Professional Documents
Culture Documents
Luận văn
Công nghệ sản xuất bia tại
công ty cổ phần sản xuất
bia Sài Gòn
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nhu cầu sống của con người ngày càng được cải thiện thì nhu cầu ăn uống
cũng ngày càng cao, không những về số lượng mà về cả chất lượng, không những ăn
no mà phải ăn ngon. Vì vậy việc có những sản phẩm thực phẩm vừa đáp ứng được thị
hiếu, vừa đáp ứng dinh dưỡng là vấn đề cần thiết, cũng từ đó mà nghành công nhệ
thực phẩm đã ra đời và ngày càng phát triển.
Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm (CĐ LT-TP) là một đơn vị có bề
dày lịch sử khá lâu đời (Thành lập từ năm 1976 với tên Trường TH NN & CN Thực
Phẩm Đà Nẵng, Năm 2002, trường đã được nâng cấp thành Trường Cao Đẳng Lương
Thực - Thực Phẩm như bây giờ). Đến nay trường CĐ LT-TP là một trong những đơn
vị đi đầu về đào tạo nghành công nghệ thực phẩm khu vực Miền Trung – Tây Nguyên
nói riêng và cả nước nói chung. Phương châm đào tạo của trường là lý thuyết đi đôi
với thực hành, vì vậy số lượng và chất lượng các xưởng thực hành ngày càng được cải
thiện.
Để tạo điều kiện cho sinh viên cũng cố lại những kiến thức đã học gần 3 năm
tại trường; nhà trường đã tổ chức, bố trí thời gian 2 tháng cho sinh viên đi thực tập tại
các đơn vị sản xuất, chế biến thực phẩm. Trên tinh thần đó, tôi đã quyết định chọn
thực tập nghành công nghệ sản xuất bia tại công ty cổ phần bia Sài Gòn - Nghệ Tĩnh.
Bia là một sản phẩm thực phẩm không chỉ là thức uống vật chất mà còn là
“món ăn” tinh thần. Về phương diện thực phẩm, bia là đồ uống có độ cồn thấp, dinh
dưỡng cao được sản xuất từ malt đại mạch, thế liệu, hoa houblon, nước.... Ngay từ
những năm 7000 trước công nguyên, bia đã ra đời như một thứ thuốc chữa bệnh, nước
giải khát [1]....Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về bia ngày càng
tăng, nghành bia ngày càng phát triển, bia luôn có mặt trong các ngày lễ, tết, cưới,
hỏi....như một thú giải trí thật sự.
Công ty cổ phần bia Sài Gòn - Nghệ Tĩnh là công ty con của tổng công ty Bia -
Rượu - NGK Sài Gòn. Bia Sài Gòn là một trong những sản phẩm của công ty và có
thương hiệu khá lớn trên toàn quốc. Với công nghệ sản xuất hiện đại, lấy chất lượng
làm đầu nên sản phẩm ngày càng chiếm thị phần trên thị trường cả nước.
Qua gần 2 tháng thực tập tại công ty, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo
công ty, các anh chị công nhân trong nhà máy, sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn
cũng như các thầy cô trong trường, tôi đã hoàn thành đợt thực tập. Bản báo cáo này
được viết nhằm tổng hợp lại những kiến thức đã học trên lý thuyết cũng như học thực
tế tại công ty.
Báo cáo gồm 86 trang, chia làm 3 phần: Phần 1 (4 trang): Giới thiệu sơ lược về
công ty cổ phần bia Sài Gòn - Nghệ Tĩnh và nhà máy bia Nghệ An, Phần 2 (77 trang,
11 chương): Thực tế sản xuất bia tại công ty, Phần 3 (1trang): So sánh giữa lý thuyết
và thực tế sản xuất.
