You are on page 1of 13

Nhận diện mối nguy và đánh giá rủi ro theo tiêu chuẩn OHSAS 18001-2007

I. Khái quát
OHSAS 18001:2007 được ban hành vào ngày 01/7/2007 là tiêu chuẩn hệ thống quản lý an toàn sức khỏe nghề
nghiệp thay thế cho tiêu chuẩn OHSAS 18001:1999.
OHSAS 18001 cung cấp các yêu cầu về an toàn sức khỏe nghề nghiệp bao gồm việc phù hợp với luật pháp áp
dụng cho hoạt động của đơn vị và các mối nguy đã được đơn vị xác nhận.
Tiêu chuẩn này được áp dụng cho tất cả các đơn vị muốn loại bỏ hoặc giảm thiểu rủi ro cho con người.
Các tổ chức áp dụng hệ thống OHSAS 18001 có trách nhiệm và quyền hạn được xác định rõ ràng, có các mục
tiêu để cải tiến, với kết quả đo lường được và phương pháp được xây dựng để đánh giá rủi ro. Điều này bao
gồm theo dõi khả năng quản lý an toàn sức khỏe, đánh giá hoạt động và xem xét chính sách và mục tiêu.
- Nhận diện mối nguy, kiểm soát việc xác định và đánh giá rủi ro
- Yêu cầu luật pháp và các yêu cầu khác
- Các chương trình OHS và Mục tiêu
- Nguồn lực, vai trò, trách nhiệm, giải trình và quyền hạn.
- Năng lực, đào tạo và nhận thức
- Giao tiếp, tham gia và tư vấn.
- Kiểm soát thực hiện
- Chuẩn bị và ứng phó với các trường hợp khẩn cấp.
- Đo lường, giám sát và cải tiến việc thực hiện
Tiêu chuẩn OHSAS 18001:2007 Phiên bản mới này phù hợp hơn với các tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 và ISO
14001:2004, với cấu trúc các điều khoản hầu hết theo ISO 14001:2004. Ưu điểm này sẽ khuyến khích việc tích
hợp các hệ thống quản lý của một tổ chức như ISO 9001, ISO 14001, OHSAS 18001…
Tiêu chuẩn OHSAS phiên bản 2007 có những thay đổi như sau:
- Tầm quan trọng của “sức khỏe” được đưa ra nhấn mạnh cao hơn so với “an toàn”
- Tập trung vào an toàn nghề nghiệp, không tính đến đối với vấn đề về tài sản, an ninh…
- Thuật ngữ “việc xảy ra bất ngờ” nay được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “tai nạn”.
- Kể cả những hành vi của con người, khả năng và các yêu tố con người khác đều là những nhân tố có thể đem
đến các mối nguy cần nhận diện, kiểm soát xác định và đánh giá rủi ro và cuối cùng là năng lực, đào tạo và
nhận thức.
- Một yêu cầu mới được giới thiệu đối với việc kiểm soát những người giữ trọng trách là một phần trong kế
hoạch OHS.
- Quản lý thay đổi được đưa ra một cách triệt để.
- Điểu khoản “Đánh giá việc tuân thủ” được đưa ra, tương ứng với ISO 14001.
- Những yêu cầu mới được đưa ra cho việc tham gia và tư vấn
- Những yêu cầu mới được giới thiệu cho việc điều tra các tình huống có thể xảy ra
- OHSAS 18001 được nhắc đến như một tiêu chuẩn, không còn là tiêu chí kỹ thuật, hay văn bản, như phiên bản
trước đây. Điều này nói lên rằng OHSAS 18001 đã được chấp nhận như nền tảng cho các tiêu chuẩn quốc gia
về các hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp.
- Các Định nghĩa mới được thêm vào, bao gồm các vấn đề chính như “tình huống có thể xảy ra”, “rủi ro”,
“đánh giá rủi ro”, và chỉnh sửa các định nghĩa hiện tại.
- Thuật ngữ “rủi ro có thể vượt qua” được thay thể bởi thuật ngữ “rủi ro có thể chấp nhận”
- Định nghĩa về thuật ngữ ‘mối nguy’ không nhắc đến “thiệt hại về tài sản hay thiệt hại về môi trường làm
việc” nữa. Giờ đây được cân nhắc như “thiệt hại” không trực tiếp đến việc quản lý sức khỏe và an toàn nghề
nghiệp, đó cũng là mục đích của Tiêu chuẩn OHSAS, và điều đó bao gốm cả lĩnh vực về quản lý tài sản. Thay
vào đó, các mối nguy gây thiệt hại có ảnh hưởng đến an toàn và sức khỏe nghề nghiệp phải đựơc nhận diện
thông qua việc đánh giá các rủi ro trong tổ chức, và được kiểm soát thông qua việc áp dụng cách biện pháp
kiểm soát mối nguy thích hợp.
II. Mục đích
Trang bị cho mọi người khả năng:
- Biết cách nhận biết các mối nguy
- Hiểu được các khái niệm cơ bản về quản lý rủi ro
III. Các khái niệm cơ bản
3.1. Mối nguy
Các điều kiện và các yếu tố có ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và những người xung quanh liên
quan: tổn thương hay bệnh tật (nhà thầu, khách và những người khác tại nơi làm việc)
3.2. Rủi ro
Theo trường phái truyền thống:
Rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều
không tốt, bất ngờ xảy đến.
Rủi ro là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động
xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Tóm lại, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc
điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại:
Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang
đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội (lụt-phù sa,
núi lửa-dung nham, khai thác bô xít-ô nhiễm môi trường…).
3. 2.1. Định nghĩa
Rủi ro là sự kết hợp giữa khả năng xảy ra của những mối nguy (xác suất xảy ra) và mức độ nghiêm trọng của
tổn thương cơ thể hay bệnh tật gây ra do mối nguy này.
- Rủi ro chấp nhận được: là những rủi ro nằm trong giới hạn cho phép theo yêu cầu của luật định (bụi, tiếng
ồn... gây bệnh nghề nghiệp, nằm trong giới hạn cho phép).
3.2.2. Phân loại rủi ro
Theo nguồn gốc phát sinh
Rủi ro khách quan: tai nạn, hỏa hoạn, bệnh tật...
Rủi ro chủ quan: hạnh phúc gia đình, nỗi buồn, tương lai…
Theo bản chất
Rủi ro cơ bản: là rủi ro phát sinh ngoài tầm kiểm soát của con người như bão, lụt, động đất...
Rủi ro riêng biệt: là những rủi ro liên quan đến hành vi của con người như hỏa hoạn, trộm cắp, tai nạn giao
thông...
Theo quan điểm kinh tế
Rủi ro động: bao gồm rủi ro suy tính và rủi ro đầu cơ như rủi ro quản lý, rủi ro thị trường, đầu tư chứng
khoán...
Rủi ro tĩnh hay rủi ro thuần túy: là những rủi ro có thể dẫn đến tổn thất nhưng không đưa đến khả năng kiếm
lời như tai nạn giao thông, hỏa hoạn, tai nạn lao động...
Theo tương quan giữa cộng đồng và cá nhân
Rủi ro xã hội: là những rủi ro tác động đến toàn bộ nền kinh tế hay một cộng đồng nào đó như lạm phát, thất
nghiệp, chiến tranh và động đất.
Rủi ro ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân: ngược lại với rủi ro xã hội
3.3. Sự cố
Hậu quả xảy ra từ những mối nguy làm ảnh hưởng đến AT-SK NLĐ (tổn thương, bệnh tật).
3.4. Tai nạn
Sự cố đã gây ra hậu quả làm tổn thương cơ thể hay chết chóc.
Số liệu nghiên cứu tỷ lệ các sự cố:

