Professional Documents
Culture Documents
1
2.2.2.4 Tinh chế ..............................................................................................................24
Danh mục hình
Hình 1.1: Bộ phận hoa Canhkina ..............................................................................3
Hình 1.2: Vỏ thân cây Canhkina ...............................................................................6
Hình 1.3: Một số alkaloid nhóm cinchonamin ........................................................7
Hình 1.4: Acid quinic và acid quinovic ....................................................................8
Hình 1.5: Acid cincholic và Quinovose.....................................................................8
Hình 1.6: Nicotin ...........................................................................................................12
Hình 1.7: Morphine, Codeine, Atropin, Cocain .....................................................12
Hình 1.8: Sơ đồ quy trình tách chiết alkaloid dưới dạng bazo ...........................19
Hình 2.1: Sơ đồ tách chiết quinine từ Canhkina ....................................................26
2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về cây canhkina:
Có nhiều loài Canhkina: Cinchona
succirubara Pavon (Canhkina đỏ), Cinchona
calisaya Wedell (Canhkina vàng), Cinchona
officinalis L (Canhkina xám), Cinchona
ledgeriana Moens (Canhkina thơm). Canhkina là
cây gỗ cao từ 10 – 25m. Người ta thường dùng
vỏ để chiết quinin, quinidin. Có thể sử dụng cả vỏ
thân, vỏ rễ, vỏ cành nhưng vỏ thân là tốt nhất.
3
hình lông chim. Trong một số loài như canhkina xám, ở góc gân chính và gân phụ có
các túi nhỏ mang lông. Hoa mọc thành chùm xim tận cùng, hoa đều, mẫu 5, cánh hoa
màu trắng, hồng hay đỏ, thường có mùi thơm dễ chịu. Đài có 5 răng, tràng hình ống,
loe ở miệng với 5 thùy , 5 nhị đính trên ống tràng. Trong nhiều loài hoa với vòi nhị dài
hoặc ngắn không đều. Bầu dưới, với 2 ngăn mang nhiều noãn. Hạt nhiề u, nhỏ, dẹt có
dìa hơi có răng.
Theo Phạm Hoàng Hộ trong cuốn “Cây cỏ Việt Nam” có 4 loài thường dùng là:
• 8237. Cinchona calisaya Wedd. Kí ninh Pê-ru: Peruvian or Calaysia
Bark Cinchona.
Đại mộc nhỏ. Lá có phiến xoan ngược, to 8-15*3-6cm, đầu tà, mặt dưới có
domatie, xếp theo gân-phụ nên rông giống lá cà phê robyusta; cuống 1cm, lá bẹ dài
hơn cuống. Hoa rất thơm, màu ngà tươi: ống vành 9cm, tai có rìa lông dài, đỏ ở mặt
trên. Nang tròn dài 10-16cm, đỏ, hột dẹp, có cánh rìa, dài 4mm.
Gốc Nam Mỹ. Trồng ở Langhanh, Lâm Đồng. Có thời gian xem như cùng loài
với C.oficinalis.
• 8238. C. officinalis L. Kí ninh thuốc: Crown Bark, Loxa Bark.
Đại mộc; cành tròn, không lông. Lá có phiến xoan thon , to 7-15*2,5-7cm, gân
chánh chính đỏ, gân phụ 8-9 cặp, lá bẹ dài bằng cuống.
Chùm tụ tán cào 18cm; trục có lông, hoa cao 12-17cm; vành có ống dài 10-
12mm, tai xoan, tiểu nhụy. Nang xoan dài, không lông, nâu đỏ; hột dẹp, tròn dài, có
cánh, có răng, dài 4-6mm.
Trồng ở Langhanh Lâm Đồng. Kí ninh là thuốc có tác dụng trị rét, hạn nhiệt tốt,
đắng bổ, trị cóng.
• 8239. C. ledgeriana. Ký ninh thon; Ledger Bark Cinchona.
Đại mộc cao 5-10m, vỏ trắng, cành vuông, có ít lông. Lá có phiến bầu dục thon,
tà nhọn 2 đầu, mặt dưới đo đỏ; lá bẹ xoan. Chùm tụ tán cao 2 -15cm; đài cao 3-4mm,
có lông, vành trắng thơm cao 8mm, tai 3-4mm, rìa lông dài, tiểu nhụy. Nang cao 1-
1,2cm, mảnh; hột dẹp cánh mỏng.
