You are on page 1of 6

THE PURSUIT OF SỰ MƯU CẦU HẠNH

HAPPINESS PHÚC

How are we supposed find Chúng ta có bổn phận phải tìm hạnh
to
happiness? Through good works and phúc hay không? Tìm hạnh phúc từ
helping people? By finding religion or công việc hay giúp đỡ những người
discovering the joys of downshifting? khác? Hay là bằng cách theo đuổi tín
Whatever strategy you choose, where ngưỡng và khám phá ra niềm vui sướng
you live might make a difference. The khi chuyển sang một công việc nhẹ
latest global analysis of happiness and nhàng và ít áp lực nhằm giúp cho cuộc
satisfaction levels shows that the most sống trở nên thoải mái hơn. Bất cứ lựa
'satisfied' people tend to live in Latin chọn nào của bản cũng bị ảnh hưởng bởi
America, Western Europe and North chính nơi mà bạn đang sinh sống. Một
America, whereas Eastern Europeans phân tích toàn cầu mới nhất về hạnh
are the least satisfied. phúc và mức độ thỏa mãn cho thấy rằng
những người cảm thấy thỏa mãn nhất có
xu hướng sống ở Châu Mỹ La Tinh, Tây
Âu, Bắc Mỹ trong khi những người
Đông Âu lại thấy kém thỏa mãn hơn.

It is not the first time such Đây không phải lần đầu mà người ta tìm
international league tables have been ra một mối liên hệ giữa các quốc gia như
drawn up. What is new is how experts thế. Nhưng cái mới ở đây là làm thế nào
and politicians are taking such data mà các chuyên gia và chính khách sẽ lấy
increasingly seriously. Over the past được những dữ liệu tăng đến chóng mặt
decade, the study of
happiness, ấy. Hơn một thập kỷ qua, học thuyết về
formerly the preserve of philosophers, “hạnh phúc” được bảo vệ bởi các triết
therapists and gurus, has become a gia, nhà trị liệu, quân sư đã trở thành
bona fide discipline. It even has its own những quy tắc chuẩn. Thậm chí còn có
journal, the Journal of Happiness tập san riêng cho chúng như là “tập san
Studies. As a result, government policy học thuyết hạnh phúc”. Kết quả là các
advisers are getting interested, and nhà cố vấn chính phủ cảm thấy thú vị và
politicians are using the research as the các chính khách sẽ sử dụng những
basis for new strategies. nghiên cứu ấy như một cơ sở cho những
chính sách mới.

Những điều trên đã làm nên một học


What above all else has made thuyết có hệ thống được hình thành từ
systematic study possible is data những dữ liệu được thu thập từ hàng
gathered from hundreds of surveys trăm bảng khảo sát về đo lường hạnh
measuring happiness across different phúc xuyên qua khắp những nền văn
cultures, professions, religions, and hóa khác nhau, những nghề nghiệp, tôn
socio-economic groups.Researchers giáo lẫn các nền kinh tế xã hội khác
can investigate the impact of money nhau. Những nhà nghiên cứu điều tra ra
and inequality; they could explore, for sự tác động của tiền và sự bất bình đẳng
example, how much difference money trong tài sản và địa vị cũng là một
makes to a person's happiness after nguồn gây ra sự bất mãn như chúng ta
their basic material needs have been đã nghĩ đến. Ruut Veenhoven- chủ tòa
met, and whether inequality in wealth soạn tập san về học thuyết hạnh phúc đã
and status is as important a source of nói rằng “Bây giờ chúng ta có thể chỉ ra
dissatisfaction as we might think. 'It is những hành vi nguy hiểm có thể ảnh
an exciting area’, says Ruut Veenhoven, hưởng đến việc đạt tới sự hạnh phúc,
editor-in-chief of the Journal of
theo một cách tương tự khi cuộc nghiên
Happiness Studies. 'We can now show
cứu y tế đưa ra điều gì là có hại cho sức
which behaviours are risky as far as
khỏe của chúng ta. Tính cho cùng thì
happiness goes, in the same way
chúng ta chỉ có thể nên đưa ra những
medical research shows what is bad for
phong cách sống phù hợp với từng loại
our health. We should eventually be
người cụ thể’
able to show what kind of lifestyle suits
what kind of person’.
Trong khi việc này đang lôi cuốn để giữ
các quốc gia có báo cáo về mức độ hạnh
While it is tempting to hold up those
phúc cao nhất như là một mô hình cho
nations that report the highest levels of
happiness as a model for others to những nước khác làm theo thì điều này
follow, this may be unwise. For one có thể là không khôn ngoan cho lắm.
thing, the word 'happiness' has no Một lý do được đưa ra đó là , từ
precise equivalent in some languages. ‘Happiness’ không có từ tương đương
Another complication is that chính xác trong một vài ngôn ngữ. Một
'satisfaction' is not quite the same thing rắc rối khác là từ ‘ Satisfaction-sự thỏa
as 'happiness'. When asked how happy mãn’ thì không hẳn có nghĩa như từ
they are, people tend to consider first ‘Happiness-hạnh phúc’. Khi được hỏi
their current state. To get a better idea, hạnh phúc là như thế nào thì đầu tiên
researchers ask people to take a step mọi người thường xem xét đến trạng
back and consider how satisfied they thái hiện tại của họ. Để có ý kiến tốt
are with their lives overall and how hơn, các nhà nghiên cứu yêu cầu mọi
meaningful they judge their lives to be. người lùi lại một bước và xét tổng quát