IV. Nhận diện mối nguy


4. 1. Mục đích
Tại sao chúng ta cần nhận diện các mối nguy hiểm?
Hãy đi ngược quá trình xảy ra của một tai nạn để tìm hiểu xem tai nạn đấy được xảy ra và hình thành theo từng
trình tự như thế nào. Lúc đó sẽ nhận thấy các tai nạn đều bắt nguồn từ những hành vi mất an toàn.
Các hành vi mất an toàn có thể là nguyên nhân trực tiếp tác động và gây ra tai nạn. Đôi khi những hành vi mất
an toàn lại là những nguyên nhân gián tiếp gây ra tai nạn hoặc sự cố. Thông thường những hành vi mất an toàn
trực tiếp gây ra tai nạn đều dễ nhận diện. Các hành vi mất an toàn gián tiếp rất khó nhận diện vì chúng tạo ra
các mối nguy hiểm, hay môi trường nguy hiểm. Những mối nguy hiểm hay môi trường nguy hiểm này khi
được tác động bởi các hành vi mất an toàn sẽ sinh ra tai nạn, sự cố.
- Các hành vi mất an toàn đôi khi cũng là nguyên nhân trực tiếp gây ra các tai nạn. Hành vi mất an toàn đôi khi
đến từ những yếu tố cá nhân, đôi khi là do thiếu hiểu biết hay nhận thức về rủi ro, đôi khi là do áp lực công
việc hoặc các quy trình làm việc tắt. Ví dụ như nhảy từ trên cao xuống, làm việc với nguồn điện không cách ly,
tiếp xúc trực tiếp với các loại hóa chất nguy hiểm…
- Các hành vi mất an toàn có thể gây ra các khiếm khuyết, lỗi hay chất lượng tồi cho các loại sản phẩm, thiết bị
sử dụng. Những sản phẩm này nếu đưa ra sử dụng thì chúng sẽ tạo ra một môi trường làm việc mất an toàn.
Môi trường mất an toàn này sẽ trở nên nguy hiểm nếu như được tác động bởi các yếu tố khác như thời tiết,
thiếu kinh nghiệm, làm tắt, vận hành sai quy trình…
- Để ngăn ngừa được các tai nạn rủi ro, phải nhận diện đúng, đủ và rõ ràng các mối nguy hiểm. Các mối nguy
hiểm này luôn hiện hữu xung quanh hàng ngày. Nhận diện và đánh giá đúng mức sẽ giúp phòng và tránh được
những tai nạn, sự cố ít lường trước.
4.2. Mối nguy hiểm
Bất cứ cái gì, điều gì có thể gây thương tích cho con người, làm hư hỏng tài sản và hủy hoại môi trường
đều là mối nguy hiểm.
Các mối nguy hiểm có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu. Thông thường các vật dụng hiện hữu xung quanh
như đồ dùng, dụng cụ, máy móc.v.v… đều là những mối nguy hiểm. Tuy nhiên vật thể hiện hữu nơi không có
sự tác động của con người, thiên nhiên sẽ không nguy hiểm. Nhưng vật đó sẽ trở nên nguy hiểm khi có sự tác
động từ các hành vi mất an toàn của con người, hay các tác động ngoài ý muốn từ thiên nhiên.
Nói cách khác tất cả đồ vật thiết bị quanh chúng ta đều là những mối nguy hiểm. Một cái bàn sẽ trở lên nguy
hiểm nếu chúng ta đặt nó chắn ngang các lối đi. Một cái xe hơi trở lên nguy hiểm khi được lái bởi người thiếu
kinh nghiệm, ảnh hưởng bởi các chất kích thích, chạy với tốc độ cao…
Các hành động mất an toàn cũng là những mối nguy hiểm. Khi chúng ta hành động một cách bất cẩn, cố tình,
hay vì một áp lực nào đó. Hành động không an toàn của chúng ta có thể gây nên tai nạn cho chính chúng ta và
những người chung quanh chúng ta.
4.2.1. Mức độ ảnh hưởng của các mối nguy hiểm
Khi một sự cố xảy ra, chúng ta thường xem xét về mức độ thiệt hại hoặc ảnh hưởng của nó.
Vậy mức độ thiệt hại này được quyết định bằng cái gì?
Chúng ta hãy hình dung nếu một kho chứa hóa chất hoặc xăng dầu bị hỏa họan sẽ nguy hiểm và thiệt hại lớn
hơn một kho chứa gỗ. Một vụ tai nạn giao thông có nhiều người bị nạn sẽ kinh hoàng hơn một vụ va chạm nhẹ.
Một đám cháy nhỏ sẽ không nguy hiểm bằng một vụ nổ…
Vậy tất cả những tai nạn với những ảnh hưởng khác nhau kia bắt đầu từ đâu? Chúng đều bắt nguồn từ những
mối nguy hiểm, đôi khi những mối nguy hiểm đó được kích thích hay tiếp sức bằng những hành vi mất an
toàn.
Mối nguy hiểm tác động như thế nào vào các trường hợp sự cố, tai nạn?
Chúng ta hãy bắt đầu bằng ví dụ với một con dao. Con dao có thể gây ra nguy hiểm như thế nào cho con
người, tài sản, và môi trường?
Nói đến con dao hẳn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến 2 yếu tố đó là lưỡi dao sắc và mũi dao nhọn. Lưỡi
sắc của con dao có khả năng cắt vào tay, chân hay bất cứ bộ phận cơ thể nào của con người. Lưỡi dao cũng có
thể cắt hoặc làm rách hay hư hỏng một hay nhiều bộ phận của một thiết bị nào đó. Mũi nhọn của con dao có
thể đâm và gây thương tích cho con người, chúng cũng có thể làm thủng hay xuyên hỏng một bộ phận của thiết
bị nào đó…
Tóm lại con dao là một dụng cụ rất phổ biến và hữu ích trong cuộc sống hàng ngày, nhưng con dao cũng là
một vật vô cùng nguy hiểm nếu như chúng ta sử dụng không đúng cách hoặc cố tình sử dụng nó một cách sai
mục đích. Lúc đó con dao sẽ là vật nguy hiểm và gây ra tai nạn cho còn người, làm hư hỏng tài sản..vv. Mức
độ tai nạn phụ thuộc vào độ sắc và nhọn của con dao (hình thể, đặc tính của con dao). Lực tác dụng cũng là yếu
tố tác động đến mức độ nguy hiểm do con dao đó gây nên.
Một ví dụ khác là khi chúng ta sử dụng và tiếp xúc với nguồn điện. Ngày nay, quanh chúng ta có hàng chục,
hàng trăm các thiết bị hữu ích chạy bằng năng lượng điện giúp chúng ta làm việc, giải trí hàng ngày. Do nhu
cầu về công năng hay công suất của thiết bị mà chúng được sử dụng bằng các nguồn điện khác nhau, tần số và
điện áp khác nhau.
Hẳn ai trong chúng ta cũng biết nguồn điện rất nguy hiểm đối với con người. Khi nguồn điện được truyền qua
một bộ phận nào đó của con người. Lúc đó cơ thể chúng ta được coi như là một điện trở trong một mạch điện.
Năng lượng của nguồn điện sẽ đốt chết các tế bào, gây lên hiện tượng co giật trước và cháy các tế bào sống sau
đó. Nếu cơ thể chúng ta bị tiếp xúc với dòng điện trong một thời gian dài, lúc đó năng lượng của nguồn điện sẽ
đốt hết các tế bào và lượng nước trong cơ thể làm chúng ta bị cháy khô đi. Nếu nguồn điện truyền qua cơ thể
chúng ta quá lớn, năng lượng của nguồn quá cao thì hiện tượng đốt cháy càng nhanh. Khi tiếp xúc với cơ thể,
nguồn điện luôn đi theo một đường ngắn nhất từ nơi có điện áp cao tới điểm có điện áp thấp. Nếu dòng điện đi
qua những bộ phận quan trọng của cơ thể như tim, phổi... thì ngay lập tức dòng điện sẽ làm ngưng hoạt động
của các cơ quan này và dẫn đến việc tử vong sớm.
Vậy điểm tiếp xúc, thời gian tiếp xúc, điện áp và dòng điện của nguồn điện sẽ là các yếu tố tác động đến hậu
