You are on page 1of 21

Họ và tên : Nguyễn Thị Kim Anh

Lớp : ql 24.16
MSV: 19130220
Giáo viên : Nguyễn Thị Cúc

Kiểm Tra : Môn luật kinh tế3


Câu 1; Trinh bày các hình thức đầu tư theo Luật
đầu tư năm 2020? Hình thức đầu tư ppp được
áp dụng trong các lĩnh vực đầu tư nào? Nêu ý
nghĩa của hình thức đầu tư ppp?

Các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư năm 2020 là

1. Đầu tư theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế


Khi muốn thực hiện đầu tư thì các chủ thể có thể thành
lập nên tổ chức đầu tư, đối với trong nước thì không cần
phải có dự án đầu tư trước, tuy nhiên đối với tổ chức kinh
tế của nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam để hoạt
đông kinh doanh thì trước tiên cần phải có dự án đầu tư,
cần có Giấy chứng nhân đầu tư trước khi dầu tư vào Việt
Nam, hình thức đầu tư như thế nào, đối tác cũng như
phạm vi hoạt động đầu tư, điều kiện hoạt động đầu tư sẽ
được thực hiện theo công ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên của điều ước quốc tế đó.
Phần sở hữu vốn góp theo tỷ lệ tại công ty niêm yết , tổ
chức kinh doanh chứng khoán, công ty đại chúng theo
quy định của pháp luật về lĩnh vực chứng khoán, đối với
nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp nhà nước đã
được cổ phần hóa sẽ được thực hiện theo quy định về
chuyển hóa của doanh nghiệp nhà nước theo quy định.

Tổ chức kinh tế nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam


cần đáp ứng những điều kiện sau: phải có nhà đầu tư
nước ngoài có năm mốt phần trăm vốn điều lệ trở lên, đối
với công ty hợp danh thì phải có phần nhiều thành viên
hợp danh là cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế, nhà đầu
tư nước ngoài phải có vốn điều lệ năm mốt phần trăm trở
lên, hoặc là theo hình thức hợp đồng BCC nếu không có
vốn điều lệ như trên. Trường hợp tổ chức kinh tế nước
ngoài đã được thành lập tại Việt Nam trước đó mà nay có
dự án đầu tư mới thì sẽ được thực hiện dự án đầu tư mới
đó luôn chứ không cần thành lập lại tổ chức kinh tế mới.

2. Thực hiện hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần,


phần vốn góp vào tổ chức kinh tế

Các chủ thể thực hiện việc đầu tư có thể thực hiện hình
thức góp vốn vào công ty, tổ chức kinh tế hay là có thể
mua lại phần vốn góp mà tổ chức kinh tế bán ra, tùy theo
nhu cầu cũng như là tổ chức kinh tế huy động thời điểm
đó.

Chủ thể đầu tư nước ngoài thực hiện hình thức góp vốn
vào các tổ chức kinh tế bằng việc mua lại cổ phần phát
hành lần đầu hoặc là  phát hành thêm cổ phần đã có của
công ty cổ phần bán ra.

Ngoài ra cũng có thể lụa chọn hình thức đầu tư như là


góp vốn vào công ty hợp danh hay là công ty trách nhiệm
hữu hạn tùy theo mực đích và nhu cầu của chủ thể đầu tư
hay cũng có thể thực hiện góp vốn vào tổ chức kinh tế
khác mà chủ thể mong muốn đầu tư thấy phù hợp.

Đầu tư theo hình thức mua cổ phần hay phần vốn góp của
tổ chức kinh tế sẽ được thực hiện theo những hình thức
sau mua lại cổ phần của cổ đông trong công ty cổ phân
hoặc cổ phần từ công ty cổ phần hoặc là mua lại phần vốn
góp của thành viên công ty trách nhiệm hữ hạn, thành
viên góp vốn thuộc công ty hợp danh để trở thành thành
viên góp vốn hay là phần vốn góp của tổ chức kinh tế
khác.

