Hãy xây dựng động lực cho một tiết học nói tiếng anh ở trường phổ thông.
1. Khái niệm động lực
Theo định nghĩa động lực của Gardner (1982: 132-147) đề xuất: động lực được nhận thức bao gồm ba yếu tố: nỗ lực, mong muốn và ảnh hưởng. “Nỗ lực" đề cập đến thời gian dành cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và các định hướng của người học. “Mong muốn" cho biết bao nhiêu người học muốn trở nên thành thạo trong ngôn ngữ, và “ảnh hưởng" minh họa cho phản ứng của người học đối với việc học Tiếng Anh. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới động lực trong học tập ngoại ngữ 2.1. Khung động lực mở rộng Dornyei Dornyei (2001: 112- 113) đã phân tích học động lực trong khuôn khổ của ba cấp độ, trong đó cung cấp một danh sách lớn của các thành phần động lực; (1) Cấp độ ngôn ngữ liên quan đến các yếu tố liên quan như văn hóa, cộng đồng cũng như các giá trị và lợi ích gắn liền với việc học thực tế. (2) Mức học liên quan đến đặc điểm cá nhân mà người học mang đến cho quá trình học tập. Những đặc điểm này bao gồm sự tự tin của người học tự, hiệu quả tự, cần thành tích, thông tin ghi nhận quan hệ nhân quả, nhận thức và định hướng mục tiêu và vv. (3) Mức độ tình hình học tập được kết hợp với động cơ cụ thể tình hình học trong một lớp học và nó được chia thành ba khía cạnh. Đầu tiên là chương trình: thành phần động lực cụ thể có liên quan đến giáo trình, tài liệu giảng dạy, phương pháp giảng dạy và các nhiệm vụ học tập thứ hai là giáo viên: thành phần động lực cụ thể liên quan đến tác động động lực của nhân cách, hành vi và phong cách giảng dạy của giáo viên. Và thứ ba là thành phần và nhóm động lực cụ thể có liên quan đến các nhóm năng động của nhóm học viên. Nhân tố từ học sinh Các nhân tố đầu tiên là thông minh và năng khiếu của học sinh. Trí thông minh, theo Lightbown và Spada (1999: 52), đề cập đến hiệu suất trên một số loại thử nghiệm và năng khiếu là cái gì đó "liên quan đến cả khả năng học ngôn ngữ cơ bản và năng lực để xử lý ngôn ngữ '(Ellis, 1997: 522). Lightbown và Spada cũng chỉ ra rằng năng khiếu ngôn ngữ thường được mô tả như một sự kết hợp của bốn yếu tố: (1) khả năng nhận biết và ghi nhớ các âm thanh mới, (2) khả năng để hiểu các chức năng của một từ nào đó trong câu, (3) khả năng tìm ra các quy tắc ngữ pháp từ các mẫu ngôn ngữ, (4) khả năng ghi nhớ từ mới (1999: 53). Thứ hai là tính cách của học sinh. Trong con mắt của nhiều giáo viên ngôn ngữ, tính cách của các học sinh tạo thành một yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công hay thất bại trong việc học ngôn ngữ. Ellis (1997) đã chứng minh rằng những người học hướng ngoại đang có lợi thể trong việc phát triển các loại ngôn ngữ kết hợp với cơ sở các kỹ năng giao tiếp và học hướng ngoại cũng có thể có nhiều khả năng để tham gia tích cực trong giao tiếp bằng miệng (1997: 523). Chia sẻ quan điểm cùng với Ellis, Lightbown và Spada liệt kê một số đặc điểm nhân cách có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của người học thứ hai ngôn ngữ: hướng ngoại, sự ức chế, lòng tự trọng, sự đồng cảm, sự thống trị, sự hoạt ngôn và tính đáp ứng (1999: 54. 