quả của tai nạn.
Trên đây chỉ là hai ví dụ về sự tác động và hậu quả gây ra của hai đại diện các mối nguy hiểm đơn giản mà
chúng ta nhìn thấy và tiếp xúc hàng ngày.
4.2.2. Nhận diện các hành vi mất an toàn
Thế nào là các hành vi mất an toàn?
Những hành vi của con người mà hậu quả của nó có thể gây ra tai nạn, sự cố hoặc ảnh hưởng tới môi trường
xung quanh đều là các hành vi mất an toàn. Các hành vi mất an toàn có thể đến từ các góc độ cá nhân, sự thiếu
hiểu biết, thiếu kinh nghiệm, áp lực công việc hay tính mạo hiểm của mỗi người.
Một người trèo lên một chiếc thang cũ và hỏng là một hành vi mất an toàn.
Một người lái xe trong trạng thái say xỉn hoặc chịu chi phối bởi các chất kích thích cũng là một hành vi mất an
toàn.
Một người quản đốc không hành động hoặc xây dựng môi trường làm việc tốt ở nơi phân xưởng do mình phụ
trách cũng là hành vi mất an toàn.
Một người làm công tác quản lý không quan tâm tới các chính sách an toàn cho tổ chức của mình cũng là một
hành vi mất an toàn.
Để xác định các hành vi mất an toàn của một người nào đó, chúng ta cần quan sát khi người này đang làm việc,
các hành vi mất an toàn được thể hiện ở các trạng thái sau:
- Phớt lờ: phớt lờ, bỏ qua các cảnh báo, báo hiệu hay các thông tin khác về công việc
- Đối phó: dùng những hành động mang tính đối phó, tạo dựng các hiện trường một cách đối phó, tạm bợ mang
tính che dấu
- Làm tắt: làm tắt các công đọan, quy trình công việc với mục đích giảm thời gian hay chu trình thực hiện.
- Liều lĩnh: có những người coi việc đưa họ vào các tình huống rủi ro là một sở thích để thể hiện cái “tôi” về
một vấn đề nào đó. Họ tự cho mình là đúng và gia trưởng với cái ý nghĩ đó của họ
- Rối loạn: rối loạn trong cách tổ chức, sắp xếp công việc cũng như thực thi các hành động.
- Thụ động: là các hành vi chịu áp lực hoặc chi phối bởi một nhân tố khác.
Các hành vi mất an toàn phụ thuộc vào môi trường làm việc, ý thức người làm việc và đôi khi cũng phụ thuộc
vào bản chất, thể trạng của người làm việc. Các hành vi này thông thường không được thể hiện và rất khó phán
đoán. Muốn xác định được các hành vi mất an toàn, chúng ta nên tăng cường các biện pháp giáo dục, đào tạo
cùng với việc thanh tra, thanh sát thường xuyên khu vực làm việc. Xem xét ý thức và hoạt động của mọi người
từ đó đưa ra những chính sách giáo dục, giác ngộ phù hợp.
Nhận diện các mối nguy hiểm như thế nào?
Như chúng tôi đã đề cập ở trên. Các mối nguy hiểm được phân thành hai loại khác nhau.
- Mối nguy hiểm hiện hữu mà chúng ta dễ dàng quan sát được bằng mắt thường tại thời điểm nhận diện.
- Mối nguy hiểm vô hình là các hành vi mất an toàn hoặc môi trường mất an toàn. Môi trường mất an toàn
được tạo nên bởi các hành vi mất an toàn tác động nên các vật thể, thiết bị xung quanh môi trường sống và làm
việc của chúng ta.
Để nhận diện được các mối nguy hiểm hiện hữu hay vô hình, chúng ta phải tiến hành quan sát kỹ chúng, xem
xét khả năng ảnh hưởng của chúng với các hoạt động của chúng ta cũng như những người xung quanh. Quan
sát tại thời gian và địa điểm mối nguy hiểm đó hiện hữu. Tiến hành đặt ra các câu hỏi liên quan tới vật thể hay
điều kiện mà chúng ta đang quan sát.
Hãy lấy một ví dụ nhỏ bằng việc khi chúng ta đang ngồi đọc tài liệu này thì có những mối nguy hiểm nào hiện
hữu hoặc có thể xuất hiện quanh chúng ta?
- Bàn, ghế - Bàn kê không đúng chỗ có thể làm chắn lối đi của chúng ta, cạnh bàn choán gần các lối đi có thể
làm chúng ta va hoặc huých phải....
- Màn hình – Màn hình đặt sai vị trí có thể làm cho chúng ta bị mỏi cổ, nếu làm việc trong thời gian dài thì có
thể gây nên bệnh thoái hóa cột sống cổ. Nếu đặt màn hình gần hoặc xa quá sẽ ảnh hưởng tới tầm nhìn của
mắt…
- Nguồn điện – Nguồn điện sử dụng cho máy tính, các loại máy văn phòng khác nếu không được sử dụng đúng
tải, chất lượng dây tồi hay phích cắm sai quy cách sẽ gây nguy hiểm cho quá trình tiếp xúc, sử dụng hoặc chập,
cháy…
- Điện thoại bàn – Điện thoại đặt xa tầm với quá làm cho chúng ta luôn phải dướn mỗi khi nhấc máy, dễ làm
cho chúng ta dãn dây chằng cơ vai hoặc hông…
- Ly, cốc – Ly, cốc dùng để uống nước, trà hay café không nên để gần cạnh bàn hoặc gần máy tính cũng như
các thiết bị điện khác vì nguy cơ vô tình gạt đổ…
- Bút (viết) – luôn được để vào ống chứa hoặc ngăn kéo đề không chúng rơi xuống đất. Rất dễ dàng chúng ta bị
trượt té khi dẫm hoặc đạp lên chúng trên sàn nhà…
- Dao, kéo, gim, khay tài liệu – Các vật dụng này phải được để đúng vị trí và trong tình trạng an toàn, các loại
dao xén giấy có lưỡi sắc hoặc mũi nhọn phải được bảo vệ kỹ, luôn để riêng từng ngăn và gọn gàng tránh
trường hợp bất cẩn va, cắt phải khi lấy những đồ vật khác cạnh đó…
- Ngăn bàn, cửa tủ - Các ngăn bàn, cửa luôn được đóng và cài chốt, các ngăn bàn, cửa tủ không được đóng
hoặc chốt sẽ gây nguy hiểm cho việc di chuyển của chúng ta lúc vội hoặc bất cẩn không chú ý…
- Ánh sáng – Ánh sáng phải luôn đủ, không gây chói hoặc hóa…
Bằng những câu hỏi, hình thức suy luận về những điều có thể xảy ra chúng ta nên sử dụng cụm câu hỏi
Điều gì có thể xảy ra, nếu…
4.2.3. Điều kiện xảy ra mối nguy
Trong quá trình nhận diện, luôn đặt vấn đề môi trường và con người lên hàng đầu trong mọi tình huống quan
sát và suy xét. Hãy nghĩ đến sự an toàn cho chính bạn và những người xung quanh trước khi tiếp cận một khu
vực nào đó hoặc một thiết bị nào đó để nhận diện, đánh giá.
- Hãy quan sát và đặt ra tình huống từ mọi phía (trong, ngoài, trên, dưới, phải, trái…).
- Sự ổn định của vật, hoặc thiết bị gây nguy hiểm phải được xem xét và đánh giá đúng mức.
- Luôn suy xét khả năng dịch chuyển của vật theo quán tính, trọng lực hoặc những dịch chuyển được định
hướng. Xem xét kỹ nguồn gốc của động lực tác động hay năng lượng gốc của các hoạt động dịch chuyển hay
thay đổi trạng thái.
- Luôn quan sát và tìm hiểu tình trạng bảo vệ an toàn cho vật tại vị trí cân bằng như là các chốt hãm, hệ thống
phanh, giá đỡ…
- Xem xét các khả năng tác động của thiên nhiên như, mưa, gió, ánh sáng…
- Các hướng dẫn sử dụng và tem cảnh báo của nhà sản xuất luôn được coi trọng, đề cao trong quá trình nhận
diện.