Chủ thể đầu tư theo hình thức này cần thực hiện theo quy
định thủ tục sau:

Trường hợp góp vốn hay mua cổ phần hoạt động đầu tư
trong nghành ghề kinh doanh có điều kiện hay có phần
vốn góp từ năm mốt phần trăm điều lệ trở lên thì chuẩn bị
hồ sơ đăng ký đầu tư như sau:

Thứ nhất phải có văn bản đăng ký góp vốn hay mua cổ
phần trong văn bản đang ký phải có các nôi dung sau phải
có đầy đủ thông tin về tổ chức kinh muốn thực hiện việc
đầu tư góp vốn, phần vốn góp cũng như tỷ lệ phần vốn
điều lệ sau khi thực hiện việc góp vốn vào công ty, tổ
chức kinh tế đó.

Chứng minh nhân dân bản sao có công chứng hoặc hộ


chiếu, căn cước công dân, van bản xác nhận tư cách
pháp lý đối với tổ chức thực hiện đầu tư.
3. Thực hiện đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP

Đây là hình thức đầu tư theo kiểu đối tác giữa nhà nước
Việt Nam với một tổ chức cá nhân khác trong vấn đề cơ
sở hạ tầng cũng như những lĩnh vực khác. Đây là hình
thức được thực hiện thông qua hợp đồng giữa nhà nước
và chủ đầu tư hay doanh nghiệp có dự án để cung cấp
dịch vụ công cho nhà nước như đường, trường, trạm…để
phục vụ lơi ích công chứ không phải riêng một cá nhân.

Dự án này có thể là dự án xây dựng mới hoặc là dự án


đầu tư sửa chữa, nâng cấp, quản lý và vận hành công
trình hạ tầng, mở rộng công trình hoặc là cung cấp dịch vụ
công, đối với đầu tư theo hợp đồng PPP thì chính phủ quy
định về thủ tục cũng như điều kiện để thực hiện được dự
án.

4. Thực hiện đầu tư theo hình thức BCC


Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC được gọi là hợp
đồng hợp tác kinh doanh nó được ký kết giữa các nhà đầu
tư với nhau để cùng kinh doanh mang lại lợi nhuận cho
nhau, phân chia nhau sản phẩm kết quả kinh doanh mà
không cần thành lập tổ chức kinh tế. Giữa các nhà đầu tư
hợp kinh doanh với nhau theo hình thức hợp đồng BCC
thì có thể là giữa nhà đầu tư trong nước với nhau hoặc là
giữa nhà đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài.

Đối với đầu tư theo hợp đồn BCC thì nhà đầu tư cần
thành lập ban điều phối và thỏa thuận về chức năng,
quyền hạn và nhiệm vụ của ban điều phối luôn.

- Hình thức đầu tư ppp được áp dụng trong các lĩnh vực đầu
tư nào?
05 hình thức của đầu tư PPP
Hiện có 05 hình thức đầu tư PPP trên thế giới là:

– Xây dựng – Chuyển giao (BT: Build – Transfer): Trong mô


hình này, chính quyền đứng ra ký hợp đồng với một đối tác
tư nhân để thiết kế và xây dựng một công trình đáp ứng các
yêu cầu. Sau khi công trình hoàn thành, chính quyền sẽ
chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng công trình đó.

 – Xây dựng – Cho thuê – Chuyển giao (BLT: Build – Lease


– Transfer ): Mô hình này bên chính quyền đứng ra ký hợp
đồng với một đối tác tư nhân để thiết kế và xây dựng một
công trình đáp ứng các yêu cầu nhưng sau khi hoàn thành,
công trình được giao cho chính quyền thuê lại. Khi tiền
thuê đã được thanh toán đủ công trình được chuyển giao
cho phía chính quyền mà không yêu cầu thêm chi phí nào.
Chính quyền có trách nhiệm vận hành trong thời gian thuê
công trình.
 – Xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO: Build –
Transfer – Operate): Mô hình đầu tư được ký kết giữa nhà
đầu tư và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng. Khi xây dựng xong, nhà đầu tư
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước tuy nhiên nhà đầu
tư vẫn giữ quyền kinh doanh công trình đó trong một thời
hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.

