Professional Documents
Culture Documents
1.1.1. Các nghiên cứu về vai trò, lợi ích của trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp
Năm 1970, Friedman M. cho ra đời công trình“Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp” khẳng định vai trò to lớn của CSR.
Theo Sethi (1975) “CSR hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức
phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến”.
Caroll (1979) đã khẳng định “CSR bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”.
Năm 2003, nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới đã đưa ra
khái niệm CSR và đây là khái niệm được sử dụng rộng rãi trên thế giới “CSR là sự
cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua
những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành
viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp
cũng như phát triển chung của xã hội”.
Năm 2004, Philip Kotler, một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về
kinh doanh và đồng tác giả Nancy Lee trong tác phẩm “Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp: điều tốt nhất cho công ty của bạn” khẳng định sâu sắc lợi ích của CSR.
Rana và các cộng sự (2009), thông qua nghiên cứu CSR tại các công ty đa quốc
gia trong ngành sản xuất và chế biến thực phẩm, nghiên cứu đã khẳng định CSR là
công cụ và phương thức hướng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trong Báo cáo thường kỳ VNR 500, số 7, tác giả Nguyễn Đình Tài (2010), đã
nghiên cứu về Tăng cường CSR đối với môi trường và người tiêu dùng Việt Nam và
đưa ra được những lợi ích của CSR về khía cạnh môi trường và người tiêu dùng, đồng
thời tác giả cũng đã đề cập sơ bộ về thực trạng việc thực hiện CSR đối với môi trường
và người tiêu dùng của các DN tại Việt Nam, đặc biệt nghiên cứu đã thống kê, so sánh
và cho thấy việc thực hiện CSR của các DNNN thực sự bài bản, khoa học và đạt hiệu
quả cao hơn so với các DN trong nước.
Phạm Văn Đức (2010), CSR ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung phân tích nội dung CSR, vai trò
của việc thực hiện CSR và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi CSR ở Việt Nam.
Trên cơ sở làm rõ những lợi ích to lớn từ việc thực hiện CSR và đánh giá khái quát
tình hình thực thi CSR ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao CSR.
Lê Thị Thu Thủy (2013), trong bài viết: "Thực hiện trách nhiệm xã hội - Lợi ích
đối với doanh nghiệp", bằng việc sử dụng phương pháp phân tích định tính để đánh giá
thực trạng thực hiện CSR theo mô hình Carroll, tác giả đã làm rõ những thách thức đối
với các DN Việt Nam khi thực hiện CSR và những lợi ích từ việc thực hiện CSR, từ đó
đưa ra một số gợi ý các giải pháp cơ bản để nâng cao ý thức thực hiện CSR tại Việt Nam.
1.1.2. Các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến việc thực hiện trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp
Lepoutre J. and Heene A. (2006), đã tiến hành điều tra tác động của quy mô
doanh nghiệp với CSR, tác giả đã tiến hành phân tích các quan điểm trên góc độ lý
luận và các nghiên cứu thực tiễn về ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đến việc thực
thi CSR bao gồm: các đặc điểm về vấn đề (tình huống), các đặc điểm về cá nhân (giá
trị, các năng lực và hành động của chủ sở hữu - nhà quản trị), các đặc điểm về tổ chức
(các nguồn lực hữu hình và vô hình và cấu trúc tổ chức), các đặc điểm về bối cảnh
(điều kiện kinh tế, xã hội bên ngoài).
Chen X. (2009), với chủ đề, CSR ở Trung Quốc: Thách thức và ý thức, tác giả
đã thực hiện một cuộc khảo sát bằng phiếu điều tra tới 516 doanh nghiệp (bao gồm cả
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước) và 1200 cá nhân trong cộng đồng
tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc để đánh giá mức độ nhận thức về CSR. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy thực tiễn thực thi CSR tại Trung Quốc không chỉ bị tác động bởi
trình độ phát triển của quốc gia này mà liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan
chính phủ. Các tác giả cũng chỉ ra rằng để thúc đẩy CSR tại Trung Quốc thì cần phải
cải thiện hệ thống pháp lý và chức năng cưỡng chế của chính phủ và tăng cường sự
hiểu biết về CSR trong xã hội.
