Professional Documents
Culture Documents
Edit - Bao Cao Ket Qua e 1.2 Nam 2018 Viet
Edit - Bao Cao Ket Qua e 1.2 Nam 2018 Viet
BÁO CÁO
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đề tài E 1.2.
“ Nghiên cứu tổ chức cấu trúc - chức năng của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới phục
vụ công tác bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững ”
Nhánh đề tài: 1.1, 1.2, 1.3, 1.4, 1.5, 1.6, 1.7, 1.8, 1.9, 1.10,1.11, 3, 3.1, 3.8
2. Những nội dung nghiên cứu khoa học triển khai thực hiện trong năm 2018
- Đã tiến hành 26 chuyến dã ngoại (tính đến 03/12), 108 lượt cán bộ (34 cán bộ Nga; 05
cán bộ Việt Nam) với 435 ngày công tác dã ngoại tại 7 VQG và Khu bảo tồn (Cát Tiên; Bi
Doup Núi Bà; Kon Chư Răng; Phú Mát; Hòn Bà; Bình Châu Phước Bửu; Lộc Bắc) thực
hiện các nội dung nghiên cứu sau:
1.1. Nghiên cứu cấu trúc và sự biến động của quần thể chim rừng;
1.2. Nghiên cứu vai trò của chim rừng trong việc mang hạt quả và tái sinh cây rừng Cát
Tiên;
1.3. Nghiên cứu sự phân bố và giám sát một số quần thể chim rừng quý hiếm trong khu
vực VQG Cát Tiên;
1.4. Nghiên cứu phổ âm thanh sinh học năm của rừng nhiệt đới (Cát tiên);
1.5. Nghiên cứu sự trao đổi năng lượng của chim rừng nhiệt đới (Cát Tiên);
1.6. Các nguyên tắc hình thành và hoạt động chức năng của các quần xã kiến rừng nhiệt
đới miền Nam Việt Nam (Cát tiên);
1.7. Nghiên cứu mối liên hệ giữa dinh dưỡng và vai trò chức năng của các nhóm sinh vật
đất chủ yếu; Nghiên cứu tập hợp côn trùng không xương sống – sinh sống ở phần phía trên
cùng của tán rừng nhiệt đới (Cát Tiên);
1.8. Nghiên cứu cấu trúc và sự biến động của các quần thể lưỡng cư rừng nhiệt đới (Cát
Tiên);
1.9. Đặc điểm thành phần loài và sự biến động theo mùa của quần xã thực vật rừng đặc
trưng thuộc VQG Cát Tiên;
1.10. Nghiên cứu sự phân bố không gian của dơi trong các hệ sinh thái rừng nhiệt đới miền
Nam Việt Nam ( Cát Tiên, Bù Gia Mập, Bidoup Núi Bà);
1.11. Nghiên cứu đặc điểm mùa hoạt động chức năng của quần xã động vật ăn mùn bã thực
vật rừng gió mùa qua thí dụ nhóm cuốn chiếu Diplopoda ( Cát Tiên, Bidoup Núi Bà);
3. Nghiên cứu đa dạng sinh học động thực vật tại các rừng bình nguyên và rừng trên núi;
3.1. Nghiên cứu thực vật rừng và cấu trúc mặt cắt đứng của các cây cổ thụ (VQG Kon Chư
Răng, Phù Mát, Phù Hoạt);
3.8. Nghiên cứu đa dạng của các taxon và sinh thái của các loài nấm tán nhánh Agaricoid
và nấm ống nhánh Boletoid, các loài nấm Nang và vi nấm trong cá hệ sinh thái rừng nhiệt
đới.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Các phương pháp nghiên cứu thực vật : Nghiên cứu địa thực vật được tiến hành theo
các tuyến và tại các ô tiêu chuẩn tạm thời. Việc lập tuyến khảo sát được thực hiện với
nguyên tắc làm sao cắt qua nhiều quần xã và các đai độ cao khác nhau. Việc xác định cây
và dây leo dạng thân gỗ được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các dấu hiệu về hình
thái. Tiến hành mô tả chi tiết thân cây, các đặc điểm bề mặt, hình dạng của thân, hoa, cấu
trúc lớp vỏ; ghi nhận các đặc điểm phân nhánh và hình dáng tán lá. Lá, hoa, quả thu thập
trên mặt đất trong lớp lá rụng được so sánh với việc quan sát được bằng ống nhòm (8x30)
trong tán lá của cây hay dây leo. Nhận dạng loài thực vật dựa trên "Cây cỏ Việt Nam" tập 1, 2, 3,
1999, nhà xuất bản thanh niên của Phạm Hoàng Hộ.
Thông số đường kính thân cây gỗ được xác định ở độ cao 1,3m trên mặt đất. Những
đại lượng như chiều cao cây, độ cao của tán, bán kính tán được xác định bằng mắt
thường. Những thân cây đổ được đo đạc chi tiết bằng thước cuộn có chiều dài 10m, độ
chính xác tới milimét. Khi xem xét đặc điểm cấu trúc đứng của thảm thực vật được hình
thành trên những quần xã khác nhau, tiến hành mô tả chi tiết theo các phân tầng (được
phân chia bằng mắt thường). Việc nghiên cứu đất ngoài thực địa được tiến hành chủ yếu
là mô tả các phẫu diện với kích thước khác nhau. Hệ rễ cây được nghiên cứu chủ yếu đối
với những cây có rễ nổi và những cây bị đổ, dẫn đến bật gốc, rễ lên khỏi mặt đất.
3.2 Các phương pháp nghiên cứu chim: Quá trình khảo sát được tiến hành theo phương
pháp truyền thống: quan sát bằng mắt trên những tuyến lặp lại hoặc không lặp lại, ghi
nhận những loài chim bắt gặp, trong trường hợp phát hiện tổ tiến hành theo dõi trong một
thời gian nhất định. Những tiếng chim lạ được ghi âm bằng máy ghi âm xách tay, xác
định tiếng, so sánh với những mô tả tiếng chim của khu vực Đông Nam châu Á (Robson,
2000) và những bản ghi âm tiếng chim trên đĩa CD (Sharringa, 2001). Trong một số
trường hợp đã kích thích được tiếng hót của chim đực ở gần khi phát ra từ máy ghi âm
giọng của chúng, từ đó có thể xác định được loài chim. Đã sử dụng bẫy lưới dạng mạng
nhện thu mẫu với kích thước dài 5 – 12m với 4 – 5 túi có mắt lưới là 14mm.
3.3. phương pháp nghiên cứu bò sát, lưỡng cư: Đã sử dụng các phương pháp chuẩn, bao gồm
các khảo sát theo tuyến, nghiên cứu tại các thủy vực và đặt các bẫy cố định.
3.4. Động vật đất:
- Sử dụng bẫy đất Barber (cốc nhựa có nắp) với chất cố định là ethylenglycol. Phương pháp
được sử dụng để bẫy những động vật không xương sống chuyển động trên mặt đất. Với
nhóm động vật đất nói chung, bẫy được đặt cách nhau 5m, tiến hành đặt 10 bẫy trên 1
khu vực nghiên cứu.
- Sử dụng bẫy cửa sổ (hộp bằng nhựa dung tích 7 lít với tấm màn trong suốt bên trong) với
chất cố định là ethylenglycol. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để phát hiện khu hệ
động vật sống trên thân gỗ (kiến, mối), cũng như các loài ăn thịt của chúng. Vì vậy các bẫy
được đặt trên các thân cây khô, theo phương nằm ngang, không tiếp xúc với mặt đất, ở độ cao
cách mặt đất 0 – 3m.
3.5. Phương pháp nghiên cứu về nấm
Dự kiến lập bộ sưu tập các nhóm nấm kể trên, xác định loại vật liệu thu thập được, cô
lập nuôi cấy các mẫu nấm. Việc định danh nấm được thực hiện nhờ phương pháp di truyền
phân tử mới có độ phân giải cao.
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Thực vật
5.1.1.Điều kiện về khí hậu khu vực nghiên cứu
Khu vực nghiên cứu có lượng bức xạ mặt trời trên 130 Kcal/cm 2/năm. Nhiệt độ
trung bình 26,70C, tối cao 37,70C, tối thấp 21,10C. Chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng
nhất (tháng 4 = 28,40C) và tháng lạnh nhất (tháng 12 = 25,7 0C) là 2,70C. Tổng lượng nhiệt
cả năm là 9.7500C; dao động từ 9.600 - 9.9000C. Tổng lượng mưa trung bình năm 2.227
mm/năm; dao động từ 1.720 - 2.742 mm/năm. Mùa mưa (lượng mưa ≥ 54 mm/tháng) ở
khu vực Nam Cát Tiên kéo dài 8 tháng từ tháng 4 đến tháng 11. Lượng mưa bình quân
trong mùa mưa là 266 mm/tháng, dao động từ 209 - 338 mm/tháng. Mùa khô kéo dài 4
tháng từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa bình quân trong mùa khô là
25 mm/tháng, dao động từ 3 - 74 mm/tháng. Độ ẩm không khí trung bình năm 81%, cực
đại 89% (tháng 8), thấp nhất 71% (tháng 2). Lượng nước bốc hơi trung bình 1.529
mm/năm; dao động từ 1.269 - 1.690 mm/năm. So với lượng mưa trung bình năm (2227
mm/năm), lượng nước bốc hơi trung bình năm (1529 mm/năm) chiếm 68,7%. Vận tốc gió
trung bình 2 - 3 m/s, thịnh hành là gió mùa tây nam, gió mùa đông bắc rất yếu.