55 ). Nhân tố thứ ba là tuổi của người học. Trẻ em được cho là tốt hơn so với người lớn trong việc đạt được một ngoại ngữ nói chung và trong việc nói một ngôn ngữ mới người bản ngữ một cách lưu loát. Một số nhà nghiên cứu cho rằng người lớn tuổi có thể có thể tìm hiểu cú pháp và từ vựng của một ngôn ngữ thứ hai, nhưng đó đạt được một cách phát âm bản địa như là không thể đối với họ. Ngoài ra, họ kết luận rằng học viên trẻ có một cơ hội lớn hơn đạt được trình độ thông thạo của người địa. Nhân tố thứ tư là phong cách học. Thuật ngữ "phong cách học" đề cập đến những cách đặc trưng trong đó các cá nhân có định hướng để giải quyết vấn đề. Keefe (1979) đã xác định phong cách học như là "nhận thức đặc trưng, những hành vi tình cảm và sinh lý phục vụ chỉ là tương đối ổn định về cách người học lĩnh hội, tương tác với và đáp ứng với môi trường học tập ... phong cách học là một cách nhất quán các chức năng phản ánh nguyên nhân cơ bản của hành vi '(trích Ellis, 1997: 499). Nhân tố cuối cùng là niềm tin của người học. Hầu hết các học viên có niềm tin mạnh mẽ về việc học ngôn ngữ của mình sẽ tìm ra cách học, làm thế nào để đạt được mục đich học của mình. Little, Singleton và Silvius phát hiện ra kinh nghiệm quá khứ, cả giáo dục nói chung và học tiếng nói riêng, đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ đối với việc học ngôn ngữ "(trích Ellis, 1997: 478- 479). Nhân tố từ giáo viên Giáo viên đóng vai trò quan trọng trong động lực học tập của học sinh. Như một vấn đề của thực tế, các yếu tố của một số giáo viên và hành vi giáo viên thích hợp sẽ động viên được học sinh trong học tập. Dornyei (2001) chỉ ra các yếu tố của một số giáo viên có ảnh hưởng đến động lực của học sinh: hành vi của thầy thích hợp, sự nhiệt tinh của giáo viên và một mối quan hệ tốt với các sinh viên. Thứ nhất, hành vi của giáo viên phù hợp trong lớp học là rất quan trọng. Nó được coi là một 'công cụ động lực' mạnh mẽ. Alison (1993) cho rằng hành vi của giáo viên có thể 'thuyết phục' hoặc 'thu hút học sinh tham gia vào các nhiệm vụ (trích Dornyei 2001: 120). 'Giáo viên phải kiên trì, khuyến khích người hỗ trợ học sinh nỗ lực học tập. Học sinh cần phải cảm thấy thoải mái chấp nhận rủi ro trí tuệ bởi vì họ biết rằng họ sẽ không được xấu hổ hoặc bị chi trích nếu họ thực hiện một sai lầm '(Good và Brophy, 1994-trích Dornyei, 2001: 121). Thứ hai, mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh cũng là một yếu tố quan trọng của động lực trong học tập của học sinh. Giáo viên cần thiết lập mối quan hệ tin cậy lẫn nhau và tôn trọng học sinh. Mối quan hệ này cũng liên quan đến việc tìm kiếm các cơ hội để nói chuyện với họ trên một mức độ cá nhân và cho họ biết rằng giáo viên đã nghĩ về họ và nỗ lực cá nhân của họ được công nhận (Dornyei, 2001: 120). Nhân tố thứ ba là sự nhiệt tình của giáo viên. Csikzentmihalyi (1997) cho rằng giáo viên cần 'nhiệt tinh và tham gia vào quá trình giảng dạy và trong các tài liệu mà họ đang giảng dạy (trich Dornyei, 2001: 178). Csikzentmihalyi cũng chỉ ra rằng giáo viên nhiệt tình là những người yêu những gì họ đang làm, biểu hiện bởi sự cống hiến của họ và niềm đam mê của họ để làm cho học sinh sẵn sàng để theo đuổi kiến thức (được trích dẫn trong Dornyei, 2001: 177- 178) Nhân tố cuối cùng là quan tâm của giáo viên đến tiến bộ học tập của học sinh. Giáo viên cần quan tâm cho những gì học sinh đã học và đã thành công (Dornyei, 2001). Họ cũng nên hỗ trợ cụ thể, đáp ứng ngay lập tức khi học sinh