Hợp đồng dự án PPP

Phân loại hợp đồng dự án PPP?


Hợp đồng BOT
Hợp đồng BOT có tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Kinh
doanh – Chuyển giao: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để
xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình,
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền kinh doanh
công trình trong một thời hạn nhất định, đến khi hết thời
hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công
trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hợp đồng BTO


Hợp đồng BTO với tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Chuyển
giao – Kinh doanh: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để
xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình,
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công
trình đó trong một thời hạn nhất định.

doanh nghiệp dự án sở hữu và được quyền kinh doanh


công trình trong một thời hạn nhất định. Khi hết thời hạn,
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chấm dứt hoạt động của dự
án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Hợp đồng BTL


Hợp đồng BTL với tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Chuyển
giao – Thuê dịch vụ: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để
xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình,
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ
trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời
hạn nhất định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch
vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.

Hợp đồng O&M


Hợp đồng O&M với tên gọi là Hợp đồng Kinh doanh –
Quản lý là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để kinh
doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời
hạn nhất định.

Ưu điểm của mô hình PPP


Trên thế giới các nước đã dần có khuynh hướng chuyển
dần sang khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ
tầng trong lĩnh vực năng lượng và điện, nước, thông tin liên
lạc, giao thông vận tải. Và theo đó có nhiều lý do trong việc
chuyển sang sự hợp tác với khu vực tư nhân trong phát
triển và cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng chúng ta có
thể đề cập đến:

– Tăng cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và
quản lý dự án về hạ tầng.

– Có các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

– Có cơ hội tiếp cận và nắm bắt các công nghệ tiên tiến cả
phần cứng và phần mềm
Đặc biệt mô hình PPP này trở nên hấp dẫn với chính phủ
các nước đang phát triển, nó được đánh giá như là một cơ
chế ngoài ngân sách phục vụ cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Nó mang những lợi ích như:

+ Giúp tăng cường cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cần


thiết.
+ Áp dụng mô hình PPP có thể không yêu cầu bất kỳ chi
tiêu tiền mặt ngay lập tức, giúp làm giảm gánh nặng của chi
phí thiết kế và xây dựng.

+ Cho phép chuyển nhượng nhiều rủi ro dự án sang khu


vực tư nhân.

+ Mô hình PPP giúp đưa ra những lựa chọn tốt hơn về thiết
kế, công nghệ, xây dựng, sự vận hành và chất lượng cung
cấp dịch vụ hạ tầng.

Nhược điểm của PPP


PPP là một hình thức tạo ra cơ sở hạ tầng với chi
phí do khu vực tư nhân chi trả. Có một số trường
hợp dự án BOT đã xảy ra các vấn đề do vượt
quá chi phí, giá thành không thực tế, dự báo thu
nhập không chính xác và có những tranh chấp
pháp lý giữa t
POPULAR POSTS

Ý nghĩ của ppp?


Hợp đồng PPP mang ý nghĩa quan trọng trong việc
thu hút vốn tư nhân vào xây dựng cơ sở hạ tầng,
các công trình thiết yếu. Nhà nước thay vì phải bỏ
vốn toàn bộ thông qua hợp đồng PPP Nhà nước đã
thu hút vốn đầu tư tư nhân vào xây dựng.
===============================