Quần xã thực vật khu vực nghiên cứu thuộc Rkx ở khu vực Nam Cát Tiên được
hình thành trên nền khí hậu nhiệt đới mưa mùa ở miền Đông Nam Bộ. Điều kiện khí hậu ở
khu vực Nam Cát Tiên cũng tương tự như khu vực Trị An, Biên Hòa và Xuân Lộc thuộc
tỉnh Đồng Nai. Theo phân cấp chế độ khô ẩm của Thái văn Trừng (1999), thì chế độ khô
ẩm ở khu vực Nam Cát Tiên thuộc cấp II (hơi ẩm, lượng mưa = 1.200 - 2.500 mm/năm; số
tháng khô S = 4 - 6 tháng; số tháng hạn A = 1 - 2 tháng; số tháng kiệt D = 0 - 1 tháng).
5.1.2. Điều kiện địa hình và đất
Khu vực khu vực nghiên cứu có độ cao so với mặt nước biển là 150 m độ dốc không
quá 100, được hình thành trên đất vàng đỏ phát triển từ đá magma và đất phù sa gley.
5.1.3. Cấu trúc thành phần thực vật của QXTV khu vực nghiên cứu
Xử lý bước đầu 05 ô mẫu 2000 m 2 trong OTC 1 ha, gồm 539 cây, với đường kính
ngang ngực tối thiểu 10 cm, thuộc 43 loài và 28 họ, trong đó có 19 loài chỉ xác định được
tên chi. Các họ quan trọng nhất, phong phú về loài là Lythraceae (14,1%),
Dipterocarpaceae (13,4%), Datiscaceae (11,3%), Ebenaceae (7,1%), Sapindaceae (6,4%),
Combretaceae (4,9%), Moraceae (4,2%), và Myrtaceae (4,2%). Ba họ Lythraceae,
Dipterocarpaceae, và Myraceae chiếm ưu thế trong quần xã.
5.1.4. Lập bản đồ trạng thái rừng nhiệt đới miền Nam Việt Nam dựa trên dữ liệu viễn
thám, xây dựng mô hình địa hình kỹ thuật số và đo đạc hiện trường (VQG Cát Tiên)
Ở hình 2 cho thấy kết quả đo tổng diện tích mặt cắt ngang và số loài thực vật thân gỗ.
Diện tích trung bình của các cây đứng trên tuyến là 20-30 m2, và số loài là 10-15 loài.
Trong phần “mở mới” của tuyến cắt (đặc biệt là các điểm 130-150), cả tổng diện tích mặt
cắt ngang và số lượng loài thường giảm.
.
Hình 2. Kết quả phép đo tổng diện tích các phần trên mặt cắt ngang với khoảng
cách 20 m
Hình 3.a cho thấy kết quả đo các chỉ số bề mặt lá (LAI) với máy ảnh kỹ thuật số với
ống kính fish-eye 03/28/2018, nhiệt độ không khí và bề mặt đất 03/29/2018. Biểu đồ minh
họa rõ ràng sự phụ thuộc nhiệt độ của diện tích bề mặt lá: LAI càng lớn, nhiệt độ càng
thấp. Độ ẩm của không khí, ngược lại, giảm với chỉ số của bề mặt lá (Hình 3.b), độ ẩm đất
ở độ sâu 10 cm thực tế không liên quan khi các thông số lkhác thay đổi. Nhiệt độ đất ở độ
sâu 10 cm thường giảm từ điểm đầu tiên của mặt cắt đến điểm cuối cùng, có thể được giải
thích bằng thời gian đo: các thông số vi khí hậu được đo từ 9:00 đến 15:00, bắt đầu đo tại
điểm cuối cùng của đường cắt ngang (160). Do đó, sự thay đổi nhiệt độ trong đất chủ yếu
phản ánh việc sưởi ấm ban ngày. Đồng thời, các thông số vi khí hậu còn lại phản ứng
nhanh hơn với những thay đổi về mật độ của thảm thực vật, hơn là trong quá trình nhiệt độ
thay đổi hàng ngày.
Hình 3. chỉ số của bề mặt lá, không khí và nhiệt độ đất trong tuyến điều tra
Hình 3.b Nhiệt độ trong đất ở độ sâu 10 cm, độ ẩm không khí và đất trong mặt cắt
Trong năm 2017, các mô hình cho phép nội suy các phép đo trên mặt cắt ngang của
tuyền điều tra và trữ lượng sinh trưởng đã được tính toán. Năm nay, các mô tả mới sẽ được
thêm vào mô hình, điều này sẽ cải thiện chất lượng của các mô hình. Công việc được thực
hiện bởi Vesenkov D.A. trên mặt cắt để bắt những con dơi, tiết lộ một số lỗi trong hoạt
động GPS trong rừng (lỗi trong việc ràng buộc các điểm trong một số phần nhất định của
giao lộ là hơn 10 m). Để gắn chính xác hơn các điểm cắt với dữ liệu viễn thám và mô hình
độ cao kỹ thuật số, cần phải có công việc thực địa với GPS có độ chính xác cao (bộ thu
GNSS) hoặc điểm riêng lẻ sử dụng GPS tiêu chuẩn gắn trên quadrocopter (để loại bỏ hiệu
ứng của tán trên tín hiệu). Trong năm 2019, một trong những phương pháp ràng buộc sẽ
được thực hiện.
Một trong những nhiệm vụ lập bản đồ các tham số của thảm thực vật là nội suy của các
loại (nhóm, lớp, vv) của quần xã thực vật. Tuy nhiên, lựa chọn của chúng không phải là
một nhiệm vụ tầm thường. Để giải quyết nó, dữ liệu về tổng diện tích mặt cắt của đá từ tất
cả 160 điểm hiện có của mặt cắt được xử lý bằng cách sử dụng phân tích cụm. Hình 4 cho
thấy các kết quả phân cụm 160 điểm của mặt cắt bằng tổng diện tích mặt cắt của tất cả các
loài cây gặp phải (74). Vì vậy, chúng tôi thu được các lớp thực vật có thể được xen vào sâu
hơn vào khu vực nghiên cứu của VQG.
Công việc cũng được tiến hành cùng với các đồng nghiệp từ Trung tâm NĐVN để
nghiên cứu và lập bản đồ cấu trúc cảnh quan của các thắng cảnh vùng đất thấp của VQG
Cát Tiên. Trong phần này của công trình, một bản đồ cảnh quan sơ bộ của vườn quốc gia
đã được biên soạn, được biên soạn từ dữ liệu viễn thám và một mô hình kỹ thuật số của sự
trợ giúp của Sandlersky R. B., khảo sát trên không chi tiết từ quadcopter của vùng xung
quanh tháp đo vi khí hậu và cắt ngang (xem báo cáo của Kotlov I.P.). Ba khu vực được
khảo sát: Đồi Hổ ở phía Nam, trong khu vực Đất Đỏ (107,29 VD, 11,41 S.Sh.), đoạn giữa
sông Đà Tapo và sông Đà Condur (107,37 VD, 11,46 S.Sh.) , khu vực sông ĐàPa, và khu
vực ở phần phía đông của đồi Hổ cạnh hồ Bầu sấu(107,32 VD, 11,45 S.Sh.). 6 mô tả hoàn
thành (đất, thảm thực vật, cứu trợ) được thực hiện và các mẫu đất được lấy để phân tích.
Các kết quả có giá trị nhất trong báo cáo bao gồm: sự gia tăng về số lượng điểm kiểm
soát chất lượng và phần xác định loài của các đồng nghiệp Việt Nam (nhân viên của trung
tâm nhiệt đới Đặng Ngọc Huyền và một chuyên gia thực vật địa phương Việt Nam), cũng
như mô tả hoàn chỉnh các loại sơ đồ cảnh quan sơ bộ trước đây không thể tiếp cận được.
Hình 4 Các điểm của tuyến điều tra theo tỷ lệ tổng diện tích mặt cắt ngang của cây trên các
điểm
Cryxus ovalis
250
200
150
100
нет данных
50
0
12
10
10
11
1
2
3
4
5
6
7
8
9
11
12
1
2
3
4
5
6
7
8
9
11
12
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
12
1
2
3
4
5
6
7
8
Hình 1. Động lực dài hạn của sự phong phú của năm loài mô hình cuốn chiếu trong các
tuyến khảo sát. Giá trị cho các loài khác nhau được cộng thêm vào nhau, nghĩa là độ dày
của mỗi màu tại một thời điểm phản ánh sự phong phú của loài và tổng chiều cao của khu
vực chứa đầy màu sắc là tổng số của tất cả các loại tại thời điểm đó. Hình chữ nhật màu
xanh là lý thuyết gần đúng mùa mưa. Chỉ những loài trưởng thành mới phân tích.
5.2.2. Điều tra khu vực đất ngập nước
Những kết quả đầu tiên thu được từ nghiên cứu về cấu trúc dinh dưỡng của cộng
đồng chuồn chuồn trưởng thành (Hình 2). Trước đây, các quần xã như vậy bao gồm các
động vật ăn thịt đa thê bừa bãi, và các nghiên cứu chi tiết không được thực hiện do những
khó khăn về phương pháp. Tác động của chuồn chuồn trưởng thành đối với hệ sinh thái là
rất đáng kể (vì chúng tạo thành một sinh khối rất lớn cả ở các tầng rừng khác nhau và ở các
khu vực mở hơn) và nhiều mặt (muỗi gây nguy hiểm cho con người, bao gồm cả côn trùng,
gây mù, v.v.). Kết quả của chúng tôi cho thấy sự hiện diện của sự phân tách các hốc dinh
dưỡng trong cộng đồng chuồn chuồn, cũng như sự hiện diện của các dinh dưỡng chuyên
biệt (cá nhân).
9
5
d15N
2
Forest
1
Ponds
0
-35 -33 -31 -29 -27 -25 -23
d13C
Hình 2. Thành phần đồng vị của nitơ và carbon 14 loài chuồn chuồn mẫu từ hai địa điểm.
Hiển thị là giá trị trung bình cho mỗi loài và độ lệch chuẩn.
5.2.3. Thống kê loài cuốn chiếu của Việt Nam.
11 loài cuốn chiếu mới và một chi mới đã được mô tả. Ngoài ra phạm vi của một số loài
đã biết trước đây được thêm vào.