yêu cầu, chữa kiểm tra, đưa ra bài tập ngoại khóa... Điều kiện dạy và học Dạy và học đòi hỏi điều kiện liên quan đến bầu không khí lớp học và điều kiện vật chất. Một bầu không khí lớp học thoải mái và hỗ trợ sẽ tạo động lực; nó khuyến khích học sinh bày tỏ ý kiến và suy nghĩ của họ. MacIntyre (1999) và Young (1999) đã chỉ ra rằng sự lo lắng của học sinh tạo ra bởi một bầu không khí lớp học căng thắng là một trong những yếu tố mạnh nhất làm suy yếu hiệu quả học tập và động lực học ngoại ngữ. (trích Dornyei,2001: 121). Điều kiện vật chất là quan trọng, vật chất tham trong lớp học như quy mô lớp học, cơ sở vật chất lớp học (ghế, bàn, bảng,thiết bị điện ..). Hammer (1992) nói rằng các điều kiện vật lý có ảnh hưởng lớn đến việc học tập của học sinh cũng như thái độ của họ đối với các vấn đề. Điều kiện vật lý ảnh hưởng đến că giáo viên và động lực của học sinh. Các lớp lớn, các cơ sở kém sẽ làm giảm mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, và kết quả là, sẽ làm giảm động cơ học tập. 3. Xây dựng động lực nói cho học sinh 3.1. Làm tăng động lực bên trong của học sinh Thứ nhất, giáo viên phải biết quan tâm và kỳ vọng vào học sinh trong việc học tiếng Anh. Sẽ có một khoảng cách lớn giữa các phương pháp giảng dạy và học mà giáo viên thường ưa thích áp dụng trong khi đó học sinh lại không thích. Giáo viên, do đó, cần điều tra những gì học sinh muốn để thấy rằng các phương pháp giảng dạy của mình và kiến thức họ áp dụng phù hợp với học sinh hay không. Thứ hai, hầu hết học sinh học tiếng Anh vì những yêu cầu và mục tiêu của họ trong tương lai. Giáo viên, do đó, có thể nâng cao động lực nội tại của họ bằng cách chèn văn hóa Anh và tùy chinh trong bài phát biểu, đánh thức tình yêu của họ với tiếng Anh thông qua nghe bài hát tiếng Anh và xem phim tiếng Anh. Đối với các học sinh bản chất năng động, giáo viên có thể khuyến khích họ bằng cách thay đổi các hoạt động, nhiệm vụ và vật liệu để tăng mức độ quan tâm của họ. Cung cấp cho họ các tài liệu tham khảo và một số trang web bằng tiếng Anh trên Internet là một cách tốt để khuyến khích tình yêu của họ với tiếng Anh. Thứ ba, sự tự tin xác định công sức và thời gian học sinh sẽ dành cho và sự bền bỉ các em sẽ hiển thị trong quá trình học tập, vì vậy điều quan trọng là giáo viên cần tăng sự tự tin của học sinh trong việc học nói tiếng Anh. Giáo viên cần làm cho học sinh tin rằng nói năng lực tiếng Anh là thay đổi và kiểm soát được miễn là họ đủ nỗ lực trong học tập. Ngoài ra, giáo viên cần cung cấp một số kinh nghiệm thành công thường xuyên cho học sinh và nhấn mạnh những gì học sinh có thể làm được chứ không phải là không thể làm được. Bên cạnh đó, giáo viên khuyến khích vào đúng thời điểm có thể tăng cường tự tin trong các em và giảm bớt sự lo lắng của họ trong việc nói. Tận dụng những điểm mạnh của học sinh cũng là những gì giáo viên nên quan tâm. Họ nên để cho học sinh với các thế mạnh khác nhau làm việc cùng nhau để họ có thể tận dụng lợi thế từ các đối tác. Ví dụ, các học sinh tự tin hơn có thể làm việc với những người ít tự tin hơn hoặc các học sinh với các thế mạnh học tập có thể làm việc với những người có kinh nghiệm về hoạt động bên goài đầy thú vị. 3.2. Đa dạng các hoạt động nói Giáo viên nên kích thích học sinh nói bằng cách cung cấp cho họ một loạt các hoạt