You are on page 1of 14

CHỦ ĐỀ 2: NHẬN THỨC VÀ HỌC TẬP

2.1 . Dạy học và sự phát triển nhận thức của học sinh
2.1.1. Khái niệm nhận thức
2.1.1.1. Định nghĩa nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt hoạt động tâm lí cơ bản của cá nhân: Nhận
thức – Thái độ - Hành động. Trong quá trình hoạt động, con người phải phản ánh
được đối tượng và môi trường xung quanh, tức là phải nhận thức.
Nhận thức là hoạt động tâm lí của cá nhân, tác động đến đối tượng, qua đó
hình thành trong đầu óc chủ thể các cảm giác, hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm
về đối tượng. Nói ngắn gọn, nhận thức là hoạt động giúp chủ thể nhận ra và sáng tỏ
về bản chất, quan hệ và quy luật vận động của đối tượng để từ đó có thái độ và
hành động đúng đắn; là quá trình chủ thể sử dụng các hành động, các giác quan,
các thao tác trí óc để làm sáng tỏ đối tượng, tạo ra các cảm giác, hình ảnh, biểu
tượng, khái niệm về đối tượng đó.
Hoạt động nhận thức của cá nhân được xem xét theo hai góc độ: Các quá
trình nhận thức và sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
2.1.1.2. Các quá trình nhận thức
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình phản ánh đối tượng với nhiều
mức độ khác nhau. Mức thấp là chủ thể sử dụng các giác quan (mắt - thị giác, mũi
- khứu giác, tai - thính giác, da - xúc giác, lưỡi - vị giác) tác động lên chủ thể và
chuyển vào hệ thần kinh để tạo ra các hình ảnh, các biểu tượng cảm tính về đối
tượng - mức nhận thức cảm tính. Mức độ cao là nhận thức lí tính, tức là sự tác
động gián tiếp của chủ thể lên đối tượng, thông qua các hình ảnh, các biểu tượng
cảm tính để tạo ra các khái niệm, phản ánh bản chất, các mối liên hệ phổ biến và
quy luật vận động của đối tượng.Để có các khái niệm về đối tượng, chủ thể phải
tiến hành các thao tác tư duy, tưởng tượng.
a) Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là mức thấp của hoạt động nhận thức, bao gồm hai hoạt
động rất khó tách bạch nhau trong thực tiễn: cảm giác và tri giác.
 Cảm giác
Cảm giác là mức khởi đầu của một hoạt động nhận thức của cá nhân, là sự
tiếp xúc ban đầu của từng giác quan đến đối tượng nhận thức. Kết quả là tạo ra các
cảm giác riêng về màu sắc, hình dáng, mùi vị, âm thanh v.v của đối tượng. Trong
nhận thức, mỗi giác quan có chức năng đặc thù, không thay thế được bởi các giác
quan khác, giống như các cửa vào của một tòa nhà: Thị giác tiếp nhận ánh sáng,
tạo ra hình dáng của đối tượng,Thính giác tiếp nhận âm thanh, Khứu giác tiếp nhận
mùi của đối tượng, Xúc giác tiếp nhận lực tác động của đối tượng,Vị giác tiếp nhận
vị của đối tượng. Cảm giác tuy chưa tạo ra cho chủ thể một hình ảnh trọn vẹn về
đối tượng nhưng nó cung cấp cho chủ thể các “vật liệu” nhận thức về đối tượng,
nên cảm giác có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình và chất lượng nhận thức
của chủ thể.
Ở cá nhân nếu một giác quan nào đó bị khuyết hoặc bị kém thì kênh thông tin
ban đầu về đối tượng sẽ bị khiếm khuyết, việc nhận thức đối tượng sẽ không trọn
vẹn.Trong những trường hợp như vậy, chủ thể phải có sự bù đắp của các giác quan
khác. Ngược lại, nếu một giác quan nào đó phát triển tốt, là cơ sở để hình thành và
phát triển năng khiếu, tài năng (tài năng âm nhạc – sự phát triển của thính giác, năng
khiếu hội hóa - thị giác; năng khiếu múa,vận động – các cơ quan vận động) v.v. Do
đó, trong dạy học, việc bảo vệ, duy trì, phát hiện, phát triển và luyện tập cách sử
dụng các giác quan của học là rất quan trọng.