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Luật môi trường
MỞ ĐẦU
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện nay đã trở thành
vấn đề sống còn của toàn nhân loại. Cùng với phát triển kinh tế,
mức sinh hoạt của người dân ngày càng nâng cao thì lượng chất
thải càng tăng nhanh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng môi trường và sức khoẻ con người. Ngày nay, khi con
người càng phát triển thì cũng là lúc mà chúng ta càng tác động
nhiều đến môi trường, trong đó phần lớn là những tác động xấu.
Chính vì thế, môi trường hiện nay đang trở thành vấn đề nóng
bỏng ở nhiều quốc gia. Nguy cơ về môi trường cực kỳ nghiêm
trọng ở các quốc gia đang phát triển, nơi mà nhu cầu hàng ngày
của con người và nhu cầu phát triển của xã hội xung đột mạnh
mẽ với sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cũng như
môi trường sống. Những tổn thất này đang là mối đe doạ cho
toàn nhân loại. Chính vì vậy, một trong những vấn đề mang tính
toàn cầu hiện nay là những biện pháp bảo vệ hiệu quả nhất cho
môi trường của trái đất. Việt Nam cũng không tránh khỏi những
vân đề nan giải về môi trường. Trong đó, vấn đề quản lý chất
thải nguy hại là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có
những biện pháp giải quyết.
Ngày nay, bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những
chính sách quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Bằng những
chính sách và biện pháp khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp
vào các hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo
vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn các hành vi gây ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Xuất phát từ tầm quan
trọng của chất thải nguy hại, Nhà nước đã ban hành những văn
bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Tuynhiên, đây là một vấn
đề khá mới mẻ nên bên cạnh những ưu điểm của những quy
định về quản lý chất thải nguy hại không tránh khỏi những bất
cập, những thiếu sót. Việc hoàn
NỘI DUNG
I. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
1. Khái niệm chất thải nguy hại
Thuật ngữ chất thải nguy hại lần đầu tiên xuất hiện vào thập
niên 70. Sau một thời gian nghiên cứu, phát triển, tuỳ thuộc vào
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xã hội cũng như quan điểm
của mỗi nước mà hiện nay trên thế giới có nhiều cách định nghĩa
khác nhau về chất thải nguy hại trong luật, các văn bản dưới luật
về môi trường.
Tại Việt Nam, đứng trước các nguy cơ bùng nổ chất thải là hệ
quả của việc phát triển côngrong luật, các văn bản dưới luật về
môi trường.
Tại Việt Nam, đứng trước các nguy cơ bùng nổ chất thải là hệ
quả của việc phát triển công nghiệp. Ngày 16 tháng 7 năm 1999,
Thủ tướng chính phủ ký quyết định ban hành Quy chế quản lý
chất thải nguy hại số 155/1999/QĐ9 – TTg, tại Điều 2, mục 2
chất thải nguy hại được định nghĩa như sau: “Chất thải nguy hại
là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đăc
tính gây nguy hại trực tiếp(dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn
mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc
tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức
khoẻ con người”. Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005 thì: “Chất thải
nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ lây nhiễm,
gây ngộ độc hoặc các đặc tính nguy
2. Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
a. Định nghĩa về quản lý chất thải nguy hại
Dựa trên các quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy hại và
Luật bảo vệ môi trường năm 2005, quản lý chất thải nguy hại có
thể được hiểu như sau: Đó là một hệ thống các quy phạm pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất
thải nguy hại đối với cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường
và với nhau trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo
vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối
với chất thải nguy hại, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các
cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh có liên quan đến lĩnh
vực chất thải nguy hại, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể này
tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi
trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ
thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức
cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong phạm vi cả
nước, cần kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ nguồn thải
đồng thời thực hiện tốt các bước trong quy trình quản lý chất
thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý
và tiêu hủy chất thải nguy hại.