Tuy đã cố gắng nhiều nhưng với điều kiện và năng lực còn hạn chế nên chắc
chắn báo cáo vẫn còn nhiều thiếu sót, mong ban lãnh đạo công ty cổ phần bia Sài
1. Lịch sử ra đời và phát triển, vị trí địa lý, quy mô năng suất và nhân sự nhà máy,
thương hiệu sản phẩm và thị trường tiêu thụ
Công ty cổ phần bia Sài Gòn-Nghệ Tĩnh (54- Phan Đăng Lưu-TP Vinh-Nghệ
An) thuộc tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (187-Nguyễn Chí Thanh-
Tp Hồ Chí Minh). Công ty cổ phần Bia Sài Gòn-Nghệ Tĩnh với trụ sở đăng ký chính
tại 54-Phan Đăng Lưu- Tp Vinh- Nghệ An, gồm có 2 chi nhánh là các nhà máy sản
xuất: Nhà máy bia Nghệ An ( 54-Phan Đăng Lưu- Tp Vinh- Nghệ An) và nhà máy bia
Hà Tĩnh (173 -Hà Huy Tập- Hà Tĩnh). Nhưng các nhà máy bia này là các đơn vị tập
hợp đầy đủ tài khoản và con dấu riêng.
Công ty cổ phần Bia Sài Gòn-Nghệ Tĩnh trước đây là nhà máy nước ngọt Vinh
( ra đời từ 1984), tiền thân là một phân xưởng của nhà máy ép dầu Vinh. Nhà máy
nước ngọt Vinh ra đời với 200 công nhân với dây chuyền sản xuất nước ngọt của Mỹ.
Nhận thấy hiệu quả sản xuất vẫn không được cải thiện và trên cơ sở phân tích các yếu
tố (hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm khí hậu, địa bàn hoạt động và khả năng
sản xuất của nhà máy), nhà máy đã quyết định chọn Bia làm sản phẩm chính. năm
1986, với quyết tâm cao của tập thể lãnh đạo, cán bộ công nhân viên nhà máy, sau
một thời gian thực tập và xem xét thiết bị sản xuất bia của nhà máy bia Hà Nội. Nhà
máy đã lắp đặt và sản xuất thành công Bia trên dây chuyền sản xuất cổ điển, với công
suất khoảng 4 triệu lít/ năm. Cũng từ đây nhà máy đổi tên thành nhà máy Bia Nghệ
An. Trong điều kiện nền kinh tế mở, với dây chuyền sản xuất cổ điển đã lạc hậu
không thể sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao để cạnh tranh với nhiều loại
Bia tràn ngập trên thị trường , đòi hỏi nhà máy phải có dây chuyền sản xuất đồng bộ.
Vì vậy nhà máy đã nhập dây chuyền sản xuất Bia tự động của Đan Mạch. Ngày 5/
2/1994 nhà máy đã sản xuất ra sản phẩm đầu tiên trên dây chuyền mới gọi là Bia Vida
(viết tắt của chữ VINH-ĐAN MẠCH), năm 1995, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ Bia
trên thị trường, nhà máy đã đầu tư mua sắm dây chuyền sản xuất tăng công suất của
dây chuyền Bia Vida lên 6 triệu lit/năm. Vẫn giữ nguyên dây chuyền sản xuất Bia hơi,
chất lượng Bia Vida đã thực sự được khách hàng ưa chuộng. Đến 1996, do quy mô
của nhà máy nên được đổi tên thành công ty Bia Nghệ An. Năm 2001, công ty tiến
hành cổ phần hoá với số vốn nhà nước là 51%, của cổ đông là 49%, lúc này lấy tên là
Công ty cổ phần Bia Nghệ An. Đầu năm 2006, Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải
khát Sài Gòn chính thức mua lại công ty cổ phần bia Nghệ An đổi tên thành Công ty
cổ phần bia Sài Gòn-Nghệ An. Đến tháng 10/2006 công ty cổ phần Bia Nghệ An đổi
tên thành Công ty cổ phần Bia Sài Gòn-Nghệ Tĩnh. Đây là công ty con của tổng công
ty Bia- Rượu- Nước giải khát Sài Gòn.
Chức năng chính của công ty là sản xuất bia với các sản phẩm là : Bia hơi, Bia
chai Vida loại 450 ml, bia chai Sài Gòn (loại 355 ml và 450 ml). Nhìn chung quy
trình sản xuất của Công ty mang tính liên tục theo phương pháp sản xuất dây chuyền.