 Tri giác
Tri giác là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, đó là sự kết hợp các giác
quan trong hoạt động nhận thức, nhờ đó tạo ra phức hợp các cảm giác, hình thành
ở chủ thể hình ảnh trọn vẹn về dáng vẻ của đối tượng. Chẳng hạn, một em bé
lần đầu tiên được tiếp xúc với quả cam, nếu chỉ nhìn thoáng qua bằng mắt, em bé
sẽ có cảm giác về màu sắc của nó; nếu nhắm mắt và để quả cảm trên tay, em có
cảm giác về độ nặng của nó... nhưng kết hợp với nhìn, ăn, ngửi.. thì em bé sẽ có
hình ảnh tri giác về quả cam.
Trong nhận thức cảm tính, để có được các cảm giác, chỉ cần có sự tương tác
giữa các giác quan với đối tượng, nhưng để có hình ảnh trọn vẹn về đối tượng
(hình ảnh tri giác) thì không chỉ có các giác quan mà còn phải có sự tham gia của
kinh nghiệm, ngôn ngữ và tư duy.
* Các quy luật của nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hoạt động theo một số quy luật nhất định:
- Quy luật của cảm giác:
+ Quy luật ngưỡng cảm giác
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích tác động vào các giác quan và kích
thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra
được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác. Cảm giác có hai ngưỡng: ngưỡng cảm giác
phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là một cường
độ kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích
này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích
thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác. Phạm vi giữa ngưỡng dưới và
ngưỡng trên gọi là vùng cảm giác được. Trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: Cram giấc nghe với song âm thanh từ 16Hz - 2 vạn Hz thì nghe được,
trong đó vùng phản ánh tốt nhất là 1000Hz. Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau
giữa các kích thích, nhưng kích thích phải có tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ
hay tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích, Đó gọi là
ngưỡng sai biệt:
+ Quy luật thích ứng của cảm giác
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với
sự thay đổi của cường độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo quy luật sau: Cường
độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm; cường độ kích thích giảm thì độ nhạy
cảm tăng. Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích
ứng khác nhau. Có loại cảm giác thích ứng nhanh như cảm giác nhìn, cảm giác
ngửi, nhưng có loại cảm giác chậm thích ứng như cảm giác nghe, cảm giác đau.
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và tính
chất nghề nghiệp.
+ Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà
luôn tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động ấy diễn ra theo quy luật: Sự kích thích
yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân
tích kia; một kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm độ nhạy cảm
của một cơ quan phân tích kia. Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn
ra đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự thay đổi
của một kích thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời gọi là sự tương phản
trong cảm giác. Có hai loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng
thời.
- Quy luật của tri giác:
Hoạt động tri giác của cá nhân có nhiều quy luật được ứng dụng rộng rãi
trong dạy học. Dưới đây là một số quy luật phổ biến:
+ Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Tri giác bao giờ cũng phải có đối tượng để phản ánh. Hình ảnh trực quan mà
tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng của thế giới bên
ngoài. Hình ảnh của tri giác phản ánh chính đặc điểm, tính chất của đối tượng mà
con người tri giác. Nhờ mang tính đối tượng mà hình ảnh của tri giác là cơ sở định
hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người cho phù hợp với thế giới
khách quan.
+ Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác
Khi tri giác, chúng ta không chỉ tạo ra được những hình ảnh trọn vẹn về sự
vật, hiện tượng mà còn có thể chỉ ra được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng đó. Tức là
chủ thể tri giác có thể gọi tên, phân loại, biết được công dụng của sự vật, hiện
tượng và khái quát nó trong một từ xác định. Tính ý nghĩa của tri giác gắn liền với
tính trọn vẹn. Tri giác càng đầy đủ các thuộc tính cơ bản bề ngoài của đối tượng thì
gọi tên đối tượng càng chính xác.
+ Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
Tri giác của con người không thể đồng thời phản ánh các sự vật, hiện tượng
đa dạng tác động mà chỉ lựa chọn một vài sự vật trong vô àn các sự vật, hiện tượng
đang tác động là đối tượng tri giác, còn các sự vật, hiện tượng khác được coi là bối
cảnh. Khả năng tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh đối tượng
đó một cách hiệu quả hơn nói lên tính lựa chọn của tri giác. Tính lựa chọn của tri
giác phụ thuộc vào:
Mục đích cá nhân. Do đó sự lựa chọn của tri giác không có tính cố định, vai
trò của đối tượng và bối cảnh có thể thay đổi cho nahu tùy thuộc vào mục đích cá
nhân và điều kiện xung quanh khi tri giác. Một vật lúc này là đối tượng, lúc khác
có thể là bối cảnh và ngược lại.
Đối tượng tri giác: Đối tượng càng nổi bật, sinh động, càng có sự khác biệt lớn
với bối cảnh thì tri giác càng dễ dàng, đầy đủ. Ngược lại, đối tượng ít có sự khác
biệt lớn với bối cảnh, thậm chí hòa lẫn với bối cảnh thì tri giác đối tượng sẽ khó
khăn.
 Điều kiện quan sát: khoảng cách, ánh sáng, ...
 Hứng thú, kinh nghiệm, kiến thức.
+ Quy luật tính ổn định của tri giác
Điều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó có thể thay đổi (vị trí trong
không gian, khoảng cách, độ chiếu sáng, ...) song chúng ta vẫn tri giác được sự
việc, hiện tượng đó như là sự vật, hiện tượng ổn định về hình dạng kích thước, màu
sắc, ... Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri giác. Tính ổn định của tri giác,
khả năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác thay
đổi. Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
 Do bản thân sự vật, hiện tượng có cấu trúc tương đối ổn định trong thời gian,
thời điểm nhất định.
 Chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh
nghiệm của con người về đối tượng.
 Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh mà nó được hình thành
trong đời sống cá thể, là điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con
người.
+ Quy luật tổng giác
Ngoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích tác động vào các giác quan khi
tri giác, trong quá trình tri giác còn có sự tham gia của vốn kinh nghiệm, tư duy,
nhu cầu, hứng thú, động cơ, tình cảm, ... Nghĩa là sự tham gia của toàn bộ nhân
cách. Sự tham gia của toàn bộ nhân cách vào trong quá trình tri giác gọi là hiện
tượng tổng giác.
+ Quy luật ảo giác
Trong một số trường hợp, với điều kiện thực tế xác định, tri giác có thể
khkoong cho ta hình ảnh đúng về sự vật, hiện tượng. Hiện tượng này gọi là ảo thị
hay gọi tắt là ảo giác. Ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch về sự vật, hiện
tượng được tri giác.
b) Nhận thức lí tính
Nhận thức cảm tính, ở mức tốt nhất cũng chỉ cung cấp cho cá nhân các hình
ảnh trực quan về các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, chỉ mới cung
cấp cho cá nhân các vật liệu để nhận thức đối tượng nào đó; bản thân các hoạt
động nhận thức cảm tính chưa phản ánh được bản chất của đối tượng. Muốn nhận
thức được đối tượng, cá nhân phải tiến hành các thao tác nhận thức bậc cao để
phân tích và cấu trúc lại các hình ảnh do nhận thức cảm tính mang lại, làm bộc lộ
bản chất và các mối quan hệ phổ biến của đối tượng, tức là phải tiến hành các hoạt
động nhận thức lí tính. Nhận thức lí tính là mức cao của hoạt động nhận thức, bao
gồm hai hoạt động: tư duy và tưởng tượng.
* Tư duy
- Tư duy là hoạt động tâm lí của chủ thể, là quá trình chủ thể tiến hành các
thao tác trí óc như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, ...
để xử lí các hình ảnh, các biểu tượng, hay các khái niệm đã có về đối tượng, làm
sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng. Sản
phẩm của hoạt động tư duy là các khái niệm về đối tượng.
- Các thao tác tư duy
+ Phân tích: Là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để phân chia đối tượng
nhận thức thành các bộ phận, các thuộc tính, các thành phần khác nhau để nhận
thức đối tượng sâu sắc hơn.
+ Tổng hợp: Là thao tác dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được
phân tích thành một chỉnh thể để giúp ta nhận thức đối tượng khái quát hơn.