* Việc phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại
phải được tiến hành theo cách: Tổ chức, cá nhân có hoạt động
làm phát sinh chất thải huy hại phải tổ chức phân loại, thu gom
hoặc hợp đồng chuyển giao cho bên tiếp nhận quản lý chất thải
thu gom chất thải nguy hại (Điều 71 Luật bảo vệ môi trường
2005). Theo số lượng thống kê, hiện nay, tổng lượng chất thải
nguy hại trên địa bàn toàn quốc vào khoảng 150.064 tấn/năm.
Các loại chất thải nguy hại nếu không được phân loại, thu gom,
lưu giữ theo đúng quy trình thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường và sức khoẻ của cộng đồng.
* Xuất phát từ đặc tính nguy hại của chất thải nguy hại mà việc
vận chuyển chất thải nguy hại phải tuân thủ những quy định
riêng. Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải có giấy phép và
bằng thiết bị, phương tiện chuyên dụng phù hợp, đi theo tuyến
đường và thời gian do cơ quan có thẩm quyền về phân luồng
giao thông quy định Tổ chức, cá nhân phải thực hiện theo quy
định là chất thải nguy hại phải được lưu giữ tạm thời trong thiết
bị chuyên dụng đảm bảo không rò rỉ, rơi vãi, phát tán ra môi
trường (Điều 72 Luật bảo vệ môi trường 2005). Ngoài ra, luật
còn quy định cụ thể trách nhiệm của tổ chức, cá nhân là phải có
kế hoạch, phương tiện phòng, chống sự cố do chất thải nguy hại
gây ra; không được để lẫn chất thải nguy hại với chất thải thông
thường và phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra sự cố môi trường
trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ.