5.2.4. Nghiên cứu mối liên hệ dinh dưỡng và vai trò chức năng của các nhóm sinh vật đất
chủ yếu; Nghiên cứu tập hợp côn trùng không xương sống – sinh sống ở phần phía trên
cùng của tán rừng nhiệt đới (Cát Tiên)
Đại diện 14 loài đốt sống kép được chọn làm đối tượng nghiên cứu. Nó đã được chỉ ra
rằng trên bề mặt của các loài đốt sống kép, trong ruột, phân của chúng, và trên chất nền,
mà giả thuyết do loài cuốn chiếu ăn chúng, trong số lượng lớn các trường hợp tham dự có
nấm men. Số lượng nấm men trên bề mặt của cuốn chiếu trung bình là 2 x10 3 CFU / cá thể,
5x 103 CFU / cá thể trong ruột, và trong phân – 1x 103 CFU / mm3 của chất nền. Trong chất
nền, mà các con cuốn chiếu ăn, số lượng men trung bình cao hơn 2-3 đơn vị. Số lượng tối
đa của nấm men trong cuốn chiếu là 1.5x10 3 cfu / cá thể trong ruột và 2.5x 10 4 cfu / mm3
chất nền trong phân. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã phân lập và phân tích
khoảng 500 chủng nấm men, chúng tôi phân bổ cho 78 loài và 36 chi (Bảng 1). Trong
trường hợp này, 12 loài không được mô tả, và 6 loài khác - chưa từng gặp trước đây.
Bảng 1.Danh sách các loài nấm men phân lập từ cuốn chiếu và chất nền liên quan
Loại nấm men
1 Ambrosiozyma monospora (Saito) Van der Walt (1972)
2 Ambrosiozyma sp.
3 Ambrosiozyma sp. новый вид
4 Aureobasidium sp.
5 Bandoniozyma aquatica Brandão, P. Valente, Pimenta & C.A. Rosa (2012)
6 Blastobotrys sp.
7 Candida aaseri Dietrichson ex Uden & H.R. Buckley (1970)
8 Candida carpophila (Phaff & M.W. Mill.) Vaughan-Mart., Kurtzman, S.A. Mey. &
E.B. O'Neill (2005)
9 Candida glabrata (H.W. Anderson) S.A. Mey (1978)
10 Candida intermedia (Cif. & Ashford) Langeron & Guerra (1938)
11 Candida metapsilosis Tavanti, A. Davidson, Gow, M. Maiden & Odds (2005)
12 Candida mucifera Kock.-Krat. & E. Sláviková (1988)
13 Candida natalensis Van der Walt & Tscheuschner (1957)
14 Candida oceani Burgaud & Barbier (2011)
15 Candida orthopsilosis Tavanti, A. Davidson, Gow, M. Maiden & Odds (2005)
16 Candida parapsilosis (Ashford) Langeron & Talice (1932)
17 Candida phangngensis Limtong, Yongman., H. Kawas. & T. Seki (2008)
18 Candida pseudointermedia Nakase, Komag. & Fukaz (1976)
19 Candida quercitrusa S.A. Mey. & Phaff (1998)
20 Candida saopaulonensis Ruivo, Pagnocca, Lachance & C.A. Rosa (2005)
21 Candida sp., близкая C. cylindracea
22 Candida sp. DR1-3
23 Candida sp. NRRL Y-27127
24 Candida sp. 1
25 Candida sp. 2
26 Candida spencermartinsiae Statzell-Tallman, Scorzetti & Fell (2010)
27 Candida tropicalis (Castell.) Berkhout (1923)
28 Cryptococcus sp.
29 Cutaneotrichosporon jirovecii (Frágner) X.Z. Liu, F.Y. Bai, M. Groenew. &
Boekhout (2015)
30 Cyberlindnera mrakii (Wick.) Minter (2009)
31 Cystobasidium minuta (Saito) A.M. Yurkov, A. Kachalkin, H.M. Daniel, M.
Groenew., Libkind, V. de Garcia, P. Zalar, Gouliamova, Boekhout & Begerow (2014)
32 Debaryomyces hansenii (Zopf) Lodder & Kreger (1952)
33 Debaryomyces nepalensis Goto & Sugiy (1968)
34 Debaryomyces vietnamensis Nguyen Huu-Vang (2009)
35 Diutina catenulate (Diddens & Lodder) Khunnamwong, Lertwattanasakul,
Jindam., Limtong & Lachance (2015)
36 Galactomyces candidum de Hoog & M.T. Sm. (2004)
27 Hannaella sp.
38 Hannaella sp. новый
39 Hanseniaspora opuntiae Cadez, Poot, Raspor & M.T. Sm. (2003)
40 Hanseniaspora pseudoguillermondii Cadez, Raspor & M.T. Sm. (2006)
41 Hyphopichia burtonii (Boidin, Pignal, Lehodey, Vey & Abadie) Arx &
Van der Walt (1976)
42 Kazachstania yakushimaensis (Mikata & Ueda-Nishim.) Kurtzman (2003)
43 Kazachstania yakushimaensis/ humatica
44 Kodamaea ohmeri (Etchells & T.A. Bell) Y. Yamada, Tom. Suzuki, M. Matsuda & Mikata
(1995)
45 Martiniozyma asiatica (Limtong, Kaewwich., Am-In, Nakase, C.F. Lee, Yongman. &
Srisuk) Kurtzman (2015)
46 Metchnikowia sp. новая, близкая M. agaves
47 Meyerozyma caribbica (Vaughan-Mart., Kurtzman, S.A. Mey. & E.B. O'Neill)
Kurtzman & M. Suzuki (2010)
48 Meyerozyma guilliermondii (Wick.) Kurtzman & M. Suzuki 2010
49 Papiliotrema laurentii (Kuff.) X.Z. Liu, F.Y. Bai, M. Groenew. &
Boekhout (2015)
50 Pichia barkeri Phaff, Starmer, Tredick & V. Aberdeen (1987)
51 Pichia bruneiensis M. Sipiczki (2012)
52 Pichia chibodasensis Kobayashi, Kanti & Kawasaki (2016)
53 Pichia kluyveri Bedford ex Kudryavtsev (1960)
54 Pichia kudriavzevii Boidin, Pignal & Besson, Bulletin de la Société (1965)
55 Pichia sp.
56 Pichia terricola Van der Walt (1957)
57 Piskurozyma taiwanensis (Nakase, Tsuzuki & M. Takash.) X.Z. Liu, F.Y. Bai,
M. Groenew. & Boekhout (2015)
58 Rhodosporidiobolus ruineniae (Holzschu, Tredick & Phaff) Q.M. Wang,
F.Y. Bai, M. Groenew. & Boekhout (2015)
59 Rhodotorula glutinis (Fresen.) F.C. Harrison (1928)
60 Rhodotorula mucilaginosa (A. Jörg.) F.C. Harrison (1928)
61 Saccharomyces cerevisiae Meyen ex E.C. Hansen (1883)
62 Saturnispora silvae (Vidal-Leir. & Uden) Kurtzman (2015)
63 Schwanniomyces polymorphus (Klöcker) M. Suzuki & Kurtzman (2010)
64 Schwanniomyces vanrijiae (van der Walt & Tscheuschner) M. Suzuki & Kurtzman (2010)
65 Starmera sp.
66 Starmera sp. новый
67 Sterigmatomyces halophilus Fell (1966)
68 Torulaspora delbrueckii (Lindner) Lindner (1904)
69 Torulaspora franciscae Capr. (1958)
70 Torulaspora pretoriensis (Van der Walt & Tscheuschner) Van der Walt & Johannsen
(1976)
71 Trichosporon asahii Akagi ex Sugita, A. Nishikawa & Shinoda (1994)
72 Vanrija humicola (Dasz.) R.T. Moore (1980)
73 Wickerhamomyces anomalus (E.C. Hansen) Kurtzman, Robnett &
Basehoar-Powers (2008)
74 Wickerhamomyces pijperi (Van der Walt & Tscheuschner) Kurtzman, Robnett & Basehoar-
Powers (2008)
75 Wickerhamomyces sp. новый
76 Yamadazyma sp.
77 Yamadazyma sp. новый
78 Zygotorulaspora sp.
Cấu trúc quần xã nấm men thay đổi rõ rệt trong loạt “chất nền - bề mặt loại hai đốt sống
- vật chứa ruột - phân”, một sự sắp xếp lại đáng kể các quần xã nấm men diễn ra, cụ thể là
tỷ lệ nấm men giảm và tỷ lệ ascomycetes tăng đáng kể.
Quần xã nấm men của đất nhiệt đới và thực vật rụng lá của rừng mưa nhiệt đới gió mùa
đã được nghiên cứu ở VQG Cát Tiên. Nó cho thấy rằng số lượng và sự đa dạng của nấm
men trong đất nhiệt đới là ít và thấp hơn nhiều so với các chỉ số tương ứng cho các loại đất
của Địa Trung Hải và vùng ôn đới của Nga. Số lượng men trung bình ở đây là 10 CFU / g.
Tổng cộng, 15 loài nấm men ascomysetes axcomixet và 10 loài nấm men Basidiomycetes
được phân lập từ các mẫu đất, rác và rễ đã nghiên cứu, trong đó có 5 loài mới (Bảng 2).
Quan tâm đặc biệt là sự lựa chọn đầu tiên từ các loại đất nhiệt đới của các loài sinh vật đơn
bào tự nhiên của nấm men Saitozyma podzolica, là đặc trưng nhất của đất zonal của các vĩ
độ ôn đới.
Hiện tại, chúng tôi đã chuẩn bị một bài báo để xuất bản trên tạp chí Soil Science
(Glushakova A.M., Kachalkin A.V., Maksimova I.A.. Nấm men ở vùng đất nhiệt đới miền
Nam Việt Nam), và chúng tôi cũng đang chuẩn bị mô tả một số loại nấm men mới.
