hệ học tập – kiến thức - hạnh phúc không chỉ được hiểu đơn giản
một chiều mà cần phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng nhân quả của nó. Ông bà ta
cũng thường nói "gieo nhân nào, gặt quả ấy" như một cảnh tỉnh. Xét mối quan hệ trong
ba yếu tố học tập – kiến thức - hạnh phúc cũng cần được nhìn nhận từ nhiều phía. Học
tập đúng đắn, có phương pháp, có chọn lọc thì mới có kiến thức tốt, đa dạng, phong
phú. Kiến thức tốt cần gắn với thức đem kiến thức ấy phục vụ cho xã hội và cho bản
thân, không chỉ là những kiến thức thu lượm được theo kiểu thực dụng ích kỷ, vì nếu
hạnh phúc của ta lại đem bất hạnh cho người khác thì cũng là chứng tỏ ta đã tích lũy
hạt giống xấu cho chính ta, gieo mầm bất hạnh cho kẻ khác.

Vì vậy, mỗi chúng ta phải xác định động cơ học tập đúng đắn, thu lượm kiến thức bổ
ích, hướng tới hạnh phúc của cộng đồng hài hòa với hạnh phúc cá nhân. Có như vậy
mới thật sự trở thành con người có ích cho xã hội.

Bài làm mẫu 3


Cuộc sống ngày càng phát triển không ngừng và chóng mặt, con người cũng không
ngừng học hỏi và nâng cao kiến thức của mình để hòa nhập và không bị lạc hậu. Một
trong những điều làm nên thành công và là tiền đề vững chắc để ta vươn lên đạt được
những mục tiêu đề ra đó chính là con đường học tập. Đối với cuộc đời mỗi người học
tập là một trong những điều quan trọng nhất. Đã có biết bao câu hay ý đẹp nói về việc
học tập. Trong đó, mục đích học tập mà UNESCO đề xướng: “ Học để tự khẳng định
mình” để lại ấn tượng nhiều nhất với tuổi trẻ ngày nay. Vậy thế hệ thanh niên chúng ta
có ý nghĩ gì về quan niệm trên.

Học tập là con đường muôn đời, không bao giờ ngừng phát triển. Trước hết ta cần tìm
hiểu cho thấu đáo “học” là gì và có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong cuộc sống?
Học là quá trình học hỏi, tiếp nhận kiến thức, kĩ năng để phát triển tâm hồn, trí tuệ và
nhân cách. Ở bất cứ nơi đâu ta cũng có thể học hỏi, học ở trường lớp, thầy cô, bạn bè,
từ những thế hệ trước và cả ở ngoài đời sống xã hội. Học tập còn là sự tích lũy, nâng
cao và tìm tòi thêm nhiều tri thức xung quanh ta. Đó là sự tự nguyện xuất phát từ chính
bản thân ta làm cho việc học trở nên nhẹ nhàng, đem lại nhiều thú vị và ý nghĩa cho
cuộc sống. Học để tự khẳng định mình là học để nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Từ đó rèn luyện cho mình bản lĩnh trong mọi tình huống, có
phương pháp giải quyết mọi việc một cách phù hợp, khoa học nhất. Sự khẳng định
mình chính là khẳng định “ cái tôi” của mỗi người có cá tính riêng, bản lĩnh riêng, tài
năng riêng, không ai giống mình và mình không giống ai. Đó còn là học để biết đúng,
biết sai, thế nào là tốt và xấu để ta từng bước hoàn thiện nhân cách bản thân mình.

Đã có biết bao người đã khẳng định được cái tôi của mình, được nhiều người biết đến
và đem lại niềm tự hào, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhờ những nỗ lực,
đóng góp của họ mà xã hội này, thế giới này toàn diện và tốt đẹp hơn. Những người ấy
sẽ được mọi người yêu quý, tin tưởng và lấy đó làm gương. Thế nhưng bên cạnh đó
còn có những người chưa xác định cho mình mục đích học tập rõ ràng. Họ không biết
nhiều kiến thức, không có khả năng vận dụng vào cuộc sống, khó chung sống với mọi
người và khó thành công. Hơn nữa, còn có nhiều người quan niệm rằng học để kiếm
điểm, để lấy bằng mà không cần nắm kiến thức. Những “tiến sĩ giấy” ấy sẽ bị mọi người
khinh rẻ, xem thường và phê phán. Họ cần xem xét lại động cơ học tập của mình và
học hành nghiêm túc hơn nữa.