SVTH: Nguyễn Xuân Trường -Lớp: 04C1- Trang 6
Báo cáo thực tập GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
Bộ phận sản xuất chính và các phân xưởng có mối liên hệ mật thiết với nhau trong
toàn bộ quy trình và luôn đảm bảo kế hoạch đặt ra. Quy trình sản xuất bia là một quy
trình sản xuất khá phức tạp và liên tục. Chỉ những sản phẩm ở giai đoạn công nghệ
cuối cùng mới là thành phẩm. Sản phẩm chủ đạo của Công ty trước năm 2005 là Bia
hơi (chiếm 70% tổng sản lượng hàng năm). Mặt hàng này đã khẳng định chỗ đứng
trên thị trường và được đông đảo người tiêu dùng trong tỉnh ưa chuộng. Kể từ tháng
năm 2006 khi công ty trở thành công ty con của tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải
khát Sài Gòn, sản phẩm chủ đạo của công ty là bia chai Sài Gòn 355ml và 450ml, mà
chủ yếu là bia 355ml.
Nhìn chung sản lượng bia sản xuất và tiêu thụ của Công ty đều tăng lên trong
những năm gần đây. Số lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty là Bia hơi và
Bia chai trong 6 tháng năm 2006 là 12.973.992 lít. Dự tính đến năm 2007 là 40 triệu
lít/ năm. Hiện nay công ty đang thêm một cụm tank lên men gồm 18 tank 116m3. Tình
hình tiêu thụ của công ty rất khả quan, đặc biệt ở hai khu vực thị trường mục tiêu là
Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong những năm gần đây khối lượng tiêu thụ sản phẩm ở hai
tỉnh đều tăng lên, mà Nghệ An là thị trường tiêu thụ lớn nhất. Bia hơi cũng chủ yếu
được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường này vì đặc tính sản phẩm và đây cũng chính là thị
trường nhà nên luôn chiếm ưu thế. Thị trường của Công ty ngày càng mở rộng nên
các tỉnh khác cũng bắt đầu tiêu thụ mạnh hơn sản phẩm của Công ty. Việc thâm nhập
vào thị trường ngày càng rộng lớn và thuận lợi hơn khi sản xuất Bia Sài Gòn với công
nghệ hiện đại và chất lượng Bia tốt hơn. Bia Sài Gòn hiện nay đã có mặt trên thị
trường cả nước và được khách hàng rất ưa chuộng.
Với đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, trình độ và lực lượng công nhân lành
nghề, bao gồm 358 người. Mà mỗi sản phẩm được sản xuất ra đã từng bước đáp ứng
nhu cầu cho khách hàng đặc biệt là trong tỉnh. Công ty cũng có nhiều đối thủ cạnh
tranh của nhiều hãng Bia trong nước ở khu vực miền Bắc, miền Trung và kể cả miền
Nam. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ và công nhân trong công ty luôn cố gắng học hỏi và
phấn đấu trong công tác thi đua sản xuất. Các khâu trong sản xuất cũng như bảo quản
đúng yêu cầu kỹ thuật. Chính vì vậy sản phẩm luôn đảm bảo chất lượng.
Mục tiêu của công ty là huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong việc phát
triển các hoạt động kinh doanh và dịch vụ nhằm mục tiêu thu lợi nhuận tối đa. Đồng
thời tạo việc làm ổn định, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao đời sống của người
lao động làm việc trong Công ty. Và đảm bảo lợi ích cho các cổ đông, làm tròn nghĩa
vụ của ngân sách nhà nước.
PX chiết rót
PX nấu 2
Phòng KCS
Dàn lạnh, CO2
Khu vực chiết Kho chứa
Bia hơi nguyên liệu
PX lên men 116 m3
Khu vực
Nhà xe hành chính
Giới thiệu Giới thiệu
sản phẩm Bảo vệ sản phẩm
Lối vào
SVTH: Nguyễn Xuân Trường -Lớp: 04C1- Trang 9
Báo cáo thực tập GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
Nguyên liệu
Xay
Nấu
Đun hoa
Tách cặn
+Lên men
Lên men là trung tâm của quá trình sản xuất Bia, vì vậy các điều kiện được theo
dõi rất nghiêm ngặt. Dịch lên men sau khi bơm vào tank lên men được 32-36 h thì bắt
đầu tiến hành thu CO2 ( chỉ thu trong thời kỳ lên men chính). Lên men chính được
tiến hành trong thời gian 5-6 ngày ở nhiệt độ 7,5-8,5oC và lên men phụ-ủ chín trong
thời gian 15-16 ngày ở nhiệt độ 0-5oC. Lên men chính và lên men phụ đều đựơc tiến
hành trên cùng một thiết bị.