xem mức độ hài lòng của họ với cuộc


sống của mình và họ đánh giá cuộc sống
có ý nghĩa như thế nào.

Comparisons between countries also Việc so sánh giữa các nước với nhau
need to be treated cautiously. Different cũng cần được nghiên cứu một cách
cultures value happiness in very thận trọng . Những nền văn hóa khác
different ways. In individualistic nhau thì đánh giá sự hạnh phúc theo
western countries, happiness is often
nhiều cách khác nhau. Ở những nước
seen as a reflection of personal
phương tây theo chủ nghĩa cá nhân,
achievement. Being unhappy implies
hạnh phúc thường được xem như là một
that you have not made the most of
sự phản ánh các thành tích cá nhân.
your life. Eunkook Mark Suh at Yonsei
Không hạnh phúc ý nói là bạn đã không
University in Seoul thinks this pressure
tận dùng hết cuộc sống của mình.
to be happy could lead people to over-
Eunkook Mark Suh tại trường đại học
report how happy they feel. Meanwhile,
Yonsei,Seoul cho rằng sức ép để được
in the more collectivist nations of Asia,
hạnh phúc có thể khiến mọi người báo
people have a more fatalistic attitude
cáo trên mức hạnh phúc mà họ cảm
towards happiness. According to Suh,
'One of the consequences of such an thấy. Trong lúc ấy, tại nhiều quốc gia
attitude is that you don't have to feel theo chủ nghĩa tập thể của Châu Á, mọi
inferior or guilty about not being very người có một thái độ theo thuyết định
happy.' Indeed, in Asian cultures the mệnh hướng về hạnh phúc nhiều hơn.
pursuit of happiness is often frowned Theo Suh, “ một trong những hệ quả
on, which in turn could lead people to của một thái độ như thế là bạn không
under-report. phải cảm thấy thấp kém hay tội lỗi về
việc không được hạnh phúc”. Quả thật,
trong văn hóa của người Châu Á thì việc
mưu cầu hạnh phúc thường không được
tán thành , do đó điều này có thể khiến
họ báo cáo thấp hơn.
How satisfied a person is with their life
also depends on how successfully they Mức độ thỏa mãn của một người đối với
adhere to their particular cultural cuộc sống cũng phụ thuộc vào mức độ
standard. In Japan, for
instance, thành công khi mà họ tuân thủ theo
satisfaction may come from fulfilling những tiêu chuẩn văn hóa đặc biệt của
family expectations and meeting social họ. Chẳng hạn như ở Nhật, sự thỏa mãn
responsibilities. So, while in the US it is có thể đến từ việc hoàn thành những kỳ
perfectly appropriate to pursue your vọng của gia đình và đáp ứng các trách
own happiness, in Japan you are more nhiệm xã hội. Do đó, trong khi ở Mỹ
likely to find happiness by not pursuing
việc theo đuổi hạnh phúc của riêng bạn
it directly.
là hoàn toàn được tán thành thì Ở Nhật
khả năng tìm thấy hạnh phúc lại không
phải được tiến hành bằng cách theo đuổi
nó một cách trực tiếp như vậy.
One of the most significant
observations to come from research
Một trong những nhận xét quan trọng
findings is that in industrialised
nhất rút ra từ kết quả của cuộc nghiên
nations, happiness has not risen with
cứu này đó là tại các quốc gia có nền
average incomes. A growing number of
công nghiệp hóa, mức độ hạnh phúc
researchers are putting this down to
consumerism, claiming that the desire không tăng lên theo thu nhập trung
for material goods, which has increased bình. Một số lượng ngày càng tăng các
with average income, is a 'happiness nhà nghiên cứu đang cho là vấn đề này
suppressant'. One study, by Tim Kasser có liên quan đến sự bảo vệ quyền lợi của
at Knox College, Illinois, found that người tiêu dùng, họ cho rằng những
young adults who focus on money, mong muốn đối với hàng hóa vật chất
