You are on page 1of 7

LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA

Muốn tóm tắt thì đây:


2.1Trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

- Sau khi đánh tan bọn cướp

- Lời nói:

+ hỏi: “ai than khóc” -> quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.

+ khẳng định: “ta đã...” -> an ủi.

+ can ngăn: “khoan khoan...” -> hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng


mực, coi trọng danh dự.

- Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn
phận của người anh hùng.

=> Thái độ ân cần, chu đáo, cư xử đúng mực, hiểu lễ giáo; tính cách
khiêm nhường.
2.2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga

- Thái độ: biết ơn -> trọng nghĩa.

- Cử chỉ: cúi đầu lạy

- Lời nói: thưa, gửi -> lễ phép.

- Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.

=> xưng hô khiêm nhường, nói năng dịu dàng, mực thước, bình dị, mộc
mạc.

=> Là người con gái hiền hậu, nết na.


- cư xử: mời lên ngồi, mời đến nhà để được đền đáp ơn Vân Tiên

=> cách ứng xử ân tình, ân nghĩa.

=> Nguyệt Nga là cô gái thùy mị, nết na, có học thức và trọng tình
nghĩa.

*Phân tích

1.Đoạn 2: Lục Vân Tiên trò chuyện cùng Kiều Nguyệt


Nga(Còn lại):
"Dẹp rồi lũ kiến chòm ong

Hỏi ai than khóc ở trong xe này

Thưa rằng: Tôi thiệt người ngay

Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ"

Sau khi đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên quan tâm đến hỏi thăm người bị
hại, nghe tiếng khóc sợ hãi từ trong kiệu, Vân Tiên đã cất tiếng thăm hỏi
"ai than khóc ở trong xe này" thì trong xe vọng ra tiếng đáp của một
người con gái, nàng đã kể lại hết sự tình cho Vân Tiên nghe, nàng là một
người dân thiện lương, vì sa cơ nên mới lọt vào tay của bọn hung đồ "sa
cơ nên mới lầm tay hung đồ".

Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi
rực rỡ,... tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên
không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính
trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên
động lòng thương, an ủi: "Ta đã trừ dòng lâu la".
Nàng còn bày tỏ mong muốn gặp mặt,cúi đầu bày tỏ sự biết ơn trước sự
hành động ra tay nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên:

"Trong xe chật hẹp khôn phô

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng"

Tuy nhiên, quan điểm sống của Lục Vân Tiên là "làm ơn há dễ trông
người trả ơn" đã từ chối lời yêu cầu của Kiều Nguyệt Nga, và một lí do
nữa được chàng đưa ra đó chính là sự khác biệt về thân phận, giới tính
Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê
hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc
hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến "Nam nữ thụ thụ bất thân", song
tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn
nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng
cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì:

Vân Tiên nghe nói liền cười

“Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Người anh hùng là người lấy việc nghĩa khí lên làm đầu. Nếu thấy việc
nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Đây cũng chính
là quan niệm về người anh hùng của tác giả. Qua đó, tác giả thay mặt
nhân dân thể hiện niềm ước mong: trong thời buổi loạn lạc, nhiễu
nhương, hỗn loạn, cái xấu cái ác hoành hoành những con người tài đức,
dám ra tay cứu nạn giúp đời như Lục Vân Tiên thật đáng quý, đáng trân
trọng biết bao.

Tiếp đến là hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga, nàng cũng là nhân
vật chính và là nhân vật lí tưởng trong tác phẩm. Với tư cách là một
người chịu hàm ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ rất nhiều những phẩm
chất tốt đẹp của người con gái: Cách xưng hô của nàng với Lục Vân
Tiên, gọi chàng là "quân tử", tự xưng mình là "tiện thiếp". Điều đó, bộc
lộ cách ứng xử của một người phụ nữ thùy mị, nết na, khiêm nhường,
đầy sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp. Tiếp đến, nàng còn hiện
lên là người phụ nữ khuôn phép, có học thức của một tiểu thư khuê các,
gia giáo:

“Làm con đâu dám cãi cha

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”

Cuối cùng, với tư cách là người chịu ơn, nàng cư xử đúng mực, biết
trước biết sau, biết ơn với người đã cứu giúp mình: Trước xe quân tử
tạm ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Với nàng, Lục Vân Tiên
không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trinh bạch trong trắng của
nàng:

“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy/

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.