Bảng 2. Sự phong phú tương đối (%) của các loài nấm men phân lập từ đất nhiệt đới của
các loại sinh cảnh khác nhau: 1 - “Bằng lăng, 2 - “Gõ đỏ”, 3 - “chi sung”4 - "chi Dầu", 5 -
"Pryamna".
Loại nấm men 1 2 3 4 5
Aureobasidium pullulans 13,07 0,00 0,00 20,00 0,00
Aureobasidium thailandense 1,50 1,30 0,00 0,00 0,00
Candida akabanensis 0,00 0,00 0,00 10,00 0,00
Candida endomichidarum или C. khao- 0,00 0,00 0,00 0,00 3,13
thaluensis
Candida michaelii 25,40 0,14 0,00 0,00 0,00
Candida orthopsilosis 26,70 0,14 0,00 0,00 0,00
Candida sp. (КБП Y-4904) 0,00 6,00 0,00 0,00 0,00
Filobasidium chernovii 0,00 0,00 0,00 0,00 10,71
Papiliotrema flavescens 0,00 49,00 0,00 0,00 0,00
Saitozyma podzolica 0,00 0,00 28,57 51,70 79,91
Hannaella sp. 0,00 0,00 0,00 0,00 3,13
Kazachstania aquatica 0,00 0,00 4,71 0,00 0,00
Kwoniella sp. 0,00 20,84 0,00 0,00 0,00
Martinozyma asiatica 0,00 0,00 4,86 0,00 0,00
Meyerozyma caribbica 0,00 0,00 21,00 0,00 0,00
Pseudozyma hubeiensis 0,00 20,00 0,00 0,00 0,00
Readerielliopsis fuscoporiae 0,00 0,00 0,00 18,30 0,00
Rhodosporidiobolus ruineniae 0,00 1,30 0,00 0,00 0,00
Sporidiobolus salmonicolor 33,33 0,00 0,00 0,00 0,00
Sporobolomyces carnicolor 0,00 1,28 0,00 0,00 0,00
Schwanniomyces polymorphus 0,00 0,00 0,00 0,00 3,13
Vanrija humicola 0,00 0,00 7,14 0,00 0,00
Wickerhamomyces sydowiorum 0,00 0,00 21,43 0,00 0,00
Wickerhamomyces sp. 1 0,00 0,00 7,57 0,00 0,00
Wickerhamomyces sp. 2 0,00 0,00 4,71 0,00 0,00
Bảng 1. Các thông số sinh sản chính của ba loài thuộc chi Kalophrynus, trong đó N là số
lượng trứng trong tổ, SVL (chiều dài mõm-lỗ mũi) là chiều dài cơ thể từ đầu mõm đến lỗ
cloacal. * Giai đoạn phát triển của ấu trùng theo bảng Gosner (Gosner, 1960).
Loài SVL N D trứng GĐ Chiều dài GĐ nở* GĐ ấu GĐSVL
con cái (мм) phôi khi nở trùng 46 (мм)
(мм) (сут.) (мм) (сут.)
Kalophrynus 41.0– 2900± 1.1±0.08 1 3.6±0.12 20–21 13–15 4.5±0.27
interlineatus 53.8 574.2
Kalophrynus 227.6 1.5±0.07 3 5.1±0.71 19–22 6.8±0.17
honbaensis – ± –
125.6
Kalophrynus 23.4 48± 1.4±0.06 3 5.3±0.37 23–24 5.5±0.21
cryptophonus 24.7 –
Hình. 1. Ấu trùng của ba loài Kalophrynus ở giai đoạn nở: (A) Kalophrynus interlineatus;
(B) Kalophrynus honbaensis; (C) Kalophrynus cryptophonus.
B
C
Hình. 2. Hình thái bên ngoài của nòng nọc của ba loài ếch thuộc chi Kalophrynus: (A) K.
interlineatus (phát triển trong các vùng nước mở) (B) K. honbaensis (phát triển trong các
hốc đất lớn); (C) K. cryptophonus (phát triển trong các nhánh của tre có một lượng nhỏ
nước).
Trong cấu trúc của bên trong hộp sọ của ba loài Kalophrynus, trong chuỗi nòng nọc vi
sinh vật phát triển trong các hồ mở đến các nòng nọc xốp phát triển trong khe hẹp chứa
nước, có sự tăng cường phần rostral của sọ, giảm các quá trình bên và phần sau của sụn
vòm miệng (hình 3).
Trong cấu trúc của bộ máy giobranchial trong cùng một chuỗi, có sự tăng cường dần dần
của các yếu tố ceratohical cung cấp nỗ lực hút, cũng như giảm giỏ nhánh chịu trách nhiệm
cho chức năng lọc (Hình 4).
Hình. 3. Cấu trúc của hộp sọ sụn trong nòng nọc của ba loài thuộc chi Kalophrynus: (A) K.
interlineatus; (B) K. honbaensis; (C) K. cryptophonus.
Hình. 4. Cấu trúc của bộ máy giobranchial trong nòng nọc của ba loài thuộc chi
Kalophrynus: (A) K. interlineatus; (B) K. honbaensis; (C) K. cryptophonus.
Sự phát triển ấu trùng ngắn bất thường của K. interlineatus, có lợi về mặt sinh thái cho sự
phát triển của loài này để sinh sản các hồ chứa phù du (khu vực rừng ngập nước, vũng
nước nông), dẫn đến sự sai lệch trong sự phát triển của bộ xương: ở loài này, bộ xương bị
tụt hậu so với các loài khác. Hình 5), dẫn đến sự phát triển kém của xương sọ ở tuổi trưởng
thành: sự vắng mặt của một số hóa thạch muộn, đặc trưng của vi mạch và sự phong phú
của sụn trong hộp sọ của người trưởng thành K. interlineatus (Hình 6).
Hình. 5. Sự phát triển của hóa thạch sọ ở ba loài ếch thuộc họ Microhylidae; PM - trạng
thái hậu đối xứng.
Hình. 6. Cấu trúc của hộp sọ xương Kalophrynus interlineatus (A) và Calluella guttulata
(B) (Microhylidae). Mô xương được thể hiện trong chất rắn.
5.3.2. Nghiên cứu hình thái của bộ xương sụn của nòng nọc của các nhóm sinh thái khác
nhau sinh sống trong các vũng nước tạm thời ở các khu rừng đất thấp của miền Nam Việt
Nam.
Một phần trong nghiên cứu đang tiến hành của các cộng đồng ấu trùng lưỡng cư
nhiệt đới ở miền nam Việt Nam trong giai đoạn 2017-2018. Cấu trúc hình thái của cấu trúc
xương của các nòng nọc hình thành các sự thích ứng dinh dưỡng khác nhau - bên trong hộp
sọ và bộ phận hyobranchial - đã được phân tích. Công việc được thực hiện với việc sử
dụng nhuộm tổng số mô học với màu xanh Alcianual.
Tổng cộng có 22 loài thuộc ba họ - Microhylidae, Rhacophoridae và Dicroglossidae - được
nghiên cứu.
Nghiên cứu cho thấy một số nhóm sinh vật chính của nòng nọc, được phân biệt bởi các đặc
điểm đặc trưng của hình thái học:
1) Microfilters: nhóm này được đặc trưng bởi một hộp sọ mỏng, tinh xảo với phát âm
xa, nó được tạo bởi sụn vòm miệng và cấu trúc suy yếu tăng cường môi trên và
dưới; trong bộ máy hyobranchial, chúng được đặc trưng bởi cấu trúc tinh tế của các
nguyên tố ceratohyal và thể tích, mạng lưới.
2) Động vật ăn tạp "trọc": nhóm này được đặc trưng bởi một cấu trúc nhiều hơn hoặc
ít tổng quát của bộ máy uống và hyobranchial, với các yếu tố keratin, sụn palatine
rộng vuông và một quá trình cơ rõ rệt; thiết bị hyobranchial được phân biệt bởi sự
hiện diện của các nguyên tố ceratohyal lớn, bền và phát triển, mặc dù không phải là
mạng lưới lớn.
3) Predators-đại thực bào: trong họ Dicroglossidae nòng nọc chuyên ăn thịt có thể ăn
thực vật (ví dụ: Hoplobatrachus rugulosus), cấu trúc hộp sọ và bộ phận
hyobranchial nói chung cũng tương tự như các loại khác, trong khi loài chuyên thịt
chẳng hạn như ấu trùng loài Occidozyga martensii, có biến đổi hình thái ý nghĩa:
giảm mặt sau của sụn bụng, sụn lớn và sụn dưới ức, cũng như phì đại của các yếu tố
ceratohyal và giảm của các chi , sẽ hoàn toàn mất giá trị của nó như là một bộ lọc
(hình 7). thích ứng cực đoan như vậy để nòng nọc ăn thịt O. martensii chiếm ngách
sinh thái rất đáng kể trong quần xã nòng nọc vũng nước tạm thời
Hình. 7. Cấu trúc của hộp sọ và bộ máy hyobranchial trong nòng nọc săn mồi: (A, B)
Hoplobatrachus rugulosus là một loại tổng quát; (C, D) Occidozyga martensii là một loại
chuyên biệt.
5.3.3. Mô tả khoa học mới về các hình thức ấu trùng của ếch nhiệt đới sinh sống ở các
vùng miền Nam Việt Nam.
Trong năm 2017-2018 mô tả các hình thức ấu trùng của ếch chưa được công bố trước
đây trong các tài liệu khoa học đã được thực hiện.
Tài liệu mô tả (loạt tuổi của nòng nọc) đã được thu thập trong các cuộc thám hiểm
đến các khu vực khác nhau của miền Nam Việt Nam (hình 8). Các mô tả được thực hiện
trên cơ sở của một thủ tục hình thái chuẩn, chụp ảnh macro intravital, chụp quang học của
các mẫu cố định và các bản vẽ giải phẫu (hình 9).