4
Trồng ở Đà Lạt và Langhanh. Vỏ đắng bổ và trị rét, chống siêu khuẩn
trái rạ.
• 8240. C. pubescens Vahl. Kí ninh đỏ; Red Bark Cinchona.
Đại mộc to hơn loài trên, đến 17m, vỏ đỏ, đắng, cành vuông, có lông. Lá có
phiến xoan, dài 20-25cm, đầu tròn hay tà, mặt dưới có lông, đo đỏ, cuống 1cm, lá bẹ
mau rụng. Chùm tụ tán, đài có răng, vành trắng có đốm đỏ, thơm, tiểu nhụy. Nang màu
đỏ sét, cao2,5-3,5cm, hột nhiều, có cánh.
Trồng ở vùng Đà Lạt. Công dụng như trên, chống nhiều siêu khuẩn.
5
Hình 1.2 Vỏ thân cây Canhkina.
6
➢ Nhóm 2: Nhóm cinchonamin ( alcaloid có nhân indol): Có các alcaloid phụ
như: Cinchonamin, cinchophyllin, quinamin.
1.2. Alkaloid:
1.2.1. Giới thiệu chung:
Alcaloid là một chất hữu cơ có chứa nitơ đa số có nhân vòng, có phản ứng kiềm,
thường gặp trong thực vật và đôi khi trong động vật, thường có dược lực tính mạnh và
độc, cho kết tủa và phản ứng màu với một số thuốc thử gọi là thuốc thử của alcaloid.
8
Alcaloid thường chứa trong các bộ phận của cây như hoa, lá, rễ, hạt, vỏ. Đôi khi
trong cùng một cây thì bộ phận này rất giàu alcaloid bộ phận khác lại không có. Lượng
alcaloid và tỷ lệ thành phần các alcaloid trong cây có thể thay đổi tùy theo mùa thu
hái, tuổi của cây, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng… Trong một cây thường chứa các
alcaloid có cấu trúc hóa học gần giống nhau. Đặc biệt trong một số cây có chứa tới vài
chục alcaloid như cây thuốc phiện, cây canhkina. Các alcaloid trong cây tồn tại dưới
dạng muối với các acid hữu cơ như acid succinic, acid oxalic, acid malic, acid
meconic. Tỉ lệ phần trăm các alcaloid trong các bộ phận của cây có thể rất cao từ 10
đến 15% hoặc rất thấp vài phần nghìn, thậm chí vài phần vạn. Thảm thực vật vùng
nhiệt đới thường có nhiều cây có chứa alcaloid với hàm lượng cao.
Alcaloid thường có cấu trúc phức tạp gồm có C, H, O và N, trong đó nitơ thường
nằm trong mạch vòng ( dị vòng có nitơ) và mang lại tính kiềm cho nó. Chúng có một
số tính chất lý hóa chính sau: tính chất vật lý ( thể trạng, màu sắc, mùi vị, năng suất
quay cực, độ tan), hóa tính ( tính kiềm).
Thể trạng: Alcaloid thường là các chất có trọng lượng phân tử cao, thường ở
thể rắn ở nhiệt độ thường. Các alcaloid ở thể rắn thường là các alcaloid không bay hơi,
các alcaloid bay hơi thường ở thể lỏng. Các alcaloid ở thể rắn thường là các chất dễ kết
tinh và có độ nóng chảy xác định. Một số alcaloid không đo được độ chảy do nó bị phá
hủy ở nhiệt độ thấp hơn độ chảy, các alcaloid ở dạng lỏng ở nhiệt độ thường thường
không có oxy trong phân tử ( nicotin, spartein). Các alcaloid ở thể lỏng dưới dạng tự
do nhưng khi tạo muối với acid thì nó có thể chuyển sang thể rắn ( spartein ở thể lỏng
nhưng spartein sulfat ở thể rắn). Tuy nhiên có một vài ngoại lệ một số alcaloid có oxy
trong phân tử nhưng vẫn ở thể lỏng như arecolin ( C 18H15ON2), pilocarpin (
C11 H16 O2N2).
Màu sắc: Đa số các alcaloid thường không màu hoặc màu trắng ( các alcaloid
có nitơ bậc 3), một số có màu vàng ( các alcaloid là các hydroxyd amoni bậc 4). Ngoài
ra có một số alcaloid ở dạng base không màu nhưng muối của nó với acid lại có màu (
VD sanguinarin base không màu nhưng muối của nó có màu đỏ).