Phân tích và tổng hợp là hai thao tác cơ bản của quá trình tư duy. Hai thao
tác này có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong một quá trình tư duy
thống nhất. Phân tích là cơ sở của tổng hợp; tổng hợp được thực hiện theo kết quả
của phân tích.
+ So sánh: Là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để xác định sự giống nhau
hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng
nhau giữa các đối tượng nhận thức.
So sánh có quan hệ chặt chẽ và dựa trên cơ sở phân tích, tổng hợp. Càng
phân tích, tổng hợp sâu sắc bao nhiêu thì so sánh càng đầy đủ, chính xác bấy nhiêu.
+ Trưu tượng hóa và khái quát hóa:
 Trừu tượng hóa là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để gạt bỏ những thuộc
tính, những bộ phận, những quan hệ thứ yếu, không cần thiết xét về một
phương diện nào đó, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
 Khái quát hóa là thao tác trí tuệ dùng để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại trên cơ sở những thuộc tính chung, bản chất,
những mối quan hệ có tính quy luật. Kết quả của quá trình khái quát hóa cho
ta một cái chung nhất cho hàng loạt sự vật, hiện tượng cùng loại.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai thao tác cơ bản, đặc trưng của con
người. Hai thao tác này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Khái quát hóa
trên cơ sở trừu tượng hóa. Trừu tượng hóa càng cao thì khái quát hóa càng chính
xác.
- Các loại tư duy:
+ Xét về phương diện hình thành và phát triển của tư duy, có tư duy trực
quan hành động: là loại tư duy bằng các thao tác cụ thể chân tay, hướng vào việc
giải quyết một số tình huống cụ thể, trực quan; tư duy trực quan hình tượng: là loại
tư duy dựa vào các hình ảnh trong kinh nghiệm đã có để giải quyết nhiệm vụ mới.
Loại tư duy này ra đời muộn hơn tư duy trực quan hành động; tư duy trừu tượng
(tư duy ngôn ngữ, tư duy logic). Đây là loại tư duy phát triển ở mức độ cao chỉ có
ở người. Tư duy trừu tượng dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ lôgic. Loại tư
duy này gắn bó trực tiếp với hoạt động ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm công cụ
phương tiện để tư duy.
+ Dựa vào hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết vấn đề, có thể chia
tư duy thành ba loại: tư duy thực hành; tư duy hình ảnh; tư duy lí luận.
+ Xét về mức độ sáng tạo của tư duy, chia thành hai loại: tư duy angôrít
hoặc tư duy ơrixtic.
- Các quy luật của tư duy:
+ Quy luật nảy sinh tư duy: Tư duy chỉ nảy sinh trong hoành cảnh có vấn đề,
tức là tư duy bao giờ cũng nhằm giải quyết một bài toán nhận thức trong đó cần
phải phát hiện ra cái chưa biết và cần biết ẩn chứa đằng sau các hình ảnh, biểu
tượng, các kinh nghiệm đã có, mà khi sử dụng các kinh nghiệm cũ không giải
quyết được.
+ Quy luật thao tác tư duy: Tư duy chỉ được tiến hành khi chủ thể sử dụng
các phương tiện nhận thức, qua đó gián tiếp phản ánh đối tượng. Các thao tác tư
duy phổ biến là: phân tích - tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa - khái quát hóa, cụ
thể hóa.
Quy luật về các giai đoạn tư duy: (1) Tư duy bắt đầu từ khâu đầu tiên là xác
định vấn đề và biểu đạt vấn đề; (2) Huy động các tri thức, kinh nghiệm đã có; (3)
Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết; (4) Kiểm tra giả thuyết. Kết quả
việc kiểm tra giả thuyết dẫn đến khẳng định hoặc phủ định hoặc chính xác hóa giả
thuyết đã nêu; (5) Giải quyết nhiệm vụ, tư duy khi giả thuyết được chứng minh.
* Tưởng tượng
- Tưởng tượng là hoạt động tâm lí của chủ thể, là quá trình chủ thể tiến hành
các thao tác tri óc như chắp ghép, liên kết, nhấn mạnh, loại suy, mô phỏng, ... để
xử lí các hình ảnh, các biểu tượng hay các khái niệm đã có về đối tượng để làm
sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng. Sản
phẩm của tưởng tượng là các biểu tượng mới.
- Cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng:
+ Thay đổi kích thích, số lượng của vật hay thành phần của vật. Đây là cách
sáng tạo hình ảnh mới bằng cách tăng thêm hay giảm đi kích thước, số lượng của
vật thật hay thành phần của vật (người khổng lồ, người tí hon, phật nhìn mắt nghìn
tay, ...)
+ Nhấn mạnh một thuộc tính, một bộ phận nào đó của đối tượng. Đây là
cách sáng tạo ra hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hành
đầu một phẩm chất hay một quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng so với các sự
vật, hiện tượng khác. Một biến dạng của phương pháp này là sự cường điệu một sự
vật, hiện tượng nào đó (tranh biếm họa).
+ Chắp ghép (kết dính). Đây là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự
vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới (Hình ảnh con rồng, nàng tiên
cá). Ở đây, các bộ phận hình thành hình ảnh mới không bị thay đổi, chế biến mà
chỉ được ghép lại với nhau theo quy luật xác định.
+ Liên hợp: Phương pháp này có điểm giống với phương pháp chắp ghép là
tạo ra hình ảnh mới bằng cách liên hợp nhiều sự vật, hiện tượng với nhau, nhưng
khác nhau ở chỗ khi tham gia vào hình ảnh mới thì các yếu tố ban đầu đều bị cải
biên đi và sắp xếp lại trong những mối tương quan mới. Cách tưởng tượng này là
sự tổng hợp mang tính sáng tạo rõ rệt.
+ Điển hình hóa: Đây là cách sáng tạo hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó
những thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như là đại
diện của một giai cấp, một nhóm xã hội được biểu hiện trong hình ảnh mới này
(nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật). Phương pháp điển hình hóa là sự tổng hợp
sáng tạo mang tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm điển hình của nhân
cách.
+ Loại suy (tương tự): Đây là cách sáng tạo hình ảnh mới trên cơ sở mô
phỏng, bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những sự vật có thực.
* Tư duy và tưởng tượng có nhiều điểm giống và khác nhau.
+ Điểm giống nhau là cả hai đều phản ánh gián tiếp đối tượng nhận thức
thông qua các khâu trung gian là hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm đã có về đối
tượng; đều xuất hiện khi có hoàn cảnh có vấn đề trong nhận thức; đều phản ánh
bản chất, mối liên hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng.
+ Điểm khác nhau là tư duy thường diễn ra trong tình huống có vấn đề mang
tính chính xác cao, các yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề thường rõ ràng, còn
tưởng tượng diễn ra trong hoàn cảnh có vấn đề có tính xác định thấp, mang tính
ước lệ. Mặt khác, để tư duy, chủ thể thường tiến hành các thao tác trí óc có tính
logic như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa,
..., còn để tưởng tượng chủ thể sử dụng các thao tác có tính logic không tường
minh như chắp ghép, phóng đại, điển hình hóa, ...
2.2. Sự phát triển nhận thức của học sinh
2.2.1. Sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
Cấu trúc nhận thức (các sơ đồ nhận thức) là cấu trúc tâm lí của cá nhân,
phản ánh các mức độ nhận thức đối tượng và sự phát triển các thao tác trí óc để
khám phá đối tượng.
Theo J.Piaget, sự phát triển nhận thức ở trẻ em là sự phát triển các sơ đồ nhận
thức: sơ đồ tri giác, sơ đồ trí nhớ và sơ đồ trí tuệ. Cả ba nhóm sơ đồ trên đều bắt
nguồn từ sơ đồ đơn giản nhất: sơ cấu giác- động. Trong đó, đáng chú ý nhất là sơ
đồ trí tuệ. Sự phát triển của sơ đồ trí tuệ trải qua 4 giai đoạn lớn, theo logic sau: Sơ
đồ giác – động→ Các sơ đồ tiền thao tác → Sơ đồ thao tác cụ thể → Sơ đồ thao
tác hình thức.