Lê Thanh Hà (2009), trong cuốn sách CSR trong bối cảnh Việt Nam gia nhập
WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả) đã đưa ra được những khái niệm, nguyên
tắc thực hiện CSR, đáng kể đến là những nguyên tắc về đảm bảo quyền con người: (1)
Các doanh nghiệp cần hỗ trợ và tôn trọng việc bảo vệ quyền con người đã được quốc tế
công nhận; (2) Các doanh nghiệp cần đảm bảo không liên quan đến việc xâm phạm các
quyền con người. Các nguyên tắc về tiêu chuẩn lao động: (3) Doanh nghiệp tôn trọng
quyền tự do hiệp hội và thừa nhận quyền thỏa ước lao động tập thể; (4) Loại bỏ tất cả
các hình thức lao động cưỡng bức hay bắt buộc; (5) Loại bỏ một cách hiệu quả lao động
trẻ em; (6) Loại bỏ việc phân biệt đối xử liên quan đến việc làm và nghề nghiệp.
Nguyễn Văn Thắng (2009), đã chỉ từ các kết quả phỏng vấn với lãnh đạo doanh
nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức phi chính phủ về CSR cho thấy, sức ép cạnh
tranh lớn, hệ thống giám sát cộng đồng còn yếu, cùng với nhận thức hạn chế của doanh
nghiệp về lợi ích lâu dài đang là thách thức lớn của việc thực thi CSR tại Việt Nam.
Hoàng Thị Thanh Hương, Đặng Thị Kim Thoa (2012), trong bài viết, "Trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp - Công cụ tạo lợi thế cạnh tranh bền vững của doanh
nghiệp", các tác giả đã tiến hành tổng quan các nghiên cứu về CSR theo cách tiếp cận
chiến lược. Theo đó, CSR được coi là công cụ để giúp DN tạo dựng lợi thế cạnh tranh
bền vững. Từ các nghiên cứu trước đây, các tác giả cũng đã đưa ra một số hàm ý lý
thuyết đối với việc xây dựng chiến lược CSR trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Lê Chí Công (2016), tác giả đã nghiên cứu và tiến hành kiểm định mối quan hệ
giữa niềm tin về niềm tin thực thi CSR trong giải thích cam kết và ý định sử dụng sản
phẩm Yến Sào. Sử dụng mẫu nghiên cứu thuận tiện với 259 khách hàng địa phương đã
được thu thập. Kết hợp lý thuyết CSR với lý thuyết hành vi và áp dụng mô hình
phương trình cân bằng cấu trúc để đánh giá độ tin cậy, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ
của các thang đo cũng như kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình.
Kết quả chứng minh sự cần thiết phải xem xét mối quan hệ giữa niềm tin về thực thi
CSR trong việc giải thích cam kết và ý định sử dụng sản phẩm Yến Sào. Nghiên cứu
cung cấp thông tin thực sự hữu ích cho doanh nghiệp nhằm thực thi tốt hơn CSR góp
phần thúc đẩy ý định và cam kết sử dụng sản phẩm của khách hàng.
1.2. Các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người
lao động
Trinh Khanh Ly (2006), đã xác định vai trò của các hiệp hội thương mại Việt
Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt là đối với những người
đang làm việc trong khu vực tư nhân. Nghiên cứu cũng đã phân tích quyền công đoàn
của người lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Cuộc nghiên cứu đã sử dụng
một phương pháp định tính của các phỏng vấn sâu của hai nhóm đối tượng: cán bộ
công đoàn và công nhân, cùng với một số phân tích dữ liệu và phương pháp quan sát
không có sự tham gia.
Compa (2008), đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của công đoàn đối với quyền lợi
của người lao động đồng thời khẳng định quyền của các tổ chức công đoàn trong các
doanh nghiệp Trung Quốc. Tác giả đưa ra đề xuất: Chính phủ cần hỗ trợ cho các tổ
chức công đoàn, hiệp phát huy hết tính tự chủ của mình cũng như cần tạo lập một
không gian mới cho hoạt động công đoàn tạo quyền tự do dân chủ để các tổ chức công
đoàn có thể phát huy tốt nhất chức năng bảo trợ quyền lợi của người lao động.
Dương Thị Liễu (2008), tác giả đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của CSR trong
việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong công tác quản trị nhân sự, đề cao lợi ích
của CSR trong việc gián tiếp hỗ trợ nhân viên, khuyến khích nhân viên làm việc, tự
chịu trách nhiệm trước công việc, tìm kiếm nơi làm việc lý tưởng.