Để thực hiện mục đích học tập trên chúng ta cần có những mục tiêu như thế nào?
Trước hết, ta cần phải xác định mục đích, xây dựng lí tưởng một cách đúng đắn, cao
đẹp vì có lí tưởng cao đẹp và những kiến thức mình biết ta mới có thể đặt chân lên con
đường mang tên thành công. Nếu mục đích không đúng đắn sẽ dẫn đến những hậu
quả khôn lường và hủy diệt cả nhân loại. Xã hội ngày càng vươn lên và vươn cao, càng
có nhiều cơ hội và điều kiện để mỗi người có thể tự khẳng định chính mình. Vậy tại sao
chúng ta không tận dụng cơ hội ngàn vàng ấy để khẳng định cái tôi cá nhân của chính
chúng ta. Riêng em, em sẽ học hành thật tốt, rèn luyện nhân cách, đạo đức và xác định
mục tiêu đúng đắn cho bản thân để từ đó tự khẳng định bản thân mình.

Một nhà văn nào đó đã viết: “Lí tưởng là ngọn đèn soi sáng”, việc xác định mục đích
học tập của mỗi người cũng quan trọng như việc xác định lí tưởng sống. Phương
châm: “ Học để tự khẳng định mình” của UNESCO đề xướng thật sự là kim chỉ nam, là
con đường để dẫn dắt tôi, bạn và chúng ta đi tới thành công.

Đề 6: Các câu lạc bộ trong trường

Nghị luận về Thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong
nhà trường: nên hay không nên?
Đề bài: Nghị luận về Thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường: nên hay không
nên?

Nghị luận Thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường: nên hay không nên hay nhất
Nghị luận về Thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường: nên hay không nên thuộc chủ
đề Viết bài văn trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống Ngữ văn 6

I. Dàn Ý Bài Nghị Luận Về Thành Lập Một Câu Lạc Bộ Đọc Sách Trong Nhà
Trường: Nên Hay Không Nên?
1. Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Nên hay không nên thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong nhà
trường.
- Nêu ý kiến, quan điểm của bản thân: Việc thành lập câu lạc bộ đọc sách trong trường là điều nên làm.
2. Thân bài: Lần lượt nêu những lí lẽ cụ thể và chứng minh:
- Câu lạc bộ đọc sách giúp học sinh củng cố, rèn luyện những kiến thức trên lớp:
+ Hoạt động nghiên cứu, thuyết trình, giới thiệu những cuốn sách liên quan đến các bài học chính khóa
sẽ giúp củng cố và nâng cao kiến thức cho học sinh.
+ VD: Việc nghiên cứu và thuyết trình về một cuốn sách giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng làm bài văn
nghị luận, thuyết minh,...
- Câu lạc bộ đọc sách giúp kết nối, chia sẻ đam mê, lan tỏa và rèn luyện cho học sinh về văn hóa đọc:
+ Được giao lưu, tiếp xúc với các học sinh khác trong trường.
+ Có cơ hội gần gũi hơn với thầy cô trong trường.
+ Những hoạt động thường xuyên như điểm sách, các cuộc thi viết bài cảm nhận, thiết kế bìa sách,... sẽ
giúp lan tỏa tình yêu sách đối với mọi người.
- Câu lạc bộ đọc sách giúp học sinh hình thành và rèn luyện thêm những kĩ năng cần thiết trong cuộc
sống:

+ Qua các hoạt động được tổ chức, học sinh có cơ hội tự làm việc, nghiên cứu, từ đó phát triển bộ kĩ
năng mềm.
+ VD: kĩ năng tìm kiếm và chọn lọc thông tin, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng tổ chức
sự kiện, kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin,...
3. Kết bài:
- Khẳng định lại ý kiến, quan điểm của bản thân.
- Đưa ra đề xuất.

Hiện nay, trong các trường học đang xuất hiện những câu lạc bộ đọc sách. Việc này đã mang đến
nhiều ý kiến trái chiều. Có người coi đó là việc thừa thãi, tốn thời gian. Có người lại nghĩ đó là một
sự tích cực, đem lại vô vàn lợi ích cho cá nhân học sinh, nhà trường và xã hội. Theo quan điểm của
bản thân, tôi hoàn toàn ủng hộ sự xuất hiện của những câu lạc bộ đọc sách này.

Đầu tiên, việc thành lập câu lạc bộ đọc sách sẽ giúp học sinh ôn tập và bổ trợ kiến thức. Khi tham
gia các hoạt động đọc, giới thiệu về cuốn sách liên quan đến tác phẩm trong chương trình chính
khóa, mỗi người không chỉ được củng cố về kiến thức mà còn có thêm nhiều góc nhìn, suy nghĩ,
cảm nhận khác. Đồng thời, có thêm kinh nghiệm trong việc làm những dạng bài nghị luận văn học,
thuyết minh ở trên lớp.