+Lọc bia thành phẩm
Sau khi lên men thì Bia đem đi lọc tinh bằng thiết bị lọc khung bản và được đem
vào tank ổn định Bia trong thời gian là một ngày ( trong quá trình này phải kiểm tra
hàm lượng CO2 trong Bia, nếu thiếu thì phải bổ sung cho đủ). Sau đó Bia được bơm
sang hệ thống chiết rót vào chai và dập nắp chai. Bia chai đưa vào hệ thống thanh
trùng, sau đó qua máy dán nhãn, foil nhôm, in ngày sản xuất, hạn sử dụng rồi chuyển
vào két. Cuối cùng được vận chuyển vào kho Bia chai thành phẩm rồi xuất hàng.
Nguyên liệu
Malt Gạo
Gàu tải 2
3. Nghẽn máy - Do trong nguyên liệu có - Kiểm tra nguyên liệu trước
chứa lẫn tạp chất (đất, đá ). khi nạp vào máy.
- Nạp nguyên liệu vào quá - Điều chỉnh tốc độ nạp
nhiều so với tốc độ của máy. nguyên liệu.
Hội cháo
Nấu gạo(dịch hoá) Nấu malt (đường hoá)
5. Lọc bã malt
Sau khi hoàn tất quá trình đường hoá, thành phần của hổn hợp gồm 2 phần: Pha
rắn và pha lỏng, pha rắn gồm các cấu tử không hoà tan của bột nghiền, pha lỏng bao
gồm nước và các chất không hoà tan đã trích ly từ nguyên liệu [1].
Mục đích của việc lọc bã malt là tách pha lỏng khỏi hổn hợp để tiếp tục các giai
đoạn tiếp theo của quy trình công nghệ, còn pha rắn loại bỏ ra ngoài [1].
Để chuẩn bị cho việc tách bã malt, ở giai đoạn cuối của quá trình thuỷ phân
nguyên liệu, nhiệt độ của khối thuỷ phân được tăng lên 76 oC nhằm giảm độ nhớt dịch
thuỷ phân nhưng vẫn tạo điều kiện để lượng -amylaza chưa vô hoạt chuyển hoá tinh
bột sót, hạn chế vi sinh vật phát triển.
Tách bả malt về cơ bản là trình cơ học, bao gồm hai giai đoạn tách dịch đường
và rửa bã để chiết hết những chất hoà tan còn bám trên bã. Nhà máy bia Sài Gòn -
Nghệ An sử dụng thùng lọc (lauter tun) để tách bã malt là .
6. Houblon hoá
Nước lọc cốt phối trộn với nước rửa bã tạo thành nước lọc hỗn hợp (wort). Nước
lọc hỗn hợp có vị ngọt, hương và màu của các melanoidin, rất đục do chứa nhiều cặn
và các chất keo, nước lọc hỗn hợp phải tiếp tục xử lý qua quá trình đun sôi với hoa,
lắng trong, bổ sung không khí trước khi lên men [1].
+Mục đích đun dịch đường hoá với hoa houblon:
-Trích ly chất đắng, tinh dầu thơm, polyphenol, các chất chứa nitơ...từ hoa
houblon vào dịch đường để dịch đường có mùi thơm và vị đắng đặc trưng của hoa.
đồng thời các chất đắng của hoa houblon và những chất có hoạt tính bề mặt nên chúng
sẽ tham gia vào sự tạo bọt và giữ bọt bền cho bia sau này.
-Các polyphenol của hoa houblon khi hoà tan vào dịch đường, ở nhiệt độ cao sẽ
tác dụng với các protein cao phân tử sẽ tạo thành các phức chất dễ kết lắng và kéo các
phần cặn lơ lững trong dịch đường hoá.
-Tạo phản ứng melanoidin hình thành nên các chất màu và hương, sát trùng và
cô đặc dịch đường, đồng phân hoá các axit đắng, đuổi các chất bay hơi có mùi không
tốt: dimetyt sulfua (DMS)...[1]
Qúa trình houblon hoá được tiến hành trong hai nồi đun hoa: houblon1và
houblon2. Hoa houblon được sử dụng ở hai dạng là hoa cao (53-58% -acid đắng) và
hoa viên (8-10% -acid đắng), Trong quá trình houblon hoá còn bổ sung caramel để
tạo màu, bổ sung ZnCl2 để kết lắng cặn, bổ sung acid lactic để điều chỉnh pH.