Gond và cộng sự (2010), đã làm rõ ảnh hưởng của việc thực hiện CSR đối với
hành vi, thái độ của người lao động cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Harjanne (2010), đã phân tích tầm quan trọng của CSR đối với nhân viên tại
Mỹ, Anh, Đức và Phần Lan dựa trên mô hình lý thuyết của Donaldson and Preston
1995 (Stakeholder model of strategic management) và qua việc phân tích thực trạng
CSR tại tập đoàn Bayer, IBM, KesKo và các liên minh hợp tác xã.
Stawiski và cộng sự (2010), đã phân tích và chỉ ra được rằng việc nâng cao
nhận thức của nhân viên qua quá trình đào tạo sẽ làm cải thiện kỹ năng, sáng kiến của
nhân viên trong chiến lược phát triển doanh nghiệp, giúp cho hoạt động của nhân viên
hiệu quả hơn, khoa học hơn. Nghiên cứu cũng khẳng định việc đầu tư cho các sáng
kiến CSR của nhân viên sẽ tác động tích cực vào sự sẵn lòng tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, làm tăng năng suất, tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
Nguyễn Ngọc Thắng (2010) đã đề xuất quy trình hướng dẫn việc lồng ghép các
chính sách quản lý nguồn nhân lực với CSR đối với người lao động nhằm mục đích
thúc đẩy và tạo ra lợi ích cho cả doanh nghiệp và xã hội, thông qua bảy bước cụ thể:
(1) Tầm nhìn về phát triển chiến lược CSR; (2) Xây dựng bảng quy tắc ứng xử nội bộ;
(3) Lồng ghép kế hoạch và tuyển dụng nhân sự với CSR; (4) Định hướng và lồng ghép
các chương trình đào tạo với CSR; (5) Lồng ghép chế độ lương và thưởng với CSR;
(6) Lồng ghép quản trị sự thay đổi với CSR; (7) Đo lường và đánh giá các chương
trình CSR.
Lee Y K. và cộng sự (2012), đã đi sâu vào nghiên cứu tác động của CSR về
chất lượng mối quan hệ và kết quả mối quan hệ: Quan điểm của các nhân viên dịch vụ.
Cụ thể hơn, nghiên cứu điều tra dựa trên vai trò của bốn tiêu chí của CSR đưới góc độ
kinh tế, pháp luật, đạo đức và từ thiện. Đây là những tiêu chí ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và nhân viên dịch vụ với hai
chuẩn mực là sự tin tưởng của người sử dụng lao động và mức độ hài lòng về công
việc của người lao động. Kết quả cho thấy CSR có tác dụng rất lớn trong việc xây
dựng và duy trì mối quan hệ giữa người sử dụng lao động với nhân viên.
Lưu Trọng Tuấn và Lưu Thị Ngọc Bích (2013), đã khái quát thực trạng tranh
chấp lao động tại Việt Nam và đưa ra một số giải pháp giải quyết tranh chấp. Cũng
trong nghiên cứu này dựa vào các yếu tố thành phần của bộ tiêu chuẩn BSCI, các tác
giả nhấn mạnh việc thực hiện tốt các nội dung của BSCI sẽ làm tăng năng suất lao
động, giúp giảm chi phí và cải thiện điều kiện làm việc, ổn định nhân sự. Áp dụng
BSCI, đồng thời tuân thủ Bộ Luật Lao động sẽ giúp hạn chế thấp nhất những tranh
chấp về tiền công, giờ làm, điều kiện làm việc và giúp cho, cả người sử dụng lao động
và người lao động đều có lợi.
H6
H2
Đãi ngộ & BTXH
H7 Tin tưởng
H13
H3
Đối thoại XH H8 H11 Cam kết
H12
H4
H9
SK và an toàn Hài lòng
H5 H10
Đào tạo và PT NV
Hình 4.2: Mô hình nghiên cứu CSR đối với người lao động
Nguồn: Tác giả tổng hợp, đề xuất
Trong đó:
- Các biến độc lập: Việc làm và phát triển quan hệ lao động; Chế độ đãi ngộ và
bảo trợ xã hội; Đối thoại xã hội; Sức khỏe và an toàn; Đào tạo và phát triển nhân viên.
- Các biến phụ thuộc: Tin tưởng; Hài lòng; Cam kết.
- Các biến kiểm soát: Giới tính; Tuổi; Tình trạng hôn nhân; Trình độ học vấn;
Vị trí việc làm; Thời gian công tác; Thu nhập bình quân hàng tháng.