Mùi vị: Thường có vị đắng.
9
Năng suất quay cực: Do cấu trúc của phân tử alcaloid phức tạp có chứa
cacbon bất đối nên có tác dụng vào ánh sáng phân cực. Thường alcaloid tự nhiên có
tác dụng quay mặt phẳng ánh sáng phân cực sang trái. Một số alcaloid tồn tại trong
thực vật dưới dạng đồng lượng các đồng phân tả và hữu ta có dạng racemic.
Độ tan: Alcaloid thường không tan trong nước, trừ một số ở trạng thái lỏng
như nicotin dễ tan trong nước. Alcaloid tan tốt trong các dung môi hữu cơ như cồn,
benzen, toluen, diclomethan. Ngược lại, muối của nó với các acid hữu cơ và vô cơ dễ
tan trong nước và một số dung môi hữu cơ phân cực và không tan trong dung môi hữu
cơ không phân cực. Các dung môi hữu cơ phân cực mạnh như ethanol và methanol
thường hòa tan cả alcaloid dạng muối và dạng base. Về mặt hóa tính
Tính kiềm: Alcaloid có nitơ hóa trị 3, có tính kiềm tương tự như NH 3 ta dụng
với acid tạo muối.
Alc N + HCl [ Alc N] . HCl
( Muối
Các muối thường vững bền hơn alcaloid base vì ở trạng thái muối chúng khó biến
thành đồng phân hỗ biến. Mặt khác, dưới dạng muối với acid chúng tan tốt trong nước
nên chúng thường được dùng làm thuốc. Độ bền vững của các muối của alcal oid đối
với sự thủy phân phụ thuộc vào tính kiềm mạnh yếu khác nhau của các alcaloid và bản
chất của acid mà nó kết hợp với. Trừ alcaloid nhóm xanthin, đa số các alcaloid có giá
trị pK nhỏ hơn 7. Alcaloid là các base yếu nên chúng dễ dàng bị các base mạnh và
trung bình như NaOH, Ca(OH) 2, Na2CO3, NaHCO3 , NH4OH đẩy ra khỏi muối của
chúng với acid tạo alcaloid base.
Các alcaloid trong thực vật có vai trò và tầm quan trọng rất khác nhau như
❖ Tác dụng trên hệ thần kinh trung ương:
- Các chất gây trầm uất như morphin, codein, scopolanin, reserpin.
- Các chất làm kích thích như strychnin, cafein, lobelin.
10
❖ Tác dụng trên hệ thần kinh tự chủ:
- Chất kích thích giao cảm: ephedrin, hordein.
- Chất gây liệt giao cảm: ergotanin, yohimbin.
- Chất kích thích phó giao cảm: pilocarpin, eserin.
- Chất làm liệt phó giao cảm: hyoxiamin, atropin.
- Chất phong bế hạch giao cảm: nicotin, spartein, xicutin.
❖ Thuốc gây tê trị co giật:
- Gây tê tại chỗ: cocain.
- Giãn cơ: d- tubecurarin.
- Trị co giật: papaverin.
❖ Thuốc tác dụng trên tim:
- - fagarin, ajmalin và quinidin là thuốc chống rung tim.
- Quinin, emetin có tác dụng gây trầm uất.
❖ Thuốc huyết áp:
- Gây tăng huyết áp có ephedrin, hydrastin.
- Gây hạ huyết áp: alcaloid của cây ba gạc.
❖ Tác dụng trên vi khuẩn ký sinh trùng:
- Nhiều alcaloid chỉ có tác dụng diệt vi khuẩn ở liều cao
- Trị ký sinh trùng sốt rét có quinin
- Trị lỵ amip có emetin, conexin
- Trị giun sán có: penlentierin, arecolin…
1.2.2. Cấu tạo và phân loại Alkaloid:
1.2.2.1. Cấu tạo hóa học:
Alcaloid là những hợp chất hữu cơ có các nguyên tố nitơ ( N), cacbon ( C) và
hidro ( H), đồng thời cũng hay gặp oxy ( O). Vì vậy người ta chia làm hai loại: loại
mang oxy và loại không mang oxy. Những alcaloid không có oxy cấu tạo hóa học chỉ
là C, H, N như: conin (C8 H17N), nicotin (C10 H14N2), spactein (C15 H28 N2), semperoirin
(C19H16 N2 ).