4.2.4. Các loại mối nguy


Một số câu hỏi thường được sử dụng trong quá trình nhận diện rủi ro.
Để nhận biết cụ thể, chi tiết một vậy nào đó, hoặc một điều kiện môi trường nào đó nguy hiểm như thế nào,
chúng ta hãy tự đặt các câu hỏi.
Các câu trả lời chính xác, tin cậy phải đến từ những người có kinh nghiệm, các tài liệu hướng dẫn hay các quy
định của pháp luật.
Ví dụ chúng ta muốn biết một chiếc máy mài nguy hiểm như thế nào trong quá trình vận hành. Chúng ta hãy
bắt đầu quan sát và đặt câu hỏi xem:
- Chiếc máy mài này nguy hiểm như thế nào?
- Chúng gây ra nguy hiểm gì trong quá trình sử dụng.
Có hai loại câu hỏi để hỏi và trả lời. Một là hỏi về những cái chúng ta nhìn thấy, đó là quan sát đặc tính, chi tiết
cá bộ phận của thiết bị hiện có để hỏi. Loại câu hỏi thứ hai là quan sát, hoặc tìm hiểu quá trình hoạt động của
thiết bị. Cách thức, quy trình sử dụng của người sử dụng. Các động tác, vị trí và tầm ảnh hưởng khi thiết bị
đang được sử dụng.
4.2.4.1. Mối nguy vật lý:
- Ồn
- Bức xạ
- Nhiệt độ
- Áp lực công việc, mật độ xe cộ qua lại, độ cao, độ sâu
- Điện (điện thế, năng lượng điện)
- Các tính chất vật lý (sắc, nhọn, nhám, trơn…)
4.2.4.2. Mối nguy hóa học
- Chất nổ
- Chất lỏng cháy
- Chất ăn mòn
- Chất oxy hóa vật liệu
- Chất độc, chất gây ung thư
- Khí
4.2.4.3. Mối nguy sinh học
- Chất thải sinh học (bệnh phẩm, máu…)
- Vius, vi khuẩn
- Ký sinh trùng, côn trùng
- Cây hay động vật có bệnh hay có chất độc hại
4.2.4.4. Mối nguy thể chất
- Thiếu ánh sáng
- Thiếu kiểm soát về nhiệt độ và độ ẩm
- Mức độ công việc (nặng nề, đơn điệu)
- Mối quan hệ với xung quanh (các tổ sản xuất, người quản lý, chủ tàu, giám sát…)
- Sử dụng thuốc trong khi làm việc (cảm, cúm, ho,…)
- Kém động viên để làm việc an toàn (sự quan tâm của lãnh đạo, bạn bè đối với NLĐ)
- Các yếu tố thể chất (sức khỏe, tâm trạng…)
- Trang bị bảo hộ không phù hợp
4.2.5. Các yêu tố liên quan đến mối nguy
4.2.5.1. Con người
NLĐ trực tiếp, người xung quanh, khách, láng giềng…
4.2.5.2. Vật liệu
Vật liệu sử dụng trực tiếp, để gần, chất phát sinh trong quá trình sản xuất…
4.2.5.3. Môi trường
Môi trường làm việc chật, rộng, thoáng, nhiều ánh sáng, gió…
4.2.5.4. Thiết bị
Thiết bị bố trí hợp lý, đầy đủ, an toàn, nguồn năng lượng, sự di chuyển, quá trình vận hành, cách thức thao
tác…
4.2.6. Các phương pháp xác định mối nguy
Có nhiều phương pháp để nhận dạng mối nguy:
- Phân tích cây sai hỏng FTA
- Nhận dạng mối nguy HAZID
- Phân tích công việc chủ yếu CTA
- Tuần tra quan sát PO
- Phân tích cây sự cố ETA
- Phân tích tai nạn, sự cố AIA
- Dựa vào báo cáo
4.2.7. Các yếu tố cần xem xét khi chọn phương pháp nhận dạng mối nguy
- Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm
- Phương pháp càng đơn giản càng ít yêu cầu về nguồn lực, thời gian và nhân lực
- Mức độ chính xác của đánh giá rủi ro phụ thuộc vào năng lực của nhóm đánh giá và độ tin cậy của thông tin,
dữ liệu
Tuy nhiên dù muốn chọn phương pháp nào đi nữa cũng phải đi hoặc  Từ trên xuống, hoặc đi Từ dưới lên qua
các bước.