image and fame tend to be more cái mà tăng theo thu nhập trung bình là
depressed and suffer more physical một ‘ức chế hạnh phúc – happiness
symptoms such as headaches. Kasser suppressant’ . Một nghiên cứu do Tim
believes that since nothing about Kasser tại Knox College,Illinois nhận
materialism can help you find thấy rằng những người trẻ tuổi thường
happiness, governments should chạy theo tiền bạc,hình thức và danh
discourage it and instead promote vọng có xu hướng bị trầm cảm và phải
things that can. For instance, they trải qua nhiều triệu chứng bệnh lý như
could support businesses that allow đau đầu. Kasser nghĩ rằng bởi vì không
their employees plenty of time off to be có gì về vật chất có thể giúp chúng ta
with their families, whereas advertising tìm được hạnh phúc nên chính phủ cần
could be classified as a form of ngăn chặn điều đó thay vì thúc đẩy
pollution and could be taxed. những thứ có thể. Chẳng hạn như chính
'Advertisements have become more phủ có thể hỗ trợ các doanh nghiệp cho
sophisticated,' says Kasser. 'They try to
phép nhân viên của mình có nhiều thời
tie their message to people's
gian nghỉ ngơi bên cạnh gia đình của
psychological needs. But it is a false
họ,ngược lại quảng cáo có thể được phân
link. It is toxic'
loại như là một hình thức ô nhiễm và có
thể bị đánh thuế. Kasser phát biểu là
‘những mẫu quảng cáo đang ngày càng
trở nên tinh vi hơn. Họ cố gắng kết nối
thông điệp của mình với những nhu cầu
tâm lý của mọi người. Nhưng đó là một
These days even hard-headed
sự liên kết sai lầm. Nó rất độc hại’
economists tend to agree that the key to
making people happier is to shift the
emphasis from economic wellbeing to Ngày nay, ngay cả những nhà kinh tế
personal development, and to học thiết thực cũng phải đồng ý rằng
discourage the pursuit of social status. mấu chốt để làm cho con người hạnh
This last point is crucial, believes phúc hơn là chuyển trọng tâm từ phúc
Richard Layard from the London lợi kinh tế sang phát triển cá nhân và
School of Economics, since the pursuit ngăn cản sự theo đuổi địa vị xã hội.
of social status does not make society Điểm cuối cùng là rất quan trọng ,
as a whole any happier. Motivating Richard Layard từ trường kinh tế
people through the quest for rank London cho rằng việc theo đuổi địa vị xã
'condemns as many to fail as to succeed hội không làm tăng thêm bất kỳ hạnh
- not a good formula for raising human phúc nào cho xã hội. Ông Layard cho
happiness,' says Layard. rằng việc khuyến khích mọi người thông
qua việc theo đuổi địa vị xã hội bị chỉ
trích là có nhiều sai lầm hơn thành công
In view of these findings, it seems that – đây không phải là một công thức tốt
governments would do well to worry để nâng cao hạnh phúc cho con người.
about the happiness of their electorate.
There could be dangers, however. Xem xét kết quả từ dự án nghiên cứu
Paradoxically, by striving too hard to này , có vẻ như chính phủ đã đúng khi lo
climb the global happiness rankings, lắng về sự hạnh phúc của toàn bộ cử tri.
governments are in danger of turning Tuy nhiên cũng có thể có nhiều mối đe
the pursuit of happiness into yet
dọa. Ngịch lý là càng chăm chỉ phấn đấu
another competitive quest for status -
để leo lên bảng xếp hạng hạnh phúc của
just what researchers have shown is a
toàn cầu thì chính phủ có thể lâm vào
sure path to making people miserable.
nguy cơ là biến sự mưu cầu hạnh phúc
thành một sự cạnh tranh về địa vị- cái
mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra chỉ là
một con đường chắc chắn có thể khiến
mọi người đau khổ

You might also like