động nói. Thứ nhất, làm việc theo cặp và làm việc nhóm được cho là rất hữu ích trong việc nói. Sử dụng làm việc theo cặp và làm việc theo nhóm giúp giáo viên giảm bớt sự nhàm chán và mệt mỏi trong học sinh. Trong lớp học không gian lớn, thiết lập thói quen cho việc hoạt động theo cặp và các hoạt động làm việc theo nhóm sẽ giúp giáo viên dễ dàng để kiểm soát và động viên học sinh. Mỗi học sinh có cơ hội để tham gia vào bài học và có thể được sửa chữa sai lầm của các thành viên nhóm khác hoặc các đối tác. Các học sinh chưa thành thạo có thể nhận được hỗ trợ từ những người thành thạo hơn. Bên cạnh đó, giáo viên có thể giúp một số học sinh thoát ra khỏi sự im lặng trong lớp học bằng cách gán vai trò cho họ hoặc cho họ chọn trách nhiệm quản lý khi họ làm việc theo nhóm. Thứ hai, sử dụng nhiều các trò chơi và các dụng cụ trực quan là những gì các thực sự có lợi cho giáo viên trong việc thúc đẩy học sinh nói. Trực quan hỗ trợ như âm nhạc, hình ảnh và bản đồ được cho là tạo ra không khí học tập thú vị và động cơ thúc đẩy, kích thích và duy trì quan tâm của học sinh, sự chú ý trong bài học. Trực quan hỗ trợ, do đó, cần được khai thác ở bất kỳ giai đoạn của bài học. Ngoài ra, thảo luận, kể chuyện, phỏng vấn, mô tả hình ảnh,câu đố, vẽ ... nên được giới thiệu đến học sinh để họ không nhàm chán với các hoạt động tương tự họ phải làm hàng ngày. 3.3. Tạo bầu không khí hợp tác trong lớp học Một bầu không khí lớp học căng thẳng cản trở động lực và hiệu quả trong việc học nói tiếng Anh; trong khi một bầu không khí hợp tác tạo điều kiện cho học sinh bảy tỏýkiến của mình, phát triển thế mạnh của mình, giảm bớt điểm yếu của họ và làm cho học sinh không cảm thấy xấu hổ khi họ phạm sai lầm. Giáo viên, do đó, cần xây dựng một môi trường ấm áp trong đó giáo viên và học sinh có một mối quan hệ gần giáo viên nên quan tâm. Giáo viên không chi đóng vai trò của người điều hành học tập, quản lý các hoạt động trong lớp học, các chuyên gia tư vấn để trả lời của học sinh câu hỏi và kiểm soát hoạt động của họ nhưng cũng làm việc như là đồng giao tiếp để tham gia vào các hoạt động giao tiếp cùng với những học sinh. Học sinh,mặt khác,không phải là những người nghe thụ động mà những người trợ giúp tích cực để các bạn cùng lớp khác và những người đóng góp kịp thời với những ý tưởng cho phương pháp giảng dạy của giáo viên. 3.4. Giáo viên cần nhiệt tình, rộng lượng, giúp đỡ và sáng tạo Tính cách của giáo viên là yếu tố quyết định để giúp tăng động lực. Giáo viên với sự hữu ích, thân thiện và nhiệt tình làm cho học sinh thích học tập. Bên cạnh đó, sự khoan dung của giáo viên cũng làm cho học sinh cảm thấy ấm áp, giúp giảm căng thắăng và cho phép cảm giác đe dọa của họ đi xa. Hơn nữa, năng động và sáng tạo của giáo viên là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của bài học. Các giáo viên chủ động và sáng tạo luôn luôn có các bài giảng sinh động và ấn tượng thu hút tất cả học sinh bài học. Ngoài ra, họ luôn luôn đi vòng quanh lớp để kiểm tra việc học tập của học sinh, khuyến khích họ nghiên cứu và cung cấp trợ giúp khi cần thiết.
Đinh, Thị Hồng Thu. (2018). Khảo Sát Năng Lực Tự Chủ Trong Ngoại Ngữ Của Sinh Viên Một Số Trường Đại Học ở Hà Nội. Trong Hội Thảo Khoa Học Quốc Gia (UNC) Nghiên Cứu Và Giảng Dạy Ngoại Ngữ, Ngôn Ngữ Và Quốc Tế Học Tại V