Hình. 8. Các hồ chứa sinh sản (A, B) trong khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước
Bửu và trên bán đảo Cam Ranh, hình thái bên ngoài của nòng nọc (C, D), bộ máy miệng
nòng nọc (E) và F Microhyla picta.
Hình. 9. Xuất hiện (A, B), đĩa miệng (C), màu sắc của nòng nọc ở giai đoạn tiến triển (D)
và con non của (F) Hylarana lateralis.
Công việc được thực hiện trong khuôn khổ của việc chuẩn bị các yếu tố quyết định của
động vật lưỡng cư ở miền Nam Việt Nam đối với nòng nọc, nhằm mục đích sử dụng trong
tiến hành các nghiên cứu về hệ sinh thái và khu hệ động vật.
Nòng nọc của các loài đặc hữu Microhyla picta Việt Nam (Microhylidae), sống ở các
vùng ven biển phía Nam Việt Nam, cũng như nòng nọc của ếch của họ Ranidae, Hylarana
lateralis, phổ biến ở Việt Nam và bán đảo Đông Dương.
5.3.4. Kiến trong phổ thực phẩm của ếch đất rừng ở Vườn quốc gia Cát Tiên
Nghiên cứu được tiến hành như một phần của nghiên cứu về các hang nhiệt đới của
động vật lưỡng cư trong cấu trúc hệ sinh thái của một khu rừng nhiệt đới gió mùa.
Ở giai đoạn này, thành phần loài kiến có trong chế độ ăn của hai loài ếch rừng trên mặt
đất của họ Dicroglossidae, Occidozyga martensii và Limnonectes dabanus, hoạt động trong
mùa khô (tháng 1-tháng 2) được phân tích.
Điều này cho thấy, nói chung, kiến tạo thành một phần không đổi, bình thường nhưng
không dồi dào trong chế độ ăn của ếch được nghiên cứu - theo quy luật, chúng hiện diện
trong dạ dày khoảng 2/3 tất cả các mẫu ếch nghiên cứu chỉ ở dạng cá thể. Sự đa dạng loài
của các loài kiến là khá lớn - 20 loài ở O. martensii và 18 loài trong L. dabanus. Nó cho
thấy rằng các loài kiến phổ biến nhất thống trị phổ thực phẩm của cả hai loài, được tổ chức
trên mặt đất và trong sàn rừng. Cả hai loài ếch này đều thể hiện mình là những loài không
chỉ về mặt phổ lương thực chung mà còn cả về ăn kiến.
Hình. 10. Thành phần loài kiến trong phổ thức ăn của ếch Occidozyga martensii trong thời
kỳ khô hạn trong năm.
5.4. Nghiên cứu khu hệ chim
5.4.1. Điều tra trao đổi năng lượng của chim trong rừng nhiệt đới (Cát Tiên)
Mục tiêu chính của công việc của chúng tôi là nghiên cứu các yếu tố biến đổi trong mức
độ trao đổi chất năng lượng và phân tích toàn diện các liên kết giữa năng lượng, đặc điểm
huyết học và ký sinh trùng của các loài chim nhiệt đới. Công việc của năm 2018 là sự tiếp
nối của nghiên cứu chúng tôi tiến hành trong giai đoạn 2011-2013 và 2015-2017. Cụ thể,
các phương pháp chính của nghiên cứu này và lý giải lý thuyết của các tác vụ có thể được
tìm thấy trong báo cáo cuối cùng của nhóm của chúng tôi cho năm 2015 và trong bài báo
của chúng tôi (Bushuev et al., 2017). Việc xem xét số liệu cập nhật (xem bảng 5 của báo
cáo này) chứng minh tính khẩn cấp của vấn đề trong khuôn khổ sinh lý sinh thái và sinh
thái tiến hóa và vị trí công việc của chúng tôi trong một loạt các nghiên cứu về năng lượng
của chim. Ở giai đoạn này, nhiệm vụ chính của nghiên cứu của chúng tôi là tích lũy dữ liệu
về mức độ trao đổi cơ bản (BMR) của một số nhóm chim nhiệt đới và phân loại sinh học
với mục đích tiếp theo là phân tích kim loại năng lượng của chim, bao gồm cả chim từ
vùng nhiệt đới và từ vĩ độ trung bình đến cao. Phân tích gộp này sẽ được thực hiện trên cơ
sở dữ liệu toàn cầu bao gồm cả phép đo BMR ban đầu của chim nhiệt đới và dữ liệu từ tài
liệu BMR từ chim từ vùng nhiệt đới và vĩ độ cao hơn (xem xem số liệu ở dạng 5 của báo
cáo này). Kết quả mới nhất của chúng tôi về các yếu tố biến đổi của BMR đối với chim
nhiệt đới, dựa trên toàn bộ dữ liệu gốc thu thập ở Việt Nam, bao gồm dữ liệu cho năm
2018, được trình bày bởi (Bushuev et al., 2018) và poster (Kerimov et al., 2018) tại Hội
thảo nghiên cứu chim quốc tế (19-26 tháng 8, 2018, Vancouver, British Columbia,
Canada).
1) Như những năm trước, ở giai đoạn đầu của công việc trong nửa đầu tháng 2 năm 2018,
thiết bị đã được lắp ráp và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm của Trung tâm Nhiệt đới ở
Vườn quốc gia Cát Tiên. Trong phòng thí nghiệm đã được cài đặt gồm:
• Thiết bị hô hấp có độ chính xác cao - hai máy phân tích khí O2Box CO2 (Hệ thống
Sable, Mỹ) với hệ thống chuyển mạch kênh tự động, có thể đo mức độ trao đổi chất lúc
nghỉ (BMR, RMR) ở 7 con trong một buổi tối. Hoạt động của các máy phân tích khí được
đảm bảo bởi hệ thống cung cấp điện liên tục mà chúng tôi xây dựng trên cơ sở UPS trực
tuyến và pin có thể sạc lại với công suất 200 Ah, có thể thực hiện các phép đo hô hấp ở chế
độ độc lập trong khi cúp điện.
• Nơi làm việc để lấy mẫu máu để phân tích ADN và lấy máu để đánh giá các chỉ số bạch
cầu (WBC, H / L) và mức độ nhiễm trùng máu chim bằng hematosporidia, cũng như để
khắc phục dư lượng động vật chân đốt từ phân chim trong cồn 96% để xác định thức ăn
tiếp theo phổ của các loài chim ăn côn trùng sử dụng phân tích DNA của nạn nhân của
chúng.
• Chuồng chim để nuôi chim thời gian ngắn.
• Nơi làm việc để kiểm tra các loài chim bị lây nhiễm ký sinh trùng và thu thập ký sinh
trùng.
Sau khi thử nghiệm hệ thống đo lường, các loài chim thường xuyên bị bắt bởi lưới nhện
ở các môi trường sống khác nhau, lấy mẫu máu, lấy mẫu phân, kiểm tra ký sinh trùng,
chuyển hóa cơ bản (BMR).
2) Trong công việc thực địa từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2018 ởVQG Cát Tiên, có 443 con
chim bị bắt trong nhiều môi trường sống khác nhau. BMR được đo lường trong 293 cá thể
của 76 loài, bao gồm đại diện của 14 loài mới và một bộ mới (xem Bảng 1, loài mới được
gạch dưới). Giá trị BMR trung bình và trọng lượng cơ thể của tất cả các loài từ cơ sở dữ
liệu năng lượng tổng quát được trình bày trong Bảng 1 của Phụ lục của Mẫu 5.
Các mẫu máu được lấy từ hầu hết các loài chim với BMR đo được ngoài ra phân tích
ADN các mẫu máu lấy được. Một số loài chim này đã được kiểm tra đối với ký sinh trùng.
Các mẫu phân từ 150 loài chim khác nhau đã thu được. Máu được bôi được tô màu và
phân tích tại phòng mô học tại Khoa Động vật có xương sống, Khoa Sinh học, Đại học
Quốc gia Moscow. Thiếu đoạn này: собранные эктопаразиты переданы на
определение в Центр паразитологии ИПЭЭ РАН, помет птиц планируется
передать в лабораторию Университета Глазго (Шотландия) для определения
таксономического состава жертв по анализу их ДНК.
Cơ sở dữ liệu năng lượng được bổ sung vào năm 2018 là lớn nhất cho các loài chim
nhiệt đới của Thế giới Cũ và bao gồm 1246 phép đo BMR cho 1191 cá thể thuộc 125 loài.
Bảng 1. Số lượng cá thể của từng loài có BMR đo được trong năm 2018. Các loài mới cho
cơ sở năng lượng của chúng ta được gạch dưới. Tên La tinh được đưa ra phù hợp với Danh
sách Chim Thế giới IOC v. 7.3 (DOI: 10.14344 / IOC.ML.7.3;
http://www.worldbirdnames.org/).