* Do chất thải nguy hại là chất thải đặc biệt nguy hiểm nên các
quốc gia đều có quy định về việc xử lý chất thải nguy hại. Ở
nước ta, việc xử lý chất thải nguy hại phải tiến hành bằng
phương pháp, công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc tính hóa học,
lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy hại để đảm bảo
đạt tiêu chuẩn môi trường. (Điều 73 Luật bảo vệ môi trường
2005). Trường hợp trong nước không có công nghệ, thiết bị xử
lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của
cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi
được xử lý. Để tránh những tác động xấu của cơ sở xử lý chất
thải nguy hại đối với môi trường, luật quy định trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải nguy hại
phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và thực hiện yêu
cầu về bảo vệ môi trường.
* Cơ sở xử lý chất thải nguy hại và khu chôn lấp chất thải nguy
hại ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nên luật quy định cụ thể
yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải nguy hại
và khu chôn lấp chất thải nguy hại. Việc thải bỏ, chôn lấp chất
thải nguy hại còn lại sau khi xử lý phải được thực hiện theo quy
định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước
cơ quan trong việc quản lý loại chất thải này. Luật quy định rõ
Bộ xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ tài nguyên và môi trường,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu
gom, xử lý chôn lấp chất thải nguy hại.
Bộ xây dựng có trách nhiệm Hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trong việc quy hoạch xây dựng các khu xử lý
chất thải nguy hại hợp vệ sinh, các bãi chôn lấp chất thải nguy
hại phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. (Điều 22 Quy chế quản lý chất thải nguy hại 99).
Bộ công nghiệp có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và triển khai
các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn thải phải tuân thủ
các quy định của Quy chế (Điều 23 Quy chế quản lý chất thải
nguy hại năm 1999).
Bộ y tế có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và có các biện pháp
hữu hiệu buộc các bệnh viện, trạm y tế, cơ sở dịch vụ y tế tuân
thủ các quy định của Quy chế. (Điều 24 Quy chế quản lý chất
thải nguy hại năm 1999).
Bộ quốc phòng, Bộ công an có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra
và triển khai thực hiện các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ
nguồn thải thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tuân thủ các quy
định về quản lý chất thải nguy hại. (Điều 25 Quy chế quản lý
chất thải nguy hại năm 1999).
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Chỉ đạo
Sở Xây dựng lập quy hoạch, kế
II. Những ưu điểm và hạn chế của các quy định về quản lý
chất thải nguy hại.
1. Ưu điểm của các quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, khi định nghĩa về chất thải
nguy hại thì phần quan trọng nhất mà Nhà nước ta nhấn mạnh
vào chính là đặc tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe
cộng đồng của chất thải nguy hại. Chính vì vậy mục đích của
pháp luật quản lý chất thải nguy hại chủ yếu là bảo vệ môi
trường và sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các
khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước
về môi trường; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên
quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại
đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho
hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả
cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của
các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải
nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất
thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất
lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như môi trường
sống.
* Biện pháp pháp lý: với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp
luật điều chỉnh hành vi xử sự của con người, pháp luật quản lý
chất thải nguy hại đã tác động trực tiếp đến hành vi xử sự của
các chủ thể. Đây là biện pháp đem lại hiệu quả cao nhất, thông
qua đó hoạt động quản lý chất thải nguy hại được thể chế hóa
bằng pháp luật.
* Biện pháp kinh tế: Các biện pháp kinh tế được sử dụng khá
hiệu quả trong hoạt động quản lý vi mô và vĩ mô đối với nền
kinh tế. Sử dụng biện pháp kinh tế là sử dụng đến những đòn
bẩy lợi ích
đóng góp công sức vào việc bảo vệ môi trường sống khỏi nguồn
rác thải nguy hại.
2. Hạn chế của các quy định về quản lý chất thải nguy hại
Bên cạnh những ưu điểm trong công tác quản lý chất thải nguy
hại, những quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn những
thiếu sót nhất định. Trên thực tế, khi áp dụng những quy định
pháp luật về quản lí chất thải nguy hại trong những năm gần đây
đã được Nhà nước ta chú ý nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập, tồn tại cần khắc phục.
Chính những hạn chế trong pháp luật về quản lí chất thải nguy hại đang làm ảnh
hưởng xấu đến công tác quản lí chất thải nguy hại. Cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại: Không phủ
nhận Nhà nước và Chính phủ đã có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý chất thải nguy hại (CTNH). Song trên thực tế, khoảng cách giữa quy định
của luật với thực tiễn vẫn còn những bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề
này còn chưa đầy đủ chưa đồng bộ và đầy đủ. Công tác này đã có sự quan tâm đầu
tư nhất định từ phía Nhà nước nhưng trên thực tế thì hệ thống văn bản pháp luật về
lĩnh vực này cong thiếu nhiều văn bản hướng dẫn về chất thải gây khó khăn cho
quá trình quản lý chất thải; thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện
và nhất là thiếu các chế tài xử phạt; chưa có các quy định về chất thải nguy hại từ
sinh hoạt và nông nghiệp, các văn bản hiện hành phần lớn đề cập tới việc quản lí
chất thải rắn, chất thải y tế… các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải
lỏng, chất thải trong công nghiệp, chất thải phóng xạ… chưa được quan tâm thích
đáng; quy định về lưu giữ chất thải chờ thiết bị công nghệ không mang tính khả
thi, chưa có quy định của pháp luật về phân loại các chất thải nguy hại trong sinh
hoạt… Mặc dù quy chế quản lí chất thải nguy hại và sau đó là quy chế quản lí chất
thải y tế đã được ban hành khá lâu nhưng điều bất cập là chưa có đầy đủ các thông
tư hướng dẫn cụ thể. Việc thực hiện quy chế cho các đối tượng là các cơ quan quản
lí nhà nước về chất thải ở địa phương các nguồn chất thải chủ thu gom vận chuyển,
chủ xử lí tiêu hủy chất thải. Việc ban hành các văn bản quy định về các tiêu chuẩn
bãi chôn lấp hợp vệ sinh tiêu chuẩn xe chuyển tải, tiêu chuẩn thiết bị vận hành xử lí
cũng còn chậm trễ và chưa đồng bộ. Thêm vào đó các văn bản kém ổn định làm
mất hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động của
người bị quản lý. Có những văn bản mới ban hành xong, lại sửa đổi, bổ sung.
17/03/2009 thì ngày 04/06/2009 Bộ đã phải ban hành thông tư 29/2009/TT-BNN
sửa đổi bổ sung thông 
thể
Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra trong
quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu trách
nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ. Việc quy định
về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy định bằng phương tiện
chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện đủ tiêu chuẩn để vận chuyển
chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu chuẩn cụ thể.
Thứ bảy, đối với người xử lý chất thải nguy hại. Chỉ được thực hiện những hoạt
động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt động do cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền cấp. Đây là một quy định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy
phép lại gây ra những khó khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý vô hình
chung làm ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình này.
Pháp luật quy định phương pháp xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp công
nghệ, thiết bị phù hợp với đặc thù hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất
thải nguy hại đểm đảm bảo đạt được tiêu chuẩn môi trường. Trường hợp trong
nước không có công nghệ thiết bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp
luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi
chất thải được xử lý. Nhưng trên thực tế công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước
vể kiểm định và xử lý chất thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí để đổi mới và bổ sung
các thiết bị khoa học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn đầu tư, bởi
vậy nếu không có công nghệ thiết bị phù hợp với đặc tính của chất thải nguy hại
mà phải lưu giữ để chờ mua được thiết bị thì phải chờ đến khi nào?
Ngoài các vấn đề quy định về con người thì vấn đề vốn công nghệ và trình độ công
nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Về cơ bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải
đặc biệt là xử lí chất thải còn hạn hẹp, trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có
đầu tư lớn và tập trung. Hơn thế nữa công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu là
nguyên nhân khiến chất thải không được xử lí triệt để. Hiện nay ngân sách nhà
nước dành cho công tác bảo vệ môi trường và quản lí chất thải là 1% và dự kiến
đến năm 2010 là 2%. Công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu. Theo Bộ Tài nguyên
và môi trường hiện nay có trên 193 đội thuộc các ngành như chế biến thực phẩm
và dược phẩm… cho thấy có 118 nhà máy đã đầu tư xây dựng trạm xử lí nước thải.
Tuy nhiên có tới 21/118 trạm không hoạt động. Các trạm xử lí nước thải hoạt động
thường xuyên là của đơn vị đầu tư nước ngoài nhưng cũng chỉ là đối phó với cơ
quan chức năng. Mặt khác, lại thấy hầu hét các trạm xử lí chất thải đều không có
các cán bộ kĩ thuật chuyên trách về môi trường đề điều chính các thông số tối ưu
trong xử lí nên hệ thống vận hành không đúng theo hướng dẫn kĩ thuật, làm giảm
tuổi thọ hệ thống.
Ngoài ra, công tác quy hoạch, phân vùng xử lý, chôn lấp CTNH tại một số địa
phương còn lúng túng, thiếu tính lâu dài. Nhiều địa phương tập trung nhiều các
KCN, cụm công nghiệp, KCX, khu kinh tế trọng điểm cũng như các bệnh viện phát
sinh một lượng lớn CTNH. Nhưng tại những địa bàn này hầu hết lại không có các
cơ sở vận chuyển, xử lý CTNH. Nguyên nhân một phần do địa phương không có
cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư để hoạt động.
Nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường và xử lý chất thải còn yếu
kém. Người dân gần như không nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh
hưởng của rác thải với sức khoẻ, môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường chưa
cao.
III. Một số biện pháp nhằm hoàn pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Việc xây dựng cơ chế quản lý chất thải nguy hại ở nước ta phải quán triệt quan
điểm: kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng một hệ thống pháp luật “cứng” với các
chính sách quản lý “mềm” phù hợp với đặc thù của Việt Nam nhằm cân bằng hai
lợi ích - vừa thúc đẩy phát triển kinh tế và vừa ngăn ngừa giảm thiểu tác hại đến
môi trường.
Một hệ thống pháp luật “cứng” là việc xây dựng một hệ thống các văn bản pháp lý
quy định chi tiết và đầy đủ trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến lĩnh vực