Tiếp đó, câu lạc bộ đọc sách được coi là nơi để kết nối, chia sẻ đam mê đọc sách đến mọi người. Ở
đây, học sinh không chỉ được làm quen thêm nhiều bạn mới mà còn có cơ hội tiếp xúc gần gũi hơn
với các thầy cô. Qua đó, chúng ta sẽ mở rộng mối quan hệ của bản thân, được tiếp nhận vô số góc
nhìn khác biệt, thú vị. Ngoài ra, với vô số hoạt động bổ ích mà câu lạc bộ đề ra, ta còn có thể thu
hút những học sinh khác, lan tỏa tình yêu với việc đọc đến cộng đồng nhỏ này.

Không chỉ vậy, tham gia câu lạc bộ đọc sách còn giúp học sinh rèn luyện những kĩ năng mềm cần
thiết. Với sự năng nổ và chủ động của người trẻ, rất nhiều hoạt động thú vị sẽ được tổ chức như điểm
sách, các cuộc thi viết bài cảm nhận, thiết kế bìa sách,... Nhờ đó, chúng ta sẽ phát triển cho bản
thân không ít kĩ năng: giao tiếp, hợp tác, công nghệ thông tin,... Tất cả chính là bàn đạp để chúng
ta tiến bộ, phát triển trong thời đại giao lưu, hội nhập ngày nay.

Tóm lại, việc thành lập câu lạc bộ đọc sách trong trường học là một ý kiến vô cùng hợp lí, đem đến
nhiều ích lợi cho cộng đồng. Nó sẽ giúp học sinh rèn luyện và phát triển bản thân một cách hiệu
quả và tích cực hơn. Hãy hình thành thói quen đọc sách ngay từ sớm để khám phá, chinh phục kho
tàng tri thức của nhân loại.

2. Nghị luận về Thành lập một câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường: nên hay không nên? -
mẫu số 2:

Việc thành lập câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường đã không còn quá xa lạ với chúng ta. Điều này
không chỉ khiến cuộc sống học đường trở nên thú vị, nhiều màu sắc hơn mà còn giúp học sinh phát
triển một cách toàn diện, tích cực. Chính vì vậy, sự xuất hiện của những câu lạc bộ đọc sách ấy là
cần thiết.

Trước hết, các câu lạc bộ đọc sách là môi trường vô cùng phù hợp để học sinh ôn tập và bổ trợ kiến
thức trên lớp. Lấy ví dụ, khi tìm hiểu cuốn sách "Không gia đình" của Hector Malot, chúng ta có thể
liên hệ và áp dụng đến những chủ đề như "Điểm tựa tinh thần" (bài 6) hay "Gia đình thương yêu"
(bài 7). Từ sự phân tích, liên hệ đó, người học sẽ càng hiểu rõ hơn về tác phẩm nổi tiếng của nhà
văn người Pháp, đồng thời củng cố và nắm chắc kiến thức đã học thuộc hai chủ điểm kia.

Việc tham gia câu lạc bộ đọc sách còn là cách để kết nối học sinh trong trường. Đến với câu lạc bộ,
chúng ta sẽ được gặp gỡ nhiều người, từ bạn học cùng tuổi đến các anh chị khóa trên. Nhờ đó,
những mối quan hệ cá nhân dần được rộng mở. Khi cùng nhau hoạt động trong câu lạc bộ, chúng
ta dễ dàng học hỏi, tiếp thu vô vàn điều hay, bổ ích từ người bên cạnh. Như dân gian có câu: "Học
thầy không tày học bạn", sự trao đổi và thảo luận giữa những người cùng trang lứa sẽ giúp mỗi cá
nhân hoàn thiện hơn.

Không chỉ vậy, câu lạc bộ đọc sách còn là nơi để học sinh phát triển, bồi dưỡng các kĩ năng cần thiết
trong cuộc sống. Việc tham gia chương trình giới thiệu sách sẽ giúp mỗi người trau dồi khả năng
giao tiếp. Phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học bất kì thì đem đến cho người học năng lực tìm
kiếm và chọn lọc thông tin. Ngoài ra, học sinh còn có thể rèn luyện thêm các kĩ năng khác như lên
kế hoạch và tổ chức sự kiện, làm việc nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin,... Đặc biệt, sự năng nổ,
nhiệt tình và tinh thần chủ động khi tham gia một câu lạc bộ sẽ biến mỗi cá nhân trở nên tự tin,
năng động hơn.

Như vậy, thành lập câu lạc bộ đọc sách trong trường học là một việc làm vô cùng ý nghĩa, mang lại
nhiều ảnh hướng tích cực đến người học, nhà trường. Mong rằng, những phong trào có ý nghĩa
như vậy sẽ được nhân rộng ở nhiều trường học trên cả nước.

You might also like