Loài Họ Bộ SL cá thể
Abroscopus superciliaris Scotocercidae Passeriformes 5
Acrocephalus bistrigiceps Acrocephalidae Passeriformes 10
Acrocephalus orientalis Acrocephalidae Passeriformes 2
Aegithina lafresnayei Aegithinidae Passeriformes 2
Aethopyga siparaja Nectariniidae Passeriformes 3
Alcedo atthis Alcedinidae Coraciiformes 1
Alcedo meninting Alcedinidae Coraciiformes 5
Alophoixus ochraceus Pycnonotidae Passeriformes 15
Anthus rufulus Motacillidae Passeriformes 5
Arachnothera longirostra Nectariniidae Passeriformes 16
Ardeola bacchus Ardeidae Pelecaniformes 1
Cacomantis sonneratii Cuculidae Cuculiformes 1
Calliope calliope Muscicapidae Passeriformes 1
Caprimulgus macrurus Caprimulgidae Caprimulgiformes 5
Centropus bengalensis Cuculidae Cuculiformes 2
Ceyx erithaca Alcedinidae Coraciiformes 6
Chalcoparia singalensis Nectariniidae Passeriformes 2
Chalcophaps indica Columbidae Columbiformes 9
Cinnyris jugularis Nectariniidae Passeriformes 1
Copsychus malabaricus Muscicapidae Passeriformes 14
Copsychus saularis Muscicapidae Passeriformes 2
Crypsirina temia Corvidae Passeriformes 1
Cymbirhynchus macrorhynchos Eurylaimidae Passeriformes 1
Cyornis hainanus Muscicapidae Passeriformes 4
Cyornis tickelliae Muscicapidae Passeriformes 7
Dicaeum cruentatum Dicaeidae Passeriformes 2
Dicrurus aeneus Dicruridae Passeriformes 3
Dicrurus hottentottus Dicruridae Passeriformes 1
Dicrurus leucophaeus Dicruridae Passeriformes 3
Dicrurus paradiseus Dicruridae Passeriformes 4
Dinopium javanense Picidae Piciformes 1
Ficedula albicilla Muscicapidae Passeriformes 1
Garrulax leucolophus Leiothrichidae Passeriformes 1
Geokichla citrina Turdidae Passeriformes 1
Halcyon coromanda Alcedinidae Coraciiformes 1
Halcyon smyrnensis Alcedinidae Coraciiformes 2
Hemicircus canente Picidae Piciformes 2
Hirundo rustica Hirundinidae Passeriformes 6
Hypogramma hypogrammicum Nectariniidae Passeriformes 1
Hypothymis azurea Monarchidae Passeriformes 7
Iduna aedon Acrocephalidae Passeriformes 1
Iole propinqua Pycnonotidae Passeriformes 9
Irena puella Irenidae Passeriformes 6
Ixobrychus cinnamomeus Ardeidae Pelecaniformes 3
Lacedo pulchella Alcedinidae Coraciiformes 5
Lanius cristatus Laniidae Passeriformes 1
Larvivora cyane Muscicapidae Passeriformes 23
Locustella lanceolata Locustellidae Passeriformes 4
Lonchura striata Estrildidae Passeriformes 2
Lyncornis macrotis Caprimulgidae Caprimulgiformes 4
Macronus gularis Timaliidae Passeriformes 7
Macronus kelleyi Timaliidae Passeriformes 1
Malacocincla abbotti Pellorneidae Passeriformes 4
Malacopteron cinereum Pellorneidae Passeriformes 1
Micropternus brachyurus Picidae Piciformes 1
Muscicapa dauurica Muscicapidae Passeriformes 1
Ninox scutulata Strigidae Strigiformes 3
Nyctyornis athertoni Meropidae Coraciiformes 1
Oriolus xanthornus Oriolidae Passeriformes 1
Orthotomus atrogularis Cisticolidae Passeriformes 3
Otus lettia Strigidae Strigiformes 1
Otus sunia Strigidae Strigiformes 1
Pellorneum ruficeps Pellorneidae Passeriformes 2
Phylloscopus tenellipes Phylloscopidae Passeriformes 2
Picus vittatus Picidae Piciformes 6
Pitta moluccensis Pittidae Passeriformes 4
Prinia hodgsonii Cisticolidae Passeriformes 2
Prinia inornata Cisticolidae Passeriformes 9
Pycnonotus atriceps Pycnonotidae Passeriformes 5
Pycnonotus blanfordi Pycnonotidae Passeriformes 6
Pycnonotus finlaysoni Pycnonotidae Passeriformes 6
Pycnonotus melanicterus Pycnonotidae Passeriformes 2
Sasia ochracea Picidae Piciformes 3
Saxicola caprata Muscicapidae Passeriformes 2
Tephrodornis virgatus Vangidae Passeriformes 3
Timalia pileata Timaliidae Passeriformes 1
3) Phân tích Allometric của BMR, đo vào năm 2018, như trước đây, cho thấy một mức độ
rất dốc của đường hồi quy BMR trên trọng lượng cơ thể (Hình 1). Điều này có nghĩa là sự
khác biệt về mức độ trao đổi chất ở các loài chim nhỏ và lớn ở vùng nhiệt đới ít hơn ở các
vĩ độ cao hơn. Độ dốc (số mũ trong phương trình tương quan) là b = 0,538 (cả chim di cư
và chim kg di cư đều được đưa vào mẫu, nhưng thiếu но исключен цветоед Dicaemum
cruentatum, BMR cực kỳ thấp trong đó ngụ ý khả năng của loài này gây sự sửng sốt.
lo g [B M R ], к Д ж /с у т
1 .8
1 .6
1 .4
Воробьиные
1 .2
Неворобьиные
Hình 1. Mối quan hệ giữa khối lượng cơ thể và BMR ở các loài chim nhiệt đới ở miền
Nam Việt Nam (đường màu xanh lục). Các đường chấm chấm màu đỏ biểu thị khoảng tin
cậy hồi quy 95%. Mỗi điểm của biểu đồ là giá trị trung bình cho chế độ xem. Loài
Dicaemum cruentatum được loại trừ khỏi mẫu. Dữ liệu cho năm 2018
4) Hệ số xác định (R2) cho toàn bộ mô hình tương quan là 0,86, gần với các giá trị cho
năm 2016 và 2017. Các giá trị thấp hơn của hệ số xác định thu được trong các mô hình cho
giai đoạn 2011-2018 so với các số liệu cho năm 2011-2015 cho thấy trong ba năm qua tỷ lệ
biến đổi BMR, được giải thích bởi trọng lượng cơ thể, ít hơn đáng kể so với trong những
năm trước. Đó là, trong những năm gần đây, BMR đã bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi một số
yếu tố khác ngoài trọng lượng cơ thể (sinh thái, sinh lý học, phân loại) có bản chất được
xác định.
5) Trái ngược với những năm trước, vào năm 2018, có sự khác biệt giữa loài chim nhiệt
đới ít vận động và không sống bằng cách đánh chặn (p <0,001) trong hồi quy liên kết BMR
và khối lượng cơ thể (Hình 2). Độ dốc của các đường hồi qui không khác nhau (p = 0,95).
Trong số các cư dân, chim sẻ đông hơn số chim không phải trong BMR. Kết quả này phù
hợp với kết quả của các nhà nghiên cứu khác về sự khác biệt giữa hai nhóm chim nhiệt đới
(Londoño et al., 2015; McNab, 2013; Wiersma et al., 2007a), nhưng mâu thuẫn với dữ liệu
trước đây của chúng tôi và không đồng ý với giả thuyết Gavrilov về nguồn gốc cao các vĩ
độ trung bình và cao (xem phần xem xét tài liệu trong Phụ lục của mẫu 5 của báo cáo này).
lo g [ B M R ] , к Д ж /с у т
1 .8
1 .6
1 .4
1 .2
Воробьиные
Неворобьиные
Hình 2. Mối quan hệ giữa trọng lượng cơ thể và BMR ở các động vật ít vận động và các
loài chim không hoang dã ở miền Nam Việt Nam (tương ứng với các đường màu đỏ và
xanh dương). Các đường đứt nét mỏng cho biết khoảng tin cậy của các hồi quy 95%. Mỗi
điểm của biểu đồ là giá trị trung bình cho chế độ xem. Loài Dicaemum cruentatum được
loại trừ khỏi mẫu. Dữ liệu cho năm 2018
6) Việc sử dụng mẫu năm 2018 không xác nhận tỷ lệ hiện nhiễm BMR đã được tiết lộ
trước đây từ các vĩ độ trung bình và cao ngủ đông ở vùng nhiệt đới trên mật độ (p> 0,05
đối với chặn và độ dốc; Hình 3). Kết quả này là quan trọng trong việc đánh giá vai trò của
yếu tố nhiệt độ trong biến thể BMR (Jetz và cộng sự, 2008).
1 .8
lo g [B M R ], к Д ж /с у т
1 .6
1 .4
1 .2
Резиденты
Мигранты
Hình 3. Mối quan hệ giữa trọng lượng cơ thể và BMR ở các đường truyền ít vận động và
di cư từ miền Nam Việt Nam (tương ứng với các đường màu đỏ và xanh dương). Các
đường đứt nét mỏng cho biết khoảng tin cậy 95% của các hồi quy. Mỗi điểm của biểu đồ là
giá trị trung bình cho chế độ xemòaLoài Dicaemum cruentatum được loại trừ khỏi mẫu.
Dữ liệu cho năm 2018
7) Như trong năm 2017, trong mẫu năm 2018, chim Sẻ hót không khác với la hét trong các
hệ số hồi quy (Hình 4), cũng như trong giá trị của BMR độc lập với trọng lượng cơ thể
(ANCOVA: p = 0,82).
lo g [B M R ], к Д ж /с у т
1 .8
1 .6
1 .4
1 .2
Певчие
Кричащие
Hình 4. Mối quan hệ giữa trọng lượng cơ thể và BMR trong loài chim biết hót và la hét
của chim Sẻ cư trú từ miền Nam Việt Nam (tương ứng với đường màu đỏ và xanh dương).
Các đường đứt nét mỏng cho biết khoảng tin cậy 95% của các hồi quy. Mỗi điểm của biểu
đồ là giá trị trung bình cho chế độ xem loại Dicaemum cruentatum được loại trừ khỏi mẫu.
Dữ liệu cho năm 2018
8) Vào năm 2018, chúng tôi đã bắt được và đo BMR trong hai đại diện của 2 loài chim đại
diện có màu đỏ (Dicaeum cruentatum). Cả hai cá thể đều cho thấy BMR cực kỳ thấp, được
xác nhận bởi dữ liệu năm 2016. BMR của loài chìm màu ít hơn ba lần so với các loài chim
có trọng lượng cơ thể tương tự từ các nhóm khác (xem góc dưới bên trái của Hình 5). Có lẽ
đây là bằng chứng về khả năng chim màu xâm nhập vào các trạng thái (torpor) ở nhiệt độ
không khí tương đối cao. Khả năng đi vào trạng thái đờ đẫn ở nhiệt độ môi trường xung
quanh cao là một hiện tượng hiếm gặp và chỉ được biết đến trong các loài chim bị cô lập từ
các nhóm khác.