7. Lắng trong (Wirl pool)
Sau quá trình houblon hoá thu được dịch đường chứa nhiều bã hoa và cặn, ngoài
các mảng protein còn có rất nhiều cặn với kích thước khác nhau. Bằng thực nghiệm
cho thấy khi hạ nhiệt độ dich đường xuống khoảng 60 oC thì hầu hết các hạt quan sát
III. CÁC THIẾT BỊ SỬ DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT DỊCH LÊ
MEN
1.Thiết bị nấu nguyên liệu (gạo, malt)
1.1. Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của nồi nấu
Cấu tạo
Thiết bị nấu có dạng hình trụ, đáy côn, được chế tạo bằng thép không gỉ. Thiết bị
có hệ thống cấp hơi để gia nhiệt, hơi được truyền vào nồi thông qua hệ thống áo hơi
(6) thông với nhau bằng các ống dẫn. Thân nồi được bảo ôn bằng lớp cách nhiệt (15).
Dưới đáy nồi có lắp cánh khuấy (2) nhằm đảm bảo dịch đối lưu trong quá trình nấu.
Ngoài ra thiết bị còn có các cửa nạp liệu, tháo dịch, vệ sinh, cip...(hình 5)
Nguyên tắc hoạt động
Nguyên liệu sau khi nghiền, cân được vít tải chuyển về bộ hoà bột qua cửa số
(10), nước pha bột được bơm vào qua cửa số (11), quá trình hoà bột được diễn ra nhờ
áp lực bơm ở bộ hoà bột (12). Khi lượng nước đủ, gạo xuống hết hơi được cấp vào
nồi theo đường ống số (1) và vào các áo hơi. Qúa trình nấu (trao đổi nhiệt) xẩy ra giữa
hơi và dịch thông qua thành thành thiết bị, hơi cấp nhiệt cho dịch sau đó ngưng tụ và
được tháo ra ngoài qua cửa tháo nước ngưng (5). Dịch trong nồi được cấp nhiệt, đối
lưu và sôi, quá trình đối lưu được diễn ra dễ dàng nhờ cánh khuấy số (2). Hơi trong
quá trình nấu được thoát lên nhờ ống thoát hơi số (8). Nhiệt độ trong nồi ít bị thất
thoát ra nhờ lớp cách nhiệt (15). Mẫu kiểm tra được lấy ở đường lấy mẫu (13). Nhiệt
độ cài đặt và nhiệt độ thực trong quá trình nấu được hiển thị ở đồng hồ đo (14). Sau
khi quá trình nấu kết thúc, dịch cháo được tháo ra ngoài qua cửa số (4). CIP được
bơm vào nối qua cửa số (9) để vệ sinh nồi.
1.2. Quy trình vận hành nồi gạo
Chuẩn bị:
- Kiểm tra an toàn thiết bị.
- Kiểm tra hệ thống hơi, nước, khí nén, xả nước ngưng.
- Kiểm tra đủ số lượng bột gạo, chất lượng bột đảm bảo.
- Cân lượng malt lót 1,2 đong axít.
- Lấy nước: mở van hòa nước, van cấp nước, van tay điều chỉnh trên đỉnh nồi.
- Khởi động cánh khuấy (2) ở nồi đường hoá (nồi malt).
- Phối trộn ở nồi malt, mở van nước vào cửa (11), khởi động vít tải cho malt
vào cửa số (10). Mở van cấp malt từ nồi malt để lấy 40kg malt lót nồi lần 1 và
lượng nước 250 lít.
Tiến hành:
- Sau khi phối trộn xong ở nồi malt, chuyển malt lót sang nồi gạo qua cửa số
(4) của nồi gạo. Sau khi bơm hết malt lót từ nồi malt sang nồi gạo thì tắt cánh
khuấy ở nồi malt, tiến hành vệ sinh nồi malt để chuẩn bị nấu malt.
- Phối trộn nguyên liệu:
+ Cấp nước: mở van cấp nước vào nồi cháo qua cửa số (11), khởi động cánh
khuấy số (2) ở nồi cháo.
+ Phối trộn: mở van, khởi động vít tải để cho gạo vào nồi qua cửa số (10).
SVTH: Nguyễn Xuân Trường -Lớp: 04C1- Trang 26
Báo cáo thực tập GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
+ Theo dõi quá trình phối trộn.