a) Giai đoạn cảm giác - vận động (0-2 tuổi). Giai đoạn này chia thành 6 thời
kì nhỏ: Thời kì 1: (0 – 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh, hình thành sơ
cấu cảm giác và cử động, hình thành phản ứng vòng tròn sơ cấp; Thời kì 2: (1 – 4
tháng), hình thành tri giác và thói quen vận động;Thời kì 3: (4 – 8 tháng), phản ứng
vòng tròn thứ cấp; Thời kì 4: (8 – 12 tháng), hình thành khả năng phối hợp phương
tiện – mục đích. Xuất hiện dấu hiệu của trí khôn, trên cơ sở sơ đồ mục đích –
phương tiện; Thời kì 5: (12 – 18 tháng) phát hiện ra các phương tiện mới, khả năng
mục đích – phương tiện; Thời kì 6: (18 – 24 tháng), phát sinh các "giải pháp sáng
tạo" (hiện tượng bừng hiểu) trong ứng xử.
b) Giai đoạn tiền thao tác (2 – 6 hoặc 7 tuổi).
Trong giai đoạn này, các sơ đồ hành động dần được nhập tâm để tiến tới
hình thành biểu tượng.
Trước hết là khả năng bắt chước hành động. Tiếp đến chuyển từ biểu tượng
trên hành động (bắt chước hành động) sang biểu tượng trong ý nghĩ. Từ đó ở trẻ
em xuất hiện hành động tượng trưng (các trò chơi tượng trưng: ru búp bê ngủ, cho
bé ăn) và hành động vẽ hình. Ở trình độ tiền thao tác, các hình ảnh tinh thần có tính
chất tĩnh, thường khó tái hiện ra sự vận động hay biến đổi cũng như kết quả của
chúng. Chỉ khi đạt đến trình độ thao tác (7 – 8 tuổi), trẻ em mới có khả năng hình
dung ra sự vận động, biến đổi và kết quả của chúng.
Trong gia đoạn này, xuất hiện của tiếng nói, nhờ đó ở trẻ hình thành chức
năng kí hiệu (biểu trưng).
Đặc trưng nổi bật trong trí tuệ và ngôn ngữ của trẻ em giai đoạn này là tính
duy kỉ, trực giác, tổng thể và triển khai bằng cách xếp kề các hình ảnh. Hiện tượng
duy kỉ (lấy mình làm trung tâm), là thời kì quá độ của quá trình đứa trẻ tự tách
mình ra khỏi thế giới và ý thức bản thân mình như một thực thể khách quan. Tính
tự kỉ trung tâm ở thời kì tiền thao tác (3 – 4 – 5 tuổi) là do trẻ chưa có khả năng đi
theo quá trình biến đổi của sự vật và chưa có khả năng đảo ngược các sơ đồ.
c) Giai đoạn thao tác cụ thể (7 – 11 hoặc 12 tuổi)
Sự xuất hiện thao tác gắn liền với các đặc trưng đảo ngược và bất biến. Điều
này liên quan đến khả năng bảo toàn.
Hình thành khả năng bảo toàn. Nếu trước 6 – 7 tuổi trẻ em chưa có khái
niệm bảo toàn (chưa thực hiện được các bài tập bảo toàn trong các thí nghiệm kinh
điển của Piaget), thì sang 7 – 8 trẻ đã có khả năng này. Trước hết là sự bảo toàn
chất liệu (trút nước từ một cốc sang hai cốc khác nhau), tiếp đến là bảo toàn trọng
lượng (9 – 10 tuổi) và bảo toàn khối lượng (11 – 12 tuổi).
Hình thành những thao tác cụ thể. Sự xuất hiện các hành động ngược, dẫn
đến khả năng đảo ngược và bảo toàn đã giúp cho trẻ em giai đoạn này hình thành
các thao tác cụ thể (các thao tác liên quan trực tiếp với đồ vật). Các thao tác này
kết hợp với nhau tạo thành những cấu trúc tổng thể, nhưng vẫn chưa có khả năng
khái quát (do thao tác trên vật): cấu trúc phân loại, phân hạng, cấu trúc số, cấu trúc
không gian, thời gian và tốc độ.
d) Giai đoạn thao tác hình thức (13 – 18 tuổi)
Điểm đặc trưng trong sự phát triển cấu trúc trí tuệ của trẻ em từ 13 – 15 tuổi
là các cấu trúc trí tuệ được giải phóng khỏi vật cụ thể và chuyển vào các mệnh đề.