4.2.8. Các bước của quá trình nhận dạng theo cách Phân tích công việc

4.2.9. Bảng nhận định mối nguy

Quá Hoạt Bước Mối nguy Rủi Người Biện pháp Ghi
công T Mô tả mối Đánh giá tại vị ứng cứu
trình động ro chú
việc T nguy mối nguy trí khẩn cấp
V. Đánh giá rủi ro
Mọi công việc đều tiềm ẩn những rủi ro trong đó. Muốn công việc tiến hành một cách hiệu quả và an toàn, phải
đánh giá rủi ro cho chính công việc đó.
5.1. Định nghĩa
Đánh giá rủi ro là quá trình tìm hiểu những rủi ro có thể và sẽ liên quan tới công việc chuẩn bị thực hiện, phải
chỉ ra cụ thể những rủi ro có thể gặp. Xây dựng những biện pháp kiểm soát để thực thi công việc một cách hiệu
quả nhất, an toàn nhất, nhằm tránh gây tai nạn cho con người, hư hại tài sản, thiết bị và tổn hại môi trường.
5.2. Phân loại rủi ro
Dựa vào các rủi ro, chúng ta phân tích, đo lường (xác định) và xếp loại thành 3 hạng như sau:
- Rủi ro mức cao
- Rủi ro mức trung bình
- Rủi ro mức thấp

5.2.1. Thời điểm đánh giá rủi ro


Trước khi làm việc đều có thể tiến hành đánh giá rủi ro cho hành động, công việc chuẩn bị tiến hành.
Ví dụ chúng ta chuẩn bị di chuyển một cốc nước từ bàn này qua bàn kia.
- Điều gì sẽ xảy ra trong quá trình vận chuyển?
- Ly nước có nóng không?
- Tay cầm có sắc cạnh không?
- Ly nước có quá đầy để di chuyển hay không?
- Có vật gì vướng trong quá trình di chuyển hay không?…
5.2.2. Người đánh giá rủi ro
Người tham gia quá trình đánh giá rủi ro phải nắm được nguyên tắc và trình tự đánh giá. Người tham gia đánh
giá rủi ro phải có kinh nghiệm trong công việc mà mình sẽ tham gia đánh giá. Một bản đánh giá rủi ro không
thể hoàn hảo khi được chuẩn bị bằng 1 hoặc 2 người. Ít nhất nên có từ 3 đến 5 thành viên tham gia vào nhóm
đánh giá rủi ro. Nhóm này cần có các kiến thứ về tổ chức công việc, cơ khí, điện, hóa chất, y tế…
5.3. Các bước đánh giá rủi ro

5.3.1. Chia công việc thành từng bước tiến hành


Phải chia nhỏ công việc sẽ tiến hành thành những bước thực hiện nhỏ hơn, theo trình tự trước sau. Các bước
chia không nên quá chi tiết mà bỏ qua những bước chính, những bước cần thiết hoặc các hành động phát sinh.
Các bước tiến hành thực sự rành rọt và liên quan cụ thể trực tiếp tới từng diễn biến cũng như mức độ nguy
hiểm đang, sẽ và có thể xảy ra khi tiến hành công việc.
5.3.2. Nhận diện những mối nguy hiểm, xác định mức độ rủi ro
5.3.2.1. Mối nguy
Bất cứ cái gì, điều gì có thể gây thương tích cho con người, làm hư hỏng tài sản và hủy hoại môi trường đều là
mối nguy hiểm. Các mối nguy hiểm có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu. Thông thường các vật dụng, đồ
dùng, dụng cụ, máy móc..vv chúng đều là những mối nguy hiểm.
5.3.2.2. Phân loại mối nguy
Để tiện phân tích, người ta chia mối nguy thành ba loại: mối nguy vật chất, mối nguy đạo đức và mối nguy tinh
thần.
Mối nguy vật chất
Tình trạng vật chất yếu kém làm tăng khả năng xảy ra mất mát.
Tình trạng đường sá ở Việt Nam ta là ví dụ sống động về mối nguy vật chất. Một số nơi đèn đường không đủ
sáng, có ổ gà, việc phân luồng phân tuyến cho xe chạy không hợp lý là những mối nguy làm cho tai nạn xảy ra
thường xuyên hơn.
Mối  nguy đạo đức
 Sự không trung thực của một cá nhân nào đó làm tăng khả năng xảy ra mất mát.
Ví dụ có người mua bảo hiểm cho căn nhà của mình rồi gây hỏa hoạn để lấy tiền bồi thường, hay một người
biết mình bị ung thư nhưng vẫn khai là sức khỏe của mình tốt để mua bảo hiểm và được bồi thường.
Mối nguy tinh thần
Sự bất cẩn hay thờ ơ của một cá nhân dẫn đến mất mát vì người này chủ quan cho rằng mình đã mua bảo hiểm.
Ví dụ một người cứ nghĩ mình đã có bảo hiểm nên cứ phóng xe ào ào giữa phố xá đông người mặc dù thỉnh
thoảng trong người có hơi men.
Việc xác định mối nguy đạo đức và mối nguy tinh thần có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với các hãng bảo
hiểm khi ký hợp đồng với khách hàng.
Để tránh mối nguy đạo đức, họ phải thiết lập một hệ thống phân loại và đánh giá rủi ro trước khi bảo hiểm một
cách hiệu quả.
Mối nguy tinh thần thì khó xác định hơn nên có khi công ty bảo hiểm không chịu bồi thường toàn bộ mà người
mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm chi trả trong một hạn mức quy định hoặc cùng công ty bảo hiểm
thanh toán một phần chi phí.
Từ đó chúng ta rút ra được bài học: trong cuộc sống hay trên thương trường, ai hiểu biết về rủi ro nhiều hơn sẽ
trở thành người chiến thắng.
5.3.2.3. Mức độ nguy hiểm
Nếu so sánh giữa một chiếc xe máy chạy trên đường với vận tốc 50km một giờ và một chiếc ô tô cùng vận tốc
thì rõ ràng chiếc ô tô gây ra một mức độ nguy hiểm cao hơn chiếc xe máy. Hoặc so sánh cùng một chiếc ô tô ở
2 vận tốc khác nhau thì ta thấy chiếc xe nào chạy nhanh hơn sẽ có mức độ nguy hiểm cao hơn. Mặt khác nếu
một chiếc xe chở nhiều người gây ra tai nạn thì mức độ thiệt hại sẽ cao hơn so với chiếc xe đó gây tai nạn khi
chỉ chở ít người.
Mức độ nguy hiểm chính là hậu quả gây ra bởi một sự cố hoặc tai nạn nào đó.
5.3.2.4. Tần suất nguy hiểm
Khi tôi đi qua một đoạn đường vắng thì chắc chắn tôi sẽ an toàn hơn đi qua một đoạn đường đầy xe lưu thông.
Lượng xe càng nhiều thì khả năng va chạm của tôi càng cao. Cũng như thế nếu như tôi làm việc gì đó nhiều lần
trong một khoảng thời gian nhất định, khả năng gặp nguy hiểm sẽ tăng lên.
Tần suất nguy hiểm tỷ lệ thuận với những lần tiếp xúc với các thiết bị làm việc hoặc những mối nguy hiểm
trong công việc đó.
5.3.2.5. Rủi ro
Rủi ro chính là sự kết hợp giữa mức độ nguy hiểm và tần xuất xảy ra hoặc có thể xảy ra.
Rủi ro = Mức độ nguy hiểm x Tần suất có thể xảy ra

Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra. Với khái
niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1, thì không có rủi ro.
Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất
mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một cascadeur
nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự
không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế này.
Nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan -
còn gọi là xác suất tiên nghiệm được xác định bằng phương pháp diễn dịch.
Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%.
Tuy nhiên, xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy
diễn rằng xác suất của một người đàn ông lái xe hơi có gây tai nạn hay không trong năm tới là 50% bởi còn
nhiều yếu tố liên quan khác như độ tuổi, xe cũ hay mới... Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng những
trường hợp tai nạn xe hơi trước đây, người ta có thể ước tính xác suất tai nạn theo lối suy luận quy nạp.
Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan là ước tính của từng cá nhân đối với khả năng
xảy ra mất mát.
Ví dụ như nếu có 1 triệu vé số bán ra chỉ có 1 người trúng thì xác suất khách quan là 1 phần triệu. Mặc dù vậy
vẫn có nhiều người mua nhiều vé số vì xác suất chủ quan của họ cao hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác
suất chủ quan như tuổi, giới tính, trình độ học vấn và cả óc mê tín dị đoan... Để hiểu thêm về rủi ro cần phân
biệt sự khác nhau giữa hiểm họa và mối nguy. Hiểm họa được hiểu như là nguyên nhân dẫn đến mất mát.
Ví dụ một ngôi nhà bị cháy thì hỏa hoạn là hiểm họa đã gây ra thiệt hại đối với ngôi nhà; hai xe hơi đụng nhau
thì việc đụng xe là hiểm họa làm cho xe bị hư hỏng.
Trong khi đó, mối nguy được xem là tác nhân làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Nếu như hỏa hoạn được xem
là hiểm họa thì dầu lửa trong khu vực hỏa hoạn được xem là mối nguy.
5.3.2.6. Những câu hỏi thường dùng trong quá trình đánh giá rủi ro
Một quy tắc rất chung là: Ai? Làm gì ? Ở đâu ? Khi nào ? và làm như thế nào ?
- Có thực sự cần thiết tiến hành công việc này hay không?
- Công việc này đã từng được thực hiện hay chưa?
- Có cách nào khác thực hiện công việc này hay không?
-Ai tham gia làm việc này?
- Có yêu cầu đặc biệt gì về thể chất, điều kiện sức khỏe cho người tiến hành công việc không?
- Dụng cụ và thiết bị nào sẽ liên quan tới quá trình thực hiện?
- Khi nào bắt đầu công việc, và khi nào kết thúc công việc?
- Điều kiện thời gian và thời tiết có ảnh hưởng gì đến quá trình thực hiện hay không?
- Có công việc nào cùng thực hiện tại địa điểm đó?
- Yêu cầu kỹ thuật nào cho công việc này?
- Các cách liên lạc cũng như trao đổi thông tin?
- Điều gì sẽ xảy ra nếu thay đổi tiến trình công việc?
- Những mối nguy hiểm nào đang hiện hữu tại khu vực sẽ tiến hành công việc?
- Những mối nguy hiểm nào có thể xảy ra khi công việc đang tiến hành?
- Những mối nguy hiểm tiềm ẩn nào có thể xuất hiện khi bị tác động bởi những hành vi có thể liên quan?
- Mức độ tác động của các mối nguy hiểm tới công việc, người thực hiện công việc và môi trường làm việc?
- Là thế nào để cách ly những mối nguy hiểm đã được nhận diện?
- Làm thế nào để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tối đa những rủi ro cho người thực hiện cũng như môi trường làm
việc?
- Trách nhiệm thực thi thuộc về ai?
- Trang bị bảo hộ cá nhân nào? Cụ thể và chi tiết yêu cầu kỹ thuật
5.3.3. Tiến trình đánh giá rủi ro

5.3.4. Các phương pháp đánh giá rủi ro

5.3.5. Quy định về xác suất - hậu quả


Như chúng ta đã biết:
Rủi ro   =    Tính nghiêm trọng của hậu quả    x    Xác suất xảy ra

5.3.6. Bảng đánh giá rủi ro


Bảng đánh giá rủi ro phải được ghi lại một cách rõ ràng, nếu cần sẽ phải dịch ra ngôn ngữ mà người tham gia
làm việc hiểu được.
Bảng đánh giá rủi ro phải ghi rõ cho từng công việc, thời gian cũng như địa điểm thực hiện.
Bảng đánh giá rủi ro cần ghi rõ những nguy hiểm hiện hữu hoặc tiềm ẩn có thể tác động tới quá trình tiến hành
công việc.
Những tác động đó gây ra ở mức độ nào, những ai sẽ bị ảnh hưởng…
Bảng đánh giá rủi ro cũng cần nêu rõ tên những người đã tham gia quá trình đánh giá cũng như người có thẩm
quyền phê duyệt…
5.3.6.1. Ma trận rủi ro
Bảng 1. Tính nghiêm trọng của mối nguy

0 Không thương tật, bênh tật, không vi phạm luật định


1 Thương tật nhẹ, bênh nhẹ, không vi phạm luật định
2 Nghỉ việc do chấn thương nhưng không mất khả năng lao động, có khả năng vi
phạm luật định
3 Chết người, mất khả năng lao động, vi phạm luật định
Bảng 2. Xác suất xảy ra của mối nguy

0 Không xảy ra hoặc rất ít khi xảy ra


1 Thỉnh thoảng có xảy ra
2 Thường xuyên xảy ra
Bảng 3. Ma trận rủi ro
Tính nghiêm trọng
Khả năng xảy ra 0 1 2 3
1 1 2 3
2 2 4 6
Bảng 4. Quy định mức độ rủi ro

Mức độ rủi ro Các yêu cầu kiểm soát


0 - Tầm thường Rủi ro không đáng kể, liên quan đến những hoạt động đã
có thủ tục kiểm soát
1 - Có thể chấp nhận Rủi ro được giảm đến mức chấp nhận được, đơn vị có
thể chịu được
2 - Vừa phải, có mức độ Yêu cầu phải có biện pháp kiểm soát và cải tiến thêm, có
thể yêu cầu giám sát thêm định kỳ
3 - Thâth sự đáng kể Không chấp nhận được nhưng hoạt động vẫn còn có thể
cho phép thực hiện dưới sự giám sát đặc biệt
4 - Không chấp nhận được Không chấp nhận được, phải dừng hoạt động
6 - Quá đáng Rủi ro đe dọa đến sự sinh tồn của đơn vị và cộng đồng
5.3.6.2. Bảng đánh giá rủi ro