+ Khi lượng nước đủ, gạo xuống hết thì lần lượt đóng các van cấp bột, cấp nước.
+ Cho chất phụ gia H2SO4 98% pha loảng 20 lần (bảng kiểm soát nguyên liệu
nấu bia phụ lục).
- Thực hiện chế độ nấu:
+ Cấp hơi nâng nhiệt lên 72oC (áp suất hơi 1.8-2kg/cm2).
+ Giữ nhiệt độ 72oC trong 20 phút.
+ Nâng lên 83oC và giữ trong 5 phút.
Kết thúc:
- Quá trình nấu kết thúc, mở van để bơm dịch qua nồi malt hội cháo. Khi bắt
đầu hết cháo trong nồi cháo mở van cấp nước vào cửa số (11), bật bơm nước sôi
lấy 200-250lít nước vào nồi để đẩy lượng cháo trong đường ống về hết nồi
đường hóa. Đóng van nước.
- Khởi động bơm CIP cấp để bơm nước nồi vệ sinh sạch sẽ.
1.3. Quy trình vận hành nồi nấu malt (nấu bia Sài Gòn 355ml)
Chuẩn bị:
- Vệ sinh nồi malt theo hướng dẫn.
- Kiểm tra các van, đường ống, trạng thái đóng mở.
- Bật cánh khuấy để kiểm tra, cài đặt nhiệt độ ở bộ phận pha trộn nước 45 oC để
phối trộn khi xuống malt.
Tiến hành:
- Bắt đầu nâng nhiệt của nồi cháo từ 72oC đến 100oC.
- Chỉnh đồng hồ đo nước ở nồi cháo về 0.
- Bật cánh khuấy (2) và mở van nước vào nồi malt, Bật bơm cấp nước 45 oC
vào nồi malt.
Nấu bia 355ml lấy 57 hl đồng thời cho vít tải malt chạy, mở van cho malt vào
nồi malt theo đường ống số (10), lượng malt một mẻ nấu là 1820 (đã trừ matl lót
80kg).
- Quy trình lấy nước 45oC vào nồi chỉnh lưu, lượng nước vào nồi sao cho khi
xuống hết malt, lượng nước này vừa đủ 57hl đối với bia 355ml.
- Kết thúc phối trộn malt và nước cho lượng CaCl 2, axít lactic vào (bổ sung
CaCl2 nhằm tạo dung dịch đệm ổn định pH, bổ sung axít lactic để điều chỉnh
pH).
- Nâng nhiệt độ nồi malt lên 50oC, giữ trong 5 phút, lấy mẫu đo pH (pH = 5.5-
5.6). Tạo điều kiện cho quá trình đạm hoá.
- Chuyển cháo sang nồi malt, cháo được bơm vào nồi malt từ dưới đáy lên theo
ống số (4).
- Cháo hết, mở van cấp nước sôi, lấy 200-250l nước nấu bia cho vào nồi cháo,
tráng nồi bơm hết cháo sang nồi malt.
- Kết thúc chuyển cháo, nhiệt độ nồi malt đạt 65oC, giữ 30 phút, lấy mẫu đo pH
(pH= 5.5-5.6)
- Nâng nhiệt lên 75oC, giữ trong 20 phút.
SVTH: Nguyễn Xuân Trường -Lớp: 04C1- Trang 27
Báo cáo thực tập GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
- Sau 20 phút lấy mẫu kiểm tra mức độ đường hoá (tinh bột sót), nếu còn tinh
bột sót phải giữ thêm thời gian ở nhiệt độ này, cứ sau 5 phút kiểm tra một lần
đến khi đường hoá hoàn toàn, không con tinh bột sót.
- Nâng nhiệt độ lên 76oC và chuyển sang nồi lọc theo cửa tháo dịch số (4).
Kết thúc:
- Trước khi chuyển lọc phải kiểm tra nồi lọc, vệ sinh đáy, van xã bã....
- Kết thúc tắt khuấy nồi malt, vệ sinh, tắt bơm, đóng van đáy.