11
Hình 1.6 Nicotin
Những alcaloid có oxy chiếm phần lớn đó là: morphin (C17H19O3N), codein
(C18H12 O3 N), atropin (C17 H23O3N), cocain (C17H21 O4N), quinin (C20H24O2N2)
12
1.2.2.2. Phân loại alkaloid:
Các alcaloid là các bazơ bậc 1, bậc 2 hay bậc 3 đôi khi là các amoni hydrat bậc 4.
Ngày nay tùy theo cấu trúc của nhân mà người ta phân loại các alcaloid đó là các
alcaloid không có nhân dị vòng, có nhân dị vòng, có nhân sterol và có cấu trúc terpen.
• Alcaloid không có nhân dị vòng: những alcaloid thuộc loại này có các
amin còn gọi là proto alcaloid và có N đính vào mạch ngang
- Hordenin trong mạch nha;
- Ephedrin trong ma hoàng;
- Capsaicin trong ớt.
• Những alcaloid là dẫn xuất của nhân pyrol: pyrolidin trong cà rốt,
hygrin trong lá coca
13
Pyrolidin Hygrin
Carrot Coca
• Những alcaloid là dẫn xuất của nhân pyridin: Arecolin trong hạt cau,
Nicotin trong thuốc lá.
Strychnin
15
• Những alcaloid là dẫn xuất của nhân imidazol, là dẫn xuất của nhân
purin: theophyllin trong chè, theobromin trong cacao, cafein trong chè, cà phê.
Cây chè
Cây Cacao
Vỏ Canhkina
16
• Những alcaloid là dẫn xuất của nhân isoquinolin: berberin trong Hoàng
Berberin
Papaverin
17
Cây tỏi độc (Colchicum autumnale)
• Những alcaloid có nhân sterol: Ancamin trong họ cà. Những alcaloid có
cấu trúc terpen.
Cà độc dược
18
dùng Ca(OH)2 , NH4OH, Na2CO3,…) để chuyển alcaloid trong nguyên liệu sang dạng
bazơ.
➢ Giai đoạn 2: Chiết.
Sử dụng các dung môi chiết là các dung môi hữu cơ không phân cực ( các dung
môi không hòa lẫn với nước).
➢ Giai đoạn 3: Tinh chế.
Tinh chế thu các alcaloid bằng cách chuyển dạng muối với acid và chuyển dạng
base bằng kiềm và phân chia chúng giữa hai pha dung môi hữu cơ không phân cực và
nước để loại các tạp chất không phải là alcaloid.
19
Bột dược liệu
Dm hữu
cơ
Thiết bị chiết
Acid
xuất
loãng
Tạp chất/ dm hữu cơ
Muối alc/ nước acid
Dm hữu
cơ Tạp chất/nước acid
Alc base/dm hữu cơ
Nước
thải
Cất thu hồi dung
Dm hữu
môi
cơ
20
Các giai đoạn tiến hành:
➢ Giai đoạn 1: Chuẩn bị nguyên liệu.
Nguyên liệu thực vật được xay thô, sau đó được làm ẩm cho trương nở bằng
nước.
➢ Giai đoạn 2: Tiến hành chiết.
Sử dụng dung môi là nước chiết alcaloid dưới dạng muối tự nhiên hoặc muối với
acid vô cơ, hoặc dung môi là cồn ethylic hoặc dung môi methylic để chiết alcaloid cả
dưới dạng muối và base.
➢ Giai đoạn 3: Tinh chế.
Trong trường hợp chiết bằng nước, alcaloid base được giải phóng từ dịch chiết
bằng cách thêm kiềm sau đó được chiết bằng một dung môi hữu cơ không hòa tan
trong nước. Tiếp tục tinh chế bằng cách bốc hơi dung môi và kết tinh lại trong dung
môi hữu cơ hoặc chuyển sang dạng muối kết tinh lại. Trong trường hợp chiết bằng
cồn, dịch chiết cồn được cô đặc, thêm acid và loại tạp chất bằng các h chiết bằng dung
môi hữu cơ không phân cực, thêm kiềm chuyển alcaloid sang dạng base rồi chiết
alcaloid bằng một dung môi hữu cơ. Bốc hơi dung môi hữu cơ rồi kết tinh alcaloid
hoặc chuyển sang dạng muối kết tinh lại.