9) Do việc mở rộng phổ phân loại vào năm 2018 (đặc biệt, sự xuất hiện của kozodoy trong
mẫu và tăng số lượng các loài cú), phân tích thống kê cho thấy sự hiện diện của một tín
hiệu phát sinh trong một BMR độc lập với trọng lượng cơ thể (Pagel's lambda = 0.7184).
Trước đây, quan hệ sinh sản phát sinh không ảnh hưởng đến chỉ số năng lượng này. Điều
này có nghĩa là cần sử dụng các phương pháp phát sinh loài trong việc phân tích biến thể
của BMR. Việc sử dụng hồi quy phát sinh loài (PGLS) làm tăng R2 thành 0,92, và độ dốc
của đường hồi qui tăng lên b = 0,61 (b = 0,58 ngoại trừ bọ cánh cứng màu với tỷ lệ trao đổi
chất thấp bất thường). Điều quan trọng cần lưu ý là khi sử dụng ANCOVA phylogenetic
(PANCOVA), sự khác biệt giữa mật độ và các loài không phân sẽ biến mất (p = 0,30 đối
với độ nghiêng, p = 0,17 đối với chặn), tương ứng với kết luận trước đó của chúng ta.
Đồng thời, PANCOVA cũng không tiết lộ sự khác biệt về năng lượng giữa ca sĩ và người
hét, cũng như giữa сhim di cư và chim bản địa.
Hình 5. Mối quan hệ giữa trọng lượng cơ thể và BMR ở các loài chim nhiệt đới ở miền
Nam Việt Nam (dòng màu xanh lục). Màu đỏ biểu thị các loài thuộc giống Sparrow. Màu
ngọc lam được tô sáng các loài thuộc các bộ khác. Mỗi điểm của biểu đồ thể hiện giá trị
trung bình cho chế độ xem.
10) Việc mở rộng phạm vi phân loại và kích thước của các loài chim bị bắt vào năm 2018
đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2011-2017. Cơ sở dữ liệu năng lượng của các
loài chim nhiệt đới Việt Nam cho phép chúng tôi sử dụng trong phân tích thống kê chỉ
những loài chim có ít nhất ba cá thể được đo. Một phân tích tương tự đã xác nhận một số
phát hiện trước đó: giảm BMR của chim nhiệt đới so với chim ở vĩ độ trung bình và cao,
độ dốc nhẹ của hồi quy BMR đối với trọng lượng cơ thể của chim vùng nhiệt đới, tăng
BMR của chim di cư từ vĩ độ trung bình tại địa điểm mùa đông so với cư dân vùng nhiệt
đới. rõ ràng là một số kết luận này mâu thuẫn với các kết luận thu được trên cơ sở phân
tích dữ liệu chỉ vào năm 2018). Tuy nhiên, một số kết luận cũ đã thay đổi sau khi được đưa
vào cơ sở dữ liệu năng lượng cho năm 2018: mật độ cho thấy tăng BMR so với độ tin cậy
(p = 0,001), và la hét chim Sẻ - giảm BMR so với chim sẻ hót (p = 0,01). Ngoài ra, PGLS
đã tiết lộ một tín hiệu phát sinh loài trong BMR: Pag = 0.84 của Pagel (cây phát sinh được
thể hiện trong (Hình 6). Mặt khác, phân tích phát sinh sai số (PANCOVA) đã không tiết lộ
bất kỳ sự khác biệt nào về BMR giữa chim Sẻ và những chim không cư trú ở vùng nhiệt
đới (p> 0,3). Các kết luận chính của nghiên cứu về các yếu tố biến thiên tỷ lệ trao đổi chất
cơ bản (BMR) của chim nhiệt đới (theo số liệu tổng quát cho giai đoạn 2011-2018) được
trình bày tại hội thảo Nga lần 1 (tháng 1 năm 2018, Tver) và quốc tế lần thứ 27 (tháng 8
năm 2018, Vancouver) Hội thảo điểu học (Bushuev và cộng sự, 2018; Kerimov và cộng sự,
2018; Kalyakin và cộng sự, 2018; Bushuev và cộng sự, 2018; Kerimov và cộng sự, 2018).
Hình. 6. Cây phát sinh loài chim được nghiên cứu ở miền Nam Việt Nam. Cây dựa trên dữ
liệu từ dự án BirdTree (http://www.birdtree.org) và hệ thống Hackett (Hackett et al., 2008).
11) Theo nghiên cứu năng lượng chim gần đây của Úc, BMR thấp hơn của các loài chim
nhiệt đới không liên quan đến nhiệt độ cao ở vùng nhiệt đới, nhưng với điều kiện khí hậu
ổn định hơn (Bech et al., 2016). Được biết, độ lặp lại (hệ số tương quan nội hàm) của các
đặc điểm sinh lý trong điều kiện ổn định là cao hơn. Ví dụ, độ lặp lại của BMR trong
phòng thí nghiệm cao hơn so với tự nhiên (Auer et al., 2016). Điều này cho thấy rằng ở
vùng nhiệt đới, tần số BMR phải rất cao. Năm 2018, chúng tôi đã bắt được một số lượng
đáng kể các cá nhân có BMR đã được đo trong những năm trước. Điều này cho phép
chúng tôi đánh giá sơ bộ về độ lặp lại của các đặc điểm sinh lý của các loài chim nhiệt đới
trong khoảng thời gian đáng kể (hơn một năm). Ước tính tương tự là hiếm ngay cả đối với
các loài chim sống tự do từ vùng ôn đới (Bech et al., 1999; Broggy et al., 2009; Bushuev et
al., 2011; Bouwhuis et al., 2013), và vùng nhiệt đới hoàn toàn không có. Ước tính độ lặp
lại BMR của chúng tôi là nghiên cứu dài hạn đầu tiên về sinh lý của động vật nhiệt đới ở
cấp độ cá thể.
Trong tất cả các năm nghiên cứu tại Việt Nam, chúng tôi đã đo BMR lặp lại ở 42 cá thể
thuộc 23 loài. Khoảng thời gian trung bình giữa các lần đo là 547 ngày (tối thiểu 318 ngày,
tối đa 1816 ngày). Độ lặp lại BMR được ước tính bằng cách sử dụng các mô hình hiệu ứng
tuyến tính hỗn hợp hóa ra rất cao và có ý nghĩa: R = 0,92 cho toàn bộ cơ thể BMR và R =
0,52 cho BMR độc lập với trọng lượng cơ thể. Tuy nhiên, điều này là do việc sử dụng
nhiều loài chim trong phân tích, vì sự khác biệt giữa các loài khác nhau trong khối lượng
cơ thể và sinh thái làm tăng đáng kể sự thay đổi giữa các cá thể. Bao gồm trong mô hình
loài như là một yếu tố ngẫu nhiên thứ hai [Log (BMR) ~ Log (M) + (1 | ID) + (1 | Loài)]
làm cho độ lặp lại rất thấp (R = 0,11) và không đáng kể về mặt thống kê. Rõ ràng, các điều
kiện nhiệt đới không ổn định đối với sinh lý học của chim, theo đề xuất của những người
sáng tạo về khái niệm "cuộc sống chậm chạp" ở vùng nhiệt đới.
Việc sử dụng các hạn chế về số cá thể trên mỗi loài (n ≥ 2) và thời gian giữa các phép đo
BMR (không quá một năm) cho phép chúng ta có được BMR đáng tin cậy (R = 0,25), mặc
dù nó giảm số lượng cá thể xuống còn 26. Ngoài ra, đối với một phần của loài, khả năng
lặp lại intraspecific của BMR có thể được đánh giá. Loài duy nhất có độ lặp lại đáng tin
cậy và rất cao (R = 0,85) độc lập với khối lượng cơ thể BMR là loài Halcyon smyrnensis,
mặc dù đánh giá này cần được xử lý thận trọng vì BMR chỉ được đo lại ở 4 cá thể của loài
này.
5.4.2. Nghiên cứu cấu trúc và sự biến động của quần thể chim rừng
Để xác định cấu trúc lãnh thổ và phân bố của những loài chim di cư xa xôi trong mùa đông
phương pháp thống kê đã được sử dụng - bẫy tiêu chuẩn. Bẫy được thực hiện ở tầng dưới
của rừng nhiệt đới thứ sinh. Dùng bẫy chuẩn đã bắt 449 cá thể của 55 loài chim. Hai loài
Phylloscopus humei và Erythrura prasina bị bắt trong quá trình nghiên cứu này không có
trong danh sách các loài chim của Vườn quốc gia Cát Tiên (Danh sách các loài chim Cát
Tiên). 15,7% (55 trong tổng số 350 loài) của sự đa dạng loài chim trong vườn quốc gia đã
được khảo sát.
Ở tầng dưới của rừng nhiệt đới thứ sinh vào mùa đông, mùa “khô”, các loài chim có vị
trí, lãnh thổ khác nhau sống với nhau: loài ít vận động - 76,3%, loài di cư gần -11%, loài
di cư xa-9,1%, 02 loại (3,5%) tình trạng không được xác định.
Số lượng chim ít vận động nhất trong bẫy là shama (Copsychus malabaricus) - 10,7% và
chim nhện (Arachnothera longirostra) - 5,8% di cư gần (6 loài) chiếm 5,3% tổng số chim
bị bắt. Những loài di cư xa (5 loài) chiếm tỷ lệ đáng kể (25,2%) số lượng chim được ghi
nhận. Một vị trí đặc biệt torng quần xã là loài chim biển xanh (Luscinia cyane). Trong thời
gian đánh bắt bằng bẫy chuẩn, 90 cá chim bị bắt trong lưới nhện, chiếm 20% tổng số con
chim bị bắt. Ở tầng dưới của rừng nhiệt đới thứ sinh trong mùa khô, chim di cư xa xôi
Palearctic có mức độ phong phú cao nhất trong số các loài có vị trí, lãnh thổ khác nhau.