Tất cả sự biến đổi ấy đều do tư duy của trẻ sử dụng những giả thuyết, những suy
luận bằng những mệnh đề được trừu xuất khỏi những nhận biết cụ thể và thực tế
của giai đoạn trước. Thành tựu trí tuệ này được biểu hiện qua hình thành nhiều cấu
trúc tư duy và trí tuệ mới: Tư duy hình thức và tổ hợp: trẻ em đã phân tách ra
được nội dung và hình thức của vật, nhờ đó chủ thể có thể suy luận, phán đoán
đúng đắn bằng những mệnh đề có tính giả định đơn thuần (giả định 1 con vịt có 4
chân, thì hai con sẽ có 8 chân). Chính điều này đã tạo ra sự khởi đầu của tư duy giả
định diễn dịch hay tư duy hình thức; các thao tác hình thức và các nhóm thuận
nghịch: ở lứa tuổi 11 – 12 xuất hiện hàng loạt cấu trúc thao tác mới. Các nhóm đã
có tính thuận nghịch, nhờ các thao tác trên mệnh đề, như đã thấy ở phần trên
Sự phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của trẻ em qua các giai đoạn
nêu trên là cơ sở tâm lí quan trọng để các giáo viên thiết kế các hoạt động dạy
(mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học) phù hợp.
2.2.2. Sự phát triển các chức năng nhận thức
a) Sự phát triển cảm giác và tri giác
Cảm giác của trẻ em xuất hiện ngay từ khi còn là bào thai. Khi sinh, ở trẻ em
bình thường, các giác quan đều hoạt động bình thường và có khả năng thu nhận
được các tín hiệu đặc trưng. Trẻ càng lớn, các giác quan càng hoàn thiện về giải
phẫu và chức năng.Qua hoạt động, đặc biệt là hoạt động học tập và hoạt động nghề
nghiệp, độ nhạy cảm của các giác quan ngày càng nâng cao (cảm giác da của các
bác sỹ, cảm giác thị giác của bác thợ tiện, thợ quan trắc v.v).
Trên cơ sở phát triển của các giác quan, tri giác của trẻ em xuất hiện từ
tháng thứ 2 sau khi sinh.Sự phát triển tri giác và tạo ra các hình ảnh tri giác của trẻ
nhỏ phụ thuộc nhiều vào sự vận động của trẻ; vào môi trường sống (tự nhiên và xã
hội) và vào văn hóa của cộng đồng.Trong suốt quá trình phát triển từ sơ sinh đến
trước tuổi học phổ thông, sự phát triển tri giác đóng vai trò chủ đạo và chi phối các
chức năng nhận thức khác như trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Giai đoạn đầu, tri giác
của trẻ quy định tư duy, tạo nên hiện tượng “tự kỉ trung tâm” ở trẻ, trong những
giai đoạn sau, tri giác dần phụ thuộc vào các chức năng khác như ý thức, tư duy, ý
chí, trí nhớ v.v.
Ở lứa tuổi học sinh, đặc biệt là học sinh THCS và THPT, tri giác đã thực sự
phát triển và trở lên tinh tế (chẳng hạn các quan sát của nhà thơ Trần Đăng Khoa
khi 8 tuổi), ổn định, trở thành năng lực (năng lực quan sát). Tuy nhiên, tri giác của
trẻ em có thực sự phát triển trở thành năng lực quan sát hay không không chỉ do sự
nhạy cảm của các giác quan mà chủ yếu là do có được học tập và rèn luyện trong
môi trường thuận lợi hay không. Vì vậy, dạy học trong nhà trường, một mặt khai
thác các hình ảnh tri giác của học sinh, mặt khác, quan trọng hơn hình thành và
phát triển năng lực quan sát cho các em, cả học sinh có năng khiếu và bình thường.