Đối với các alcaloid khó tách có thể sử dụng phương pháp sắc ký hấp phụ hoặc
phương pháp trao đổi ion.
21
CHƯƠNG II: QUY TRÌNH TÁCH CHIẾT QUININ
2.1 Những kết quả nghiên cứu về quinin:
2.1.1. Ngoài nước:
1638 Quinine được dùng điều trị bệnh sốt rét cho nữ bá tước Peru.
Năm 1742 được Linnaeus đặt tên cho vỏ cây này là Cinchona.
Một chất đắng gọi là quinovin, được Pelletier và Caventou chiết ra từ năm
1821. Năm 1859, Halsivetz đã chứng minh đây là một glycosid. Chất quinovin còn gọi
là quinovosid thủy phân bằng acid sẽ cho một đường là quinovose và acid quinovic.
Chất này phối hợp với các alcaloid cho vị đắng của vỏ canhkina.
Hoạt chất chính là của canhkina được coi là những alcaloid chiếm từ 3 -15%
trong vỏ những cây canhkina trồng. Việc nghiên cứu những alcaloid này đã được tiến
hành từ lâu, vì trước năm 1850 người ta đã chiết được 4 alcaloid chính.
Năm 1881, Gomes- một người Tây Ban Nha lần đầu tiên đã chiết được alcaloid
đầu tiên từ vỏ canhkina và đặt tên là cinchonin.
Vài năm sau Pelletier và Canventou cũng chiết được từ một loài canhk ina vỏ
xám(C. offcinalis) chất cinchonin nhưng tinh khiết hơn. Đến năm 1820, Pelletier và
Caventou đã chiết được từ vỏ một loài canhkina C. cordifolia Multis một alcaloid mới
và đặt tên là quinin.
Năm 1833, Henry và Delondre chiết được alcaloid gọi là quinidin đã tách ra 2
chất: một là quinidin chính thức, hai là chất cinchonidin.
Ngay từ năm 1853, Pasteur cũng đã thu được quinintoxin hay quinixin bằng
cách đun sôi lâu một dung dịch quinin sulfat trong môi trường acid. Đây là một đồng
phân của quinin, trong đó chức alcol bậc 2 được chuyển thành chức ceton, và vòng
quinuclidic được mở ra.
Vào năm 1944, những nhà khoa học đã có thể tổng hợp quinine trong phòng thí
nghiệm.
Năm 1963, Tschesche đã chứng minh rằng chất quinovin thô chứa
gulomethylosid của acid cincholic và chất glucosid của acid quinovic.
22
2.1.2. Trong nước:
Tại Việt Nam, Canhkina được trồng ở vùng đất đỏ trên cao nguyên Lang biang
( Trung Bộ). Phải nói rằng, ngay từ khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp
đã muốn khai thác và trông thử Canhkina ở Nam Bộ vào năm 1871, nhưng thất bại.
Năm 1872, Vab Gorkom gửi cho nhà thực vật học Pierre ở Sài Gòn các hạt cây
canhkina nhưng rồi việc trồng cũng không hoàn thành.
Năm 1886, Paul Bert cũng thí nghiệm trồng ở miền Bắc bằng những cây con
đưa từ Pháp sang nhưng cũng thất bại. Paul Bert cử nhà thực vật học Balansa đi Giava
lấy giống về trồng ở sườn núi Ba Vì và Sơn Di trên vùng đồng bào ở, cao 500m,
nhưng sau đó Balansa chết và công việc bỏ dở. Sau chiến tranh thế giới 1914 -1918,
A.Yersin thí nghiệm lại, trồng thử trên sườn núi Trường Sơn vùng Hòn Ba, cao
nguyên Lang biang, sau đó chuyển tới Di Linh và Dran cây mọc lớn. Vỏ những cây
trồng được 1 năm chứa từ 9-11% quinine.
Năm 1927, tại một trại nhiên cứu trồng canhkina được chính thức thành lập ở
miền Nam Trung Bộ, với diện tích 5.000 hecta, trên cao nguyên 925 -1.000m. Khoảng
đất được chia thành từng lô 9 hecta. Trên đó 5 hecta để phân bố, 1 hecta để ươm cây
và 3 hecta để trồng. Các loài được trồng ở đây là canhkina đỏ Cinchona succirubra,
Cinchona ledgeriana là 1 loài lai của Giava gọi là Malabar.