Hình 1 chỉ ra rằng trong mùa đông 2017-2018, số lượng các loài chim trong sản lượng
khai thác thay đổi (Hình 1). Số lượng chim bị bắt trong sinh cảnh rừng có ý nghĩa tiêu cực
liên quan đến ngày dương lịch (rS = -0,2767; p <0,05). Chúng tôi kết hợp sự thay đổi này
với sự suy giảm lượng mưa trong quá trình hình thành “mùa khô”. Càng ít mưa, đất khô
hơn trở nên trong rừng, và điều này ảnh hưởng đến số lượng và sự sẵn có của các động vật
không xương sống trên mặt đất nhỏ, là nguồn thức ăn chính cho các loài chim nhỏ ở tầng
dưới của rừng nhiệt đới.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu này, có một loài chim đẹp đã được tìm thấy – đó
là họa mi xanh lam. Đây là một loài chim di cư xa xôi với giới tính và tuổi tác rõ ràng, hai
nhóm tuổi - năm đầu tiên và chim già hơn một tuổi, có thể được đảm bảo để được xác định.
Thành phần tuổi và giới tính của chim họa mi xanh lam được trình bày trong bảng. 1.
Trong VQG Cát Tiên, dân số mùa đông bao gồm 72% cái và 28% đực, khác biệt đáng kể
so với phân bố giới tính thông thường 50:50 (df = 1, χ2 = 10,7, p = 0,001). Các dữ liệu thu
được một cách thuyết phục chỉ ra rằng VQG Cát Tiên nằm ở phần phía Nam của phạm vi
mùa đông của vùng đệm xanh, như được chỉ ra bởi một tỷ lệ lớn chim cái bị đánh bắt.
Hình 1. Biến động của chim bị đánh bắt trong mùa “khô”
Bảng 2. Tỷ số giới tính và độ tuổi cho mùa đông ở VQG Cát Tiên của chim họa minh
xanh.
6. Một số ấn phẩm
6.1. Thực vật
1. Vũ Mạnh. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây gỗ trong các ưu hợp họ Sao
Dầu (Dipterocarpaceae) tại VQG Cát Tiên, tỉnh Đồng Nai. Tạp chí khoa học công nghệ
nhiệt đới.
6.2. Động vật đất
1. Golovatch SI, Semenyuk II. Vài loài mới hoặc ít được biết đến ở Phương Đông thuộc họ
Paradoxosomatidae (Diplopoda: Polydesmida), XXIII. Arthropoda selecta 2018, 27 (1)
trang 1-21.
2. Golovatch SI, Semenyuk II. Vài loài mới hoặc ít được biết đến ở Phương Đông thuộc họ
Paradoxosomatidae (Diplopoda: Polydesmida), XXIV. Arthropoda selecta 2018, 27 (3)
trang 187-200.
3. Semenyuk II, Golovatch SI, Wesener T. Bốn loài mới của loài rết khổng lồ ở Việt Nam
(Sphaerotheriida, Zephroniidae). Zootaxa 2018, 4459 (3) trang 535-550.
4. Schileyko A., Semenyuk I. gen tổng hợp Falsiplecta. et sp. từ Việt Nam (Gastropoda,
Pulmonata, Helicarionidae). Ruthenica 2018 tập. 28 (3) trang 125-129.
5. Semenyuk II, Tiunov AV. Hành vi tìm kiếm thức ăn như là một cơ chế để phân tách thị
trường trong quần xã millipede của miền Nam Việt Nam. Tạp chí Châu Âu về Sinh học
Đất.
6.3. Lưỡng cư – Bò sát
1. Vassilieva A.B., Trounov V.L. (2018) Nòng nọc - Microhyla picta Shenkel (Bộ không
đuôi: Microhylidae), một loài ếch miệng nhỏ đặc hữu của Việt Nam. Zootaxa, 4444: 98–
100.
2. Hình thái ấu trùng của Hylarana lateralis (bộ không đuôi: Ranidae) từ Việt Nam.
Zootaxa
3. Palko I.V., Gogoleva S.S., Kalyakin M.V., Trần Minh Tiến. Các đối thủ cạnh tranh,
động vật săn mồi và cộng đồng trong tổ của chim làm tổ trong lỗ đào (Copsychus
malabaricus; Muscicapidae) ở rừng đất thấp ở miền Nam Việt Nam. Tạp chí sinh học nhiệt
đới.
4. Vasilieva A.B., Poyarkov N.A., Galoyan E.A. Loài lưỡng cư và bò sát của Vườn Quốc
gia Yokdon.
6.4. Điểu học
1. Bushuev A., Kerimov A., Tolstenkov O., Zubkova E., 2018. Khả năng lặp lại dài hạn
của BMR ở các loài chim nhiệt đới sống tự do // Tập tóm tắt tại Đại hội Điểu học Quốc tế
27. Vancouver, Canada ngày 19-26 / 8/2018
2. Kerimov A., Bushuev A., Solovyeva E., Tolstenkov O., Zubkova E., 2018. Khả năng lặp
lại lâu dài của BMR ở các loài chim nhiệt đới sống tự do // Tập tóm tắt tại Đại hội nghiên
cứu sinh vật học quốc tế lần thứ 27. Vancouver, Canada ngày 19-26 / 8/2018
3. Tolstenkov O., 2018. Tìm kiếm mối quan hệ trong các quần xã đa loài // Hội nghị quốc
tế lần thứ 6 ở Phthiraptera. 23-29 tháng 6 năm 2018, Brno, Cộng hòa Séc. P. 55.
4. Bushuev A.V., Kerimov A.B., Zubkova E.N., Solov'eva E.N., Tolstenkov O.O., 2018.
Năng lượng của chim từ vùng nhiệt đới và ôn đới: di cư như một yếu tố trong sự thay đổi
của tốc độ trao đổi chất cơ bản / Tóm tắt tại Đại hội Điểu học toàn Nga đầu tiên. Tver,
ngày 29 tháng 1 - ngày 4 tháng 2 năm 2018. P. 50.
5. Zubkova, E.N., 2018. Hình thái chức năng của bộ phận dưới lưỡn của chim sẻ nhiều
màu sắc ở thế giới cũ (Eurylaimides). 2. Phân tích chức năng // Tạp chí động vật học. T.
97. 9.
6. Zubkova, EN, 2018. Hình thái chức năng của bộ phận dưới lưỡn của chim sẻ nhiều màu
sắc ở thế giới cũ (Eurylaimides). 1. Mô tả giải phẫu // Tạp chí động vật học. V. 97. Số 8. P.
930-942.
7. Kalyakin M.V. , Bushuev A.V., Gogoleva S.S., Zubkova E.N., Kerimov A.B., Palko
I.V., Korzun L.P., 2018. Phương pháp phân tích vai trò săn mồi làm tổ trong cuộc sống của
các loài chim trong rừng nhiệt đới bão hòa biocenoses // Tóm tắt tại Đại hội Điểu học toàn
Nga đầu tiên. Tver, ngày 29 tháng 1 - ngày 4 tháng 2 năm 2018. S. 141-142.
8. Kerimov A.B., Bushuev A.V., Zubkova E.N., Tolstenkov O.O., 2018. Mức độ chuyển
hóa cơ bản trong tiếng la hét và tiếng hót của chim trong vùng nhiệt đới của Thế giới cũ //
Tóm tắt tại Đại hội dân tộc toàn Nga đầu tiên. Tver, ngày 29 tháng 1 - ngày 4 tháng 2 năm
2018. P. 143.
9. Tolstenkov O.O., Bushuev A.V., Sikhra O., Teterina A.A., Efeykin B.D., Zubkova E.N.,
Madrid R.S., Malysheva O.D., Kerimov A. .B., 2018. Tìm kiếm các mối liên kết: phân
tích mối quan hệ ký sinh trùng ký chủ trong các cộng đồng đa chủng tộc của quần xã chim
và ngoại ký sinh vật // Tóm tắt của Đại hội Điểu học toàn Nga đầu tiên. Tver, ngày 29
tháng 1 - ngày 4 tháng 2 năm 2018. S. 325.
10. Kalyakin M.V., Bushuev A.V., Gogoleva S.S., Zubkova E.N., Kerimov A.B., Palko
I.V., Korzun L.P. 2018. Đánh giá mức độ làm tổ của chim trong quần xã rừng nhiệt đới
bão hòa ở miền nam Việt Nam. Bản tin của Đại học Tver. Phần: Sinh học và Sinh thái học.
11. Palko I.V., Gogoleva S.S., Kalyakin M.V., Trần Minh Tiến. Các đối thủ cạnh tranh,
động vật săn mồi và cộng đồng trong tổ của chim làm tổ có lỗ đào (Copsychus malabari-
cus; Muscicapidae) ở rừng đất thấp ở miền Nam Việt Nam. Tạp chí sinh học nhiệt đới.
6.5. Nấm
1. Melnik V.A., Aleksandrova A.V., Novozhilov Yu.K., Popov E.S., Morozova O.V.,
Kovalenko A.E. Nấm Anamorphic của Việt Nam. IX // Mycology và Phytopathology.
2018. T. 52, số 4. C. 252-257.
2. Novozhilov Y.K., Shchepin O.N., Alexandrova A.V., Popov E.S., Dagamac N.H.A. Các
mô hình đa dạng của myxomycetes (Myxogastria) trên các khu rừng nhiệt đới của miền
Nam Việt Nam // Protistology. 2018. Vol. 12, số. 2. P. 73–80. Doi: 10.21685 / 1680-0826-
2018-12-2-2.
3. Stephenson S.L., Novozhilov Y.K. Những ghi chép mới về Barbeyella minutissima
(Myxomycetes, Stemonitidales) trong rừng nhiệt đới núi cao ở Việt Nam và dưới tán rừng
mưa nhiệt đới ở New Zealand // Nova Hedwigia. 2018.