Vì thế nàng tìm mọi cách để thuyết phục Lục Vân Tiên nhận sự tạ ơn
của mình: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Cuối cùng, nàng đã
cảm mến Lục Vân Tiên mà họa vẽ bức chân dung của mình rồi đưa cho
chàng, tự nguyện gắn bó cuộc đời của mình với Lục Vân Tiên, dám liều
mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng.

Đến đây, chúng ta nhận ra một mô típ quen thuộc ở truyện thơ Nôm
truyền thống: chàng trai tài giỏi, cứu cô gái khỏi tình huống hiểm nghèo,
rồi đi từ ân nghĩa đến tình yêu... Xét về mặt nghệ thuật, thông qua việc
phân tích ở trên, chúng ta thấy được nhân vật trong đoạn trích này chủ
yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình,
càng ít đi sâu vào diễn tả nội tâm, rất gần với văn học dân gian; ngôn
ngữ thơ mộc mạc, giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày và mang
màu sắc Nam Bộ, phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện; lời thơ với
giọng điệu kể chuyện linh hoạt, khéo léo, phù hợp với diễn biến tình tiết
và tính cách nhân vật.
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói "Tiết trăm năm" là nói việc hộ trọng của cả một đời người. "Lạy rồi
sẽ thưa" cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con
người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiểu, quen được bảo vệ, chở
che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng.
Nguyệt Nga là tiểu thư - con quan tri phủ - nàng được giáo dục chu đáo,
nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân
dân. Đạo đức ấy là chữ "ân", chữ "nghĩa". Do đó, sau những phút giao
đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu
mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng,
ngượng ngập, nhưng chất phác, "nghe thánh thót bên tai giọng nói của
cô gái miền Nam" (Xuân Diệu) :
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới "của tiền", "vàng bạc" để giãi bày sự thiếu hụt về vật
chất. Lại nói tới "báo đức thù công" - đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than
thở "Lấy chi cho phí tấm lòng..." để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần,
những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt
Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng
băn khoăn, day dứt khôn nguôi. Chí đến khi thấy "Vân Tiên nghe nói
liền cười..." và an ủi : "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy
cũng phi anh hùng", Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi
tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân
Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn
ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân
ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu.

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi


Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
     Câu nói của Vân Tiên có nét tương đồng với câu nói của người xưa :
"Kiến ngãi bất vi vô dũng dã" nghĩa là "Thấy việc nghĩa mà không làm
thì không phải người dũng cảm". Với cách vận dụng câu nói của người
xưa một cách sáng tạo, Vân Tiên đã trực tiếp bộc lộ thái độ phê phán
những kẻ ích kỉ, chỉ khư khư giữ thân, không biết sống vì người khác.
Câu nói của Lục Vân Tiên cũng là một châm ngôn, quan niệm sống cho
các bậc hiển nhân, quân tử.
     Nếu phải chọn người anh hùng tiêu biểu nhất cho người dân Nam Bộ,
tôi tin chắc không ai khác chính là Lục Vân Tiên - một nho sinh chính
trực, một người dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài. Điều quan trọng là Vân
Tiên mang trong mình bản chất hào hiệp, nghĩa khí mà phóng khoáng,
chân chất của người dân Nam Bộ. Từng hành động, từng lời nói của
chàng đều thấm đượm hơi thở của vùng lục tỉnh Nam Kì. Tôi càng hiểu
vì sao cụ Đồ Chiểu lại được nhân dân yêu mến đến vậy. Cụ đúng là
"ngôi sao sáng" của nền văn học nước nhà.

You might also like