Professional Documents
Culture Documents
4
hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) tác động ở cả
hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động, chẳng hạn:
Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và
ngược lại bảng đen làm mòn (để lại vết) trên viên phấn (phản ánh cơ học).
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau,
từ phản ánh cơ, vật lý, hoá học đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong
đó có phản ánh tâm lí.
- Phản ánh tâm lí là một loại phản ánh đặc biệt:
+ Đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần
kinh, bộ não người - tổ chức cao nhất của vật chất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ
não người mới có khả năng nhận tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên
não hình ảnh tâm lí chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sinh lý,
sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ.
+ Phản ánh tâm lí tạo ra "hình ảnh tâm lí" về thế giới. Hình ảnh tâm lí là
kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào não. Song hình ảnh tâm
lí khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lý, sinh vật ở chỗ:
Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo, thí dụ: hình ảnh tâm lí về
cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về vật chất với hình ảnh
vật lý có tính chất "chết cứng", hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở
trong gương.
*Tâm lý người mang tính chủ thể
- Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm
người) mang hình ảnh tâm lí đó, hay nói cách khác, hình ảnh tâm lí là hình ảnh
chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thể hiện ở
chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu
biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí,
năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Hay nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lí,
thông qua "lăng kính chủ quan" của mình.
- Tính chủ thể của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan
nhưng ở những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lí với những
mức độ, sắc thái khác nhau.
+ Cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất
nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau với trạng
5
thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện
và các sắc thái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy.
+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và
thể hiện nó rõ nhất hình ảnh tâm lý đó.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ
thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực khách quan.
- Nguyên nhân dẫn đến tâm lí người có tính chủ thể
Sự khác biệt tâm lý củat con người do nhiều yếu tố chi phối, trước hết, do
mỗi con người có những đặc điểm riêng về mặt sinh học: đặc điểm giới tính,
giác quan, hệ thần kinh và não bộ.
Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như
nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực
giao lưu khác nhau. Vì thế tâm lí người này khác tâm lí người kia.
Từ luận điểm nói trên, có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau:
- Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng
như khi hình thành phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt
động. Muốn cải tại tâm lý người phải cải tạo hoàn cảnh trong đó con người sống
và hoạt động của con người
- Tâm lí người mang tính chủ thể, vì thế không nên đối xử với ai cũng
như ai, phải tính đến cái riêng và tôn trọng cái riêng của mỗi con người. Trong
dạy học, giáo dục phải chú ý nguyên tắc: dạy học sát đối tượng, giáo dục phải
quán triệt nguyên tắc đối xử cá biệt
b. Tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử
*Tâm lý người có bản chất xã hội
- Tâm lý người có nguồn gốc xã hội, tâm lý người chỉ nảy sinh và phát
triển trong môi trường xã hội loài người. Tâm lý người mang nội dung xã hội
mà con người đang sống. Sự phong phú trong đời sống tâm lý con người phụ
thuộc vào sự tham gia của con người vào các mối quan hệ xã hội. Con người
càng tha gia nhiều mối quan hệ xã hội, thế giới nội tâm của con người càng
phong phú. Về bản chất, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là
kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người thông qua hoạt
động và giao tiếp. Tâm lí con người khác xa với tâm lí của một số loài động vật
cao cấp ở chỗ: tâm lí người có bản chất xã hội.
+ Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và
xã hội), trong đó nguồn gốc xã hội là yếu tố quyết định. Ngay cả phần tự nhiên
trong thế giới cũng được xã hội hoá. Phần xã hội hoá thế giới quyết định tâm lí
6
người thể hiện qua: các quan hệ kinh tế - xã hội, các mối quan hệ đạo đức pháp
quyền, các mối quan hệ con người - con người từ quan hệ gia đình, làng xóm,
quê hương, khối phố cho đến các quan hệ nhóm, các quan hệ cộng đồng… các
mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lí người (bản chất con người là sự
tổng hoà các mối quan hệ xã hội). Trên thực tế, con người thoát ly khỏi các
quan hệ xã hội, quan hệ người - người, đều làm cho tâm lí mất bản tính người
(những trường hợp trẻ em do động vật nuôi từ bé, tâm lí của các trẻ này không
hơn hẳn tâm lí loài vật).
+ Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người
trong mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên và điều chủ yếu là
một thực thể xã hội. Phần tự nhiên ở con người (như đặc điểm cơ thể, giác quan,
thần kinh, bộ não) được xã hội hoá ở mức cao nhã. Là một thực thể xã hội, con
người là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động, giao tiếp với tư cách một
chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo, tâm lí của con người là sản phẩm của hoạt
động con người với tư cách là chủ thể xã hội, vì thế tâm lí người mang đầy đủ
dấu ấn xã hội lịch sử của con người.
+ Tâm lí của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội tiếp thu vốn
kinh nghiệm xã hội, nền văn hoá xã hội, thông qua hoạt động, giao tiếp (hoạt
động vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội), trong đó giáo dục giữ vai trò
chủ dạo, hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong
xã hội có tính quyết định.
- Tâm lí là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lí con
người.
Tóm lại, tâmlý người có bản chất xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường
xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt
động. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục, cũng như
các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát
triển tâm lí con người…
* Tính lịch sử của tâm lí người
Tâm lý con người không phải là bất biến mà có thể biến đổi. Tâm lí của
mỗi con người cũng như của cộng đồng người hình thành, phát triển và biến đổi
cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử cộng đồng và dân tộc. Tâm lí
của mỗi con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
7
+ Đối với cộng đồng, tâm lý con người thay đổi cùng với sự thay đổi các
điều kiện sinh hoạt vật chất cụ thể cũng như các điều kiện kinh tế xã hội tạo nên
điều kiện sống và hoạt động của cộng đồng
+ Đối với mỗi mỗi cá nhân, tâm lý cũng thay đổi cùng với sự thay đổi lứa
tuổi, thay đổi điều kiện sống và hoạt động của mỗi cá nhâncon người đó.
+ Tâm lý con người có thể thay đổi cùng với sự thay đổi các điều kiện xã
hội-lịch sử nên khi nghiên cứu, cần nghiên cứu tâm lý trong những điều kiện
sống và hoạt động cụ thể của con người
+ Tâm lý con người có thể thay đổi nên phải nghiên cứu tâm lý con người,
đánh giá con người theo quan điểm động; không thành kiến với con người và
cũng không chủ quan với con người và với chính mình.
2. Chức năng của tâm lý
Hiện thực khách quan quyết định tâm lí con người, nhưng chính tâm lí con
người lại tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động sáng tạo của nó thông
qua hoạt động, hành động, hành vi. Mỗi hoạt động, hành động của con người
đều do "cái tâm lí" điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau:
- Tâm lí có chức năng chung là định hướng cho hoạt động, ở đây muốn nói
tới vai trò động cơ, mục đích của hoạt động. Động cơ có thể là một nhu cầu được
nhận thức, hứng thú, lý tưởng, niềm tin, lương tâm, danh vọng…
- Tâm lí là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục
mọi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra.
- Tâm lí điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế
hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động của
con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định.
- Cuối cùng, tâm lí giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với
mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho
phép.
Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói trên mà tâm
lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận
thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và chính trong quá trình đó con người nhận
thức, cải tạo chính bản thân mình.
Nhờ chức năng điều hành nói trên mà nhân tố tâm lí giữ vai trò cơ bản, có
tính quyết định trong hoạt động của con người.
3. Phân loại hiện tượng tâm lí
8
Cách phân loại phổ biến là việc phân loại các hiện tượng tâm lí theo quá
trình hình thành và thời gian tồn tại của chúng. vị trí tương đối của chúng trong
nhân cách. Theo cách phân loại này các hiện tượng tâm lí có ba loại chính:
- Các quá trình tâm lí.
- Các trạng thái tâm lí.
- Các thuộc tính tâm lí.
* Các quá trình tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian
tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta
thường phân biệt thành 3 quá trình tâm lí:
- Các quá trình nhận thức gồm: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư
duy, ngôn ngữ.
- Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay
khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ…
- Quá trình hành động ý chí.
* Các trạng thái tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời
gian tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như: chú ý, tâm
trạng.
* Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định, khó
hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta
thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lí cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí
chất và năng lực.
3. Ý nghĩa của tâm lý học trong cuộc sống và hoạt động của con người
Ra đời và tách ra khỏi triết học trở thành một khoa học độc lập từ năm
1879 nhưng trước đó và cho đến ngày nay tâm lý học đều có một vị trí to lớn
trong cuộc sống và hoạt động con người, có thể nói rằng mọi thời kỳ lịch sử,
mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có sự đóng góp của tâm lý học.
Người xưa với câu danh ngôn nổi tiếng “ Hãy tự biết lấy mình”, “ Biết
mình biết người trăm trận trăm thắng “ đều nói lên vai trò của các tri thức tâm
lý, nhấn mạnh vai trò của tự nhận thức, tự ý thức.
Tâm lý con người có chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nên
tâm lý học có vai trò to lớn với tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người lao
động sản xuất, y tế, giáo dục, thể thao, an ninh quốc phòng.
Mục đích cao nhất của hoạt động lao động là tạo ra năng suất lao động
cao. Muốn vậy phải chú ý nhiều mặt từ việc chế tạo công cụ lao động , đảm bảo
an toàn lao động, tổ chức lao động hợp lý khoa học, xây dựng bầu không khí lao
động tập thể, động viên khen thưởng trong lao động ... tất cả các mặt đó của lao
9
động đều cần đến các tri thức tâm lý học lao động, tâm lý học kỹ sư, tâm lý học
xã hội.
Lĩnh vực quản lý xã hội và đặc biệt công tác tổ chức cán bộ vận dụng
nhiều tri thức tâm lý học. Vấn đề hiểu người, dùng người, bồi dưỡng và đánh
giá con người trong công việc, bầu không khí tâm lý trong tập thể quản lý, dư
luận xã hội, các quan hệ cá nhân khác nhau trong tập thể đều sử dụng các tri
thức tâm lý và đồng thời là các vấn đề của tâm lý học.
Hầu khắp các lĩnh vực khác nhau của xã hội tư pháp , thanh tra, y tế,
thương mại, du lịch ....đều cần sự có mặt của khoa học tâm lý, sự ra đời các
khoa học liên ngành như tâm lý học y học, tâm lý học tư pháp, tâm lý học du
lịch... là minh chứng cụ thể khẳng định vai trò to lớn của tâm lý học với các
khoa học khác và cuộc sống xã hội con người. Đặc biệt với giáo dục, tâm lý học
có vị trí đặc biệt quan trọng, những tri thức tâm lý học là cơ sở khoa học cho
việc định hướng đúng trong dạy học và giáo dục học sinh: Hiểu tâm lý lứa tuổi
là cơ sở cho dạy học, giáo dục phù hợp, sử dụng các biẹn pháp các phương tiện
giáo dục có hiệu quả đem lại chất lượng cao cho công tác giáo dục học sinh. Có
thể nêu vài ví dụ: Vận dụng các qui luật cảm giác, tri giác để điều chỉnh ngôn
ngữ nói, viết, sử dụng đồ dùng trực quan... có hiệu quả nâng cao mức độ nhận
thức bài giảng cho học sinh. Hiểu biết các qui luật tình cảm là cơ sở khoa học
cho việc tổ chức các biện pháp giáo dục trong tập thể và bằng tập thể. Các qui
luật hình thành kỹ xảo: Qui luạt “đỉnh”, qui luật tiến bộ không đồng đều...gợi
mở cách thức rèn luyện kỹ xảo cho học sinh đặc biệt là các em học sinh nhỏ bậc
tiểu học khi bắt đầu học viết, học đọc , học tính toán...những tri thức khởi đầu
trong kho tàng tri thức phong phú của nhân loại.
Tóm lại, tâm lý học từ chỗ mô tả, giảng giải, tư biện dần dần chuyển sang
tâm lý học hoạt động trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp” thực sự đi vào
cuộc sống,phục vụ thực tiễn xã hội.
24