Năm 1936, canhkina được trồng trên quy mô hơn ở khoảng giữa Di Linh và
Dran. Thu hoạch được khoảng 30.000kg vỏ với tỉ lệ quinine đạt là 7,42%.
Năm 1938, lấy được 21.000kg vở chế được 3.330 quinine, tức là v ới tỉ lệ 8,50%
Tại miền Bắc, việc trồng thí nghiệm được tiến hành lại vào năm 1935. Chừng
40 cây được trồng thí nghiệm ở một đồn điền của Pháp trên cao nguyên 400m ở núi Ba
Vì, những cây con lúc được đem đi trồng đã bị ốm nên việc thí nghiệm bị thất bại.
Các cuộc thí nghiệm khác được tiếp tục vào năm 1937, chứng tỏ rằng khí hậu
miền Bắc Việt Nam cũng hợp với cây canhkina đỏ-Cinchona succirubra và loài
canhkina Cinchona ledgeriana. Độ cao thích hợp nhất là từ 400 đến 500m.
23
Do các nhận định trên, năm 1938, trại trồng canhkina ở athur Pháp (Hà Tây)
được thành lập. Ngoài ra còn 2.500 cây canhkina Cinchona Succirubra được trồng ở
vùng Suối Rút với độ cao 450m. Nhưng cây sống sót được mang về Thủ Pháp.
Năm 1939, 200 cây Canhkina Cinchona ledgeriana (phần nhiều bị ốm) được
gửi từ Nam Trung Bộ ra. Đồng thời các hạt từ miền Nam được ươm ở Tam Đảo (cao
500m) sau đưa sang gần trại Thủ Pháp, trên sườn núi Ba Vì cao 400.
Song song với việc ươm hạt, người ta còn thí nghiệm cả cách trồng bằng cành.
Kết quả rất tốt đối với loài canhkina đỏ Cinchona Succirubra, nhưng đối với loài
Cinchona ledgeriana kết quả kém hơn.
Vào năm 1943, người ta thống kê ở Thủ Pháp có chừng 3 hecta đã trồng
canhkina được 4 tuổi, 3 tuổi, 1 tuổi rưỡi, tất cả chừng 5 vạn cây. Những cây này mỗi
năm lên cao chừng 0,75m ( đối với loài Cinchona Succirubra) và 1m (đối với loài
Cinchona ledgeriana). Mỗi năm có 2 thời kỳ mọc kém là hè và đông.
Tỉ lệ alkaloid toàn phần trong những cây 3 tuổi chừng 6,5%.
Một số lớn những cây này bị chết trước năm 1945. Qua kháng chiến chống
Pháp vùng này không ai chăm sóc, một số cây bị phá hoại và chết đi. Năm 1958, đếm
lại chỉ còn khoảng trên 25 cây.
1946, bác sĩ Nguyễn Kinh Chi đã có một quyết định sáng suốt: cho bóc và di
chuyển ngay hàng ngàn tấn vỏ cây an toàn trước lúc Pháp chiếm giữ cao nguyên Lâm
Đồng, sau đó giao cho Viện Bào chế III chiết xuất chất quinine làm thuốc sốt rét. Với
tỉ lệ quinine từ 10 - 15 %
Năm 1972, tỉnh Hà Tây đã đặt vấn đề phục hồi và phát triển lại cây canhkina
trên Thủ Pháp. Đến nay không còn thấy cây canhkina nào ở Hà Nội
24
2.2. Quy trình tách chiết:
2.2.1. Quy trình công nghệ:
2.2.2. Thuyết minh quy trình công nghệ:
2.2.2.1. Chuẩn bị nguyên liệu:
Vỏ canhkina chặt nhỏ, đem phơi khô hoặc sấy khô ở 50 – 700 C đem xay thành
bột khô.
2.2.2.2. Kiềm hóa:
Bột vỏ canhkina được trộn đều với dung dịch nước sữa vôi và dung dịch NaOH
30%, trộn kỹ cho ngấm đều và khối bột trở thành dạng bột nhão. Vun thành đống rồi ủ
khoảng 24 giờ. Sau đó đảo, trộn làm tơi và làm khô trong khay men.