Mối nguy Đánh giá rủi ro


Quá Hoạt
Tần suất Mức độ nghiêm trọng Mức độ
trình động Mô tả TT
Giải thích Mức độ Giải thích Mức độ rủi ro
vi. Các biện pháp kiểm soát rủi ro
6.1. Kiểm soát rủi ro
Những kỹ thuật, những công cụ, những chiến lược và những quá trình nhằm biến đổi rủi ro của một tổ chức
thông qua việc né tránh, ngăn ngừa, giảm thiểu bằng cách kiểm soát tần suất và mức độ của rủi ro và tổn thất
hoặc lợi ích.
6.1.1. Phân tích các phương pháp, các kỹ thuật rủi ro
6.1.1.1. Né tránh (chấm dứt) rủi ro
Né tránh những hoạt động, con người, tài sản làm phát sinh tổn thất có thể có hoặc loại bỏ nguyên nhân dẫn tới
tổn thất.
- Biện pháp này đơn giản, triệt để và chi phí thấp
- Có thể mất đi lợi ích có được từ tài sản và hoạt động đó
- Có thể tránh được rủi ro này nhưng lại gặp phải rủi ro khác.
- Có tình huống không thể né tránh hoặc nguyên nhân của rủi ro gắn chặt với bản chất hoạt động.
Ví dụ:
Để vào Ba Son phải đi qua cây cầu lún Văn Thánh 2, nhưng vì cầu bị lún nhiều nên người ta mới cho lưu thông
trên 1 nửa phần cầu để sửa chữa nửa phần cầu kia. Vì số lượng lưu thông trên nửa phần cầu kia quá nhiều làm
cho cây cầu xuống cấp nhanh hơn, thế là sau 1 thời gian cả  2 nửa cây cầu đều bị hỏng (tránh được rủi ro này
nhưng lai gặp rủi ro khác)
6.1.1.2. Ngăn ngừa tổn thất
Tìm cách giảm bớt số lượng các tổn thất xảy ra hoặc loại bỏ chúng hoàn toàn. Ở đây, chuỗi rủi ro là rất quan
trọng vì các hoạt động ngăn ngừa rủi ro tìm cách can thiệp vào ba mắt xích đầu tiên của chuỗi : sự nguy hiểm,
môi trường rủi ro, sự tương tác giữa mối nguy hiểm và môi trường. Điều đó có nghĩa là các hoạt động ngăn
ngừa rủi ro tập trung vào:
Thay thế hoặc sửa đổi hiểm hoạ
Thay thế hoặc sửa đổi môi trường
Thay thế hoặc sửa đổi cơ chế tương tác
- Có lợi  thế trong việc giảm thiểu tổn thất cho từng tổ chức riêng biệt.
- Chỉ hạn chế được 1 phần của rủi ro
Ví dụ :
Giữ nhà bất cẩn - Chương trình huấn luyện và theo dõi
Nạn lụt - Xây đập, quản lý nguồn nước
Hút thuốc - Cấm hút thuốc, tịch thu vật liệu liên quan đến hút thuốc
Nạn ô nhiễm - Ban hành quy định, chính sách về việc sử dụng và thải các chất gây ô nhiễm
Giảm thiểu tổn thất:
Nội dung: Các biện pháp giảm thiểu tổn thất tấn công vào các rủi ro bằng cách làm giảm bớt giá trị hư hại khi
tổn thất xảy ra (tức giảm nhẹ sự nghiêm trọng của tổn thất). Những hoạt động giảm thiểu tổn thất là những biện
pháp sau khi tổn thất đã xảy ra. Mặc dù những biện pháp này được đặt ra trước khi một tổn thất nào đó xuất
hiện, những chức năng hoặc mục đích của những biện pháp này là làm giảm tác động của tổn thất một cách
hiệu quả nhất
Ưu điểm : làm giảm tổn thất của rủi ro đã xảy ra
Nhược điểm : thực hiện khi rủi ro đã xảy ra
Ví dụ : trong các công ty người ta trang bị hệ thống chữa cháy tự động, khi có cháy hệ thống sẽ tự phun nước
chữa cháy và báo động. Lắp đặt hệ thống này không làm giảm nguy cơ xảy ra cháy nhưng nó làm giảm tổn thất
khi có cháy xảy ra.
Quản trị thông tin;
Nội dung : Thông tin bắt nguồn từ phòng quản trị rủi ro của một tổ chức có một ảnh hưởng quan trọng trong
việc giảm thiểu những bất định của những người có quyền lợi gắn liền với tổ chức. Phòng quản trị rủi ro của
một tổ chức phải cung cấp thông tin để xác định hiệu quả của việc đo lường kiểm soát rủi ro và những mục tiêu
trong tương lai họ cần đạt được. Thông tin đáng tin cậy từ phòng quản trị rủi ro có thể cung cấp cho những
người có quyền lợi gắn liền với tổ chức sự đảm bảo rằng tổ chức không và sẽ không hành động có hại đến lợi
ích của họ.
Ưu điểm : cung cấp thông tin về rủi ro giúp các nhà quản trị rủi ro đưa ra các biện pháp hiệu quả nhất để ngăn
ngừa, hạn chế rủi ro.
Nhược điểm : việc cung cấp thông tin thiếu chính xác có thể làm cho việc phòng tránh,ngăn ngừa, hạn chế rủi
ro không hiệu quả gây tổn thất .
Ví dụ: các trung tâm dự báo thời tiết khi có bão sẽ cung cấp các thông tin liên quan tới cơn bão như tốc độ
gió,hướng đi, các vùng có khả năng bị bão đổ bộ. Việc cung cấp thông tin liên quan này rất cần thiết để cho
các cơ quan chức năng đưa ra các biện pháp phòng chống, ngăn ngừa tổn thất khi bão đổ bộ vào đất liền.
6.1.1.3. Chuyển giao kiểm soát
Chuyển giao rủi ro là công cụ kiểm soát rủi ro, tạo ra nhiều thực thể khác nhau thay vì một thực thể phải gánh
chịu rủi ro. Chuyển giao rủi ro có thể được thực hiện bằng 2 cách :
Thứ nhất:  Chuyển tài sản và hoạt động có rủi ro đến một người hay một nhóm người khác.
 Ví dụ :
Khi thực hiện hợp đồng, thông thường một công ty gánh chịu tổn thất là sự gia tăng giá cả lao động và nguyên
vật liệu, do đó để đảm bảo cho nhà máy của công ty hoạt động công ty có thể thuê các  nhà thầu phụ có giá ổn
định .
Hình thức chuyển giao rủi ro này có liên quan mật thiết với một biện pháp né tránh rủi ro là loại bỏ những
nguyên nhân gây rủi ro.
Đây là một biện pháp kiểm soát rủi ro vì nó loại bỏ những tổn thất tiềm ẩn gây hại cho tổ chức, đồng thời tránh
bị hủy bỏ hợp đồng vì rủi ro của hợp đồng đã được chuyển đến cá nhân hoặc tổ chức khác.
Thứ hai:  Chuyển giao bằng hợp đồng giao ước : chỉ chuyển giaoThứ  rủi ro, không chuyển giao tài sản và hoạt
động của nó đến người nhận rủi ro.
Ví dụ :
Người đi thuê nhà phải chịu trách nhiệm thiệt hại về căn nhà mình thuê.
Người bán lẻ chịu trách nhiệm về thiệt hại sản phẩm sau khi nhà sản xuất đã giao hàng cho dù nhà sản xuất lẽ
ra phải chịu trách nhiệm.
Người tiêu thụ có thể không khiếu nại về những thiệt hại tài sản và con người do lỗi của sản phẩm hay dịch vụ.
Ưu điểm : giúp doanh nghiệp loại bỏ 1 số rủi ro tìm ẩn gây hại cho tổ chức
Nhược điểm : người nhận rủi ro không có khả năng kiểm soát rủi ro
Đa dạng hóa:
Nội dung :  Đây là một nỗ lực của tổ chức làm giảm sự tác động của tổn thất lên toàn bộ công ty. Kỹ thuật này