1.4. Những sự cố, nguyên nhân và cách khắc phục trong quá trình nấu đương hoá
Trang 41
Cip vệ sinh.(10), Đường Glycol .(11), Bia đi
GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
Dịch đường
Làm lạnh
Lọc Bia
Chuẩn bị
Lọc
2.Tiến hành
Chuẩn bị :
- Trước khi tiến hành lọc ta dùng nước sôi thanh trùng đường ống, máy. Sau đó
làm nguội bằng nước lạnh.
- Dùng kích thuỷ lực ép máy với mức 200-250 bar.
- Mở van nước vào máy, mở 2 van xả cuối máy, bơm nước vào đấy máy để
đuổi hết không khí ra.
- Mở van tuần hoàn, đóng van xả, điều chỉnh áp suất trên đồng hồ chỉ 3 bar,
lưu lượng nước vào máy 700l/h.
Tạo màng lần 1 :
- Lấy 36 lít nước vào thùng trộn đất (bột trợ lọc), cho cánh khuấy làm việc rồi
cho 6 kg đất thô vào trộn đều và lấy đủ 60 lít nước.
3. Bia bị đục -Thiếu bột trợ lọc - Bổ sung bột trợ lọc.
- Không hồi lưu Bia trở lại. - Hồi lưu khi Bia đục.
Chai
Soi chai
Soi chai 2
In date
Máy bốc 2
Ghi chú:
+Bể ngâm 1: Xút 1.5 1.8%, nhiệt độ 40 60oC.
+Bể ngâm 2: Xút 2%, nhiệt độ 80oC.
+Vùng phun xút 1: Phun ngoài và phun trong: Xút nóng 2.5%, nhiệt độ 80 oC, áp
suất phun: 2.6bar: rửa xói sạch vỏ chai.
+Vùng phun xút 2: Phun ngoài và phun trong: xút 2.5%, nhiệt độ 60oC, áp suất
phun 1.5 2 bar.
+Vùng phun xút 3,4: Phun ngoài và phun trong, xút loãng 1%, nhiệt độ 45 –
o
50 C, áp suất phun: 1.5 bar
+Vùng phun nước 1: Nước máy, 37oC
+Vùng phun nước 2: Nước tinh khiết, nhiệt độ môi trường.
2.1.2 Nguyên tắc hoạt động:
Máy rửa chai thuộc kiểu máy rửa chai một một đầu (chai vào và chai ra cùng
một đầu máy) hoạt động tự động được theo dõi và điều khiển bằng màn hình cảm
ứng, chai nằm trong các các rọ chứa và được vận chuyển liên tục trong máy rửa qua
các khu vực xử lí. Việc vận chuyển các rọ chai qua máy rửa theo nhiều nhánh cong
nhằm tiết kiệm diện tích.
Các rọ chai chắc chắn làm bằng thép có chèn nhựa. Các vùng phun được lắp
thành từng dàn có các vùi phun đầu nhỏ để tạo áp lực phun.
Chai bẩn được băng tải chuyển dến máy rửa chai. Chai vào máy theo từng hàng,
mỗi hàng 26 chai. Các chai sẽ được đẩy vào các rọ chai, các rọ chai gắn với băng
chuyền. Nhờ băng chuyền vận chuyển, chai sẽ được ngâm rửa ở từng vùng khác nhau
trong máy. Đầu tiên chai được tải đến bể ngâm sơ bộ (bể ngâm 1): Đây là vùng xút
loãng(1.51.8%) có nhiệt độ 40 60oC. Sau đó chai được vận chuyển đến bể ngâm 2
với xút 2% và nhiệt độ 80oC. Sau khi ngâm, nhãn chai được làm bở và tiếp tục đi qua
vùng phun 1, ở đây chai được phun mạnh cả bên trong lẫn bên ngoài bằng dung dịch
NaOH 2,5% nóng (80oC), với áp lực phun 2,6 bar để xói sạch nhãn, foil nhôm và các
tạp chất rắn. Nhãn rơi xuống máng chứa sau đó được cào, và tải ra ngoài. Tiếp theo
chai được đưa dến vùng phun chất tẩy rửa 2. Lúc này chai đã trở đầu xuống. Hệ thống
phun chia làm 2 phần: một phần phun từ dưới lên (phun trong) gồm ống cố định phun
theo hướng thẳng đứng khi có chai đến và ống xoay tròn vừa phun vừa quét một góc
90o đối với mỗi hàng chai, phần phun từ trên xuống (phun ngoài) gồm ống cố định
phun lên phần đáy chai và phía bên ngoài. Tương tự chai sẽ được vận chuyển qua các
vùng phun 3 và 4 với nồng độ xút 1%, nhiệt độ 45-50oC, áp lực phun 1.5bar.