2.2.2.3. Chiết xuất:
Nguyên tắc chiết: Có thể chiết bằng phương pháp ngược dòng liên tục hoặc
ngược dòng gián đoạn tùy điều kiện thiết bị cho phép. Nếu chiết bằng phương pháp
ngược dòng liên tục thì phải tính toán tốc độ di chuyển của dược liệu và dung môi phù
hợp để có thể chiết kiệt được quinin trong dược liệu.
Nếu chiết bằng phương pháp ngược dòng gián đoạn thì phải xác định số liệu
chiết, lượng dung môi chiết cho một lần và chỉ rút dịch chiết một đem xử lý thu quinin
còn các dịch chiết sau được sử dụng để chiết các mẻ tiếp theo.
2.2.2.4. Tinh chế:
➢ Acid hóa tạo muối bisulfat tan trong nước của các alcaloid
Cho dung dịch H2SO4 3% vào thiết bị phân ly có khuấy đựng dịch chiết vừa rút
ra. Khuấy 10 phút để hai pha tiếp xúc tốt với nhau. Để yên cho phân lớp ( cho tới khi
hai lớp trong lại là được). Gạn riêng dung môi thu hồi dung môi để chiết cho mẻ sau (
xử lý bằng cách kiềm hóa, khuấy kỹ, pH = 6 – 7, để lắng gạn bỏ cặn). Pha nước chứa
alcaloid tách ra được xử lý thu các alcaloid canhkina.
➢ Kiềm hóa tạo tủa quinin sulfat.
Lớp nước acid trên được trung hòa bằng dung dịch Na 2CO3 bão hòa ở nhiệt độ
cách thủy. Vừa nhỏ từ từ dung dịch kiềm vừa khuấy kỹ cho đến khi pH = 6.5. Để
nguội cho kết tinh hết ( khi đó chỉ muối của quinin kết tinh còn muối của các alcaloid
25
khác tan trong nước cái). Lọc lấy tinh thể quinin sulfat bằng chân không qua phễu
Buchner ( có thể vẩy ly tâm để lấy tinh thể). Hút hết nước cái rồi tiến hành rửa bằng
nước cất ngay trên phễu lọc.
Rửa quinin sulfat 3 lần, mỗi lần bằng một lượng nước sao cho vừa đủ ngập tin h
thể.
➢ Tẩy màu bằng than hoạt.
Để tẩy màu trước tiên phải chuyển quinin sulfat basic khó tan trong nước sang
dạng quinin bisulfat dễ hòa tan trong nước. Cho quinin sulfat và một lượng nước vừa
đủ, thêm H2SO4 3%, chỉnh pH = 4, khuấy đều cho tủa tan hết, nâng nhiệt độ dung dịch
lên 90 – 1000, thêm than hoạt khuấy 15 – 20 phút, lọc loại than hoạt thu dịch lọc.
➢ Tạo sản phẩm là quinin sulfat basic.
Dịch lọc được đun nóng, vừa khuấy vừa nhỏ dung dịch Na 2CO3 vào chỉnh pH =
6.5. Để nguội kết tinh, lọc lấy tủa rửa bằng 3 lần nước cất. Loại nước cái, hút kiệt, đem
sấy khô ở 60 – 800 C trong khoảng thời gian 2 – 3 giờ. Chú ý thỉnh thoảng đảo tơi lên
để sấy cho nhanh khô. Sau đó đóng gói , cho trong lọ kín và tránh ánh sáng. Cuối cùng
đem đi kiểm nghiệm.
26
Vỏ canhkina
Xay
Kiềm hóa
Bột vỏ canhkina Sữa vôi + dd NaOH bão hòa
(ủ 24 giờ)
. Làm tơi, hong khô
Chiết nguội
Bột vỏ đã kiềm hóa Dung môi
Quinin sulfat
Sấy
Sản phẩm
27
Tài liệu tham khảo:
1. Kỹ thuật sản xuất dược phẩm tập 1- NXB Y Học.
2. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ancaloit
3. http://www.google.com.vn/#hl=vi&sclient=psy-
ab&q=hop+chat+thien+nhien&oq=hop+chat+thien+nhien&aq=f&aqi=g1&aql=&gs_l
=serp.3..0.48726l55463l1l55868l26l26l3l1l1l0l306l3738l0j17j4j1l22l0.frgbld.&psj=1
&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.r_qf.,cf.osb&fp=c1b03fd3e6b00cf2&biw=1249&bih=642
4. http://www.scribd.com/doc/15769712/hp-cht-alkaloid
28