thường sử dụng nhiều cho rủi ro suy đoán, đặc biệt là trong đầu tư chứng khoán Portfolio. Portfolio thường gọi
là bộ chứng khoán, danh mục chứng khoán hay cấu trúc chứng khoán. Bằng cách khéo léo lựa chọn các chứng
khoán trong bộ portfolio, chúng ta có thể giảm được rủi ro tổng thể của công ty. Rủi ro của portfolio phụ thuộc
vào các biến chủ yếu sau :
Hệ số tương quan giữa các thành phần tham gia
Tỷ trọng các thành phần
Số lượng các thành phần
Rủi ro của từng thành phần
Ưu điểm: dùng may mắn của rủi ro này bù đắp cho tổn thất của rủi ro khác.
Ưu điểm :giảm được tổn thất bằng cách phân chia rủi ro thành nhiều dạng khác nhau và tận dụng sự khác biệt
để dùng may mắn của rủi ro này bù đắp cho rủi ro khác.
Nhược điểm :
Ví dụ : là 1 đại lý bán nước ngọt chúng ta nên lấy nước ngọt từ nhiều hãng khác nhau, điều này đảm bảo cho
khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn và đảm bảo được nguồn hàng cung cấp cho người tiêu dùng.
Phân tích mối quan hệ giữa phân tích rủi ro và kiểm soát rủi ro
Bằng cách phân tích các mắc xích trong chuỗi rủi ro,từ đó xác định được mọi nguy cơ rủi ro, dự báo được các
rủi ro trong tương lai. Từ đó đưa ra những biện pháp kiểm soát phù hợp, kịp thời để tránh và hạn chế tối đa
nguy cơ rủi ro về tài sản, trách nhiệm pháp lý, nguồn nhân lực.
Chuỗi rủi ro gồm năm mắc xích cơ bản:
 • Mối hiểm họa: là những điều kiện dẫn tới tổn thất
Ví dụ: một bộ phận của máy móc được bảo quản không đúng cách.
 • Yếu tố môi trường: là bối cảnh mà trong đó nguy hiểm tồn tại.
Ví dụ: sàn của phân xưởng nơi bộ phận máy móc này được lắp đặt.
 • Sự tương tác: là quá trình mà mối hiểm họa và môi trường rủi ro tác động lẫn nhau, đôi khi không có ảnh
hưởng nhưng đôi khi dẫn đến tổn thất
 Ví dụ: một người công nhân vận hành thiết bị không được bảo hành đúng cách có thể bị tai nạn  vì tấm chắn
bảo vệ không được đặt đúng chỗ khi mũi khoan bị gãy.
 • Kết quả cói thể là tốt hay xấu: là kết quả trực tiếp của sự tác động.
Ví dụ: trong trường hợp trên là bị tổn thương nghiêm trọng ở mắt.
 • Những hậu quả: không phải là những kết quả trực tiếp (bị tổn thương ở mắt) mà là những hậu quả lâu dài do
sự cố xảy ra (sự khiếu nại bồi thường của công nhân khi bị tổn thương, sửa chữa máy móc, chi phí thuốc  men,
y tế…)
Cho 1 ví dụ cụ thể phân tích rõ 5 mắc xích của chuỗi rủi ro này :
Vd : hiện tượng nhiễu điện gây giật chết người tại một số cột điên tại tp HCM
1. Mối hiểm họa: là những điều kiện dẫn đến tổn thất. Ví dụ : Một số bộ phận  của thiết bị điện được bảo quản
không đúng cách, có nhiều dây điện được căng quá thấp dễ bị xe làm đứt, có quá nhiều dây điện, dây điện
thoại trên cột điện gây khó khăn cho quá trình kiểm tra độ an toàn.
2. Yếu tố môi trường : là bối cảnh mà trong đó nguy hiểm tồn tại. Ví dụ : Hệ thống thoát nước của thành phố
kém, dẫn đến hiện tượng ngập nước trên đường làm môi trường dẫn điện gây chết người .
3. Sự tương tác: là quá trình mà mối hiểm họa và môi trường rủi ro tác động lẫn nhau, đôi khi không có ảnh
hưởng nhưng đôi khi dẫn đến tổn thất. Ví dụ : khi trời mưa lớn nước không thoát kịp gây ngập nước trên
đường kết hợp với sự nhiễu điện từ những dây điện được bảo quản tốt, bị đứt là nguyên nhân gây giật điện chết
người.
4. Kết qủa có thể là tốt hay xấu : là kết quả trực tiếp của sự tác động. Ví dụ: trong trường hợp này là giật điện
chết người.
5. Những hậu quả : không phải là những kết quả trực tiếp (việc chết người) mà là những hậu quả lâu dài của sự
cố xảy ra (sự khiếu nại bồi thường của công nhân khi bị chết, sửa chữa máy móc, chi phí thuốc men, y tế....)
è Một số giải pháp để khắc phục rủi ro này ;
Sử dụng hệ thống điện ngầm dưới lòng đất
Kiểm tra thường xuyên mức độ an toàn của thiết bị điện
Quản lý nguồn gốc của dây điện mắc trên cột điện và quy trách nhiệm rõ ràng khi sự cố xảy ra
Xây dựng hệ thống thoát nước có dủ khả năng thoát nước khi có mưa lớn xảy ra
Có rất nhiều biện pháp kiển soát rủi ro, tuy nhiên tùy vào tình hình và điều kiện công việc cụ thể của môi
trường làm việc cũng như công việc đặc thù mà nhóm đánh giá rủi ro sẽ lựa chọn các hình thức phù hợp nhất
với từng mối rủi ro cụ thể. Các biện pháp có thể khác nhau, nhưng chúng ta nên tuân theo các mức độ ưu tiên
sau để lựa chọn hình thức phù hợp với mỗi bước tiến hành công việc:
- Cách ly: cách ly các mối nguy hiểm ra khỏi khu vực làm việc nhằm tránh tiếp xúc với chúng
- Thay thế: thay thế những mối mối nguy hiểm bằng những điệu kiện, thiết bị… an toàn hơn
- Chế tạo: sửa đổi, cung cấp thêm các thiết bị hay biện pháp bảo vệ khi tiếp xức với các mối nguy hiểm
- Chính sách: cung cấp một chính sách hay chế độ và thời gian làm việc phù hợp.
- Trang bị bảo hộ lao động (trang bị bảo hộ cá nhân): trang bị bảo hộ cá nhân luôn là sự lựa chọn cuối cùng
trong khi tất cả các sự lưa chọn trên đã được xem xét và tiến hành. Nên nhớ là trang bị bảo hộ lao động là cần
thiết, nhưng chúng không hoàn toàn bảo vệ được bạn đâu.
6.2. Tiến trình hoạch định kiểm soát rủi ro

Thực hiện an toàn-sức khỏe nghề nghiệp:


Kết quả đo lường về việc quản lý rủi ro trong hệ thống AT-SKNN của đơn vị.
Nói dễ hiểu:
Những biện pháp kiểm soát, phòng ngừa, hạn chế TNLĐ và các văn bản quy phạm của pháp luật (Nhà nước,
quân đội và của đơn vị).
Kết luận :
Đánh giá rủi ro là một trong những quy trình quan trọng khi thực hiện những công việc phức tạp hoặc mang
tính rủi ro caoBảng đánh giá rủi ro là cầu nối thông tin mật thiết về vần đề an toàn giữa các bên thực hiện công
việc.Hãy thực thi quá trình đánh giá rủi ro cho những công việc đặc thù của bạn, nếu công việc được lặp lại
vào thời gian hoặc địa điểm khác nhau thì bảng đánh giá rủi ro phải được xem xét lại và cập nhật các thông tin
liên quan và cần thiết khác.Trên đây chỉ là những hướng dẫn chung về quá trình đánh giá rủi ro...

You might also like