quản lý chất thải nguy hại như: các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ nguồn thải,
chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý tiêu huỷ chất thải nguy hại cũng như
các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng cần phải biết “mềm” hoá việc thực thi pháp luật bằng các cơ chế, chính
sách phù hợp nhằm tạo điều kiện kích thích cho việc đầu tư phát triển nền kinh tế
nhưng vẫn kiểm soát và ngăn ngừa được ô nhiễm do việc phát sinh các chất thải
nguy hại gây ra.
Để cụ thể hoá cho quan điểm trên, theo em cần thực hiện một số biện pháp sau:
1. Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể: 
Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây dựng,
vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành hướng dẫn về
phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại. Ban
hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (có quy định khống chế tỷ lệ chất thải
nguy hại) được phép nhập khẩu dùng trong sản xuất công nghiệp.
2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm: 
Hiện nay, các mức phạt theo các quy định tại Nghị định số 26/CP quy định xử phạt
vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều
điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16 Nghị định 26/CP,
mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000đ áp dụng đối với hành vi chôn vùi, thải các
chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối lượng lớn, thời gian khắc phục
hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh tại Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt
Nam quy định tội phạm về môi trường cho thấy các mức xử lý các cá nhân vi phạm
cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5 – 10 năm là tối đa). Ở đây, chúng ta thử một phép so
sánh một cá nhân nếu phạm tội cố ý giết người trong Luật hình sự có thể bị kết án
tử hình. Tuy nhiên, chủ một doanh nghiệp cố ý thải chất thải nguy hại gây ô nhiễm
nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, gây nên nhiều căn
bệnh nan y dẫn đến tử vong cho nhiều người trong một thời gian dài thì chỉ bị phạt
tiền hoặc phạt tù ở mức độ thấp – đây là một điều chưa hợp lý. 
Trong thời gian qua có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định này và
vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao so với việc phải đầu tư
trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì vậy, sự nghiêm minh và tính
răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra trong thời gian
tới là: chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình
thực tế của công tác quản lý chất thải nguy hại nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý
trong vấn đề này.
3. Ban hành một số chính sách quản lý Nhà nước phù hợp:
Các chính sách về tài chính (Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm: Mục
tiêu chính của những thuế này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương
pháp hạn chế và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có
khả năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy nhiệt
điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng...); Các chính sách về quản lý
hành chính và đầu tư khoa học công nghệ (tăng cường hệ thống thanh tra môi
trường; xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất để
có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng biệt cho
các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực khác nhau;
khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại); Công tác
tuyên truyền, giáo dục (chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chất thải nguy hại
và pháp luật về chất thải nguy hại, phân tích làm cho nhân dân
hiểu được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan
tâm và “tai hoạ sẽ đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu
hay nghèo” nếu không ý thức được điều này); Mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế (Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của
các nước trong khu vực và các quốc gia trên thế giới trong vấn
đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp, các chính
sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, thiết
lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các
hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải
nguy hại đạt kết quả cao hơn. Thông qua các
KẾT LUẬN
Quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề bức xúc trong công tác
bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ, lượng chất thải cũng
liên tục gia tăng, tạo sức ép rất lớn đối với công tác bảo vệ môi
trường. Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề trầm
trọng nhất mà con người dù ở bất cứ nơi đâu cũng phải tìm cách
đối phó. Có người cho rằng chỉ các nước phát triển mới phải lo
lắng đến việc quản lý chất thải nguy hại nhưng đó là một suy
nghĩ hoàn toàn sai lệch.Vì với tốc độ phát triển liên tục của công
nghiệp hoá ở các nước đang phát triển, vấn đề quản lý chất thải
nguy hại là hết sức cần thiết, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc
biệt để đối phó ngay một cách nghiêm túc, kịp thời trước khi vấn
đề trở nên trầm trọng. Ngay cả ở Việt Nam, nếu chúng ta để quá
muộn thì chúng ta sẽ phải sống chung với chính rác thải của
mình nếu không xử lý chất thải nguy hại tốt.
Hiện nay, với sự bùng nổ dân số toàn cầu và tốc độ công nghiệp
hoá cao  đã gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường, đặc biệt
là trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại vẫn tồn tại nhiều
bất cập cần hoàn thiện. Chính vì vậy, vấn đề quản lý chất thải
nguy hại là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những
biện

 
Lưu
Share1

You might also like