b) Phát triển tư duy và tưởng tượng
Sự phát triển tư duy và tưởng tượng của trẻ em diễn ra qua ba giai đoạn:
- Tư duy và tưởng tượng tiền thao tác
Về phương diện nhận thức, trẻ em gần hai tuổi đã hình thành được các
hình ảnh tinh thần nhờ lưu giữ và xử lí các hình ảnh tri giác.Nhờ đó trẻ có thể
tạo ra các hành động bắt chước mà không có đối tượng trước mắt (giả vờ trên cơ
sở nhớ lại). Bước tiếp theo trẻ em hình thành các biểu tượng về không gian, thời
gian, số lượng, kí hiệu v.v (nêu được phải trái, trên dưới, to nhỏ, nói được sơ đồ
từ nhà đến lớp mẫu giáo v.v). Tuy nhiên, để có các hình ảnh tinh thần và cao hơn
là các biểu tượng, trẻ em chưa có và chưa sử dụng các thao tác tư duy hoặc thao
thác tưởng tượng mà theo phương pháp “xếp kề” các hình ảnh, giống hành động
ghép tranh của trẻ. Trong giai đoạn này, các hành động thực tiễn của trẻ em như
hành động biểu trưng, xếp hình, vẽ tranh và các trò chơi khác là tác nhân quan
trọng để phát triển khả năng tư duy và tưởng tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác cụ thể.
Ở giai đoạn cuối mầm non và đầu lớp 1, vốn biểu tượng của học sinh phát
triển mạnh, kết hợp với các hành động thực thực tiễn theo kiểu xuôi và ngược,
nhờ đó tạo cơ sở để trẻ hình thành các thao tác tư duy. Những thao tác tư duy cơ
bản là phân tích- tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa- khái quát hóa, cụ thể hóa.
Các thao tác tưởng tượng như chắp ghép, loại suy, điển hình hóa v.v……
Sự phát triển các thao tác tư duy và tưởng tượng trong giai đoạn đầu (các
lớp đầu tiểu học) gắn liền với các hành động thực tiễn vật chất, cụ thể và vẫn
còn chịu ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố không chủ định.Vì vậy, trong dạy học
tiểu học, cần đặc biệt quan tâm tổ chức cho học sinh tiến hành các hành động
thực (hành động bằng tay với đồ vật) để qua đó hình thành và phát triển các thao
tác tư duy và tưởng tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác mệnh đề, lí luận
Ở giai đoạn cuối tiểu học, đầu THCS, tư duy và tưởng tượng của học sinh
dần dần đạt mức trưởng thành, tức là học sinh tiến hành các thao tác tư duy và
tưởng tượng dựa trên các mệnh đề ngôn ngữ, kí hiệu (toán, lí, hóa v.v) mang tính
hình thức.Những năm cuối THCS các thao tác tư duy của học sinh đạt mức tư duy
trưởng thành, tư duy của học sinh đạt tới tư duy lý luận.
Sau nhiều năm học trong nhà trường tiểu học, THCS và THPT, học sinh dần
hình thành và phát tùy triển các kiểu tư duy khác nhau, theo đặc điểm tâm lí cá
nhân, theo nội dung và kiểu học tập chiếm ưu thế của học sinh (tư duy hành động,
tư duy lý luận, tư duy khoa học, tư duy hình tượng v.v.).
Nhờ phát triển tư duy lý luận, sự phản ánh của chủ thể hoàn toàn phản ánh
được bản chất của đối tượng, các mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của
nó.Quá trình nhận thức của học sinh đã chuyển từ nhận thức cảm tính lên lí tính, từ
hình ảnh, biểu tượng cảm tính lên khái niêm lý tính.
Trong quá trình chuyển từ thao tác tư duy cụ thể (tương ứng lớp 3- lớp 4) lên
thao tác tư duy lí luận (lớp 5- 6), học sinh thường gặp khó khăn, giữa hai loại tư
duy có “hố ngăn cách”. Để giúp học sinh khắc phục được hố ngăn đó, các thầy cô
giáo có kinh nghiệm, hiệu quả thường sử dụng các mô hình (sơ đồ, biểu đồ, kí
hiệu, hình vẽ …) để vừa đảm bảo tính trực quan vừa tạo ra sự trừu tượng của đối
tượng nhận thức.

You might also like