Ngoài xút, nhà máy còn sử dụng: Stabilon với nồng độ là 0.3 –0.5% (so với
lượng NaOH) khi cần thiết giúp cho quá trình rửa sạch hơn, giảm sự tạo bọt của xút,
tránh hiện tượng trào xút.
Sau khi qua vùng phun chất tẩy rửa, chai tiếp tục qua vùng phun nước rửa. Đầu
tiên là nước thường, ở nhiệt độ môi trường. Sau đó chai sẽ được phun rửa bằng nước
2.Mắt cảm ứng “mắt thần” bị -Do bụi, vật cản che mắt cảm -Kiểm tra, lau sạch các mắt
vật cản, bụi che lấp toàn hệ ứng. cảm ứng. Nhấn nút khởi
thống sẽ dừng lại động lại hệ thống.
3.Đường ống phun nước, hoá -Do cặn, rác bịt kín dường -Kiểm tra các đường ống, vệ
chất bị nghẽn, máy dừng hoạt ống sinh sạch sẽ. Nhấn nút khởi
động. động lại hệ thống.
Trang 75
2.Bể oxy hoá sinh học 4.Bơm bùn 6.Máy nén khí 8. Ống khuyết tán khí
GVHD: Nguyễn Bá Ngọc
3. Tổ chức kiểm tra chất lượng bia thành phẩm và bán thành phẩm
3.1. Bảng thông kê
KẾT LUẬN
Qua thời gian hai tháng thực tập tại Công ty cổ phần bia Sài Gòn-Nghệ Tĩnh,
được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo công ty, các anh chị công nhân trong nhà
máy, chúng tôi đã có điều kiện để tiếp xúc với thực tế sản xuất, củng cố lại những
kiến thức lý thuyết đã học trên nhà trường. Nắm được qui trình và điều kiện công
nghệ các công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm chính của công ty. Biết được
cấu tạo, tính năng và nguyên lý làm việc của một số máy và thiết bị chủ yếu trên dây
chyền. Thấy được trực tiếp quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu đến khi hình thành
sản phẩm. Đáng quý hơn, qua lần thực tập này, chúng tôi đã được trực tiếp tham gia
vào sản xuất một số công việc nhỏ trong dây chyền, biết được thao tác trên một số
cương vị được phân công. Hình thành được hình ảnh tổng quan về tổ chức hệ thống
công nghệ và nhân sự trong nhà máy. Học tập được tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm,
tác phong công nghiệp trong sản xuất.
Chắc chắn những điều đã học được trong đợt thực tập này sẽ giúp tôi vững tin
hơn sau khi ra trường, không còn gặp nhiều bỡ ngỡ khi tiếp xúc với thực tế.
Trong thời gian thực tập tại công ty, bản thân tôi nhận thấy có một số vấn đề mà
công ty có thể điều chỉnh cho phù hợp hơn như sau:
-Khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm rất quan trọng, tuy nhiên phòng Vi sinh-
KCS còn khá thiếu thốn về trang thiết bị như: không có đủ bóp cao su. Phải dùng
pipet để chuẩn độ vì không đủ puret, máy so màu còn lạc hậu. Cách xác định một số
chỉ tiêu còn khá thủ công.
Qua đó, tôi có đề xuất: Trang bị đầy đủ hơn các trang thiết bị đã nêu cho phòng
Vi sinh-KCS.
Trên đây là một số đề xuất của bản thân tôi, rất mong công ty có sự điều chỉnh
để công ty ngày càng phát triển mạnh, sản phẩm của công ty ngày càng được khách
hành ưa chuộng.
Trong thời gian thực tập tôi đã có nhiều cố gắng, thu được nhiều bài học quý
nhưng do thời gian có hạn, đề cương khá dài nên không thể không có nhưng thiếu sót.
Rất mong được sự giúp đỡ của công ty, nhà trường, các bạn đọc để tôi ngày càng
hoàn thiện kiến thức.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo công ty, các anh chị công nhân
trong nhà máy, các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ tôi hoàn thành đợt thực tập!
Vinh ngày 23 tháng 4 năm 2007
SVTH: Nguyễn Xuân Trường